Chuyên đề Quản trị Nguồn vốn kinh doanh và thực trạng công tác quản trị Nguồn vốn kinh doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội

Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang đẩy mạnh đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Vì vậy nền kinh tế hàng hóa Việt Nam đang gấp rút nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng canh tranh trên thương trường quốc tế. Và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài guồng quay này, bởi vì ngành ngân hàng luôn đóng vai trò quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô. Và Chính phủ luôn bày tỏ quyết tâm cao trong việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế và mở cửa thị trường nội địa, nhất là thị trường tài chính ngân hàng. Trong xu thế đó, MB với mục tiêu trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam trong mảng thị trường đã chọn, hoạt động đa năng - an toàn - hiệu quả, đã không ngừng triển khai các đề án đổi mới, tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới hoạt động, đầu tư phát triển nguồn nhân lực đạt trình độ chuyên môn cao, hiện đại hóa công nghệ, phát triển sản phẩm dich vụ mới. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng luôn chú trọng tới công tác quản trị tài sản và nguồn vốn, đảm bảo kinh doanh an toàn –hiệu quả, đáp ứng sự tin tưởng của khách hàng.

doc81 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quản trị Nguồn vốn kinh doanh và thực trạng công tác quản trị Nguồn vốn kinh doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những biến số thống kê kinh tế dự đoán này, tiếp đó ngân hàng có thể ước lượng nhu cầu thanh khoản bằng cách tính: Ước lượng thanh khoản thâm hụt(-), thặng dư (+) trong khoản dự báo = (B) - (A) Phương pháp cấu trúc Phương pháp này được tiến hành như sau : Chia các khỏan tiền gửi và các nguồn vốn khác thành các loại trên cơ sở ước lượng xác suất (khả năng) rút tiền của khách hàng. Ví dụ, có thể chia tiền gửi và các khoản huy động phi tiền gửi của ngân hàng thành các loại sau : Loại 1 : ổn định thấp Loại 2 : ổn định vừa phải Loại 3 : ổn định cao Xác định mức dự trữ thanh khoản cho từng loại trên cơ sở ấn định tỷ lệ dự trữ thích hợp với trạng thái của chúng. Ví dụ : Đối với loại 1: 95% Đối với loại 2 : 30% Đối với loại 3 : 15% Như vậy, nhu cầu dự trữ thanh khoản cho các khoản tiền gửi và khoản huy động phi tiền gửi được xác định như sau Dự trữ thanh khoản = 95% (nguồn ổn định thấp – dự trữ bắt buộc) + 30 % (nguồn ổn định vừa – dự trữ bắt buộc) + 15 % (nguồn ổn định cao – dự trữ bắt buộc) Đối với các khoản tiền vay, ngân hàng phải sẵn sàng mọi lúc một khi khách hàng nộp đơn đề nghị vay tiền thoả mãn các tiêu chuẩn tín dụng theo yêu cầu của ngân hàng. Sau khi được chấp nhận, tiền vay có thể ra khỏi ngân hàng chỉ trong phạm vi vài giờ hoặc vài ngày sau đó : Tổng nhu cầu thanh khoản = Dự trữ thanh khoản nguồn vốn huy động - Nhu cầu tiền vay tiềm năng Phương pháp xác định xác suất mỗi tình huống phương pháp này được tiến hành như sau: Bước 1 : Ngân hàng phỏng đoán khả năng xảy ra mỗi trạng thái thanh khoản theo ba cấp độ Khả năng xấu nhất: Tiền gửi xuống thấp dưới mức dự kiến. Tiền vay lên cao trên mức dự kiến Khả năng tốt nhất: Tiền gửi lên cao trên mức dự kiến Tiền vay xuống dưới mức dự kiến Khả năng thực tế : Nằm ở giữa hai cấp độ nói trên n Bước 2 : xác định nhu cầu thanh khoản dự kiến theo công thức sau: i=1 Trạng thái thanh khoản dự kiến = åPi x SDi Trong đó: Pi xác suất tương ứng với mỗi trong ba khả năng SDi thặng dư/ thâm hụt thanh khoản theo mỗi khả năng Phương pháp chỉ số thanh khoản Phương pháp tính toán nhu cầu thanh khoản này dựa trên cơ sở kinh nghiệm riêng có của ngân hàng số trung bình ngành. Thông thường các chỉ số thanh khoản sau hay được dùng : Chỉ số trạng thái tiền mặt = Tiền mặt + Tiền gửi tại các tổ chức tài chính Tổng tài sản Chỉ số chứng khoán có tính thanh khoản = Chứng khoán chính phủ Tổng tài sản Tỷ trọng tín dụng trong tài sản đầu tư = Số dư nợ cho vay + Tài trợ thuê mua Tổng tài sản Tỷ số chứng khoán cầm cố = Giá trị chứng khoán đã cầm cố Tổng giá trị chứng khoán Đầu tư ngắn hạn so với tài sản nhạy cảm = Đầu tư ngắn hạn Nguồn vốn nhạy cảm Tỷ số thành phần tiền biến động = Tiền gửi thanh toán Tổng số tiền gửi 1.2.4.4 Đánh giá khả năng quản trị thanh khoản Một vấn đề được đặt ra đối với các ngân hàng thương mại là ngân hàng có đủ thanh khoản? Câu trả lời cho câu hỏi đó phụ thuộc vào vị thế của ngân hàng đó trên thị trường. Không ngân hàng nào có thể đảm bảo rằng liệu có đủ thanh khoản cho tới khi nó vượt qua được thử thách của thị trường. Cụ thể hơn, ban quản trị ngân hàng cần xem xét những dấu hiệu sau đây : Niềm tin của công chúng Chúng ta biết rằng ngân hàng hoạt động kinh doanh tiền tệ hoàn toàn dựa trên chữ tín. Nếu không có chữ tín thì ngân hàng không thể tồn tại và phát triển được. Có những minh chứng rằng các ngân hàng đang mất các khoản tiền gửi vì các cá nhân và tổ chức cho rằng ngân hàng đang trong tình trạng nguy hiểm và không thể thực hiện các nghĩa vụ đó. Nếu thực sự ngân hàng đánh mất lòng tin, chữ tín đối với khách hàng thì ngân hàng không thể giữ chân những người gửi tiền được nữa. Chi phí trả lãi cao cho các khoản tiền gửi và vay mượn khác Có vấn đề đặt ra khi ngân hàng chi phí trả lãi suất cao hơn các ngân hàng cùng qui mô và địa bàn cho các khoản tiền gửi và các khoản vay mượn khác là ngân hàng này liệu có khó khăn về thanh khoản? Đây cũng là vấn đề mà ban quản trị quan tâm vì nó có phải thực sự là ngân hàng đang đối đầu với một cuộc khủng hoảng thanh khoản. Bán giá thấp các tài sản ngân hàng Thời gian gần đây ngân hàng có hay không bán những tài sản một cách vội vã với giá trị thấp đáng kể để đáp ứng nhu cầu thanh khoản? Đây là sự kiện xảy ra thường xuyên đối với ngân hàng hay không ? Thực hiện những cam kết đối với khách hàng vay vốn Ngân hàng có thể đáp ứng tất cả những yêu cầu về tín dụng của khách hàng có chất lượng hay áp lực thanh khoản buộc ngân hàng khước từ một số hồ sơ vay vốn có đủ điều kiện ? Vay mượn từ Ngân hàng Trung ương Ngân hàng có thường xuyên vay mượn của Ngân hàng Trung ương hay không? Có hay không cán bộ Ngân hàng Trung ương đã bắt đầu có nghi vấn đối với những khoản đang vay mượn của ngân hàng. 1.2.5 Giải pháp đối với Vốn tự có. Như đã nói ở phần trên, mặc dù Vốn tự có chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn ngân hàng, nhưng nó lại có tầm quan trọng đặc biệt. Vì vậy, trong chiến lược phát triển của hầu hết các ngân hàng đều xem việc tăng Vốn tự có là một mục tiêu hết sức quan trọng. Hơn nữa, để mở rộng kinh doanh, tăng vị thế cũng như thị phần trên thị trường thị tiên quyết phải tăng vốn tự có. Theo qui định của Ngân hàng nhà nước, mức vốn tự có của ngân hàng lớn hơn hoặc bằng 8% trên tổng tài sản có rủi ro quy đổi. Điều đó có nghĩa là qui mô kinh doanh của ngân hàng giới hạn bởi qui mô Vốn tự có của chính ngân hàng đó. Các ngân hàng vừa muốn huy động các nguồn vốn lớn, vừa phải đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thì không có cách nào khác mà phải tăng quy mô Vốn tự có. Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, nguồn để tăng Vốn tự có chủ yếu được lấy từ các quỹ dự trữ bổ sung vốn tự có : quỹ dự trữ để bổ sung vốn pháp định và quỹ dự trữ để dự phòng bù đắp rủi ro. Tuy nhiên các quỹ này được trích theo tỷ lệ được quy định cụ thể. Ở nước ta, theo nghị định số 166/1999//ND-CP ngày 19 tháng 11 năm 1999 do Chính phủ ban hành thì Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ là 5% lợi nhuận sau thuế, Quỹ dự phòng tài chính là 10% lợi nhuận còn lại (lợi nhuận sau thuế trừ khoản trích lập vào Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và các chi phí không được khấu trừ). Hay nói cách khác, việc tăng vốn chủ sở hữu ở đây là khá khó khăn và có giới hạn. Đối với các Ngân hàng thương mại cổ phần, ngoài các quỹ trên có thể tăng vốn tự có bằng cách phát hành các cổ phiếu. Tuy nhiên, việc phát hành cổ phiếu lại đặt ngân hàng trước các vấn đề sau: Phát hành cổ phiếu gây hiệu ứng pha loãng đối với các cổ đông hiện thời ? Chi phí cho việc phát hành ? Chính sách chi trả cổ tức ? Từ những vấn đề trên cho thấy, việc tăng Vốn tự có là tât yếu cần đạt tới, tuy nhiên các ngân hàng phải có chiến lược tăng trưởng cụ thể và phải phù hợp với tình hình kinh doanh của mình. Phải xem xét nó dưới mọi góc độ lợi và hại, xây dựng giải pháp cụ thể từng bước. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI. 2.1 Sơ lược về Ngân hàng TMCP Quân Đội 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Trước những khó khăn về vốn của các doanh nghiệp Quân đội tham gia làm kinh tế và nhiệm vụ quốc phòng. Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (gọi tắt là Ngân hàng Quân đội) được thành lập vào ngày 04/11/1994 theo giấy phép số 0054/NH – GP do Ngân hàng nhà nước cấp ngày 14/09/1994 và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060297, do sở Kế hoạch - Đầu tư Hà Nội cấp ngày 30/09/1994 (sửa đổi ngày 27/12/2002) dưới hình thức là ngân hàng cổ phần, chuyên kinh doanh về tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng với mục đích phục vụ các doanh nghiệp Quân đội sản xuất quốc phòng và làm kinh tế. Ngân hàng Quân đội có trụ sở chính tại 28A Điện Biên phủ - Ba Đình - Hà Nội, Tên giao dịch tiếng Anh là: Military Commercial Joint- stock Bank (MCSB). Ngân hàng có 11 sáng lập viên đó là : Tổng công ty bay dịch vụ. Công ty GAET. Nhà máy Z113. Công ty PESCO. Công ty may 28. Công ty cơ diện vật liệu nổ 31. Công ty Tây Hồ. Tổng công ty xây dựng 11 ( Công ty xây dựng Thành An). Và một số thể nhân khác đóng góp. Với số vốn điều lệ đóng góp lúc thành lập là 20 tỷ đồng . Ngân hàng Quân đội là một pháp nhân hạch toán kinh tế độc lập, có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh, có tài khoản tại Ngân hàng nhà nước. Thời hạn cấp phép hoạt động là 50 năm, tuy nhiên có thể xin ra hạn khi hết hạn hoạt động. Những năm đầu hoạt động, Ngân hàng Quân đội được thừa hưởng những thành tựu to lớn của sự nghịêp đổi mới, song cũng gặp không ít những khó khăn, thử thách ở giai đoạn đầu của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, nhờ có sự nhất trí cao trong ban quản trị điều hành, sự ủng hộ tích cực của các cơ quan hữu quan, khách hàng và của các cổ đông của mình. Đi đôi với những yếu tố quan trọng này là sự cố gắng lao động tận tuỵ, sáng tạo, có trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công nhân viên của Ngân hàng nên Ngân hàng đã phát huy được những thế mạnh, hạn chế những khó khăn, hoạt động kinh doanh đúng pháp luật, do vậy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng luôn đạt được kết quả cao và an toàn trong những năm qua. Ngân hàng đã thực sự là chỗ dựa tin cậy cho các doanh nghiệp Quân đội trong việc giải quyết những khó khăn về vốn, góp phần tích cực vào thành tích chung của các doanh nghiệp Quân đội trong nhiệm vụ lao động sản xuất và làm kinh tế, đồng thời Ngân hàng cũng đã hội nhập khá tốt với hệ thống các ngân hàng thương mại khác trong nền kinh tế thị trường. Cùng với thời gian, Ngân hàng Quân đội không chỉ đơn thuần phục vụ các doanh nghiệp Quân đội như trước, mà còn đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng cho nhiều thành phần khác nhau trong xã hội. Bắt đầu từ những con số khá khiêm tốn: vốn điều lệ chỉ là 20 tỷ, có một trụ sở duy nhất tại Hà Nội, với 25 cán bộ công nhân viên nhưng Ngân hàng đã có những bước phát triển vượt bậc. Vốn điều lệ của Ngân hàng liên tục gia tăng, cho đến nay vốn điều lệ của Ngân hàng đã đạt 350 tỷ đồng, gấp gần 17,5 lần so với khi mới thành lập .Mạng lưới chi nhánh của Ngân hàng đã được mở rộng, từ chỗ chỉ có một trụ sở duy nhất nay đã có 9 điểm giao dịch, tập trung tại các trung tâm kinh tế lớn của nước ta như: Hà Nội, Hải Phòng, TPHCM. Số lượng cán bộ công nhân viên cũng tăng lên theo sự tăng trưởng về quy mô. Từ chỗ chỉ có 25 người, đến nay con số này lên đến trên 500 người (kể cả dự án Khách sạn ASEAN). Ngân hàng Quân đội từ một Ngân hàng nhỏ đã vươn lên trở thành một Ngân hàng có vị thế nhất định trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, Ngân hàng Quân đội đã được Ngân hàng nhà nước xếp loại A, là một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần tốt nhất Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngân hàng Quân đội đã cung cấp một danh mục các loại hàng hoá và dịch vụ đa dạng, đáp ứng được yêu cầu của đông đảo đối tượng trong nền kinh tế. Đặc biệt trong quá trình hoạt động, Ngân hàng đã thiết lập được một hệ thống ngân hàng đại lý ở nhiều nước trên thế giới, đáp ứng thuận tiện cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Tuy nhiên, quá trình ra đời và phát triển của Ngân hàng Quân đội cũng chưa phải là dài, do vậy kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng là chưa nhiều, thêm vào đó là quy mô của Ngân hàng còn nhỏ, mạng lưới chi nhánh còn mỏng, lại hoạt động trong một môi trường mà sự cạnh tranh đang diễn ra quyết liệt nên Ngân hàng Quân đội cũng còn có những hạn chế nhất định trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Trong thời gian tới, Ngân hàng cần phải cố gắng rất nhiều nhằm khắc phục những hạn chế của mình. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức của ngân hàng thể hiện qua sơ đồ : ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG BAN KIỂM SOÁT HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ CÁC ỦY BAN CAO CẤP TỔNG GIÁM ĐỐC G PHÒNG KIỂM TRA, KIỂM SOÁT PHÒNG ĐẦU TƯ PHÒNG KẾ TOÁN TÀI CHÍNH KHỐI QUẢN LÝ TÍN DỤNG CÔNG TY QUẢN LÝ NỢ VÀ KHAI THÁC TÀI SẢN KHỐI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP PHÒNG NHÂN SỰ HÀNH CHÍNH CÔNG TY CHỨNG KHOÁN THĂNG LONG PHÒNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN KHỐI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN PHÒNG KHTH VÀ PHÁP CHẾ KHỐI TREASURY KHỐI MẠNG LƯỚI BÁN HÀNG SỞ GIAO DỊCH VÀ CÁC CHI NHÁNH Cơ cấu tổ chức 2.2 Tình hình Nguồn vốn tại Ngân Hàng TMCP QĐ 2.2.1 Hoạt động huy động vốn. Vốn huy động của NHTMCP Quân đội qua các năm đều tăng, tính đến 31/12/2000 tổng số vốn huy động đạt 2.211,848 tỷ đồng tăng 45% so với cùng kỳ năm trước và vượt kế hoạch 24%. Các dịch vụ của Ngân hàng kết hợp với các chính sách phù hợp đã giúp NHTMCP Quân đội huy động được một khối lượng vốn tương đối lớn mặc dù lãi suất huy động của ngân hàng không cao so với mặt bằng chung của toàn hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Việc huy động vốn tăng đều và ổn định qua các tháng trong năm nên giúp Ngân hàng luôn bảo đảm được cân đối cung cầu về vốn, đạt hệ số an toàn vốn cao (trên 8%) và ổn định, không có tình trạng ứ đọng vốn trong quá trình kinh doanh. Sang năm 2001, hoạt động huy động vốn của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn, một mặt do sự tác động của việc lãi suất ngoại tệ giảm mạnh, mặt khác cũng là năm mà thị trường ngân hàng việt nam gặp phải sự khan hiếm về VND do có sự đầu tư nhiều vào các lĩnh vực khác như: Bất động sản, Chứng khoán...vv do vậy mức huy động vốn của Ngân hàng chỉ tăng 15% so với cùng kỳ, đạt 2.548,968 tỷ. Bước sang năm 2002, kinh tế Việt Nam vẫn giữ mức tăng trưởng khá với tốc độ tăng GDP là 7,04%, đứng thứ hai trong khu vực, sau Trung Quốc. Tuy nhiên, năm 2002 cũng là năm có nhiều khó khăn đối với hệ thống Ngân hàng thương mại ở Việt Nam nói chung và với NHTMCP Quân đội nói riêng. Nhu cầu về tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng cộng với việc hàng ngàn doanh nghiệp mới được thành lập đã tạo nên sức ép lớn đối với nhu cầu về vốn. Các ngân hàng thương mại đã phải tăng lãi suất huy động để có được nguồn vốn cung ứng cho thị trường. Tính đến 31/12/2002, lãi suất huy động bình quân đã tăng 1,7%/ năm so với cùng kỳ đầu năm. Do vậy, nguồn vốn huy động năm 2002 bằng các loại tiền đều tăng so với năm 2001. Tính đến thời điểm cuối năm, tổng vốn huy động của ngân hàng đạt 3.118,757 tỷ đồng tăng 22,4% so với cuối năm 2001 và đạt 105,7% so với kế hoạch. Trong đó, nguồn vốn huy động bằng nội tệ tăng 23,8% và huy động vốn bằng ngoại tệ tăng 17,4%. Trong năm 2003, NHTMCP Quân đội cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, cuộc chạy đua lãi suất huy động vốn giữa các Ngân hàng diễn ra vô cùng gay gắt, lãi suất huy động liên tục tăng. Các Ngân hàng thương mại cũng không ngừng đưa ra các sản phẩm tiện ích cho khách hàng như thẻ ATM, gửi một nơi rút nhiều nơi, chuyển tiền nhanh...vv. Thêm vào đó, các định chế ngân hàng mà đặc biệt là các công ty bảo hiểm, tiết kiệm bưu điện cũng đã đưa ra nhiều hình thức huy động vốn dài hạn. Điều này làm cho hoạt động huy động vốn trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết. Tính đến cuối năm, tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng đạt 3.485 tỷ đồng, tăng 11,78% so với đầu năm, vốn nội tệ tăng 36,4%, ngoại tệ giảm 17,73%, bằng 98,17% kế hoạch. Tuy nhiên, tổng vốn huy động tăng thêm trong năm mới chỉ đạt 84,95% kế hoạch do Ngân hàng đề ra. Lượng vốn huy động từ dân cư đã tăng rất khá với mức 29,21% so với đầu năm, thể hiện đúng chủ trương của Ngân hàng, đồng thời cũng cho thấy uy tín của Ngân hàng Quân đội đối với người gửi tiền ngày càng được củng cố. Trong năm, Ngân hàng đã triển khai được các sản phẩm tiết kiệm mới như: Tiết kiệm tích luỹ, Tiết kiệm trả lãi trước, góp phần đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ của mình. Lượng vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, bao gồm cả nguồn vốn không kỳ hạn giảm trong năm đã gây ra những khó khăn cho Ngân hàng trong công tác huy động vốn. Tuy nhiên, đây là một thực tế khách quan trong bối cảnh các doanh nghiệp đang tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Điều này, một lần nữa khẳng định chiến lược huy động vốn của Ngân hàng Quân đội là phải tập trung vào mảng thị trường dân cư. Ngân hàng cũng rất tích cực tăng cường mối quan hệ với các khách hàng lớn có tiềm năng về vốn, và tăng cường mối quan hệ với các ngân hàng bạn, nhờ đó mà Ngân hàng luôn luôn đảm bảo được cung cầu về sử dụng vốn và khả năng thanh khoản. Tuy nhiên, việc tăng nhanh nguồn vốn huy động từ thị trường liên ngân hàng cũng có mặt hạn chế, bởi nó làm tăng rủi ro thanh khoản và tăng chi phí huy động vốn, qua đó giảm tỷ lệ lợi nhuận. Năm 2004, nền kinh tế thế giới có mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 1986, đạt mức 5%, tuy vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn do tình hình chính trị an ninh ở nhiều khu vực và quốc gia không ổn định, giá năng lượng biến động mạnh, giá dầu lửa dao động ở mức cao. Hơn nứa, sự xung đột vũ trang, dịch bệnh, thiên tai cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sự ổn định kinh tế thế giới và của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong năm 2004, việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của các nước có nền kinh tế phát triển đã gây những biến động mạnh đối với thị trường tài chính thế giới. Đồng thời USD rớt giá kỷ lục so với EURO, Yên Nhật và các đồng tiền mạnh khác. Giá vàng giao động mạnh và ổn định ở mức cao. Đối với Việt Nam, năm 2004 là một năm nhiều khó khăn và thách thức tác động đến mọi mặt đời sống xã hội: dịch cúm gia cầm lan rộng, thiên tai nặng nề, giá cả một số mặt hàng nhập khẩu quan trọng tăng cao…Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặt hái được một số thành tựu quan trọng:GDP tăng trưởng 7,6 % đứng thứ 2 khu vực Đông Á, sản lượng công nghiệp tăng 15,6 %, kim ngạch xuất khẩu tăng 24%, vốn đầu tư của toàn xã hội đạt 36% GDP, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 35%… Về thị trường tài chính- tiền tệ, trong năm 2004, Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7,5%/năm. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng dư nợ và huy động năm 2004 đều thấp hơn so với năm 2003. Nợ xấu tăng 9,4% so với cuối năm 2003 nhưng chỉ chiếm 4,1% tổng dư nợ tín dụng, giảm 0,7 % so với tỉ lệ nợ xấu cuối năm 2003. Đối với NHTM CP Quân đội, năm 2004 tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng có sự tăng trưởng vượt bậc, đạt 4.933 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2003 và đạt 120% kế hoạch năm. Cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng đang tiếp tục tăng trưởng theo chiều hướng tốt, đặc biệt lượng tiền gửi dân cư tăng lên đáng kể bằng 1,82 lần so với năm 2003, hay nói cách khác là tổng số dư tiền gửi dân cư năm 2004 gần bằng số dư tiền gửi dân cư tại ngân hàng của nhiều năm trước. Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế tăng 64,57%. Tình hình huy động vốn của Ngân hàng qua các năm được biểu diễn qua biểu đồ sau: Tình hình huy động vốn (Nguồn: Báo cáo thương niên các năm- Ngân hàng TMCP Quân đội) 2.2.2 Quản lý chi phí cho Nguồn vốn tiền gửi và phi tiền gửi: Đối với một ngân hàng thương mại, chi phí trả lãi tiền gửi là chi phí chiếm tỉ trọng lớn nhất. Bởi vậy, quản lý chi phí cho nguồn vốn tiền gửi và phi tiền gửi là vấn đề được tất cả các ngân hàng quan tâm. Đối với MB, việc quản lý chi phí cho nguồn vốn tiền gửi và phi tiền gửi được đặc biệt chú trọng. Vậy thực trạng công tác quản lý chi phí này ở MB như thế nào ? Để trả lời câu hỏi này em xin đi vào phân tích các số liệu thực tế từ Bảng cân đối kế toán– Báo cáo thường niên các năm 2003 và 2004 của MB với 3 chỉ tiêu sau: Chi phí trả lãi bình quân = Tổng chi phí trả lãi Tổng vốn huy động Tỉ lệ thu nhập hòa vốn đối với tài sản sinh lời = Tổng chi phí trả lãi+ chi phí phi lãi Tài sản sinh lời Tỷ suất sinh lời tối thiểu cần thiết trên vốn vay và vốn CSH = Tỷ lệ thu nhập hòa vốn + Tỷ lệ chi phí trước thuế cho vốn CSH = Tỷ lệ thu nhập hòa vốn + ROE x Vốn CSH (1-thuế suất) Tài sản sinh lời Tài sản sinh lời = Các khoản cho vay + Các khoản đầu tư = Cho vay và ứng trước cho khách hàng+Đầu tư chứng khoán + Đầu tư khác ROE = Lợi nhuận sau thuế Vốn CSH Năm 2003: (Đơn vị : triệu VND) Tài sản sinh lời = 2.691.422 + 71.761 + 64.548 = 2.827.731 Chi phí trả lãi = 124.312 Chi phí phi lãi = 45.174 Chi trả cổ tức = 44.450 Thuế suất = 32% Vốn chủ sở hữu = 280.000 Tổng vốn huy động = 3.485.000 Lợi nhuận sau thuế = 50.853 ROE = Lợi nhuận sau thuế Vốn CSH ơ = 50.853 280.000 = 18,16% Chi phí trả lãi bình quân = 124.312 3.485.000 = 3,57% Tỉ lệ thu nhập hòa vốn đối với tài sản sinh lời = 124.312 + 45.174 2.817.731 = 6,01% Tỷ suất sinh lời tối thiểu cần thiết trên vốn vay và vốn CSH = 6,01 % + 18,16% x 280.000 (1-0,32) 2.827.731 = 6,01% + 2,64% = 8,65% Như vậy 8,65 % là tỷ lệ thu nhập tối thiểu mà ngân hàng phải cố gắng đạt được theo yêu cầu của cổ đông. Năm 2004: (Đơn vị : triệu VND) Tài sản sinh lời = 3.455.160 + 63.017 + 95.156 = 3.613.333 Chi phí trả lãi = 159.700 Chi phí phi lãi = 69.787 Chi trả cổ tức = 44.651 Thuế suất = 28% Vốn chủ sở hữu = 350.000 Tổng nguồn vốn huy động = 4.933.000 Lợi nhuận sau thuế = 75.383 ROE = Lợi nhuận sau thuế Vốn CSH ơ = 75.383 350.000 = 21,54% Chi phí trả lãi bình quân = 159.700 4.933.000 = 3,24% Tỉ lệ thu nhập hòa vốn đối với tài sản sinh lời = 159.700 + 69.787 3.613.333 = 6.35% Tỷ suất sinh lời tối thiểu cần thiết trên vốn vay và vốn CSH = 6,35 % + 21,54% x 350.000 (1-0,28) 3.613.333 = 6,35% + 2,90% = 9,25% 9,25% là tỷ lệ thu nhập tối thiểu mà ngân hàng phải cố gắng đạt được theo yêu cầu của cổ đông. Từ số liệu của hai năm trên cho thấy: Tỷ suất sinh lời tối thiểu cần thiết trên vốn vay và vốn CSH năm 2004 bằng 9,25%, cao hơn năm 2003 là 8,65%, tăng 0,60%. Điều này do các nguyên nhân sau: Chi phí huy động vốn bình quân năm 2003 từ 3,57% xuống còn 3,24% trong năm 2004. Điều đó chứng tỏ trong năm 2004 Ngân hàng đã huy động được nguồn vốn rẻ hơn. Tỉ lệ thu nhập hòa vốn đối với tài sản sinh lời năm 2004 là 6,35%, cao hơn năm 2003 là 6,01%, tăng 0,34%. Điều này nhìn qua có thể nhận định Ngân hàng đã quản lý không tốt các chi phí phi lãi. Tuy nhiên, nếu xét trên tổng nguồn vốn huy động thì thực tế, tỉ lệ chi phí phi lãi trong năm 2004 lại giảm so với 2003. Vì vậy tỉ lệ thu nhập hòa vốn tăng là điều hoàn toàn hợp lý. Do trong năm 2004 Ngân hàng được ưu đãi về thuế, mức thuế suất thuế thu nhập trong năm 2004 là 28% trong khi đó năm 2003 là 32%. Tổng kết lại, công tác quản trị chi phí của Ngân hàng đang diễn biến theo chiều hướng tốt. Ngân hàng cần tiếp tục phát huy lợi thế này. 2.2.3 Đảm bảo khả năng thanh khoản- Cam kết từ thực tế của ngân hàng Như đã nói ở trên, đảm bảo khả năng năng thanh khoản là một vấn đề hết sức quan trọng mà tất cả các ngân hàng đều phải đặc biệt quan tâm. Bởi vì một ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu không đáp ứng đủ nhu cầu thanh khoản, mặc dù về kỹ thuật, nó vẫn còn khả năng trả nợ. Hơn nữa, năng lực quản trị thanh khoản của một ngân hàng là thước đo quan trọng về tính hiệu quả tổng thể để đạt đến các mục tiêu dài hạn của ngân hàng. Để thấy được thực trạng vấn đề thanh khoản của MB, em xin dựa vào các số liệu từ Báo cáo thường niên năm 2004 của MB để xem xét trên cơ sở một số chỉ tiêu sau: Hệ số khả năng thanh toán tức thời = Tiền và các khoản tương đương tiền Tổng nợ ngắn hạn = 2.604.718 2.581.085 = 1,009 Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Tiền mặt+ tiền gửi tại các TCTC+đầu tư ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn = 67.417+93.572+2.571.529+63.017 2.581.085 = 1,083 Từ hai chỉ số trên cho thấy, Ngân hàng hoàn toàn có khả năng thanh khoản ngay khi khách hàng có yêu cầu. Điều này chứng tỏ Ngân hàng quản lý công tác thanh khoản rất tốt. Chỉ số trạng thái tiền mặt = Tiền mặt + Tiền gửi tại các tổ chức tài chính Tổng tài sản = 67.411 + 2.571.529 6509.140 = 40,5% Chỉ số trạng thái tiền mặt ở mức 40,5% đối với Ngân hàng là quá cao., nguyên nhân chính do lượng tiền gửi của Ngân hàng tại các TCTD khác là rất lớn, chiếm đến 39,5% tổng tài sản, tương đương 52% Tổng vốn huy động trong năm. Điều này có thể do Ngân hàng có tốc độ tăng trưởng huy động vốn của Ngân hàng lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng Tín dụng. Ngân hàng cần có chính sách nhằm tăng trưởng Tín dụng cao hơn nữa nhằm đưa lại lợi nhuận tối đa từ nguồn vốn huy động. 2.2.4 Tình hình cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng Tình hình nguồn vốn Ngân hàng trong hai năm 2003 và 2004 như sau: Đơn vị : Triệu đồng NGUỒN VỐN Năm 2004 Năm 2003 Nợ phải trả Tiền gửi từ các tổ chức tín dụng khác 367.136 785.838 Tiền gửi của khách hàng 5.520.607 2.768.397 Tiền vay từ Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam 14.880 14.880 Các nguồn vốn khác 52.454 46.824 Phải trả khác 66.507 31.914 Dự phòng thuế phải trả 5.817 5.336 Tổng nợ phải trả 6.027.401 3.653.189 Nguồn vốn chủ sở hữu Vốn điều lệ 350.000 280.000 Các quỹ dự trữ 54.768 39.109 Lợi nhuận giữ lại 76.971 59.195 Tổng nguồn vốn chủ sở hữu 481.739 378.304 Tổng nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu 6.509.140 4.031.493 Từ số liệu trên ta có: Tỷ trọng tiền gửi khách hàng trên tổng nguồn vốn: (Tg) Năm 2003: Tg = 2.768.397 / 4.031.493 = 68,67% Năm 2004: T g = 5.520.607 / 6.509.140 = 84,81% Dễ dàng nhận thấy năm 2004, tỷ trong nguồn vốn huy động từ khách hàng của ngân hàng tăng lên rất nhiều so với năm 2003. Đặc biệt, cơ cấu nguồn vốn huy động năm 2004 tăng trưởng theo chiều hướng tốt so với năm 2003. Cụ thể, lượng tiền gửi dân cư tăng lên 82% so với năm 2003, lượng tiền gửi từ các tổ chức kinh tế tăng 64,57%. Điều này chứng tỏ Ngân hàng đang từng bước tiếp cận gần hơn với người dân, theo đúng mục tiêu trở thành một Ngân hàng bán lẻ hàng đầu. Tỷ trọng Nguồn vốn CSH trên tổng nguồn vốn: (Tc) Năm 2003: Tc = 378.304 / 4.031.493 = 9,38% Năm 2004: Tc = 481.739/ 6.509.140 = 7,40% Như vậy, tỉ trọng Vốn chủ sở hữu năm 2004 trên Tổng nguồn vốn thấp hơn năm 2003. Ngân hàng cần xem xét để đảm bảo các chỉ tiêu an toàn hoạt động. Hơn nữa, với tốc độ tăng trưởng rất nhanh của Nguồn vốn huy động Ngân hàng cần không ngừng đưa ra các chiến lược tăng trưởng Vốn chủ sở hữu hợp lý. 2.2.5 Tăng Vốn tự có-Đảm bảo phát triển bền vững : ¨Tăng vốn điều lệ: Từ số vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng khi thành lập Ngân hàng đã liên tục tăng vốn điều lệ ở các năm tiếp theo. Tính đến 31/12/2000 vốn điều lệ của Ngân hàng đạt 170,919 tỷ đồng tăng 8,5 lần trong 6 năm, năm 2001 là 209,051 tỷ đồng tăng 22,9% so với năm 2000. Sang năm 2002 hoạt động kinh doanh của NHTMCP Quân đội vẫn được duy trì ở mức an toàn và hiệu quả với tốc độ phát triển ổn định. Tính đến cuối tháng 12 năm 2002, NHTMCP Quân đội đã tăng thêm 20 tỷ đồng vốn điều lệ từ 209,051 tỷ đồng lên 229,051 tỷ đồng. Trong năm 2003, bên cạnh việc tích luỹ từ lợi nhuận để lại, Ngân hàng đã phát hành thêm cổ phiếu mới để nâng vốn điều lệ lên 280 tỷ, tăng 22,24% so với cùng kỳ năm trước và đạt 100%kế hoạch đặt ra. Năm 2004, Ngân hàng đã phát hành cổ phiếu để tăng Vốn điều lệ với tổng mệnh giá là 70 tỷ, đưa vốn tự có của ngân hàng từ 280 tỷ lên 350 tỷ, tăng 25%, đạt 100% kế hoạch. Với số lượng đặt mua gấp nhiều lần mức phát hành có thể thấy niềm tin và uy tín của Ngân hàng đối với các cổ đông cũng như các nhà đầu tư ngày càng được tăng lên. Các chỉ tiêu tài chính: (Đơn vị :Triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Lãi trước thuế 57.040 60.857 72.463 105.39 Vốn điều lệ 209.051 229.051 280.000 350.000 Vốn huy động 2.548.968 3.118.757 3.485.000 4.933.000 Tổng dư nợ 1.743.768 2.071.077 2.951.000 3.898.000 (Nguồn: - Báo cáo thường niên năm 2001, 2002, 2003,2004–NHTM CP Quân đội) CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ NGUỒN VỐN VỐN TẠI NHTM CP QUÂN ĐỘI. 3.1 Giải pháp nâng cao chất lượng huy động vốn: Từ cuối năm 1997, khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực xảy ra, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều tác động tiêu cực: Tốc độ tăng trưởng bị chậm lại, đầu tư nước ngoài giảm đáng kể, một số sản phẩm khó tiêu thụ, vốn ngân hàng bị ứ đọng, nợ quá hạn tín dụng có xu hướng tăng, tỷ giá hối đoái chịu nhiều sức ép... Qua cuộc khủng hoảng đó đã làm bộc lộ rõ những yếu kém bên trong của hệ thống ngân hàng Việt Nam, đòi hỏi phải có nhiều biện pháp cải cách mạnh mẽ và hết sức cấp bách. Sự hội nhập khu vực và quốc tế cũng làm cho việc giải quyết nhiệm vụ cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng đảm bảo tính an toàn, hiệu quả, minh bạch và bền vững của hoạt động Ngân hàng là không thể trì hoãn được. Trước tình hình chung của toàn hệ thống ngân hàng và qua phân tích thực trạng, tồn tại của MB. Để hoạt động kinh doanh không ngừng tăng trưởng và phát triển nhằm khẳng định vị trí của mình, MB phải nghiên cứu và hoàn thiện đồng thời hai mặt: Một mặt phát huy những cái đã đạt được,những ưu điểm của Ngân hàng. Mặt khác, nghiêm túc rút ra những bài học thực tiễn để khắc phục những khuyết điểm còn tồn tại, có biện pháp tháo gỡ những tồn tại đó. Từ nhận thức trên, với mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ huy động vốn góp phần tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an toàn hiệu quả đối với hoạt động Ngân hàng, em xin kiến nghị một số giải pháp sau: 3.1.1 Ngân hàng cần tăng cường và đa dạng hoá hình thức huy động vốn. Trong thời gian tới, Ngân hàng cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn từ tổ chức kinh tế và dân cư bằng cách: 1 - Ngân hàng cần đưa ra nhiều kỳ hạn huy động đối với loại tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng.... Để thực hiện được yêu cầu trên của khách hàng ngay lập tức tại thời điểm khách hàng đến ngân hàng, thì Ngân hàng cần tính và đưa ra đầy đủ các loại biếu phí cho khách hàng hợp lý trong từng thời kỳ. 2 - Cho phép các khách hàng rút tiền trước hạn đối với tiền gửi có kỳ hạn với điều kiện khách hàng phải báo trước một thời gian nhất định cho Ngân hàng. Nếu vượt quá thời hạn đó, Ngân hàng có thể cho phép họ hưởng lãi suất của kỳ hạn ngay trước đó cộng một mức phạt tính theo % phần lãi suất được hưởng. Ví dụ: Nếu khách hàng gửi tiền với kỳ hạn 6 tháng, nếu có nhu cầu cần rút trước hạn vào tháng gửi thứ 4 thì Ngân hàng có thể cho họ hưởng lãi suất 3 tháng trừ đi 0,05% chẳng hạn. 3 - Mở rộng các hình thức tiết kiệm. + Tiết kiệm có mục đích. Đó là hình thức tiết kiệm trung dài hạn với mục đích như xây dựng nhà ở, mua xe ô tô... người gửi tiền có thể thoả thuận với ngân hàng hàng tháng trích từ tiền lương của mình một số tiền nhất định để chuyển vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm có mục đích. Với tài khoản này, người gửi sẽ nhận được lãi suất thấp lãi suất tiền gửi tiết kiệm như họ sẽ được ngân hàng cho vay tiền để thực hiện mục đích khi số tiền tiết kiệm đạt tới 2/3 giá trị ký kết mua tài sản. Hiện nay, hình thức tiết kiệm này đang được nhân dân quan tâm, Ngân hàng cần triển khai thực hiện. Hình thức này một mặt giúp Ngân hàng thu hút được nhiều tiền gửi trong dân cư. Mặt khác, giúp ngân hàng có thêm được nguồn vốn trung, dài hạn. + Tiết kiệm điện tử: Là hình thức tiết kiệm trên mạng, khách hàng trước khi gửi tiền phải có tài khoản tại ngân hàng và phải có số dư tiền gửi ít nhất bằng số tiền đó. Khi khách hàng muốn gửi tiền, khách hàng báo cho ngân hàng qua mạng, ngân hàng thực hiện hạch toán chuyển tiền ngay thời điểm đó. Hình thức này nhanh chóng, thuận tiện tiết kiệm thời gian và đảm bảo an toàn cho khách hàng. 4 - Mở thêm các tài khoản thanh toán: Hiện nay nhu cầu về các tài khoản thanh toán của các tổ chức kinh tế và cá nhân rất lớn. Các tài khoản ngân hàng có thể mở: + Tài khoản thấu chi: Khi khách hàng sử dụng tài khoản này khách có thể rút quá số dư trên tài khoản của mình. Ngân hàng sẽ xây dựng một hạn mức thấu chi cho từng khách hàng. Nếu khách hàng rút quá số dư, khách hàng sẽ phải chịu một mức lãi suất không kỳ hạn với tài khoản thấu chi sẽ đáp ứng nhu cầu thanh toán kịp thời cho doanh nghiệp. Đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh nhanh chóng, đồng thời chịu chi phí thấp bởi vì lãi suất không kỳ hạn sẽ thấp hơn khoản tiền phạt do doanh nghiệp phát hành sẽ quá số dư hoặc chi phí làm thủ tục vay. Về phía ngân hàng, khi cho phép khách hàng rút quá số dư tức là ngân hàng đang thực hiện một khoản tín dụng với lãi suất nóng có khả năng dễ dàng thu hồi. + Tài khoản thu nhập: Ngân hàng có phương pháp thu hút các khách hàng mở tài khoản thu nhập tại Ngân hàng bằng cách cho họ hưởng các dịch vụ ưu đãi như: khách hàng có thể rút quá số dư cho phép của ngân hàng néu khách hàng có thu nhập hàng tháng từ 2.500.000 đồng trở lên. Để thu hút được khối lượng khách hàng có thu nhập cao. Ngân hàng nên có quan hệ với các Công ty Bảo hiểm. Bởi vì, các Công ty này thường trả thu nhập cho các nhân viên của mình bằng hình thức chuyển tiền qua tài khoản tại ngân hàng, hơn nữa thu nhập của các nhân viên này thường rất cao. Đó là một thị trường mà Ngân hàng cần có biện pháp thu hút. Với việc mở rộng các hình thức huy động trên, Ngân hàng sẽ từng bước khắc phục được khó khăn về thiếu vốn. Thiếu vốn dài hạn, thiếu vốn ngoại tệ. 5- Còn đối với hình thức huy động bằng phát hành giấy tờ có giá có thuận lợi là do tình hình kinh doanh của Ngân hàng nói riêng và của cả hệ thống Ngân hàng nói chung, trong các năm gân đây rất khả quan. Cổ phiếu của Ngân hàng đặc biệt hấp dẫn các nhà đầu tư. Theo tính toán, nếu đầu năm 2005 dùng 170 triệu mua cổ phiếu của MB thì bây giờ giá trị của nó là 350 triệu. Bởi vậy, đầu tư vào cổ phiếu MB nói riêng và cổ phiếu ngân hàng nói chung được giới đầu tư nhận định là lĩnh vực kinh doanh có lãi nhất ở Việt Nam những năm qua. Trong thời gian tới Ngân hàng cần có biện pháp để huy động từ hình thức này như phần lý luận đã nêu, để phát hành được giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng phụ thuộc vào các yếu tố; sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước uy tín của ngân hàng phát hành. Như vậy về phía chủ quan của Ngân hàng, thì Ngân hàng cần giữ vững và không ngừng nâng cao uy tín trên thị trường, có như vậy việc phát hành và bán các giấy tờ có giá trên thị trường mới đạt hiệu quả cao. 3.1.2 Có chính sách thích hợp trong việc khuyến khích khách hàng mở và sử dụng tài khoản tại Ngân hàng. Tại MB hiện nay, chính sách khách hàng đã được thực hiện đúng, song chính sách này chưa phong phú và hấp dấn với khách hàng. Đối với các khách hàng lớn, khách hàng mang nhiều lợi nhuận cho MB thì chính sách này chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Chính sách khách hàng chưa có tính cạnh tranh, đồng thời nguồn vốn của MB còn quá nhỏ khó có thể đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp lớn, trong khi đó những doanh nghiệp vừa và nhỏ có uy tín chưa tiếp cận được nhiều. Qua đánh giá, phân tích thực trạng em xin đưa ra các chính sách thích hợp trong việc khuyến khích khách hàng mở và sử dụng tài khoản tại ngân hàng. Đối với thủ tục mở tài khoản tại Ngân hàng Ngân hàng nên giảm bớt các thủ tục phiền hà cho các khách hàng là tổ chức kinh tế, nhất là đối với khách hàng là người không cư trú. Chẳng hạn: Ngân hàng yêu cầu khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng mang theo quyết định thành lập Công ty giấy phép đầu tư của cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam cấp. Văn bản chỉ định và phân công đối với chủ tài khoản và kế toán trưởng. Nếu Ngân hàng tạo được điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế không cư trú mở tài khoản, Ngân hàng sẽ thu hút thêm được nguồn ngoại tệ. Mở rộng các loại hình dịch vụ ngân hàng. Dịch vụ ngân hàng là một công cụ để Ngân hàng khuyến khích khách hàng mở và sử dụng tài khoản tại Ngân hàng. Để thực hiện được Ngân hàng cần cho các khách hàng hưởng các dịch vụ ưu đãi, thuận tiện như: * Đối với khách hàng có tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ, Ngân hàng cần có chính sách ưu đãi với họ trong quá trình sử dụng tài khoản như: khi khách hàng rút ngoại tệ ra khỏi tài khoản, nếu muốn chuyển thành VNĐ thì ngân hàng sẽ mua ngoại tệ với giá cao hơn giá Ngân hàng mua của khách hàng bên ngoài hoặc mua bằng giá bán ra, nhưng khách hàng phải trả phí (mức phí thấp). Với tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ, Ngân hàng nên có chính sách ưu đãi với khách hàng về lãi suất. Hiện nay, các dịch vụ Ngân hàng cung cấp cho khách hàng vẫn còn hạn chế, dó là dịch vụ chuyển tiền quốc tế của Ngân hàng chưa được phát triển, trong những năm tới Ngân hàng cần tăng cường, nguồn ngoại tệ để kịp thời thực hiện được nhu cầu thanh toán quốc tế của khách hàng. Mặt khác cần phát huy hơn công tác chuyển tiền trong nước. Hiện nay, việc chuyển tiền trong nước của các ngân hàng chủ yếu bằng thanh toán bù trừ qua Ngân hàng Nhà nước. Việc chuyển tiền điện tử chưa được áp dụng thường xuyên vì chi phí dịch vụ này quá lớn. Đối với Ngân hàng MB, chủ yếu thực hiện chuyển tiền qua Ngân hàng Nhà nước và qua VietComBank. Trong những năm tới, để góp phần tăng huy động vốn từ tài khoản tiền gửi, Ngân hàng nên áp dụng thường xuyên thanh toán chuyển tiền điện tử để tạo thuận lợi cho khách hàng. * Về phương thức và mạng lưới phục vụ chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Do vậy, Ngân hàng cần triển khai các hoạt động sau: Thứ nhất là Ngân hàng thực hiện chuyển tiền mặt theo yêu cầu của khách hàng đến tận nơi trụ sở khách hàng và nhận chứng từ thông qua việc khách hàng gọi điện đến, nhưng để thực hiện được nó, nhân viên dịch vụ tài khoản phải biết tượng tận từng khách hàng để tránh tình trạng giả mạo làm mất thời gian và tiền bạc của Ngân hàng. Thứ hai là bố trí bộ phận thanh toán viên phục vụ trả tiền cho khách hàng ngoài giờ làm việc (dịch vụ trả tiền ngoài giờ). Hiện nay khách hàng muốn rút tiền tại Ngân hàng phải đến trước 4h30 phút. Vì vậy khách hàng muốn rút tiền ngoài giờ sẽ không được thực hiện. Do đó Ngân hàng nên bố trí bộ phận thanh toán việc làm ngoài giờ để khách hàng đến ngân hàng thấy thuận tiện hơn. Thứ ba là đưa hệ thống rút tiền tự động ATM vào hoạt động. Hệ thống ATM đã được một số ngân hàng tại Việt Nam áp dụng nhưng chưa phổ biến. Ngân hàng nên đặt các máy rút tiền tự động tại các trường đại học, bởi vì đây là thị trường tiềm năng mà Ngân hàng cần khai thác. Với máy rút tiền tự động ATM Ngân hàng sẽ thu hút được nguồn vốn huy động từ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn. Thứ tư là mở rộng mạng lưới hoạt động. Để tiện cho các khách hàng giao dịch, Ngân hàng nên đặt các phòng giao dịch nhỏ tại các quận khác trong thành phố Hà Nội. Các phòng này có các hoạt động như một ngân hàng nhỏ. Hoạt động dưới sự chỉ đạo hàng ngày của Ngân hàng thông qua kết nối mạng nội bộ. Các giao dịch sẽ được truyền về Ngân hàng, Ngân hàng xử lý ra quyết định thực hiện cho nhân viên tại phòng giao dịch đó. Đối với dịch vụ uỷ thác đầu tư, sang năm tới Ngân hàng cần tăng cường nhận uỷ thác đầu tư để tăng được nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng. * Bên cạnh các dịch vụ trên, Ngân hàng nên mở các dịch vụ tư vấn như: Tư vấn mở, thanh toán L/C, tư vấn về các hoạt động đầu tư tài chính. Các hoạt động này một mặt tạo cho Ngân hàng nguồn thu nhập, mặt khác Ngân hàng sẽ tìm kiếm được các khách hàng mới. 3.2 Giải pháp về quản lí chi phí và hạn chế rủi ro từ các nguồn vốn khác nhau: Vào cuối năm 2005, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) liên tục điều chỉnh tăng lãi suất huy động USD từ 3,25%/năm lên mức 3,5%/năm. Điều này kéo theo việc tăng lãi suất huy động USD ở tất cả các Ngân hàng thương mại trong nước. Cụ thể, VCB tăng lãi suất huy động USD từ 0,05- 0,4%/năm so với lãi suất cũ, BIDV tăng lãi suất huy động USD từ 0,3 – 0,4%/năm, Eximbank cũng tăng lãi suất huy động USD từ 0,1- 0,2%/năm… Việc tăng lãi suất huy động USD gây áp lực lớn cho lãi suất tiền Đồng bởi nếu vẫn giữ nguyên lãi suất tiền Đồng thì người dân sẽ chuyển từ gửi tiền Đồng sang gửi bằng USD. Vì vậy, lãi suất huy động tiền Đồng cũng được điều chỉnh tăng lên ở hầu hết các ngân hàng. Mức chênh lệch giữa lãi suất USD và lãi suất tiền Đồng đang được các ngân hàng duy trì ở mức 4,5-5%/năm nhằm hạn chế tình trạng người dân rút tiền đồng sang gửi ngoại tệ. Cuộc đua tăng lãi suất giữa các ngân hàng hiện chưa có điểm dừng do theo nhiều chuyên gia ngân hàng, thời gian tới Fed có thể sẽ còn tiếp tục tăng lãi suất huy động USD. Các tác động của cuộc đua này trước tiên người gửi tiền có lợi tuy nhiên ngược lại sẽ tạo áp lực lớn đối với người vay vốn, đặc biệt nó ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngân hàng. Nó có thể dẫn đến các nguy cơ tiềm tàng sau: Thứ nhất, việc tăng lãi suất huy động gây đột biến về chi phí huy động vốn, tác động xấu đến tình hình nguồn vốn của Ngân hàng. Khi các nguồn vốn huy động trong tương lai có lãi suất cao thì người gửi tiền có xu hướng rút các khoản đã gửi về để gửi lại sau đó. Điều này dẫn đến cầu thanh khoản có thể tăng đột biến trong thời gian ngắn và có thể gây rủi ro thanh khoản cho ngân hàng. Hơn nữa, việc điều chỉnh lãi suất tăng ở các ngân hàng là khác nhau, do đó người gửi tiền co thể sẽ xem xét và gửi lại tại một ngân hàng khác có mức lãi suât cao hơn. Từ bảng cân đối kế toán của Ngân hàng cho thấy, trong hiện tại, nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất lớn hơn nhiều so với tài sản nhạy cảm lãi suất (khoảng 3.000 tỷ so với 2500 tỷ). Điều đó có nghĩa là việc tăng lãi suất huy động co thể dẫn đến việc lượng vốn huy động ngắn hạn tăng đột biến, làm tăng chi phí huy động vốn bình quân, cơ cấu nguồn vốn phần lớn là ngắn hạn nên sẽ không ổn định, đặc biệt trong khi lãi suất vẫn còn biến động. Thứ hai, ngược với xu hướng tăng nguồn vốn, hoạt động tín dụng của ngân hàng có thể giảm sút nhanh chóng. Bởi vì: Với việc tăng lên của chi phí huy động do việc tăng lãi suất huy động thì tất yếu các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay. Các doanh nghiệp sẽ có xu hướng giảm đầu tư, thậm chí có thể chuyển sang gửi tiết kiệm. Ngân hàng sẽ đứng trước nguy cơ ứ đọng vốn, giảm sút lợi nhuận, thậm chí thua lỗ. Ngoài ra, do thực tế ngân hàng nguồn vốn huy động trung và dài hạn thấp hơn so với cấp tín dụng trung và dài hạn (năm 2004, nguồn vốn huy động trung và dài hạn là khoảng 980 tỷ, còn cho vay trung dài hạn là 1.127 tỷ), vì vậy, việc tăng lãi suất gây gủi ro kì hạn cho ngân hàng. Từ các nhận định trên, em xin kiến nghị như sau: Với xu hướng lãi suất huy động tăng và không ổn định, việc Ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và lãi suất cho vay là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, ngân hàng cần xác định mức lãi suất hợp lí và khe hở lãi suất ở mức cần thiết nhằm đảm bảo bù đắp chi phí hoạt động đồng thời đem lại lợi nhuận tương đối. Ngân hàng không nên chạy theo cuộc đua tăng lãi suất ở các ngân hàng thương mại lớn, vì Ngân hàng còn non trẻ, kinh nghiệm cũng như tiềm lực kinh tế chưa thực sự đủ lớn mạnh. Trong thời gian này, Ngân hàng cũng không nên đặt mục tiêu lợi nhận qua cao, sẽ gây áp lực nặng nề lên lãi suất cấp tín dụng. Ngân hàng cần cơ cấu lại nguồn vốn, tăng các nguồn vốn ít nhạy cảm với lãi suất nhăm ổn định nguồn vốn. Đồng thời Ngân hàng cần đẩy mạnh tín dụng trung dài hạn nhằm bù đắp các chi phí do huy động các nguồn vốn ngắn hạn mới. 3.3 Các giải pháp khác: Đây là các giải pháp tổng quan nhằm nâng cao vị thế và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng, đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai: 3.3.1 Nâng cao trình độ cán bộ Ngân hàng. Từ nhận thức đánh giá yếu tố con người trong sự thành công của mọi hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh ngân hàng nói riêng, MB đã củng cố và hoàn thiện tổ chức bộ máy đặc biệt là đổi mới cơ chế quản lý, điều hành, tăng cường giám sát, kiểm tra nội bộ, quản lý tài chính và tăng cường kỷ luật lao động luôn được quan tâm chú trọng. Để phát huy được các kết quả đạt được như trên Ngân hàng cần phải chú trọng đến công tác cán bộ. Đây cũng là khâu then chốt quyết định thành công của ngân hàng. Ngân hàng cần đưa các cán bộ có năng lực vào vị trí trọng yếu, nắm giữ các cương vị chủ chốt, có kế hoạch đào tạo cán bộ, có chế độ đãi ngộ thành tích chung. Bên cạnh đó với đề án tổ chức cần tiếp tục triển khai, củng cố tổ chức bộ máy nhân sự các cấp theo hướng tinh giảm và nâng cao hiệu quả hoạt động. Cùng với các hoạt động trên, Ngân hàng nên chú trọng các hoạt động đoàn thể nhằm tạo không khí thoải mái sau giờ làm việc cho nhân viên. Ngân hàng có thể tổ chức các cuộc thi cán bộ nhân viên giỏi của Ngân hàng cho toàn bộ nhân viên, "Cuộc thi phụ nữ đảm việc nhà giỏi việc nước", đối với cán bộ nam Ngân hàng tổ chức các cuộc thi thể thao... nhằm khuyến khích động viên họ. Ngân hàng nên có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thêm các kiến thức cho các cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng như: * Với ban lãnh đạo cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thêm các kiến thức về hành chính quản trị, tiếng anh để có thêm lý thuyết áp dụng vào thực tế. * Với các phòng ban còn lại cần đào tạo các chuyên ngành như Ngân hàng, ngoại thương, luật, tiếng anh cho một số nhân viên. Để thực hiện hoàn thành các giải pháp trên, Ban lãnh đạo Ngân hàng luôn phải sát cánh cùng tập thể công nhân viên giải quyết mọi khó khăn trong công việc, thể hiện tinh thần tập thể tình đoàn kết. 3.3.2 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Từ nhận thức về tầm quan trọng của "phát triển công nghệ" để quốc tế hoá dịch vụ là một trong các chiến lược cạnh tranh Ngân hàng. MB cần phải có các chiến lược công nghệ, bao gồm phần cứng mới nhất, phần mềm cập nhật, hệ thống mở và có mạng thông tin viễn thông. Trước mắt Ngân hàng cần hoàn thiện hệ thống E - Bank nhất là đối với hệ thống kế toán huy động vốn và thanh toán qua Ngân hàng bởi vì tầm quan trọng của dịch vụ này đối với Ngân hàng. 3.3.3 Đẩy mạnh chiến lược Marketing cho toàn bộ hoạt động ngân hàng. Trong thời gian gần đây lĩnh vực hoạt động Marketing đã phát triển bao trùm sang cả lĩnh vực dịch vụ. Tuy hoạt động ngân hàng, mới bắt đầu vào những năm 70. Mới được coi như là một phương pháp quản trị kinh doanh tổng hợp. Hiện nay Marketing ngân hàng là một trong các nhiệm vụ quan trọng không chỉ đối với nhân viên ngân hàng mà còn là của các cán bộ lãnh đạo. Với vai trò của Marketing như vậy MB cần thực hiện các chương trình Marketing. Một trong các chương trình mà Ngân hàng có thể áp dụng để mở rộng hoạt động huy động vốn và dịch vụ Ngân hàng đó là hoạt động thuyết trình, quảng cáo trên truyền hình.... Ngân hàng có thể áp dụng phương pháp thuyết trình ở các doanh nghiệp bằng việc thành lập các đội đặc biệt về giới thiệu sản phẩm của Ngân hàng, họ đi đến các doanh nghiệp liên hệ, xin phép được thuyết trình về tiện ích của dịch vụ mà Ngân hàng đưa ra. Với phương pháp tiếp cận trực tiếp khách hàng, Ngân hàng sẽ thu thập được thông tin về nhu cầu của khách hàng qua việc lấy ý kiến trực tiếp của họ về dịch vụ Ngân hàng. Từ đó, Ngân hàng sẽ có giải pháp cải tiến dịch vụ, mở rộng thị trường khách hàng. Hiện nay theo em được biết, phương pháp thuyết trình là công cụ chính đối với hoạt động Marketing của các tổ chức phi Ngân hàng như ngành bảo hiểm. Kết luận Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang đẩy mạnh đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Vì vậy nền kinh tế hàng hóa Việt Nam đang gấp rút nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng canh tranh trên thương trường quốc tế. Và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài guồng quay này, bởi vì ngành ngân hàng luôn đóng vai trò quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô. Và Chính phủ luôn bày tỏ quyết tâm cao trong việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế và mở cửa thị trường nội địa, nhất là thị trường tài chính ngân hàng. Trong xu thế đó, MB với mục tiêu trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam trong mảng thị trường đã chọn, hoạt động đa năng - an toàn - hiệu quả, đã không ngừng triển khai các đề án đổi mới, tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới hoạt động, đầu tư phát triển nguồn nhân lực đạt trình độ chuyên môn cao, hiện đại hóa công nghệ, phát triển sản phẩm dich vụ mới.... Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng luôn chú trọng tới công tác quản trị tài sản và nguồn vốn, đảm bảo kinh doanh an toàn –hiệu quả, đáp ứng sự tin tưởng của khách hàng. Đến đây em xin dừng chuyên đề nghiên cứu của mình ! Để hoàn thành chuyên đề này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo TS. Nguyễn Kim Anh - giáo viên hướng dẫn em trong quá trình thực tập. Thầy đã tận tình chỉ bảo, cho em nhiều lời khuyên trong quá trình định hướng ban đầu, đồng thời chỉnh sửa cho em rất nhiều trong quá trình viết và hoàn thành chuyên đề. Em cũng xin chân thành cảm ơn các Anh, các Chị công tác tại NHTMCP Quân đội – chi nhánh Tây Sơn. Các anh chị đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập, tận tình chỉ bảo cho em những gì không rõ. Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2006 Sinh viên Hoàng Trường Minh Tài liệu tham khảo —---***---?---***---– 1. Sách “Tiền tệ và hoạt động ngân hàng”. Lê Vinh Danh NXB Chính trị quốc gia. 2. Sách “Ngân hàng thơng mại”. TS. Tô Ngọc Hng-Nguyễn Kim Anh Học viện Ngân hàng. 3. Luật các tổ chức Tín dụng. 4. Sách “Các nghiệp vụ của NHTM”. Chủ biên GS. TS. Lê Văn Tự NXB Thống kê. 5. Tạp chí Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam năm 2004-2005 6. Sách “Huy động vốn của NHTM, những vấn đề đặt ra cần giải quyết”. Phạm Xuân Lập 7. Báo cáo thờng niên NHTM CP Quân đội các năm. Mục Lục Trang Lời nói đầu 1 Chương 1: Một số lý luận cơ bản về Quản trị Nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại. 3 1.1 Các khái niệm và định nghĩa 3 1.1.1 Ngân hàng thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 3 1.1.2 Nguồn vốn - Các thành phần trong Nguồn vốn của một Ngân hàng thương mại 8 1.1.3 Tầm quan trọng của Nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 13 1.2 Các vấn đề về Quản trị Nguồn vốn 14 1.2.1 Huy động vốn- Vấn đề then chốt 15 1.2.2 Ước tính chi phí cho nguồn vốn tiền gửi và phi tiền gửi 20 1.2.3 Rủi ro của các loại nguồn vốn - Vấn đề lựa chọn giữa chi phí và rủi ro 23 1.2.4 Rủi ro thanh khoản- Vấn đề quan trọng hàng đầu 25 1.2.5 Giải pháp đối với Vốn tự có 36 Chương 2: Thực trạng công tác Quản trị nguồn vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội 38 2.1 Sơ lược về Ngân hàng TMCP Quân Đội 38 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển 38 2.1.2 Cơ cấu tổ chức 40 2.2 Tình hình Nguồn vốn tại Ngân Hàng TMCP QĐ 42 2.2.1 Hoạt động huy động vốn 42 2.2.2 Quản lý chi phí cho Nguồn vốn tiền gửi và phi tiền gửi 45 2.2.3 Đảm bảo khả năng thanh khoản- Cam kết từ thực tế của ngân hàng 49 2.2.4 Tình hình cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng 50 2.2.5 Tăng Vốn tự có-Đảm bảo phát triển bền vững 51 Chương 3: Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác Quản trị nguồn vốn vốn tại NHTM CP Quân Đội 53 3.1 Giải pháp nâng cao chất lượng huy động vốn 53 3.1.1 Ngân hàng cần tăng cường và đa dạng hoá hình thức huy động vốn 54 3.1.2 Có chính sách thích hợp trong việc khuyến khích khách hàng mở và sử dụng tài khoản tại Ngân hàng 56 3.2 Giải pháp về quản lí chi phí và hạn chế rủi ro từ các nguồn vốn khác nhau 58 3.3 Các giải pháp khác 60 3.3.1 Nâng cao trình độ cán bộ Ngân hàng 60 3.3.2 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng 61 3.3.3 Đẩy mạnh chiến lược Marketing cho toàn bộ hoạt động ngân hàng 61 Kết luận 63

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32526.doc
Tài liệu liên quan