Những năm qua ngành xây dựng nước ta đã phát triển rất mạnh và trưởng thành nhanh chóng cả về trình độ, về qui mô, số lượng, chất lượng, chủng loại trong mọi ngành, mọi lĩnh vực. Có thể thấy, ở mọi nơi từ đô thị đến nông thôn, đâu đâu trên đất nước ta cũng có công trường và công trình xây dựng. Đất nước ta trên con đường hội nhập và phát triển thì ngành xây dựng còn phát triển và không ngừng lớn mạnh. Điều đó tất yếu sẽ dẫn tới sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp xây dựng. Để cho sự cạnh tranh đó lành mạnh, minh bạch thì đấu thầu đóng vai trò hết sức quan trọng và là phương thức hiệu quả không chỉ đối với Nhà nước, chủ đầu tư mà còn cả đối với các Nhà thầu.
Tuy mới thực sự được bắt đầu áp dụng ở nước ta từ năm 1994 nhưng đến nay, qua nhiều bước hoàn thiện, phương thức đấu thầu đã chứng tỏ phù hợp với nền kinh tế thị trường, ngày càng trở thành hoạt động mang tính xã hội rộng rãi. Đây là hoạt động thực sự mang lại hiệu quả kinh tế to lớn, tiết kiệm chi phí đầu tư xây dựng, thúc đẩy sự hoàn thiện của bản thân Nhà thầu về năng lực và tổ chức để đảm bảo các yêu cầu về tiến độ thi công và chất lượng các công trình. Tuy nhiên, công tác đấu thầu là lĩnh vực tương đối mới nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những lúng túng, bất cập thậm chí có những sai lầm gây thất thoát tài lực của đất nước, đòi hỏi Nhà nước phải tập trung sự nghiên cứu, cập nhật, đổi mới phương thức phù hợp trong quản lý và điều hành công tác đấu thầu nói chung.
100 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Qui chế pháp lý chung về đấu thầu trong xây lắp và thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vân giá trúng thầu chỉ bằng 34,3% giá gói thầu được phê duyệt. Nhiều gói thầu chênh lệch giữa giá trúng thầu và giá gọi thầu hàng trăm tỷ đồng như dự án cảng Cái Lân: Chênh lệch 400 tỷ đồng; Nhà thầu dự án đường Bắc Ninh – Nội Bài bỏ giá dự thầu gần 600 tỷ đồng nhưng sau đó lại giảm tới gần 233 tỷ đồng để thắng thầu.
Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng trên là do các nhà thầu thiếu việc làm cho người lao động hoặc có thể là nhu cầu cần vốn gấp, có thể giải quyết việc khấu hao tài sản, thiết bị máy móc mới đầu tư…chấp nhận hòa vốn hoặc lỗ vốn để duy trì hoạt động và sự tồn tại của doanh nghiệp với hy vọng giải quyết tốt các vấn đề cấp bách hiện tại, sau này sẽ thu lãi bằng các dự án khác. Đây là yếu tố thúc đẩy nhà thầu phải chấp nhận bỏ giá thấp. Một nguyên nhân khác đó là, trong quá trình thực hiện nhà thầu thường thiết lập được các mối quan hệ với các đơn vị tư vấn, giám sát và chủ đầu tư để tạo ra cơ hội cắt giảm chi phí hay nâng khối lượng công việc. Sau khi lọt qua bước đánh giá về mặt kỹ thuật (Điểm kỹ thuật tối thiểu đạt 70% trở lên) vào bước đánh giá về mặt tài chính thì yếu tố giá là quan trọng nhất. Nhà thầu nào có giá đánh giá thấp sẽ thắng thầu. Như vậy, các nhà thầu chủ yếu chỉ cạnh tranh về giá. Bởi vậy, các nhà thầu thi nhau bỏ giá dự thầu thấp với hy vọng thắng thầu. Nhiều khi bên mời thầu thấy giá bỏ thầu quá thấp nhưng vẫn phải chấp nhận cho thắng thầu vì nếu không cho thắng thầu thì coi bên mời thầu đã vi phạm pháp luật.
Thứ tám, Đấu thầu với màn kịch “quân xanh, quân đỏ”
Để tránh tư túi giữa chủ dự án và bên thi công về tổng giá xây dựng công trình hay dự án đầu tư mua sắm thiết bị lớn, Nhà nước đã có quy định phải tổ chức đấu thầu. Song trong thực tế đã xảy ra không ít trường hợp đấu thầu tranh thầu chỉ là hình thức, các bên dự thầu đã “ đi đêm” dàn xếp với nhau, thông thầu từ trước, bày ra trò “quân xanh, quân đỏ” cho ra vẻ tranh thầu nhưng kỳ thực họ cùng một giuộc với nhau để chi phối, làm giá khống chế trở lại bên chủ dự án, dẫn đến Nhà nước bị thua thiệt lớn. Theo thanh tra Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn có một dự án, đoàn thanh tra phát hiện năm hồ sơ dự thầu giống y xì nhau về lời lẽ, chữ nghĩa, thậm chí giống nhau cả về những chỗ viết sai lỗi chính tả. Điều này chứng tỏ chúng được đánh máy lại y nguyên từ một bản để 5 nhà thầu, mỗi người một bản, nộp dự thầu cho ra vẻ quân địch, quân ta. Trao đổi về vấn đề này, tổng thư ký Hội Kinh tế xây dựng Trần Trịnh Tường nói: “Quân xanh, quân đỏ là chuyện chỉ có thể xảy ra một khi các dự án tiến hành đấu thầu hạn chế, đấu thầu khép kín. Mà đây lại đang là vấn đề vì theo thống kê của tôi, tới 70-80% dự án là đấu thầu hạn chế. Để khắc phục tình trạng này, điều cơ bản nhất là phải đấu thầu rộng rãi chứ không đấu thầu hạn chế”. Xem website http:// www. vibonline.com.vn ngày 20-5-2006 : Đấu thầu với “quân xanh, quân đỏ”
3.2. Đánh giá chung về công tác đấu thầu trong xây lắp ở công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm
Là một doanh nghiệp mới được thành lập, công ty phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Bằng sự cố gắng vươn lên với lòng nhiệt tình, tinh thần đoàn kết, gắn bó tập thể người lao động Công ty Cavico Việt Nam Xây dựng Cầu Hầm đã đứng vững và khẳng định được vị thế của mình bằng việc tạo dựng được một quy mô họat động rộng khắp cả nước, xây dựng được uy tín và góp phần khẳng định thương hiệu Cavico trên thị trường thi công xây lắp các công trình cầu, hầm; các công trình giao thông, thủy lợi, thủy điện, các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp.
3.2.1. Những thuận lợi cơ bản của công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm khi tiến hành công tác đấu thầu trong xây lắp
Công tác đấu thầu là một hoạt động vô cùng quan trọng, bởi nó không chỉ liên quan đến sự tồn tại và phát triển bền vững của công ty trong nền kinh tế thị trường mà còn là vấn đề góp phần ổn định và phát triển xã hội. Những thuận lợi chủ yếu của công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm trong công tác đấu thầu xây lắp là:
Công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, do vậy khi có điều kiện thì công ty có thể tham gia đấu thầu. Điều này đã tạo ra sự thông thoáng cho việc thiết lập các mối quan hệ làm ăn với các bạn hàng trong nước và quốc tế. Ngoài ra, tuy mới thành lập, nhưng công ty đã phát triển một cách vững chắc tỏ rõ là một doanh nghiệp mạnh về xây lắp các công trình thủy điện, thi công các công trình ngầm, công trình đường giao thông, là một trong những đơn vị chủ lực của tổng công ty Cavico Việt Nam, góp phần đưa tổng công ty thành một tập đoàn kinh tế mạnh. Trong những năm qua, công ty luôn được sự tín nhiệm của Tổng công ty giao cho kết hợp với phòng thị trường tổng công ty tham gia đấu thầu, đảm nhiệm các công trình trọng điểm như : Thủy điện Nậm Chiến, Thủy điện Sêsan 3, Công trình BuônKuốp … Điều này chứng tỏ định hướng sản xuất kinh doanh của công ty chọn xây lắp là lĩnh vực mũi nhọn là hợp lý và hiệu quả.
- Nghành nghề kinh doanh là nghành đặc thù (Xây dựng công trình cầu hầm, giao thông, thủy điện, xây dựng dân dụng và công nghiệp) và với ưu thế là đơn vị đứng đầu trong lĩnh vực thi công công trình ngầm nên công ty ít có đối thủ cạnh tranh và không phải chịu bất cứ một sức ép nào từ phía các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành.
- Hệ thống máy móc thiết bị hiện đại đã được đầu tư một cách đồng bộ và đầy đủ, trong đó chủ yếu nhập từ các hãng sản xuất nổi tiếng như: Caterpilar (Mỹ), Alass Copco (Thụy Điển), Tamrock (Phần Lan)… Với công nghệ này, công ty luôn hoàn thành công việc đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng cao nhất, tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước nhiều tỷ đồng.
Hiện nay, công ty đã hợp tác với các đối tác nước ngoài, đã làm chủ được công nghệ thi công hầm NATM, TMB là công nghệ chủ lực thi công hầm hiện nay ở Việt Nam.
- Qua hoạt động đấu thầu, công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm đã dần trưởng thành về nhiều mặt và khẳng định được vị trí của mình trên thị trường xây lắp. Việc tham gia xây dựng các dự án, công trình lớn, trọng điểm quốc gia đã tạo cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm trong thi công và xử lý các tình huống phức tạp về kỹ thuật, trực tiếp tham gia công tác đấu thầu và giám sát việc thi công công trình của công ty; thích nghi với tác phong làm việc mới, nhiệt tình, năng động, sáng tạo, từng bước đáp ứng được đòi hỏi ngặt nghèo về trình độ kỹ thuật. Bên cạnh đó, công ty đã có những chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với người lao động. Cố gắng tạo điều kiện làm việc tốt nhất cho cán bộ công nhân viên trong Công ty. Có hình thức xử lý kỷ luật kịp thời đối với những cá nhân, tập thể có hành vi vi phạm kỷ luật lao động. Đồng thời, có chế độ khen thưởng thích đáng đối với những cá nhân tập thể đạt được thành tích cao, có những sáng tạo trong công việc. Tạo ra bầu không khí dân chủ, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa người sử dụng lao động và người lao động, giữa những người lao động với nhau, để người động cảm thấy mình được tôn trọng, do đó họ phát huy được hết mọi tiềm năng của mình.
Các công trình của công ty thi công đều đạt được yêu cầu về kỹ thuật, có chất lượng cao, có tính thẩm mỹ. Thương hiệu Cavico Việt Nam đã thực sự làm cho các đối tác, các chủ đầu tư tin tưởng. Do vậy, cơ hội mở rộng thị trường, tìm kiếm các hợp đồng mới là rất lớn. Theo như dự kiến của công ty thì thị phần và nguồn công việc từ nay đến năm 2015 là rất nhiều.
Ngoài những thuận lợi mà công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm có được như đã nêu ở trên thì theo báo cáo Triển vọng kinh tế 2006 của Ngân hàng Thế giới (World Bank) đánh giá Việt Nam là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Đặc biệt với sự kiện ngày 7-11-2006 Việt Nam vừa gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) tạo mở ra những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong nước giao thương, học hỏi kinh nghiệm từ các đối tác nước ngoài. Đi đôi với tăng trưởng kinh tế là yêu cầu phải đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về điện năng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư.
Bảng 3.2: Sản lượng điện của Việt Nam giai đoạn 2000- 2004
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
Tỷ Khw
26,68
30,67
35,888
40,54
46
Tăng trưởng
14,96%
17%
12,98%
13,57%
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2005)
Nhu cầu điện năng của nước ta giai đoạn năm 2005-2020 được dự báo như sau:
Bảng 3.3: Nhu cầu điện năng giai đoạn 2005-2020
Năm
2005
2010
2020
Tỷ Kwh
48,5 ~ 53
78,5~93
160~200
(Nguồn: Quy hoạch V hiệu chỉnh, Tổng công ty điện lực Việt Nam, năm 2005)
Hai bảng trên cho thấy tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện năng (trung bình khoảng 17,31%/năm) tăng nhanh hơn tốc độ tốc độ tăng trưởng của sản lượng điện (trung bình khoảng 14,63%/năm).
Trong chiến lược phát triển nghành điện giai đoạn 2001-2010, Chính phủ khuyến khích đầu tư vào thủy điện có suất đầu tư thấp, thân thiện với môi trường và kết hợp được nhiều mục đích an sinh khác như chống lũ, tưới tiêu phục vụ nông nghiệp. Có thể nói tiềm năng về thủy điện của Việt Nam được phân bổ trên 3 miền với tổng công suất khoảng 17.000MW. Hiện tại chỉ có 25% tiềm năng thủy điện mới được khai thác. Trong thời gian 2006-2020, hàng loạt các nhà máy thủy điện sẽ được triển khai xây dựng.
Với tốc độ ban đầu tư vào thủy điện như vậy, tiềm năng của ngành xây dựng công trình cầu hầm là rất lớn. Đối với Cavico Cầu Hầm ngay từ khi mới thành lập công ty đã xác định chiến lược tập trung mũi nhọn vào nâng cao năng lực thi công công trình thủy điện. Do vậy, trong tương lai thị phần về xây dựng công trình cầu hầm của công ty chắc chắn sẽ gia tăng.
3.2.2. Một số khó khăn, vướng mắc của công ty trong quá trình thực hiện quy chế đấu thầu
Các quy định pháp lý về đấu thầu trong xây lắp đã mang lại cho Công ty không ít những thuận lợi trong công tác đấu thầu đồng thời cũng tạo ra trong công ty không ít những thách thức.
Thứ nhất, khó khăn lớn nhất của công ty là thi công các công trình trọng điểm Quốc gia đòi hỏi tiến độ phải nhanh, qui mô năng lực phải lớn. Là công ty mới ra đời, công ty luôn phải bổ sung thiết bị để đạt được các yêu cầu trên. Trong năm 2006, công ty đã phải đầu tư, bổ sung thêm gần 28 tỷ đồng vào máy móc thiết bị. Nguồn vốn kinh doanh còn rất thiếu (Vốn pháp định là 6,5 tỷ cho 184 tỷ sản lượng – năm 2006 là quá nhỏ bé). Tiềm lực tài chính vẫn còn mỏng và hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của công ty. Doanh nghiệp phải đi vay ngân hàng một lượng vốn lớn. Điều này làm cho chi phí cho hoạt động tài chính rất cao, ảnh hưởng không ít đến việc nắm bắt cơ hội kinh doanh trên thị trường.
Thứ hai, đa số công trình thi công theo cơ chế chỉ định thầu, theo quyết định số 797/400 CP- BCN nên hầu hết các công trình đều chưa có tổng dự toán được duyệt, tỷ lệ thanh toán, đơn giá áp dụng để thanh toán thấp, các khâu kiểm soát, thiết kế, phê duyệt đều chậm. Các chủ đầu tư chưa có cơ chế thanh toán cho các đơn vị thi công., gây mất cân đối về tài chính cho công ty.
Thứ ba, Lạm phát tăng cao, mức giá cả vật tư, nhiên liệu của thị trường liên tục biến động, ảnh hưởng tới giá thành sản xuất, trong khi giá cả đầu vào không được điều chỉnh hoặc chậm thanh toán, ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận của công ty.
Thứ tư, cùng một lúc phải triển khai nhiều công trình trọng điểm với giá trị, khối lượng lớn, tiến độ và cường độ rất căng thẳng. Vì phát triển rất nóng, nên mô hình quản lý của công ty chưa kịp “update”, dẫn đến khó khăn trong quá trình triển khai hoạt động SXKD của công ty. Ngoài ra, do vị trí ở xa văn phòng nên việc đi lại, thông tin, quản lý khó khăn.
Thứ năm, trong qui định của Luật đấu thầu mới hiện nay, thì có nhiều chủ đầu tư không phải là tổ chức có chuyên môn cao trong lĩnh vực xây dựng nhưng không bắt buộc phải thuê đơn vị tư vấn tổ chức đấu thầu nên nhiều khi gây ra những khó khăn không nhỏ cho các Nhà thầu tham gia đấu thầu, nhiều công trình công ty tham gia đấu thầu đã gặp phải trường hợp trên.
Ví dụ khi Ủy ban nhân dân xã là chủ đầu tư của một công trình thủy lợi thì cán bộ của Ủy ban nhân dân xã chưa có kinh nghiệm và nắm rõ quy định của Luật đấu thầu cũng như các đặc tính kỹ thuật biện pháp thi công của công trình xây lắp nên dẫn đến khi tổ chức đấu thầu và xét thầu thì Nhà thầu thường phải trình rất nhiều, các tiêu chí điều kiện nhiều khi thừa nhưng lại thiếu…
Thứ sáu, còn có một số nguyên nhân khách quan như: Điều kiện thời tíêt thay đổi thất thường, mùa mưa kéo dài ở Tây Nguyên, bão lũ bất chợt, ảnh hưởng đến công tác thi công. Có thể lấy ví dụ như tại dự án Buôn Tua Srah, hoạt động thi công phải ngừng trệ từ tháng 1- tháng 3 vì mưa lớn, hay trong quá trình thi công dự án BuônKuôp có gặp phải sự cố lớn về địa chất khiến công ty phải xử lý sự cố trong nhiều tháng. Trong thời gian đó, sản lượng của công ty không có, nhưng công ty vẫn phải chịu khấu hao máy móc thiết bị.
3.3. Một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy chế pháp lý về đấu thầu trong xây lắp
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước
Đấu thầu xây dựng là phương thức mới được áp dụng ở nước ta nhưng đến nay đã đạt được những thành tích đáng kể khẳng định sự cần thiết và tính ưu việt của hoạt động đấu thầu. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây dựng nói riêng (gồm cả đấu thầu trong xây lắp) hiện nay còn bộc lộ một số nhiều bất cập thể hiện ở các vấn đề: quản lý công tác đấu thầu xây dựng, quản lý chất lượng công trình, quy hoạch xây dựng, đảm bảo trật tự kỷ cương trong đầu tư xây dựng….. Nếu cơ chế đấu thầu được áp dụng trong sự tôn trọng nghiêm ngặt trình tự xây dựng cơ bản sẽ đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội to lớn, không chỉ cho các dự án đầu tư mà còn đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của bản thân các Nhà thầu. Để hoàn thiện cơ chế đấu thầu, đảm bảo đấu thầu là phương thức hiệu quả của phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, cần có những giải pháp, kỉến nghị nhằm khắc phục những tồn tại không nên có của đấu thầu.
Qua nghiên cứu Luật xây dựng, Luật đấu thầu và các văn bản hướng dẫn thi hành hai luật trên, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện thêm pháp luật về đấu thầu nói chung cũng như trong hoạt động đấu thầu trong xây lắp nói riêng.
Thứ nhất, cấn tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu
Xã hội bao giờ cũng tồn tại với tính cách là một chỉnh thể, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Các lĩnh vực này đòi hỏi một sự điều chỉnh pháp luật ở các mức độ khác nhau. Vì vậy tính toàn diện của hệ thống pháp luật đòi hỏi khả năng bao quát toàn bộ đời sống xã hội, bảo đảm không một lĩnh vực quan trọng nào của đời sống xã hội đứng ngoài sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật. Tính toàn diện là tiêu chuẩn đầu tiên thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật là một mục tiêu hết sức quan trọng của những người làm luật nói riêng và của toàn dân nói chung.
Trong những năm qua, Nhà nước ta với sự nỗ lực lớn nhằm hoàn thiện cơ chế pháp luật, công tác ban hành văn bản pháp luật có rất nhiều tiến bộ, các văn bản được ban hành với tốc độ chưa từng thấy, song hệ thống văn bản pháp lý của nước ta, trong đó có văn bản pháp luật nghành xây dựng vẫn còn nhiều hạn chế.
Mặc dù Luật xây dựng và Nghị định số 16/2005/CP có mục lựa chọn nhà thầu xây dựng, nhưng đến nay đã hơn hai năm thực hiện vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện; tất cả các dự án đầu tư nói chung và đầu tư xây dựng nói riêng thực hiện theo quy định của Nghị định số 66/2003/ NĐ- CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/ NĐ- CP ngày 01/9/1999 và Nghị định số 14/2000/ NĐ- CP ngày 05/5/2000 một Nghị định không có luật dẫn chiếu. Và ngày 29/9/2006 mới có văn bản pháp luật hướng dẫn chung cho Luật xây dựng và Luật đấu thầu (NĐ 111/ 2006). Vì là văn bản hướng dẫn thực thi hai Luật nên Nghị định số 111/2006 phải có thông tư liên tịch hướng dẫn của Bộ xây dựng và Bộ kế hoạch và đầu tư mới thực hiện được.
Hơn nữa, đấu thầu trong xây lắp có những đặc thù và sự phức tạp riêng, không giống như đấu thầu thông thường (đấu thầu mua sắm thiết bị cho cơ sở y tế, mua sắm máy tính, máy in cho đơn vị, đấu thầu đầm nuôi tôm, nuôi cá...). Nên Bộ Xây dựng cần nhanh chóng soạn thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện đấu thầu trong xây lắp nhằm điều chỉnh các nội dung chủ yếu của công tác đấu thầu trong xây lắp như: Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu xây lắp, cách thức xếp hạng nhà thầu; các hình thức chọn thầu, thẩm quyền tổ chức đấu thầu các gói thầu có một phần vốn từ đầu tư từ ngân sách.
Nghiên cứu thêm cách làm phổ biến trong đấu thầu quốc tế hiện nay là, bên mời thầu sẽ lựa chọn nhà thầu có giá bỏ thầu gần nhất (cao hơn hoặc thấp hơn) so với giá trung bình cộng của giá dự toán do bên mời thầu xây dựng với giá dự thầu bình quân của tất cả các nhà thầu tham gia cuộc đầu thầu đó để giao thầu.
Thứ hai, tăng cường hơn nữa chế độ chịu trách nhiệm cá nhân, gắn trách nhiệm với quyền hạn (trong đó có quyền lợi) của các đơn vị, cá nhân có liên quan
Xuất phát từ thực tế hiện nay công tác mở thầu, chấm thầu của chủ đầu tư tại một số ban quản lý dự án mang tính hình thức, kết quả đấu thầu không hợp pháp làm hạn chế tác dụng làm giảm chi phí của họat động đấu thầu. Nguyên nhân chủ yếu của những sai sót trong giai đoạn đấu thầu này là do cơ chế quản lý đấu thầu hiện nay chưa gắn trách nhiệm với quyền hạn (trong đó có quyền lợi) của các đơn vị, cá nhân có liên quan, trong đó chủ đầu tư và ban quản lý dự án đóng vai trò trung tâm. Khi xảy ra sự cố về kỹ thuật đối với công trình, hoặc việc quản lý bị phát hiện là có thất thoát lãng phí thì việc xử lý còn chưa nghiêm, chưa xác định rõ trách nhiệm cá nhân để xảy ra sai sót.
Để hạn chế sai sót trong công tác đấu thầu cần thực hiện tốt một số biện pháp:
+ Về chế độ chịu trách nhiệm cá nhân, cần quy định chế độ một dự án chỉ có một cá nhân chịu trách nhiệm, từ đó nâng cao quyền hạn trong việc quyết định đầu tư, lựa chọn nhà thầu tư vấn thiết kế, thi công và xác định người đứng đầu bộ máy quản lý vận hành dự án sau này. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm chính đối với tất cả các sai sót trong quá trình đầu tư xây dựng, cho dù sai sót do các cơ quan khác gây ra. Đồng thời, cần gắn trách nhiệm đơn vị với trách nhiệm của cá nhân, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo.
+ Đối với những dự án cần lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, nên đi vào nội dung cụ thể thuộc ngành đó quản lý và chịu trách nhiệm về những ý kiến đó; tránh góp ý tràn lan, không đúng trọng tâm.
Thứ ba, đấy mạnh tiến trình cải cách thủ tục hành chính trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng nói chung và đấu thầu nói riêng
Như đã phân tích ở trên, đấu thầu là một công việc của Chủ đầu tư do chủ đầu tư chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện trong quá trình quản lý dự án. Do đó, khi tổ chức thực hiện dự án, đương nhiên chủ đầu tư phải tuân thủ các quy chế quản lý đầu tư và xây dựng của Chính Phủ (Nghị định số 111/2006/NĐ- CP ngày 29-9-2006 hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng). Tất cả các khâu lập, thẩm định, phê duyệt dự án, thiết kế và dự toán, thi công xây lắp, nghiệm thu công trình và quyết toán công trình… đều được cấp quyết định đầu tư thẩm định phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt. Điều này dẫn đến tình trạng “khép kín” trong đấu thầu dẫn đến tình trạng không minh bạch trong đấu thầu. Theo thống kê, hiện tình trạng khép kín trong đấu thầu có 3 hình thức. Phổ biến nhất là khép kín về mặt tổ chức- các chủ thể có liên quan với nhau trong hoạt động đấu thầu cùng thuộc một cơ quan trực tiếp hoặc gián tiếp ra quyết định thành lập hoặc điều hành, quản lý.
Tiếp theo là sự khép kín về mặt tài chính- các chủ thể có liên quan với nhau về mặt tài chính hoặc những hoạt động của các chủ thể này bị chi phối, ràng buộc lẫn nhau do quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp về mặt tài chính. Ngoài ra, có hình thức khép kín về mặt thông tin- một hệ thống đóng trong hoạt động của hệ thống này không được công khai hoặc không minh bạch.
Tình trạng khép kín trong đấu thầu có thể dẫn tới việc lựa chọn nhà thầu (tư vấn, cung cấp vật tư, thiết bị, xây lắp) không đảm bảo sự khách quan, công bằng, minh bạch, triệt tiêu tính cạnh tranh và vì vậy dẫn tới hậu quả của công tác đấu thầu để thực hiện dự án đầu tư sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, việc chi tiêu sử dụng tiền của Nhà nước cho đầu tư và phát triển kém hiệu quả. Đó là chưa kể, tình trạng khép kín hạn chế sự kiểm soát và giám sát từ bên ngoài, đặc biệt trong trường hợp bộ, ngành, ngoài việc nắm vốn đầu tư xây dựng còn có chức năng quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực xây dựng nói chung hay xây dựng chuyên ngành thì hậu quả tiêu cực của tình trạng khép kín càng trở nên trầm trọng.
Để khắc phục tình trạng này, Quốc hội và Chính phủ đều có những chỉ đạo về một lộ trình cụ thể để áp dụng mô hình và cơ chế để xóa bỏ tình trạng khép kín trong “quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản” cũng như “loại bỏ dần tình trạng khép kín trong đấu thầu xây dựng, được thực hiện chậm nhất là 3 năm kể từ khi Luật đấu thầu có hiệu lực”. Xem Điều 11.2. Luật đấu thầu của Quốc hội ban hành ngày 29-11-2005.
Do đây là vấn đề về tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành chính của Chính phủ nên Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan cần nhanh chóng tách bạch chức năng quản lý Nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương và chức năng tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, nhà thầu.
Bên cạnh đó, trong thời gian tới Nhà nước cần xem xét đưa ra các quyết định nhằm thực hiện xóa bỏ (dần) chế độ chủ quản, cấp hành chính chủ quản đối với các doanh nghiệp Nhà nước.Vấn đề này không chỉ là đòi hỏi của công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước đề ra mà còn là đòi hỏi của nhiều tổ chức tín dụng quốc tế (WB, ADB, IMF…) là những tổ chức đang có những tài trợ cho các dự án được đem ra đấu thầu trong nước và quốc tế trong lĩnh vưc xây dựng cơ bản ở nước ta.
Thứ tư, nhanh chóng thiết lập sàn giao dịch về đấu thầu theo hướng chuyên nghiệp hóa hoạt động đấu thầu hay rộng hơn là hoạt động mua sắm công
Đây thực sư là cách thức đấu thầu tiên tiến, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động đấu thầu. Qua thực tiễn áp dụng tại một số quốc gia trên thế giới đã chứng tỏ đây là một hình thức chuyên nghiệp hóa mang lại hiệu quả tích cực, đặc biệt trong bối cảnh khi mà nước ta đã trở thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Để làm được điều này, Nhà nước và Chính phủ cần có những bước chuẩn bị kỹ, đồng bộ trong việc hình thành những tổ chức, chủ thể trong sàn giao dich, cần bồi dưỡng và đào tạo một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn vững vàng, và cả trong lĩnh vực thông tin, tiếp thu những kinh nghiệm tổ chức của các nước đã thành công trong công tác đấu thầu (như Trung Quốc là nước có điều kiện khá tương đồng với Việt Nam, lại là nước đang áp dụng mô hình đấu thầu chuyên nghiệp).
Thứ năm, tập trung cải thiện và lành mạnh hóa môi trường đấu thầu, đấu tranh chống tiêu cực trong đấu thầu
Để làm được điều này, cần phải khắc phục được bốn thực trạng: tình trạng bỏ thầu với giá thấp để rồi các dự án trở thành “dần xây”; các nhà thầu tổ chức thành” quân xanh, quân đỏ”; các nhà thầu “ đi đêm” với chủ đầu tư; chủ đầu tư nhằm vào một đối tượng cụ thể và tổ chức đấu thầu để hợp thức hóa. Từ thực trạng trên, Nhà nước một mặt cần mở rộng thông tin tăng tính chất công khai trong đấu thầu và có chế độ rõ ràng khuyến khích các nhà thầu làm ăn chính đáng, xử phạt những nhà thầu làm ăn gian dối, đưa môi trường đấu thầu trở lại trạng thái công bằng, cạnh tranh lành mạnh hơn.
Lãng phí và tham nhũng vốn đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ bản hiện nay là một vấn đề nhức nhối của xã hội được cả xã hội quan tâm. Đất nước ta còn nghèo, cơ sở vật chất còn lạc hậu, hạ tầng kỹ thuật còn thô sơ. Để tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, Nhà nước ta ngoài việc cố gắng huy động các nguồn lực trong nước, đã tranh thủ huy động các nguồn vốn từ các tổ chức , nhà tài trợ nước ngoài nhằm thúc đẩy đầu tư phát triển đất nước. Tăng cường công tác quản lý, đẩy lùi lãng phí và tham nhũng, tiết kiệm vốn đầu tư trong các dự án trong đó có công tác đấu thầu là trách nhiệm của toàn xã hội nói chung và của mỗi người dân nói riêng.
Thứ sáu, Nhà nước cần có các chính sách nhằm hỗ trợ cần thiết đối với các nhà thầu trong nước
Sau khi nước ta gia nhập WTO, cánh cửa thị trường xây dựng tất nhiên sẽ mở ngày càng rộng, ngành công nghiệp xây dựng cũng chịu ảnh hưởng ngày càng lớn. Một mặt, doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam sẽ nhiều hơn, họ có trình độ quản lý cao, năng lực đầu tư mạnh, tiền vốn hùng hậu, kỹ thuật tiên tiến, cơ chế hợp lý, sau khi gia nhập thị trường Việt Nam chắc chắn sẽ khiến cho các doanh nghiệp xây dựng trong nước phải cạnh tranh kịch liệt hơn. Mặt khác, cũng do các doanh nghiệp nước ngoài có ưu thế kỹ thuật cao rõ rệt ở nhiều lĩnh vực, cơ chế sử dụng nhân tài hợp ly, đãi ngộ tiền lương cao, thu hút được nhiều nhân tài trong nước. Điều này sẽ khiến cho các doanh nghiệp thi công trình vốn đã thiếu nhân tài nay lại phải đứng trước thử thách: nạn cán bộ kỹ thuật giỏi bỏ đi làm cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Thực tế cho thấy ở các gói thầu thuộc các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, kể cả các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài, vốn viện trợ, khi tổ chức đấu thầu rộng rãi hầu hết các nhà thầu nội có đủ nhân lực, đủ kinh nghiệm tham gia dự thầu chỉ vì khả năng tổ chức không được bằng các nhà thầu nước ngoài. Thực trạng đó đã đẩy các nhà thầu xây dựng Việt Nam phải “ chầu rìa” tại các cuộc đấu thầu quốc tế và trở thành người đi làm thuê (nhận thầu lại) cho các dự án ngay trên chính “mảnh đất” của mình và bằng tiền của Nhà nước. Do không thể khắc phục ngay các yếu thế của mình trong cuộc cạnh tranh này, các nhà thầu trong nước cần được Nhà nước thực hiện các hỗ trợ cần thiết trước mắt như:
Đơn giản thủ tục vay vốn, nhất là thế chấp, bảo lãnh
Hiện nay, các doanh nghiệp xây dựng gặp rất nhiều khó khăn trong lĩnh vực này do khả năng tài chính có hạn, trong khi phải cùng một lúc triển khai nhiều dự án, đồng thời tham gia đấu thầu nhiều dự án. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của chủ đầu tư và tăng được các năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp đề nghị Nhà nước có chính sách thực sự linh hoạt trong quá trình thực hiện bảo lãnh và cho vay vốn.
Tăng qui mô tài chính, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các doanh nghiệp
Xuất phát từ đặc điểm của các dự án xây dựng cơ bản có quy mô lớn, thời gian thực hiện kéo dài, sử dụng các trang thiết bị máy móc hiện đại, hơn nữa những công nghệ áp dụng cho từng công trình không phải lúc nào cũng giống nhau nên thường xuyên phải huy động một lượng vốn rất lớn, nhiều khi vượt quá khả năng của các công ty xây dựng ở nước ta. Do vậy, cần có chính sách về vốn tín dụng đầu tư và phát triển, vốn ngân sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhằm tăng năng lực tài chính.
Nhà nước cần tuyên truyền, phổ biến các quy định về WTO liên quan đến lĩnh vực đấu thầu xây dựng
Sau khi gia nhập WTO, nước ta được hưởng đãi ngộ tối huệ quốc của các nước thành viên WTO, các cấp ngành đặc biệt là ngành xây dựng cần phải vạch ra chiến lược cụ thể, các đối sách cụ thể cho công cuộc hội nhập to lớn này. Các quy tắc của WTO chỉ là cái khung, là quy định mang tính nguyên tắc, còn một số lượng lớn công việc thương mại và tranh chấp trong thương mại, thu hút vốn nước ngoài… do đó Nhà nước cần nhanh chóng bồi dưỡng nhân tài kinh doanh trên thị trường quốc tế giỏi kỹ thuật, biết quản lý, tinh thông ngoại ngữ, nghiệp vụ kinh doanh và pháp luật làm cơ sở cho việc mở mang kinh doanh trên thị trường quốc tế.
Tích cực đề ra các chính sách pháp quy hữu quan, bảo hộ doanh nghiệp trong nước
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài Nhà nước cần tích cực giúp đỡ và khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng cải tiến kỹ thuật, cố gắng áp dụng công nghệ mới, vật liệu mới, thiết bị mới, rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp phát triển. Cần khai thác triệt để các biện pháp bảo hộ trong hiệp định đa phương của WTO để bảo hộ các doanh nghiệp trong nước bằng những biện pháp hợp lý, thúc đẩy doanh nghiệp mở mang thị trường quốc tế.
Đấy nhanh việc thiết lập chế độ doanh nghiệp hiện đại, chú ý gây dựng những tập đoàn có năng lực tổng thầu tập trung nhiều trí lực; đồng thời lấy thị trường làm phương hướng chỉ đạo, thúc đẩy các doanh nghiệp loại này chuyển sang chuyên nghiệp hóa “tính đặc biệt và hiện đại”. Đồng thời điều chỉnh hợp lý cơ cấu các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ, để phát huy tính ưu việt, cơ động và gọn nhẹ của chúng. Quyết không để cho các dự án thầu công trình loại chung, loại nhỏ lọt vào doanh nghiệp nước ngoài. Đây là cơm gạo của người lao động Việt Nam.
3.3.2. Một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện công tác đấu thầu tại công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm
Trên cơ sở tìm hiểu những khó khăn mà công ty gặp phải trong việc áp dụng đấu thầu trong xây lắp, trong bài viết này, em xin đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để công ty tăng cường khả năng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả của công tác đấu thầu:
Thứ nhất, hoàn thiện các kỹ năng xây dựng hồ sơ dự thầu đặc biệt chú trọng phương án chọn giá dự thầu
Tăng cường việc thu thập và nắm vững thông tin liên quan đến dự án và gói thầu.
Đây là khâu quan trọng có tính quyết định đến chất lượng hồ sơ dự thầu. Theo quy định về chế độ đấu thầu trước khi bán hồ sơ đấu thầu dự án, chủ đầu tư phải có thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng khoảng thời gian này thường là rất ngắn để tìm hiểu. Vì vậy, hiểu biết về mọi mặt liên quan đến dự án hoặc gói thầu là rất hạn chế. Trong khi đó việc hiểu kỹ về chủ đầu tư về dự án và thị trường các nhà cung cấp là rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hồ sơ dự thầu, đặc biệt là khi xây dựng phương án chọn giá. Công ty muốn giành được lợi thế trong đấu thầu cần phải xây dựng được hệ thống thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin thị trường hữu hiệu, đảm bảo có được dự báo hoặc thông tin về gói thầu trước khi dự án được thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Bên cạnh đó, công ty nên cố gắng mở các chi nhánh, các văn phòng đại diện tại các khu vực để phục vụ mục đích là tìm kiếm thông tin, tiếp cận với chủ đầu tư. Song để có thể tìm kiếm thông tin, dữ liệu tốt nhất các nhà thầu phải có một chiến lược cụ thể trong đó trước hết phải nắm được quy hoạch của Chính phủ trong các giai đoạn về phát triển của nghành điện, giao thông đường bộ… những nghành mà công ty có thể tham gia đấu thầu trong xây lắp. Đây chính là yếu tố cơ bản nhất để công ty xây dựng chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh nói chung và chiến lược cạnh tranh trong đấu thầu nói riêng.
Tiếp đến là nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch của các Bộ, các ngành, các địa phương trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong năm, trong giai đoạn để từ đó nắm bắt đầy đủ các thông tin khác liên quan đến dự án, các gói thầu với những dữ liệu cụ thể như điều kiện tự nhiên, xã hội, cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước, vật tư…làm cơ sở cho việc xây dựng biện pháp thi công và tính toán giá cả khi xây dựng hồ sơ dự thầu.
Một trong những thông tin quan trọng mà công ty cũng cần phải thu thập đó là các thông tin về tình hình biến động của giá cả thị trường để có biện pháp điều chỉnh của giá dự toán, dự thầu kịp thời cũng như việc thông tin cho chủ đầu tư biết để đảm phán thỏa thuận, nhằm tránh rủi ro cho công ty.
Ngoài ra, công ty cũng cấn nghiên cứu các thông tin về các đối thủ cạnh tranh (về nguồn lực, phương pháp tính giá dự toán, điểm mạnh, điểm yếu…). Tìm hiểu các thông tin, đề xuất các biện pháp thu hồi vốn nhanh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Trên cơ sở sự phân tích, đánh giá các hoạt động trên, các để đề ra các chiến lược tranh thầu phù hợp.
Việc thu thập và nắm vững thông tin về dự án, về gói thầu là một trong những yếu tố để công ty đưa ra quyết định có hoặc không tham gia đấu thầu và là cơ sở tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu.
Chú trọng tính hệ thống và chất lượng của phần hành chính - pháp lý và phần hồ sơ kỹ thuật trong lập hồ sơ dự thầu.
Tổ chức lập hồ sơ dự thầu là một công việc hết sức tỷ mỷ và yêu cầu thực hiện trong một thời gian hạn chế. Chất lượng hồ sơ dự thầu là một trong những tiêu chí cơ bản quyết định việc công ty có trúng thầu hay không, do vậy hồ sơ dự thầu phải được lâp hết sức cẩn thận, chặt chẽ, đảm bảo tính hệ thống của hồ sơ dự thầu.
Trong đó:
Phần hồ sơ Hành chính pháp lý:
Đây là phần đầu tiên của hồ sơ dự thầu được chủ đầu tư đánh giá. Công ty phải kê khai những năng lực sẵn có theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu như: Tài liệu chứng minh tư cách pháp nhân nhà thầu; khả năng về tài chính; khả năng về huy động máy móc thiết bị; khả năng về huy động nhân lực, kinh nghiệm của nhà thầu. Đây là phần dễ thực hiện nhưng lại là phần dễ bị thiếu xót nhất, do vậy công ty phải lập sẵn hồ sơ về những năng lực cao nhất có thể đáp ứng đê khi tham gia đấu thầu chỉ cần rà soát lại là có thể đưa vào hồ sơ nhằm giảm bớt thời gian và giảm sai sót. Ngoài ra hình thức hồ sơ cũng rất quan trọng, đây là khâu đầu tiên gây ấn tượng tốt cho tư vấn chấm thầu. mặt khác với một hồ sơ trình bày đẹp, khoa học thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc đánh giá của tư vấn chấm thầu.
Phần hồ sơ kỹ thuật
Căn cứ thông tin thu thập về gói thầu, về các điều kiện tại vùng xây dựng dự án để xây dựng hồ sơ dự thầu phần kỹ thuật phải thực hiện đầy đủ và hoàn chỉnh các khâu sau đây:
+ Lập sơ đồ mặt bằng tổ chức thi công: Với một sơ đồ tổ chức thi công hợp lý về bố trí lán trại, kho bãi tập kết vật liệu, tập kết máy, các hướng, mũi thi công sẽ đảm bảo được tiến độ thi công và có cơ hội để giảm giá thành.
+ Phương án sử dụng máy móc thiết bị: Đây là khâu ảnh hưởng đến chất lượng và giá thành công trình. Ngoài việc phải đưa các máy móc thiết bị vào sản xuất theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, nhà thầu còn có thể phải tính toán bổ sung thêm các máy móc thiết bị khác. Với các tính năng của các máy khác nhau sẽ dẫn đến giá thành sản phẩm khác nhau và tiến độ thi công khác nhau. Do vậy, phải thi công những tổ hợp máy đồng bộ về công suất, đảm bảo hoạt động tốt để tận dụng được hết công suất máy và đảm bảo kế hoạch sản xuất.
+ Vật tư vật liệu, nhân công: Là nhân tố có tính quyết định đến giá thành, chất lượng và tiến độ thi công công trình. Qua tìm hiểu về nguồn vật tư vật liệu và nhân công địa phương để lên phương án cung cấp vật liệu khai thác, sản xuất, gia công tại chỗ tạo điều kiện cho việc đẩy nhanh tiến độ thi công. Xác định chủng loại, các chỉ tiêu về cơ lý vật liệu để thiết lập nguồn cung cấp tin tưởng.
+ Bám sát hồ sơ thiết kế kỹ thuật thi công để vạch ra biện pháp thi công theo trình tự các phần việc và có tính khả thi cao. Cũng qua hồ sơ thiết kế kỹ thuật thi công để có giải pháp kỹ thuật thi công các điểm xung yếu. Biện pháp thi công cũng chịu ảnh hưởng của chủng loại, chất lượng của vật liệu và có sự ảnh hưởng tới giá thành công trình.
Xác định giá dự thầu trên cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc.
Thứ hai, ban lãnh đạo công ty cần tập trung vào công tác nâng cao năng lực thi công xây lắp
Nắm vững các loại nguồn lực để chủ động khai thác và có sự bổ sung cần thiết.
Để xét thầu, thì yếu tố về năng lực nhân sự, kinh nghiệm của nhà thầu cũng góp phần không nhỏ vào khả năng cạnh tranh để thắng thầu. Công ty cần tăng cường biện pháp nhằm nâng cao trình độ cán bộ chuyên môn. Nguồn nhân lực của công ty hiện tại khá dồi dào, đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên môn có trình độ đại học đang ngày càng được tăng cường. Bên cạnh đó, cũng nổi lên mặt yếu đó là lực lượng cán bộ kỹ thuật chuyên ngành, công nhân kỹ thuật bậc cao tỷ lệ còn thấp (chỉ chiếm 9,2%), hiện công ty chưa có các kỹ sư về an toàn, giám sát chất lượng tách rời khỏi bộ phận giám sát thi công (do phải tăng chi phí tiền lương, mỗi công trình cần 1-2 người tùy theo quy mô). Thực tế hiện trường thường là kỹ sư giám sát thi công, kiêm luôn cả an toàn và chất lượng. Chính vì vậy, chưa đảm bảo tính khách quan tại hiện trường trong việc đảm bảo an toàn chất lượng thi công. Do đó, công ty nên đầu tư cho đào tạo và tuyển dụng thêm cán bộ chuyên môn đủ sức : tư vấn, thiết kế lập biện pháp thi công, nhằm đảm bảo luôn đưa ra biện pháp thi công hợp lý và giảm được giá thành xây lắp.
- Tăng cường đầu tư máy móc, thiết bị công nghệ, tích cực nghiên cứu và áp dụng những công nghệ thi công mới và hiện đại trên thế giới. Đây là một trong các yếu tố quan trọng góp phần vào việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Nếu máy móc thiết bị hiện đại một mặt sẽ đảm bảo được chất lượng công trình, tăng thêm uy tín đối với chủ đầu tư. Mặt khác, nhờ hệ thống máy móc hiện đại, tiến độ thi công sẽ được đẩy nhanh, tiết kiệm được một khoản chi phí rất lớn do giảm được thời gian thi công công trình.
Thứ ba, công ty cần đẩy mạnh các hoạt động tạo và thu hồi vốn đầu tư
Thiếu vốn sản xuất kinh doanh là một bài toán khó giải quyết đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xây dựng như công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm thì nhu cầu về vốn là rất lớn.
Như cách phân tích ở trên, công ty có vốn tương đối ít, trong khi đó hiện nay công ty đang trực tiếp thi công nhiều công trình trên nhiều địa bàn khác nhau nên nhu cầu về vốn lưu động ứng trước cũng như số vốn dùng để bảo lãnh thực hiện hợp đồng… là đáng kể. Mặt khác, có một số công trình công ty đã thực hiện xong và bàn giao nhưng vẫn chưa được chủ đầu tư thanh toán kịp thời nên Công ty còn một số vốn ứ đọng gây khó khăn cho quá trình thực hiện các công trình tiếp theo.
Để đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư, bên cạnh nguồn vốn tự có, công ty phải có một số biện pháp nhằm huy động và thu hồi vốn đầu tư của mình để tăng cường khả năng cạnh tranh khi tham gia dự thầu như:
- Tạo vốn bằng cách mở rộng sản xuất, tăng cường chất lượng công trình để tăng tổng doanh thu, tăng lợi nhuận, từ đó tỷ lệ trích lập quỹ vốn phát triển sản xuất tăng lên.
- Đẩy mạnh khả năng tạo vốn bằng cách thi công rứt điểm từng hạng mục công trình, tránh dây dưa kéo dài dẫn đến tình trạng không quyết toán được, cần rút ngắn thời gian xây dựng đến mức độ tối thiểu. Có như vậy mới tăng nhanh khả năng thu hồi vốn, rút ngắn chu kỳ sản xuất, tăng nhanh vòng quay vốn.
- Tạo và mở rộng tăng cường hơn nữa mối quan hệ với các tổ chức tài chính, Ngân hàng nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức này trong việc vay vốn, bảo lãnh, nhằm khai thác tối đa nguồn vốn tín dụng.
- Duy trì các mối quan hệ với các nhà cung ứng nguyên vật liệu để có được điều kiện thuận lợi cho thanh toán phù hợp với điều kiện thi công, đảm bảo tiến độ cung ứng vật tư đối với tiến độ thi công, tránh tình trạng nguyên vật liệu về chậm sẽ làm tăng thời gian thi công một cách vô ích gây ứ đọng vốn.
Một giải pháp hết sức quan trọng và có hiệu quả lớn đó là công ty nên đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp, chuyển đổi mô hình quản lý từ loại hình công ty TNHH một thành viên sang công ty cổ phần để tham gia thị trường chứng khoán ( TTCK). Bởi đây là kênh huy động vốn có hiệu quả và cũng là xu thế tất yếu của của các doanh nghiệp hiện nay. Qua việc thu hút vốn được nguồn vốn trong và ngoài nước giúp công ty nâng cao được năng lực tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi bán cổ phần qua TTCK, giá cổ phiếu sẽ là thước đo trung thực của xã hội về công ty trên mọi phương diện: tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh, uy tín, thương hiệu, khả năng phát triển… Áp lực của xã hội mà trực tiếp là những người nắm giữ cổ phiếu lên bộ máy điều hành doanh nghiệp sẽ cao hơn nhiều so với việc quản lý khép kín hiện nay.
Tuy nhiên, đối với Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm – một doanh nghiệp xây lắp, một khó khăn lớn hiện nay là khi tham gia niêm yết trên TTCK, các doanh nghiệp phải thường xuyên cập nhật, công bố thông tin kinh tế, báo cáo tài chính cho các nhà đầu tư. Nhưng do đặc thù của hoạt động xây lắp là công việc thường kéo dài theo tính chất, quy mô công trình và bị phụ thuộc vào nhiều nhân tố bên ngoài nên việc quyết toán công trình- hạng mục công trình thường chậm, nên rất khó cập nhật thông tin va công bố thông tin kinh tế - tài chính kịp thời theo quy định. Đối với các doanh nghiệp khác như doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, vật liệu xây dựng…. tính chất tương đối ổn định sẽ có điều kiện thuận lợi hơn khi tham gia TTCK.
Để được tham gia niêm yết trên TTCK, công ty cần phải tăng cường sắp xếp, tổ chức lại bộ máy quản lý, phương thức quản lý, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thông tin kinh tế, tài chính- kế toán, đánh giá đúng đắn tài sản và tiền vốn hiện có; làm lành mạnh tình hình tài chính doanh nghiệp, thực hiện công bố theo quy định các báo cáo tài chính doanh nghiệp đã được kiểm toán … là những công việc hết sức thiết thực để công ty tham gia TTCK nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn để đầu tư phát triển và hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng lớn.
Thứ tư, Công ty cần tăng cường đổi mới chất lượng quản lý, cũng như chất lựong công trình nhằm khẳng định thương hiệu Cavico Việt Nam trên thị trường xây dựng
Trong những năm tới công ty nên tiến hành triển khai xây dựng hệ thống văn phòng điện tử (e- office) vào quản trị mạng nội bộ toàn diện từ quản lý nhân sự, xây dựng kế hoạch, quản lý thiết bị đến mua sắm đấu thầu phụ tùng vật tư. Với hệ thống này sẽ giúp thông tin báo cáo luôn được cập nhật và nhanh chóng giúp cho Ban giám đốc đưa ra những quyết định chính xác, phù hợp.
Tiến hành thu thập các thông tin đến việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2002. Góp phần“ đánh bóng” hơn nữa thương hiệu Cavico Việt Nam trên thị trường xây dựng trong nước cũng như quốc tế.
KẾT LUẬN
Những năm qua ngành xây dựng nước ta đã phát triển rất mạnh và trưởng thành nhanh chóng cả về trình độ, về qui mô, số lượng, chất lượng, chủng loại trong mọi ngành, mọi lĩnh vực. Có thể thấy, ở mọi nơi từ đô thị đến nông thôn, đâu đâu trên đất nước ta cũng có công trường và công trình xây dựng. Đất nước ta trên con đường hội nhập và phát triển thì ngành xây dựng còn phát triển và không ngừng lớn mạnh. Điều đó tất yếu sẽ dẫn tới sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp xây dựng. Để cho sự cạnh tranh đó lành mạnh, minh bạch thì đấu thầu đóng vai trò hết sức quan trọng và là phương thức hiệu quả không chỉ đối với Nhà nước, chủ đầu tư mà còn cả đối với các Nhà thầu.
Tuy mới thực sự được bắt đầu áp dụng ở nước ta từ năm 1994 nhưng đến nay, qua nhiều bước hoàn thiện, phương thức đấu thầu đã chứng tỏ phù hợp với nền kinh tế thị trường, ngày càng trở thành hoạt động mang tính xã hội rộng rãi. Đây là hoạt động thực sự mang lại hiệu quả kinh tế to lớn, tiết kiệm chi phí đầu tư xây dựng, thúc đẩy sự hoàn thiện của bản thân Nhà thầu về năng lực và tổ chức để đảm bảo các yêu cầu về tiến độ thi công và chất lượng các công trình. Tuy nhiên, công tác đấu thầu là lĩnh vực tương đối mới nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những lúng túng, bất cập thậm chí có những sai lầm gây thất thoát tài lực của đất nước, đòi hỏi Nhà nước phải tập trung sự nghiên cứu, cập nhật, đổi mới phương thức phù hợp trong quản lý và điều hành công tác đấu thầu nói chung.
Sau thời gian thực tập tại phòng Kế hoạch - Kỹ thuật của công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm, em đã được tiếp xúc với môi trường làm việc thực tế và chuyên nghiệp về hoạt động tham gia đấu thầu trong xây lắp. Cùng với việc lựa chọn đề tài “Qui chế pháp lý chung về đấu thầu trong xây lắp và thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm” cho chuyên đề tốt nghiệp, đã giúp em phần nào nhận thức được tầm quan trọng của công tác đầu thầu đối với nền kinh tế nói chung và trong các doanh nghiệp xây dựng nói riêng. Đây thực sự là những kiến thức quý báu bổ sung vào những kiến thức em đã được học tại trường.
Trên cơ sở tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chuyên đề đã phần nào đã trình bày một cách có hệ thống và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về đấu thầu và đấu thầu trong xây lắp dựa trên các qui định của Nhà nước; đi sâu tìm hiều thực trạng công tác đấu thầu của nước ta trong những năm qua. Mặt khác, chuyên đề cũng đã giới thiệu được những nét khái quát về công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm, đồng thời phân tích và đánh giá thực trạng công tác đấu thầu trong xây lắp tại công ty. Trên cơ sở đó, rút ra một số mặt được, chưa được và đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước nhằm góp phần hoàn thiện qui chế pháp lý về đấu thầu, phần nào nâng cao vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng. Hơn nữa, em mong rằng một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của công ty mà em đã trình bày sẽ hỗ trợ được một chút gì đó dù nhỏ nhoi về mặt ý tưởng cho những kế hoạch phát triển của công ty trong tương lai.
Em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này xuất phát từ tinh thần cố gắng tìm tòi, học hỏi những điều mới lạ, bổ ích từ thực tiễn, để hoàn thiện hơn vốn kiến thức được trau dồi từ ghế nhà trường. Do kiến thức có hạn, nên mặc dù đã rất cố gắng để hoàn thành tốt nhất chuyên đề thực tập này, nhưng không thể tránh được một số thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ, góp ý từ các thầy cô cùng các bạn và các chuyên viên phòng Kế hoạch – Kỹ thuật để chuyên đề hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
NhËn xÐt cña ®¬n vÞ thùc tËp 93
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hệ thống các văn bản pháp quy
1. Bộ Luật Dân sự 2005- nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. nxb . chính trị quốc gia Hà Nội -2005.
2. Luật xây dựng được thông qua tại kỳ họp thứ 4 Quốc Hội khoá IX ngày 26-11-2003.
3. Luật đấu thầu xây dựng được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29-11- 2005.
4. Nghị định số 52/1999/ NĐ- CP ngày 8/7/1999 của Chính Phủ về ban hành quy chế quản lý đầu tư xây dựng (đã hết hiệu lực).
5. Nghị định số 43/CP ngày 5/7/1996 của Chính Phủ về quy chế đấu thầu (đã hết hiệu lực).
6. Nghị định số 88/1999/ NĐ- CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về ban hành Quy chế đấu thầu (đã hết hiệu lực).
7. Nghị định số 14/2000/ NĐ- CP ngày 5/5/2000 của Chính Phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định số 88/1999/ NĐ- CP ngày 1/9/1999 (đã hết hiệu lực).
8. Nghị định số 66/2003/ NĐ-CP ngày12/6/2003 của Chính phủ về sửa đổi Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ- CP ngày 1/9/1999 và Nghị định số 14/2000/ NĐ- CP ngày 5/5/2000 (đã hết hiệu lực).
9. Nghị định số 16/2005/NĐ- CP ngày 07-02-2005 qui định quy chế quản lý đầu tư xây dựng.
10. Nghị định số 112/2006/NĐ- CP ngày 29-9-2006 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/ NĐ- CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.
11. Nghị định số 111/2006/NĐ- CP ngày 29-9-2006 hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng .
12. Nghị định số 53/2007/NĐ-CP ngày 04-4-2007 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
Các tài liệu tham khảo khác
1. Tài liệu hướng dẫn “Đấu thầu quốc tế mua thiết bị vật tư và xây dựng công trình” theo thể thức của Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn (FIDIC), Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển liên Mỹ (IDB).
2. Tạp chí Xây dựng
Số 7/2001: Qui chế đấu thầu- Những vấn đề bức xúc- Trần Trịnh Tường.
Số1/2003: Qui định các điều kiện năng lực trong hoạt động xây dựng là những đòi hỏi tất yếu của quá trình hội nhập- Hoàng Thọ Vinh.
Số 4/2004: Một số giải pháp nâng cao chất lượng quản lý thực hiện dự án xây dựng của Nhà thầu xây dựng- Nguyễn Minh Đức.
3. Tạp chí Nhà thầu và thị trường xây dựng- số 3-2002:
- “Ăn” một công trình như thế nào?- Minh Thắng.
- Pháp lệnh giá và vấn đề phá giá trong đấu thầu xây dựng- KS. Vũ Gia Quỳnh.
4. Tạp Chí Kiểm toán
Số 4/ 2006: Một số sai xót trong công tác đấu thầu trong xây lắp qua kết quả kiểm toán năm 2005.- Ths. Lê Văn Bền.
Số 12/2006: Qua thực tiễn kiểm toán – Nhìn lại công tác đấu thầu của các dự án đầu tư.- Nguyễn Mạnh Hoàng.
5. : Niên giám thống kê năm 2005
6. Quy hoạch V hiệu chỉnh, Tổng công ty điện lực Việt Nam, năm 2005
7. Một số trang Web
Webstie http:// www.nhandan.com.vn/tin bai/ ngày 26-12-2005: Luật đấu thầu: đề cao tính công khai, minh bạch.
Website ngày 26/2/2003: Các nhà thầu ngoại bán tên, nhượng thầu.
Website http:// www.vibonline.com.vn ngày 20-5-2006 : Đấu thầu với “quân xanh, quân đỏ” .
8. Các tài liệu khác của công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. CP
Chính Phủ
2. NĐ
Nghị định
3.PLĐT
Pháp lệnh đấu thầu
4.QCĐT
Qui chế đấu thầu
5. UBTVQH
Ủy ban thường vụ Quốc Hội
6. TW
Trung ương
7. Công ty
Công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm
8. TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
Lời cảm ơn!
Từ đáy lòng em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới:
- Các thầy cô trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân đã tận tình truyền đạt kiến thức nền tảng cơ sở, kiến thức chuyên sâu về pháp luật kinh doanh và cả những kinh nghiệm sống quý báu thực sự hữu ích cho bản thân em trong thời gian thực tập và cả sau này.
- TS. Trần Thị Hòa Bình và Th.S Nguyễn Anh Tú đã hết lòng hỗ trợ giúp đỡ em kể từ khi chọn đề tài, cách thức tiếp cận thực tiễn tại doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất đến khi hoàn thành báo cáo chuyên ngành này.
- Ban lãnh đạo công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm đã tạo cơ hội cho em được thực tập tại phòng Kế hoạch- Kỹ thuật. Tại đây các anh chị trong phòng đã nhiệt tình hướng dẫn, giải thích và cung cấp các thông tin, số liệu liên quan đến đề tài, giúp em hoàn thành đề tài đúng nội dung và thời gian qui định.
Xin kính chúc quý thầy, cô, các cô chú, anh chị tại công ty dồi dào sức khỏe, thành công trong công việc, chúc quý công ty kinh doanh ngày càng đạt hiệu quả cao.
Sinh viên
Đào Thị Mai
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
1. BẢNG
Bảng 2.1: Bảng vốn trong công ty
Bảng 2.2: Cơ cấu lao động
Bảng2.3 : Kết quả kinh doanh của công ty
Bảng2.4: Bản xác nhận nộp ngân sách Nhà nước
Bảng 2.5: Các Hợp đồng xây lắp - Công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm
Bảng3.1: Kết quả đấu thầu qua một số năm gần đây
Bảng 3.2: Sản lượng điện của Việt Nam giai đoạn 2000- 2004
Bảng 3.3: Nhu cầu điện năng giai đoạn 2005-2020
2. SƠ ĐỒ
Sơ đồ1.1: Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm
Sơ đồ 2.2: Qui trình sản xuất sản phẩm của công ty
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32011.doc