Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, khảo nghiệm tổng kết thực tiễn và các phương pháp khác; qua các nội dung đã trình bày, bày viết cơ bản đã hoàn thành các nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Khái quát quá trình ra đời và phát triển của NHTM trên thế giới và ở Việt Nam, khái quát các chức năng hoạt động chủ yếu mà các NHTM trên thế giới đã và đang thực hiện.
2. Trình bày, diễn giải quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng của các NHTMVN.
96 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm tài sản và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hánh Ngân hàng công thương Đống đa cho vay. Có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Nếu được kiểm tra kỹ rồi mới quyết định cho vay sẽ có rất nhiều ưu điểm, đó là : Có khả năng thu hồi vốn cao do căn cứ trên phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, căn cứ vào tính khả thi của dự án trước khi quyết định cho vay. Hơn nữa Ngân hàng Đống Đa thường giải ngân theo tiến độ của dự án chứ không giải ngân một lần như vậy Ngân hàng luôn kiểm soát và theo dõi sát sao dự án đầu tư. Trong quá trình dự án đang tiến hành nếu phía khách hàng vi phạm các cam kết trong hợp đồng chi nhánh có thể buộc khách hàng thay tài sản bảo đảm hoặc thu hồi nợ ngay. Chĩnh những ưu điểm đó nên cho vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là hình thức cũng rất an toàn và có khả năng thu hồi vốn cao.
Tuy vậy hình thức cho vay này cũng chưa thực hiện được nhiều tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa, nguyên nhân chủ yếu là do hầu hết các khoản vay kiểu này đến là trung dài hạn nên nhièu khi tiềm ẩn những rủi ro mà Ngân hàng chưa biết được, ngoài ra việc theo dõi dự án không phải lúc nào cũng dễ dàng.
ii - thực trạng hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản và những khó khăn trong hoạt động tín dụng Ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng công thương đống đa
1. Thực trạng hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động tín dụng Ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa
Có thể nói ngày nay hầu hết các Ngân hàng thương mại trên thế giới và ở Việt Nam khi tiến hành cho vay luôn yeeu cầu có bảo đảm bằng tài sản, cho vay có bảo đảm bằng tài sản ngày nay đã trở thành một nguyên tắc trong hoạt động của Ngân hàng thương mại. Thời gian qua Ngân hàng công thương Đống Đa đã áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản như cầm cố, thế chấp..
Thông qua việc thực hiện các hình thức bảo đảm bằng tài sản này Ngân hàng đã hạn chế tối thiểu rủi ro.
Bảng 3 : Dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản
Năm
Hình thức
bảo đảm
2000
DN: 82.965
2001
DN: 131.205
2002
DN: 226.483
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Thế chấp tài sản
51.342
61,88%
62.849
48%
95.534
42,18%
Cầm cố tài sản
22.248
26,82%
25.530
19,5%
35.630
15,73%
Bảo lãnh tài sản của bên thứ ba
9.375
11,3%
11.981
9,1%
30.485
13,46%
BĐ= T/S h/t từ vốn vay
0
0
30.665
23,4%
64.844
28,63%
Trong những năm qua dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản chiếm từ 44% đến 48% trên tổng dư nợ cho vay. Năm 2002 tổng dư nợ đạt 487.379 triệu đồng trong đó dư nợ có bảo đảm bằng tài sản chiếm 46,5%.
So với năm 2000, năm 2001 Ngân hàng đã thực hiện cho vay có bảo đảm bằng tài sản nhiều hơn. Năm 2000 là 82.965 triệu đồng chiếm 44,8% dư nợ cho vay. Đến năm 2001 đạt 115.026 triệu chiếm 48,8% tổng dư nợ.
Hình thức bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay sau khi được chính phủ cho phép áp dụng vào đầu naưm 2001 đã tỏ ra là một hình thức có nhiều ưu điểm, kết quả là trong năm 2000 dư nợ có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là 30.665 triệu, chiếm 23,4% tổng dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản, đến năm 2001 tăng lên 28,63%/
Sở dĩ Ngân hàng công thương Đống Đa đạt được kết quả trên là do nhận thức được tầm quan trong của tài sản bảo đảm khi có rủi ro xảy ra, vấn đề thẩm định khả năng đảm bảo của tài sản bảo đảm luôn được Ngân hàng coi trọng và coi như một điều kiênj gần như bắt buộc đối với mỗi khoản vay đặc biệt là đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Việc thực hiện qui trình định giá tài sản bảo đảm được tiến hành đúng theo qui trình của Nhà nước và Ngân hàng công thương Việt Nam. Công tác kiểm tra đánh giá thực trạng tài sản bảo đảm của mỗi khoản vay được cán bộ tín dụng thực hiện một cách thuường xuyên nhằm tránh các rủi ro đối với tài sản nếu phải xử lý để thu hồi nợ.
Một vấn đề nữa đáng quan tâm là chất lượng tín dụng của các khoản vay được bảo đảm bằng tài sản. Điều này được thể hiện thông qua số liệu nợ quá hạn. Tại Ngân hàng công thương Đống Đa, nợ quá hạn của các khoản vay có bảo đảm bằng tài sản, phản ánh trung thực hoạt động tín dụng Ngân hàng. Tài sản bảo đảm có tác dụng làm cho khách hàng có trách nhiệm hơn với khoản vay, không làm phát sinh các khoản nợ quá hạn. Chính vì vậy mà nợ quá hạn ngày một giảm dần qua các năm. Cụ thể 2000 là 7.123 triệu, năm 2001 là 4.246 triệu và 2002 chỉ còn là 3.409 triệu.
Nợ khó đòi có giảm song vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nợ quá hạn. Điều này cho thấy việc xử lý tài sản bảo đảm đạt được kết quả tốt song so với tỷ trong tài sản phải xử lý là tương đối thấp.
Trong các hình thức bảo đảm tiền vay, Ngân hàng công thương Đống Đa nói riêng và Ngân hàng thương mại nói chung thực hiện nhiều nhất là hình thức thế chấp tài sản. Có thể thấy bảo đảm tiền vay bằng hình thức thế chấp tài sản luôn chiếm tỷ trọng cao, phản ánh đúng thực trạng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Thế chấp và cầm cố là những hình thức được thực hiện sớm nhất, nó phần nào đáp ứng được yêu cầu của cả bên cho vay và bên đi vay và do đó trở nên phổ biến. Tại Ngân hàng công thương Đống Đa hình thức thế chấp tài sản để vay vốn Ngân hàng được thực hiện cho rất nhiều khoản vay. Cả thế chấp và cầm cố tài sản đều có những thuận lợi và khó khăn.
Đối với thế chấp tài sản thì những tài sản được dùng thể thế chấp tại Ngân hàng công thương Đống Đa chủ yếu là đất đai, nhà ở, cửa hàng... là những tài sản có giá trị lớn. Vì thường là bất động sản nênphần nào tỏ ra là hình thức "an toàn", nếu như khách hàng có đủ giấy tờ thủ tục hợp pháp về tài sản đó và cũng chính là vì những tài sản có giá trị lớn nên khi xem xét tài sản, Ngân hàng chú ý đến cả khả năng phát mại của tài sản. Như vậy phạm vi bảo đảm của hình thức thế chấp rộng rãi hơn cầm cố.
Trong năm 2001, 2002 hình thức cầm cố tài sản ít được thực hiện hơn so với 2000. Những tài sản đem cầm cố chủ yếu là phương tiện giao thông, máy móc, nguyên vật liệu, các chứng từ có giá... thông thường Ngân hàng công thương Đống Đa chỉ quản lý trực tiếp những tài sản phù hợp với điều kiện kinh doanh của Ngân hàng như vàng bạc, kim khí quý, đá quý, các chứng từ có giá, cổ phiếu... đối với những tài sản mà Ngân hàng không giữ trong kho của mình, Ngân hàng cũng chỉ cầm giấy tờ thủ tục chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu hợp pháp của tài sản, còn bên khách hàng vay vẫn được dùng tài sản . Do đó rất dễ xảy ra việc Ngân hàng không đủ điều kiện quản lý tài sản thuộc quyền hạn của mình. Nếu tài sản cầm cố là phương tiện giao thông như ô tô, xe máy, Ngân hàng hầu như không thể lưu khoquản lý mà phải giao cho khách hàng vay sử dụng. Ngân hàng chỉ giữ giấy tờ đăng ký xe, bảo hiểm... của khách hàng vay. Như vậy, Ngân hàng khó có thể quản lý được tài sản bảo đảm dẫn đến có thể bị mất, bị lừa.
Đối với hình thức bảo đảm bằng bảo lãnh tài sản của bên thứ ba - bên bảo lãnh thực chất cũng thực hiện các biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba. Hình thức này không được áp dụng nhiều ở Ngân hàng công thương Đống Đa vì lý do chủ yếu là bên thứ ba - bên bảo lãnh chưa ý thức được hết nghĩa vụ bảo lãnh của mình đứng ra thế chấp hoặc cầm cố tài sản tại Ngân hàng. Thực tế là người đi vay lại không đủ tin cậy đối với bên bảo lãnh và người bảo lãnh cũng không sẵn sangf dùng tài sản của mình làm bảo đảm cho người khác vay vốn. Như vậy, cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba ít được thực hiện.
Bảo đảm bằng tài sản được hình thành từ vốn vay là một hình thức bảo đảm tiền vay mới, hình thức này có rất nhiều ưu diểm, như đã trình bày ở các phần trước, nhưng thực tế việc thực hiện còn nhiều hạn chế. Theo qui định những tài sản bảo đảm bằng hình thức này phải là những tài sản hình thành từ vốn vay trung, dài hạn. Những tài sản là hàng hoá tiêu dùng, hàng hoá thông thường không áp dụng. Mặt khác, khi vay vốn đầu tư trung và dài hạn,Ngân hàng chỉ đảm bảo khoang 60% đến 70% số còn lại là phần vốn đối ứng mà khách hàng phải tự thu xếp. Trong quá trình thực hiện dự án nếu không thành công khách hàng vay vốn cũng sẽ gặp rủi ro với số vốn cuả mình.
Tuy vậy để đẩm bảo an toàn cho số vốn cho vay Ngân hàng công thương Đống Đa luôn đặt ra các tiêu chuẩn, điều kiện chặt chẽ đối với khoản vay này mục đích không để bị lừa hoặc để đảm bảo khoản cho vay có khả năng thu hồi nợ cao
2. Những khó khăn vướng mắc trong hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa
Khó khăn đầu tiên mà Ngân hàng công thương Đống Đa nói riêng và các Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế nói chung có thể kể đến chính là sự chồng chéo, thiếu đồng bộ thậm chí mâu thuẫn lẫn nhau giữa các văn bản pháp luật có liên quan, chẳng hạn :
Điều 11, Nghị định 178 qui định "trong mọi trường hợp một tài sản chỉ được dùng để bảo đảm nghĩa vụ tại một tổ chức tín dụng. Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể được dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trả nợ nhưng cũng chỉ tại một tổ chức tín dụng". Trong khi đó Điều 22, mục 3, thông tư 06 lại qui định "không được sử dụng tài sản thế chấp để bảo đảm cho những nghĩa vụ khác nhau trừ trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu", có nghĩa là : nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể thế chấp được thực hiện nhiều nghĩa vụ. Trong trường hợp cho vay vốn thì tài sản thế chấp không chỉ bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại một mà có thể hai hay ba tổ chức tín dụng. Nếu thực hiện theo Nghị định 178 thì lại càng bế tắc.
Điều 7, Nghị định 165/1999/NĐ - CP quy định các tài sản cầm cố bao gồm nhiều loại tài sản quyền về tài sản. Đây là lần đầu tiên pháp luật quy định cụ thể về các quyền tài sản được cầm cố. Tuy nhiên, việc quy định tài sản cầm cố bao gồm cả tiền Việt Nam và ngoại tệ thì lại có phần không hợp lý. Đành rằng, tiền cũng là một loại tài sản nhưng là tài sản rất đặc biệt. Vì vậy BLD sự đã có sự phân biệt cụ thể về 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bên cạnh một số biện pháp được qui định rõ là dùng tiền hoặc kim khí quý, đá quý thì một số biện pháp khác lại chỉ đề cập đến bảo đảm tài sản một cách chung chung. Cụ thể, khoản 1, Điều 329 quy định về cầm cố như sau :"cầm cố tài sản là việc bên có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên có quyền để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự...".
Còn khoản 1, Điều 363 quy định về đặt cọc thì viết :"đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đã quý hoặc các vật có giá trị khác gọi là tài sản đặt cọc, trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự". Ngay trong NĐ 178/1999/NĐCHI PHí cũng phân biệt rõ ràng giữa tiền và tài sản, như khoản 3, Điều 33 có quy định :"tổ chức tín dụng được trực tiếp nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ bên thứ ba...". Điểm d, khoản 2, Điều 34 cũng quy định :"trong trường hợp bên thứ ba có nghĩa vụ trả tiền hoặc tài sản cho khách hàng vay, bên bảo lãnh thì tổ chức tín dụng được trực tiếp nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ bên thứ 3". Như vậy, qui định dùng tiền Việt Nam và ngoại tệ để đặt cọc trong NĐ 165 là một sự vận dụng mở rộng luật để bảo đảm cho các nghĩa vụ dân sự nói chung. Tuy nhiên, nếu dùng tiền để làm vật bảo đảm cho các hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế thì phải gọi theo đúng quy định của Bộ luật dân sự là biện pháp đặt cọc, chứ không thể gọi là cầm cố. Nó cũng tương tự như việc không thể tuỳ tiện gọi các hợp đồng cầm cố là hợp đồng thế chấp được. Thật đáng tiếc là NĐ này lại không đề cập gì đến đặt cọc.
Điều 12, NĐ 178 cũng qui định tương tự như điều 229, Bộ luật dân sự quy định, là về nguyên tắc, bên nhận cầm cố phải giữ tài sản còn bên cầm cố chỉ có thể được giữ tài sản trong trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu. Nhưng điều 15, NĐ 165 lại cho phép bên cầm cố có thể được giữ cả các tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu (tuy nhiên phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm).
Thứ hai, là sự thiếu kịp thời trong việc ban hành các văn bản pháp lý quy định cụ thể cũng như các văn banr hướng dẫn chi tiết.
Theo Điều 12, NĐ 178 về việc giữ tài sản và giấy tờ của tài sản cầm cố, thế chấp có quy định :"Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu, tổ chức tín dụng giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản". Thực tế hiện nay các tổ chức tín dụng chưa nắm rõ danh mục các tài sản theo quy định phải đăng ký quyền sở hữu và các cơ quan chức năng cấp chứng nhận quyền sở hữu đó.
Theo quy định tại Điều 72, Mục 2 của thông tư 06 về thủ tục thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng thì khi doanh nghiệp Nhà nước có thế chấp, cầm cố tài sản, tài sản là toàn bộ dây truyền công nghệ chính theo quy định bộ cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật thì phải có văn bản đồng ý của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đó. Vậy toàn bộ dây truyền chính theo quy định là những la\oaị dây truyền nào ? cơ quan quản lý kỹ thuật là cơ quan nào ? Đây là những vấn đề mà các tổ chức tín dụng hiện nay rất băn khoăn lúng túng và mong muốn có những văn bản quy định cụ thể hơn để thực hiện.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi thế chấp, cầm cố tài sản, ngoài điều kiện khách hàng vay phải có giấy chứng minh quyền sở hữu, quỳen sử dụng tài sản thế chấp, cầm cố và được phép thế chấp, cầm cố vay vốn Ngân hàng thì tài sản thế chấp, cầm cố còn phải đáp ứng được hai điều kiện : được phép giao dịch và không có tranh chấp. Đối với điều kiện " được phép giao dịch" thì Ngân hàng có thể căn cứ vào văn bản của pháp luật để xác định loại tài sản nào được phép giao dịch và được thế chấp, cầm cố. Còn đối với điều kiện " tài sản không có tranh chấp" thì hiện nay Ngân hàng không biết xác minh như thế nào. Nếu chỉ căn vào văn bản cam kết của khách hàng vay về tài sản không có tranh chấp tại thời điểm ký hợp đồng bảo đảm và chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết của mình để cho khách hàng vay vốn, thì Ngân hàng có thể trở thành bên có liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố trong trường hợp khách hàng vay không trả được nợ và bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong một vụ án nào đó. Bởi vì nhiều trường hợp do đang thiếu vốn sản xuất kinh doanh, nên một số khách hàng vay đã bất chấp mọi rủi ro và thủ đoạn để vay được vốn của Ngân hàng. Khi đó nội dung cam kết về tài sản không có tranh chấp không còn khó khăn đối với họ. Thậm chí tài sản đang có tranh chấp nhưng khách hàng vay vẫn cam kết là không có tranh chấp. Thực tế khi thẩm tra xác minh nội dung cam kết của khách hàng vay. Ngân hàng đã đề nghị chính quyền địa phương nơi quản lý con người và tài sản của người đi vay xác nhận về tài sản không có tranh chấp, nhưng không một chính quyền địa phương nào xác nhận vấn đề này vì họ cho rằng cơ quan cấp trên chưa có văn bản hướng dẫn. Chính vì thế mà khi Ngân hàng đã cấp vốn vay cho khách hàng vay trên cơ sở có bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố đang tranh chấp, thì Ngân hàng không những khó xác minh được nội dung cam kết của khách hàng mà nhiều khi còn phải tham gia tố tungj vào những vụ án không đáng có.
NĐ 08/2000/NĐCHI PHí ngày 19/1/2000 về đăng ký giao dịch đảm bảo đã ra đời được hơn hai năm và quyết định 1627/2001/QĐ - NHNN 1 ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành vào đầu năm 2002 nhưng do chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết nên khi áp dụng Ngân hàng công thương Đống Đa không tránh khỏi lúng túng.
Thứ ba, là những vướng mắc về tài sản bảo đảm.
Tài sản dùng làm bảo đảm tiền vay cũng là một vấn đề làm cho tỉ lệ cho vay có bảo đảm bằng tài sản thấp. Những tài sản được dùng làm bảo đảm có thể là động sản hoặc bất động sản. Từ trước đến nay môi trường pháp lý của nước ta chưa hoàn chỉnh, thủ tục hành chính rườm rà, luật pháp chưa thực sự nhất quán và đầy đủ, vì vậy người dân chưa đủ ý thức pháp luật. Do đó, khi những tài sản được đem cầm cố thế chấp để vay Ngân hàng, nó thường không đủ giấy tờ hợp pháp để được Ngân hàng chấp nhận. Về phía Ngân hàng, họ cũng không thế mạo hiểm với số vốn của mình, vì liên quan đến vốn huy động và qua đó ảnh hưởng đến khách hàng gửi tiền. Ngân hàng đã từ chối khoản cho vay và tìm đến những khách hàng có đủ điều kiện.
Thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường đáp ứng được yêu cầu của Ngân hàng về các tài sản dùng làm bảo đảm tiền vay, và loại hình doanh nghiệp này cũng tỏ ra là uy tín với Ngân hàng vì vốn hoạt động là tài sản sở hữu của bản thân doanh nghiệp, nếu không làm ăn có lãi, công việc sản xuất kinh doanh sẽ đổ bể, doanh nghiệp bị phá sản và họ sẽ trắng tay. Do đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường tỏ ra nỗ lực rất cao để được vay vốn Ngân hàng. Ngân hàng công thương Đống Đa cũng như các Ngân hàng thương mại đang hoạt động hiện nay gặp vướng mắc rất nhiều ở khâu chứng thực tài sản khách hàng dùng làm bảo đảm vì khi lập hợp đồng bảo đảm tiền vay, tài sản dùng làm bảo đảm phải được xác nhận bởi các cơ quan chức năng như đối với đất đai thì có sở địa chính nhà đất tỉnh, thành, địa phương hoặc UBND sở tại, xe cộ thì phải có xác nhận của cơ quan Công an... tuy được xác nhận ở nhiều nơi, nhiều cơ quan, kể cả công chứng Nhà nước, nhưng khi xảy ra rủi ro tín dụng Ngân hàng cũng khó mà thu hồi tài sản bảo đảm từ bên vay vì riêng Ngân hàng không thể cưỡng chế bên vay phải thực hiện những điều đã cam kết với Ngân hàng.
Một nguyên nhân nữa cho thấy hình thức thế chấp tài sản được thực hiện phổ biến ở Ngân hàng công thương Đống đó là do khách hàng của Ngân hàng công thương Đống Đa có đến 80% là doanh nghiệp Nhà nước. Để vay vốn Ngân hàng, những doanh nghiệp này dùng những tài sản phần lớn là trụ sở làm việc hoặc máy móc thiết bị, giá trị tài sản hay hàng hoá hình thành từ vốn vay đối với những doanh nghiệp Nhà nước là thế chấp.
* Nguyên nhân của thực trạng trên : tình hình chung của các Ngân hàng thưong mại, đã thực hiện rất nhiều khoản cho vay với hình thức thế chấp nhà ở. Sổ đỏ là một căn cứ pháp lý chứng thực quyền sở hữu, chuyển nhượng nhà ở, đất ở của bên vay. Cán bộ tín dụng cho rằng đây là một hình thức bảo đảm tiền vay ít rủi ro nhất. Tuy nhiên do những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan dẫn đến khả năng phải xử lý tài sản thế chấp khi khách hàng không thanh toán được nợ. Do đó, rất khó khăn trong việc bán, phát mại tài sản. Ngân hàng có thể gặp phải rủi ro tín dụng do thực hiện hình thức bảo đảm này vì giá đất đai, nhà cửa thường xuyên biến động cũng như giấy tờ sở hữu không phải lúc nào cũng có đầy đủ các yếu tố pháp lý.
Tài sản được dùng để thế chấp Ngân hàng công thương Đống Đa có trường hợp được khách hàng thế chấp cả ở những Ngân hàng khác. Ngân hàng không biết đến điều này vì khi làm hồ sơ xin xin bằng cách nào để bên vay vốn có đủ giaáy tờ hợp lệ của tài sản. Đây là một nguyên nhân trong những nguyên nhân Ngân hàng không xử lý được tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Ngân hàng công thương Đống Đa đã đối phó với tình hình này bằng cách khi nhận được giấy tờ tài sản thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của Ngân hàng, nếu tài sản thế chấp là đất đai, gửi giấy thông báo đến sở địa chính nhà đất, UBND địa phương nơi có đất đai của Nhà nước. Tuy nhiên đây cũng chỉ là biện pháp có tính "tình thế".
Ngân hàng công thương Đống Đa cũng như mọi Ngân hàng khác đều mong muốn mỗi khoản vay ra đều được bảo đảm, nhằm hạn chế thiệt hại khi xảy ra rủi tín dụng. Tuy nhiên vì tài sản không có đủ các giấy tờ pháp lý nên Ngân hàng không thể ký kết hợp dồng tín dụng với bên vay. Cacd doanh nghiệp Nhà nước muốn vay vốn Ngân hàng bằng hình thức thế chấp đất đai, trụ sở làm việc, nhưng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc không có quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Nếu tài sản cầm cố là phương tiện giao thông, Ngân hàng hầu như không thể lưu trong kho quản lý, mà phải giao cho khách hàng vay sử dụng. Ngân hàng nắm giữ giấy tờ đăng ký xe, bảo hiểm... của khách hàng vay. Trên thực tế rất dễ xảy ra một trong hai trường hợp sau, thứ nhất khi tham gia giao thông, chủ phương tiện phải có giấy tờ hợp pháp của phương tiện giao thông để cảnh sát giao thông có thẻe kiểm tra, do đó Ngân hàng phải giao lại cho khách hàng vay giấy tờ học có thể đem bán xe ngay lập tức nếu cố ý lừa đảo. Thứ hai, họ có thể báo mất giấy tờ cho cơ quan Công an và sau đó một thời gian họ được cấp lại giấy tờ sở hữu và cũng có thể đem bán. Như vậy, trong cả hai trường hợp mặc dù Ngân hàng có quyền sở hữu, định đoạt phương tiện giao thông nhưng đều không quản lý được, để đến mất mát và bị lừa đảo.
Việc định giá tài sản cũng là vấn đề đáng quan tâm. Thông thường việc định giá được căn cứ vào giá cả thị trường, giá hoá đơn.. thì nhưng khách hàng vay thương khai khống giá lên rất nhiều trong khi đó sự hiểu biết các loại tài sản của cán bộ tín dụng tại Ngân hàng công thương Đống Đa còn hạn chế dẫn đến việc định giá tài sản bảo đảm không đúng với giá trị thực.
Thứ tư, những vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm : mặc dù việc phát mại tài sản để thu hồi nợ của Ngân hàng công thương Đống Đa luôn được áp dụng như một biện pháp hữu hiêụ để thu hồi nợ khó đòi. Tuy nhiên công tác phát mại tài sản trong thời gian qua cho thấy rõ các hạn chế vướng mắc từ các phía khác nhau khiến cho việc thu hồi nợ đạt tốc độ chậm và không hiệu quả. Đây là những vướng mắc không chỉ của Ngân hàng công thương Đống Đa mà còn là của các Ngân hàng thương mại khác. Cá vướng mắc đó là :
+ Những khó khăn do bên thế chấp gâp trở ngại cho việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ:
Người vay tìm đủ mọi cách để lẩn tránh việc phát mại tài sản, bỏ trốn trước khi toà lấy lời khai ban đầu, lấy lời khai toà án nghiên cứu phải đình hoãn xử cho đến khi Công an bắt được con nợ, dựa vào quyền có nhà ở do luật qui định bên thế chấp chây ỳ gây khó khăn cho Ngân hàng đòi phải có chỗ ở khác, có tính sử dụng quyền kháng cáo đề trì hoãn việc trả nợ, xin kiến nghị giám đốc thảm để toà buộc phải xử lý nhiều lần.
Một số khách hàng vay vốn có tài sản tài chính là nhà, đất thì giấy tờ chưa hợp lệ, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc việc xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng không đúng thẩm quyền. Nhà và đất thường từ thời ông cha để lại, nhiều người chưa muốn làm các giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà vì khi xây dựng trước đây thiếu giấy tờ cấp phép, mặt khác thuế sang tên trước bạ cao tạo tâm lý không muốn hoàn chỉnh hồ sơ chính chủ. Vì vậy tạo ra việc xử lý tài sản thế chấp gặp khó khăn khi nợ khó đòi phát sinh.
Bên vay thực hiện hành vi lừa đảo, một tài sản thế chấp đem thế chấp nhiều nơi để vay vốn hoặc tài sản đem thế chấp vẫn có những thủ đoạn tẩu tans, bán tài sản khiến cho Ngân hàng phải giành chịu hậu quả.
Bên vay phá sản, mất khả năng thanh toán phải trốn nợ, nên không nhận lại nợ vay do đó không thể làm thủ tục xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ được.
+ Việc bán tài sản thế chấp, cầm cố không thuận lợi.
Nguyên nhân do không phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người mua tài sản cũ kỹ, lạc hậu, tâm lý người mua không muốn tài sản của người "vỡ nợ", nếu bán qua đấu giá thì chi phí quá cao. Thị trường bất động sản ở Việt Nam còn phôi thai, còn nhiều vướng mắc vè pháp lý, hành chính nên quá trình mua bán chuyển nhượng còn nhiều ách tắc. Dây truyền máy móc thiết bị chuyên dùng không đồng bộ hoặc áp dụng công nghệ mới khiến cho việc bán tài sản thế chấp ra thị trường gặp nhiều khó khăn.
+ Quyền của Ngân hàng nhận tài sản thế chấp, cầm cố trong việc xử lý chưa được đề cao: chính vì Ngân hàng có quyền này cho nên khi cần xử lý tài sản, bên thế chấp, cầm cố không bàn giao tài sản cho Ngân hàng, thậm chí còn trây ỳ nhưng chưa có quy định nào được áp dụng để xử lý. Một số nơi chính quyền địa phương chưa thật sự ủng hộ vụ xử lý tài sản do nhận thức chưa đúng về tính hợp pháp của hợp đồng kinh tế (hoặc dân sự) mà các bên đã thoả thuận ký kết và nhận thức chưa đúng quy định của Hiến pháp 1992 về quyền có nơi ở của công dân nên yêu cầu Ngân hàng phải tìm chỗ ở cho bên thế chấp nếu xử lý tài sản để thu hồi nợ. Điều này khiến cho việc phát mại tài sản để thu hồi nợ của hn gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi thu được tiền về nhưng sau khi trang trải tất cả các chi phí, số vốn thu hồi lại của Ngân hàng thực tế chẳng còn bao nhiêu. Mặt khác khi bên vay vốn không trả được nợ của Ngân hàng, Ngân hàng muốn phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ thì phải làm đơn kiện ra toà án kinh tế đề nghị giải quyéet và chỉ khi bản án được quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật : phía Ngân hàng mới - cơ quan yêu cầu trung tâm bán đấu giá, tổ chức bán đấu giá tài sản.
Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc xử lý tài sản thế chấp còn thiếu chặt chẽ, mỗi cấp nhận thức một khác, thực hiện theo cách riêng của mình. Nhiều nơi cơ quan thi hành án giữ quyền quyết định giá tài sản phát mại, gây nên trở ngại cho việc phát mại tài sản.
Ngoài ra, việc quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế 6 tháng đối với hoạt động Ngân hàng là quá ngắn vì các khoản nợ vay của khách hàng khi đó đáo hạn mà chưa trả cho Ngân hàng, Ngân hàng thường phải thương lượng với khoản thời gian dài. Nếu khách hàng biết được quy trình này cố tình không xác nhận nợ trong thời hạn 6 tháng thì Ngân hàng không thẻe khởi kiện do hết thời hiệu khởi kiện, nên quyền lợi chính đáng của Ngân hàng không được bảo vệ.
+ Thủ tục công chứng tài sản thế chấp có một khâu chưa được thuận tiện :
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc thế chấp tài sản phải ký kết bằng văn bản theo hình thức hợp đồng thế chấp chứng thực của cơ quan công chứng Nhà nước, hoặc UBND có thẩm quyền. Hiện nay việc thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại thông tư liên bộ số 01/1996/TTLB - NHNN - BTC - BTP ngày 03/07/1996. Việc chứng nhận của cơ quan công chứng Nhà nước là xác thực việc ký hợp đồng thế chấp, đấu giá tài sản thế chấp thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Khó khăn ở một số khâu như : lệ phí công chứng chưa phân biệt theo các biện pháp cho vay (ngắn, trung và dài hạn) của Ngân hàng, trình độ của người công chứng còn bất cập. Bên cạnh đó, sự phân công giữa phòng công chứng với sở nhà đất, sở địa chính về theo dõi bất động sản chưa chặt chẽ, dẫn đến có trường hợp cùng một tài sản công chứng nhiều bản tạo kẽ hở cho người vay lợi dụng Ngân hàng. Do đó gây cho Ngân hàng nhiều phức tạp.
Do cơ chế thế chấp, cầm cố vay vốn Ngân hàng chưa nâng cao được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho vay của các tổ chức tín dụng trong việc cho vay và quyết định việc cần thiết có bảo đảm tiền vay hay không.
Khi qui định bắt buộc khách hàng phải thế chấp, cầm cố tài sản là một điều kiện cho vay đã làm cho cán bộ tín dụng coi đây là điều kiện -- quyết khi xem xets cho vay, thường chú ý nhiều hơn để đảm bảo đúng thủ tục quy trình tín dụng mà không chú ý đến việc xem xét hiệu quả của dự án vay, xem khoản vay có thu hồi được hay không. Điều này dẫn đến tình trạng nhận bất cứ mọi tài sản mà người cho vay có thể đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng, làm cho bản chất tín dụng tự hiểu lệch theo tính chất hoạt động cầm cố nhiều hơn là hoạt động tín dụng. Về bề ngoài, các khoản vay này đều có đảm bảo chấp hành đúng qui định của pháp luật nhưng lại là những khoản vay không hiệu quả khó thu hồi nợ, và khó xử lý tài sản để thu nợ. Mặt khác, tài sản nhận bảo đảm không được lựa chọn một cách kỹ càng về giá trị, khả năng mua bán, chuyển nhượng nên khi phát mại tài sản để thu hồi nợ gặp rất nhiều khó khăn do tài sản cũ kỹ lạc hậu, giá trị thấp, không đủ giấy tờ hợp pháp, đất mua đi bán lại không có giấy chứng nhận quyền sử dụng, không có tài sản gắn liền làm cho tình trạng ứ đọng tài sản thế chấp, cầm cố không xử lý được càng gia tăng. Một số khoản vay đều có tài sản thế chấp, cầm cố như quy định nhưng vì các tài sản đem thế chấp cầm cố phần lớn được hình thành từ vốn vay Ngân hàng lại mang thế chấp cho Ngân hàng để vay tiếp, nợ chồng lên nợ, sử dụng vốn vay không đúng mục đích và không có hiệu quả nên một khối lượng lớn vốn của Ngân hàng bị chôn vào đất đai, nhà cửa, kho tàng dưới danh nghĩa tài sản thế chấp, cầm cố. Ngược lại, có những khách hàng uy tín trả nợ rất thấp, cho vay rủi ro lớn đáng lý phải có tài sản bảo đảm cho khoản nợ để bảo đảm an toàn hơn thì Nhà nước "cho phép" không phải thế chấp, cầm cố và cũng không qui định trong trường hợp này nếu tổn thất do không có bảo đảm tiền vay thì Nhà nước sẽ xử lý thế nào? Do vậy đã đưa các tổ chức tín dụng rơi vào thế bị động không tự bảo vệ được quyền lợi của mình khi rủi ro xảy ra.
Phần III
một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động tín dụng Ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng công thương đống đa
i - nhận định chung về việc thực hiện cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại chi nhánh Ngân hàng công thương.
Trong những năm trở lại đây nhờ những cố gắng, và đổi mới trong hoạt động tín dụng của toàn thể cán bộ phòng kinh doanh Ngân hàng công thương Đống Đa việc cho vay có bảo đảm băngf tài sản của chi nhánh đã có bước phát triển rõ rệt, từng bước giảm nợ quá hạn, tăng thu nợ, nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh. Để phù hợp với tình hình kinh tế mới của toàn xã hội Ngân hàng công thương Đống Đa đã chủ động áp dụng linh hoạt các hình thức cho vay có bảo đảm nhằm phù hợp với những đổi mới trong nền kinh tế, xã hội.
Những kết quả mà Ngân hàng công thương Đống Đa đạt được trong thời gian qua không phải là nhỏ, sự tăng trưởng và phát triển không chỉ thể hiện trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng mà còn ở tất cả các mặt hoạt động của Ngân hàng. Với lợi thế là nằm tại trung tâm của quận Đống Đa, có hệ thống đường giao thông ổn định, thông thoáng, lại là một đơn vị giàu truyền thống, có quan hệ rộng rãi với nhiều cơ quan chức năng, có uy tín đối với khách hàng nên việc cập nhật thông tin của đơn vị được Ngân hàng công thương Việt Nam đánh giá là tương đối mau chongs và nhạy bén những yếu tố đó là những thế mạnh của chi nhánh để tiếp tục khẳng định mình trên con đường phát triển của Ngân hàng công thương Việt Nam.
Trong vài năm trở lại đây số lượng các doanh nghiệp mới tăng không nhiều phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ sản xuất thủ công, sơ chế hoặc là các doanh nghiệp chuyên về thương mại, trao đổi với thị trường chủ yếu là trong quận Đống Đa, tính cạnh tranh, khả năng cạnh tranh là rất thấp, thua lỗ và thực tế trong những năm gần đây đã có không ít các doanh nghiệp này là khách hàng của Ngân hàng công thương Đống Đa làm ăn không hiệu quả và bị thua lỗ không có khả năng hoàn trả nợ cho Ngân hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ phải tiến hành xử lý tài sản để thu hồi vốn, thế nhưng như đã trình bày ở các phần trước vấn đề xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn hãy còn nhiều khó khăn vướng mắc. Thêm vào đó, các loại tài sản bảo đảm còn hạn chế về chủng loại; tài sản thế chấp chủ yếu là nhà xưởng, nhà ở, khâu này đã phát sinh các vấn đề cần giải quyết cụ thể : giấy tờ sử dụng nhà đất đến nay chưa có sự thống nhất. Hiện nay đang lưu hành nhiều loại giấy phép khác nhau do nhiều cấp có thẩm quyền phê duyệt làm cho đôi khi Ngân hàng ở vị trí lúng túng không biết là nên sử dụng loại giấy tờ nào cho tối ưu. Có một số trường hợp nhà cửa thuộc quyền sử dụng của khách hàng song họ không có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ trong khi đó nhu cầu vay vốn của anh ta là hợp lý, khả thi vậy Ngân hàng nên xử lý thế nào ? Một số trường hợp khác nhà cửa được sửa chữa thay thế do vậy việc đăng ký trước bạ và thực trạng ngôi nhà có sự mâu thuẫn với nhau. Đó là những vấn đề xuyên suốt mà chúng ta cần trao đổi.
Bên cạnh đó hình thức cầm cố tài sản khi Ngân hàng cho khách hàng vay với bảo đảm là tài sản cầm cố nhiều khi cũng gây lungs túng cho Ngân hàng: Trong khi Ngân hàng muốn giữ, được quản lý tài sản cầm cố; thì đối với khách hàng đó lại là tài sản vô cùng quan trọng cho hoạt động kinh doanh của mình.
Ví dụ : Xe máy, ô tô... chúng ta hãy giả sử rằng Ngân hàng chỉ giữ giấy tờ đắng ký sở hữu còn tài sản khách hàng giữ, vậy khi những chiếc xe này vi phạm luật giao thông và cảnh sát giao thông yêu cầu giấy tờ thì sao, giải quyết như thế nào thì ổn thoả nhất cho cả Ngân hàng, khách hàng và cả đối với luật giao thông...
Tóm lại, mặc dù Ngân hàng công thương Đống Đa đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật, mở rộng phạm vi cho vay, nâng cao chất lượng tín dụng nhưng nói chung hoạt động tín dụng về cho vay có bảo đảm bằng tài sản của Ngân hàng công thương Đống Đa hãy còn nhiều tồn tại cần giải quyết, và trao đổi thêm.
ii - một số kiến nghị, giải pháp
Từ những lý luận và thực trạng của tình hình thực hiện cơ chế cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại Ngân hàng công thương Đống Đa thời gian qua em xin đề xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại Ngân hàng công thương Đống Đa.
Các ý kiến dưới đây có thể còn chưa sâu, và tính ứng dụng có thể chưa được tiếp nhận để triển khai ngay nhưng em mong rằng những ý kiến này có thể phần nào đó góp phần cải thiện hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản đối với chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa nói riêng và các Ngân hàng công thương nói chung.
1 - Kiến nghị đối với cơ quan chức năng Nhà nước hữu quan.
a. Đối với chính phủ :
Chúng ta đều thừa nhận rằng kinh doanh Ngân hàng là loại hình kinh doanh hết sức đặc biệt, nó khác hẳn các loại hình kinh doanh khác và luôn tièm ẩn nhiều rủi ro mà nếu không có một thị trường phát triển và môi trường pháp lý phải được hoàn thiện thì có thể cả một hệ thống Ngân hàng sẽ đi đến bờ vực phá sản.
Chính phủ, nhà tổ chức và điều hành hoạt động của nền kinh tế của cả một quốc gia và thậm chí có những tác động lớn tới cả nền kinh tế thế giới, luôn là người có vị trí, vai trò vô cùng quan trong đối với hoạt động và sự phát triển của Ngân hàng. Có thể nói chỉ cần một tác động dù nhỏ của Chính phủ vào bất cứ lĩnh vực gì của nền kinh tế - xã hội cũng sẽ gây nên một phản ứng trở lại ngay; chính vị vậy sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ đối với hoạt động Ngân hàng sẽ tạo nên những thay đổi cho hoạt động của ngành Ngân hàng.
Với những gì đã trình bày trong phần thực trạng hoạt động của Ngân hàng công thương Đống Đa, và các Ngân hàng thương mại nói chung, thiết nghĩ Chính phủ nên có những tác động sau để tăng hiệu quả hoạt động cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay :
- Cần có một cơ chế bảo đảm tiền vay theo hướng mở là chỉ nên đơn cử các hình thức bảo đảm: cầm đồ, thế chấp, bảo lãnh là ba hình thức ví dụ chứ không phải tổ chức tín dụng chỉ được chọn một trong ba hình thức treen, Chính hủ nên trao cho tổ chức tín dụng quyền chủ động linh hoạt trong việc lựa chọn hình thức bảo đảm miễn sao có hiệu quả, phù hợp với thực tế của khách hàng là được:
- Chính phủ không nên qui định cho tổ chức tín dụng là khách hàng nào cần bảo đảm, khách hàng nào không cần bảo đảm bằng tài sản mà nên trao cho tổ chức tín dụng quyền tự quyết, lựa chọn khách hàng cho vay không cần bảo đảm bằng tài sản. Sở dĩ đề nghị này được đưa ra là vì các tổ chức tín dụng vì sự tồn tại của mình mà đối với từng khách hàng sẽ biết được nên áp dụng biện pháp bảo đảm nào sẽ là tốt nhất.
- Chính phủ nên bỏ qui định cho vay theo chỉ định của Chính phủ đi và thay vào đó qui định cho vay theo uỷ nhiệm của Chính phủ. Tức là khi nào Chính phủ muốn cho đối tượng nào vay vốn thì sử dụng ngân sách thông qua các tổ chức tdd cho vay chứ không nên lấy vốn của tổ chức tín dụng cho vay theo chỉ định của Chính phủ; điều này xuất phát từ thực tế ngày nay nhu cầu vốn của khách hàng đầu tư là rất lớn trong khi nguồn vốn của tổ chức tín dụng lại có hạn nên nếu cho vay theo chỉ định của Chính phủ số vốn còn lại sẽ bị giảm đi. Mặt khác cho vay theo chỉ định của Chính phủ khi khách hàng không trả được nợ, Chính phủ xử lý khoản nợ này thông thường là không thu hồi được đủ vốn - chứ đừng nói lãi cho cacs tổ chức tín dụng.
Với những thay đổi trên cơ chế bảo đảm tiền vay sẽ hạn chế đáng kể một số vướng mắc :
+ Nâng cao quyền tự chủ trong việc lựa chọn khách hàng vay và các biện pháp bảo đảm khoản vay.
+ Giải quyết những hạn chế mâu thuẫn giữa các qui định trong Nghị định 178 và 165.
* Đơn giản hoá thủ tục cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Điểm mấu chốt của thủ tục cho vay có bảo đảm bằng tài sản thường nằm ở khâu công chứng các giấy tờ sỏ hữu tài sản, hiện nay việc kiểm tra các giấy tờ hợp lệ cuả các tài sản bảo đảm để công chứng nhiều khi rất mất thời gian vì các giấy tờ này nhiều loại chưa có văn bản hướng dẫn do đó mà các công chứng viên nhiều khi cũng lúng túng, gây khó dễ cho khách hàng. Do vậy thời gian tới đề nghị Chính phủ cải tiến, bổ xung hệ thống các văn bản liên quan đến giấy tờ sở hữu tạo điều kiện cho việc công chứng diễn ra dễ dàng. Chính phủ cũng nên thống nhất việc công chứng trong cả nước và giao toàn bộ việc xác nhận công chứng cho các phòng công chứng; đồng thời thống nhất các giấy tờ cần thiết cho việc công chứng trong cả nước vì hiện nay mỗi nơi một qui định. Được vậy sẽ tiết kiệm được chi phí đi lại và nâng caogiá trị pháp lý của các giấy tờ công chứng cho cả phía Ngân hàng và khách hàng.
* Chính phủ cần thiết nâng cao vai trò của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm vì lý do sau :
Khi giao dịch bảo đảm được lưu vào hệ thống dữ liệu quốc gia tại bất kỳ khu vực nào truy cập ra giao dịch bảo đảm dễ dàng sẽ tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng kiểm tra được hiệu khách hàng của mình, có lừa mình hay không tài sản bảo đảm mà khách hàng mang đến liệu có thể chấp nhận là tài sản bảo đảm không...
* Tạo điều kiện để việc xử lý tài sản đơn giản hơn
- Chính phủ nên cho thành lập trung tâm bán đấu giá tại các tỉnh trong cả nước, đối với các tỉnh, thành phố lớn có thể có nhiều trung tâm này tuỳ nhu cầu của từng nơi để hỗ trợ cho việc xử lý tài sản thu hồi vốn của Ngân hàng diễn ra mong chóng có hiệu quả. Đơn giản hoá các giấy tờ thủ tục không cần thiết tạo điều kiện để tài sản mua bán chuyển nhượng dễ dàng.
- Chính phủ cũng cần quy định thứ tự ưu tiên thanh toán cho các tổ chức tín dụng nhận cùng một tài sản làm vật bảo đảm, tránh việc tranh giành kiện tụng giữa các tổ chức tín dụng có quyền lợi liên quan hoặc qui định một tài sản chỉ được bảo đảm tại một tổ chức tín dụng chứ không phải là nhiều tổ chức tín dụng như hiện nay qui định, Chính phủ có thể qui định các tổ chức tín dụng có thể cùng cho vay hợp vốn đối với một khách hàng, nếu có tài sản bảo đảm chung khoản vay hợp vốn đó thì các tổ chức tự thoả thuận, người giữ tài sản bảo đảm hoặc thuê bên thứ ba giữ chứ không nên quy định một tài sản có thể bảo đảm tại nhiều tổ chức tín dụng như hiện nay.
* Bổ sung thêm vốn cho các Ngân hàng thương mại :
Với xu thế phát triển và hội nhập đòi hỏi hệ thống Ngân hàng thương mại nói riêng doanh nghiệp Nhà nước nói chung phải đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại tài chính, công nghệ và nguồn nhân lực mới đáp ứng được khả năng cạnh tranh và hội nhập nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO, AFTA hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ được thực hiện vì vậy đề nghị Chính phủ cấp vốn điều lệ cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh theo tiến độ đề án cơ cấu lại Ngân hàng quốc doanh để sớm đạt hệ số an toàn quốc tế là 8% (hiện nay các Ngân hàng quốc doanh hệ số an toàn tương đối thấp, riêng Ngân hàng công thương mới đạt 3,54%). Đối với những khoản vay của doanh nghiệp Nhà nước trước năm 2000 mà không có khả năng thu hồi nợ, đề nghị Chính phủ có biện pháp giải quyết về vốn để Ngân hàng thương mại quốc doanh sớm có thêm nguồn lực bổ sung nhằm mau chóng hoàn thiện cơ cấu tài chính.
b) Đối với Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ngành liên quan:
- Ngân hàng Nhà nước cần sớm trình lên Chính phủ dự án "luật tín dụng" để các Ngân hàng thương mại sớm có một luật chung điều chỉnh các vấn đề liên quan tới hoạt động tín dụng Ngân hàng. Luật tín dụng Ngân hàng không còn là vấn đề mới nữa, ngày nay ở các nước phát triển như Mỹ đã ban hành ra luật tín dụng và hiệu quả của nó là rất hiệu quả. Vì hoạt động tín dụng Ngân hàng được điều chỉnh bởi một văn bản pháp luật thống nhất không như ở Việt Nam hiện nay hoạt động tín dụng điều chỉnh mà các văn bản điều chỉnh nào hiện nay thì quá nhiều và không chỉ do một cơ quan quy định nên nhiều khi mâu thuẫn với nhau như các NĐ 178 và NĐ 165.
- Ngân hàng Nhà nước cần chủ động phối kết hợp với các Bộ ngành : Toà án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an, Tổng cục địa chính để ban hành văn bản liên tịch nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi và an toàn để hướng dẫn xử lý ngay các ách tắc trong việc giải toả xử lý tài sản bảo đảm ở các Ngân hàng thương mại hiện nay.
Hiện nay các phương tiện giao thông của khách hàng nếu đem cầm cố tại Ngân hàng thì phải trao cho Ngân hàng giấy tờ sở hữu và chỉ được cầm biên bản cầm cố tài sản nên khi lưu hành tham gia giao thông nếu vi phạm luật giao thông thường phải gặp nhiều rắc rối với cảnh sát giao thông. Vậy đề nghị Ngân hàng Nhà nước phối hợp cùng Bộ công an ban hành thông tư liên tịch trong đó qui định biên bản cầm cố, thế chấp tài sản đối với các Ngân hàng cũng có giá trị pháp lý lưu hành tham gia giao thông như các giấy tờ sở hữu nhằm tạo điều kiện cho việc bảo đảm tài sản tại các Ngân hàng thương mại được dứt điểm và cũng là tạo thêm điều kiện cho người vay vốn Ngân hàng thực hiện thành công phương án đầu tư của họ để sớm hoàn trả vốn vay cho Ngân hàng.
- Ngân hàng Nhà nước cũng cần sớm trình Chính phủ dự án thành lập một Công ty tổ chức bán đấu giá nhằm xử lý các tài sản bảo đảm cho Ngân hàng một cách tốt nhất.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng công thương Việt Nam
- Ngân hàng công thương Việt Nam cần hệ thống hoá các văn bản của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước lại là hướng dẫn thi hành trong trường hợp để ban hành toàn hệ thống, ban hành việc áp dụng khác nhau ở mỗi chi nhánh do không hiểu hết các qui định của các văn bản pháp luật.
- Ngân hàng công thương Việt Nam chỉ nên tổ chức thi tuyển cán bộ và ra đề thi, chấm thi còn thành phần nhân sự thì lấy chỉ tiêu theo đề nghị của chi nhánh sau khi tiến hành kiểm tra nhân sự tại chi nhánh, nếu được vậy các cán bộ mới được tuyển ở các chi nhánh sẽ dễ dàng làm quen với công việc sau khi được tuyển hơn là áp dụng như hiện nay. Ngân hàng công thương tổ chức thi tuyển và trao nhân sự cho chi nhánh nhưng lại không chú trong đến việc nhân sự để có phù hợp với công việc mà chi nhánh cần hay không dẫn đến chỗ thừa chỗ thiếu.
- Ngoài ra Ngân hàng Việt Nam cũng nên giao quyền tự quyết hơn nữa cho các chi nhánh trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Để từ đó tạo điều kiện cho chi nhánh hoạt động tốt hơn và xử lý tài sản bảo đảm được nhanh chóng gọn nhẹ hơn.
Hiện nay tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng công thương Việt Nam là 3,54% vốn tự có, trong khi tiêu chuẩn dự trữ bắt buộc của thế giới đối với Ngân hàng thương mại là 8% vậy Ngân hàng công thương Việt Nam cần mau chóng trình Chính phủ dự án yêu cầu cấp bổ xung vốn để nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của hệ thống lên 8%(mức dự trữ bắt buộc đối với Ngân hàng thương mại quốc tế) nhằm tạo thêm uy tín và sự an tâm khi quan hệ với quốc tế.
Hiện nay nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế là rất lớn các Ngân hàng thương mại nói chung đều không đủ vốn đẻe đáp ứng các nhu cầu vay. Hiện nay trong khi đó mức nợ quá hạn của các doanh nghiệp Nhà nước đối với Ngân hàng công thương Việt Nam từ năm 1999 trở về trước là còn khá nhiều do vậy Ngân hàng công thương Việt Nam cần trình Chính phủ yêu cầu Chính phủ giải quyết các khoản nợ đó để thu hồi vốn.
- Ngân hàng công thương Việt Nam hiện là Ngân hàng thương mại lớn nhất trong hệ thống các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay và có quan hệ với hầu hết các thành phần kinh tế trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp. Trước ngưỡng cửa của sự mở cửa, hội nhập quốc tế như hiện nay chắc chắn Ngân hàng công thương Việt Nam sẽ là cầu nối quan trong trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thúc đấy thương mại quốc tế phát triển. Do vậy đề nghị Ngân hàng công thương Việt Nam chuyển giao các chương trình cho người nghèo vay vốn và cho sinh viên vay vốn sang Ngân hàng chính sách để tập trung vốn đầu tư vào các chương trình kinh tế khác.
3. Kiến nghị đối với Ngân hàng công thương Đống Đa
Chúng ta đều biết rằng hợp đồng bảo đảm tiền vay là hợp đồng phụ của hợp đồng tín dụng tức là nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu thì hợp đồng bảo đảm cũng vô hiệu theo. Ngược lại nếu hợp đồng bảo đảm tiền vay bị vô hiệu thì hợp đồng tín dụng tuy không bị vô hiệu theo nhưng sẽ ảnh hưởng rất sấu tới hợp đồng tín dụng, thông thường bên thiệt sẽ là phía các tổ chức tín dụng.
Điều này cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa hoạt động tín dụng Ngân hàng và hoạt động bảo đảm tín dụng Ngân hàng, chỉ cần chút xíu nhầm lẫn sai sót trong cả hai hoạt động trên đều có thể gây nên một thiệt hại không nhỏ cho các tổ chức tín dụng. Do vậy để hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản được tiến hành một cách suôn sẻ và thực sự là biện pháp phòng ngừa rủi ro hữu hiệu cho Ngân hàng trong thời gian tới Ngân hàng công thương Đống Đa cần thực hiện một số điểm sau :
Thứ nhất : Ngân hàng công thương Đống Đa cần mở rộng chiến lược thu hút khách hàng, giảm tỷ trọng khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước xuống và nâng tỷ trọng các thành phần kinh tế khác lên (hiện nay lượng khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước của chi nhánh là 80%) nhằm đa dạng hoá khách hàng. Tiếp tục thực hiện phục vụ tốt các khách hàng cũ để tạo tiếng nhằm thu hút thêm các khách hàng mới.
Thứ hai: Ngân hàng công thương Đống Đa chủ động trình lên Ngân hàng công thương Việt Nam đề suất Ngân hàng công thương Việt Nam chú trọng hơn nữa việc tập huấn nâng cao kiến thức chuyên môn cho cán bộ thẩm định dự án phương án và định giá tài sản bảo đảm vì hiện nay trình độ chuyên môn của cán bộ về lĩnh vực này tại chi nhánh nói chung là chưa đủ đáp ứng yêu cầu thực tế. Việc tập huấn có thể theo đợt hoặc định kỳ hàng năm, hàng quí. Được như vậy trình độ thẩm định của cán bộ chi nhánh trực thuộc Ngân hàng công thương Đống Đa nói chung sẽ được cải thiện từ đó nâng cao chất lượng và vai trò của hợp đồng bảo đảm và hợp đồng tín dụng.
Thứ ba: Ngân hàng công thương Đống Đa cần định kỳ hàng năm tổ chức gặp mặt khách hàng, buổi gặp mặt chính là cơ hội để Ngân hàng công thương Đống Đa lắng nghe những đánh giá của khách hàng về những việc làm được và chưa làm được của cả Ngân hàng và khách hàng. Nên coi buổi gặp gỡ là một toạ đàm từ đó cả hai bên đầu tư rút ra được những ý kiến bổ ích cho chính mình.
Ngân hàng công thương Đống Đa cũng có thể tổ chức điều tra xã hội học thăm dò ý kiến của khách hàng về các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng, việc thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản, về thái độ của các cán bộ Ngân hàng, thủ tục và các điều kiện tài sản... để có thể từ đó rút ra kinh nghiệm cũng như phát hiện các nhu cầu mới của khách hàng. Thường xuyên giữ mối quan hệ với khách hàng, để vừa trực tiếp kiểm tra giám sát các khoản vay, các tài sản dược dùng làm bảo đảm vừa giúp đỡ khách hàng trong các lĩnh vực có thể khi họ yêu cầu.
Thứ tư: Ngân hàng công thương Đống Đa cần tham khảo kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới về vấn đề tín dụng và bảo đảm tài sản khi cho vay từ đó chắt lọc ra những ý tưởng phù hợp với thực tế ở Việt Nam. Đặc biệt ngày này ở nhiều nước tiến bộ như Mỹ đã có luật tín dụng Ngân hàng thiết nghĩ Ngân hàng công thương Đống Đa, cũng như các Ngân hàng thương mại Việt Nam cần tham khảo luật này để cơ chế sớm tiếp cận được các qui tắc mơí xoay quanh vấn đề tín dụng, hơn nữa chắc chắn trong một tương laigần Việt Nam cũng sẽ có luật tín dụng Ngân hàng do vậy việc tham khảo luật naỳ trước cũng là điều cần thiết cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Thứ năm: Ngân hàng công thương Đống Đa cần tạo điều kiện cho những cán bộ có năng lực, có tinh thần cầu tiến, có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của chi nhánh được tham gia các khoá học tập trung nâng cao trình ddộ như thạc sĩ, tiến sĩ... và coi đây như là nguồn ổ sung cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo Ngân hàng trong tương lai.
4. Kiến nghị đối với khách hàng
Thứ 1: khách hàng (là tất cả các thành phần kinh tế) cần tiếp tục hoàn thiện, trao dối vốn kiến thức kinh doanh của mình về các lĩnh vực đầu tư, đặc biệt là các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần tiếp tục hoàn thiện và kiện toàn bộ máy tổ chức điều hành của doanh nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý, năng lực lãnh đạo của doanh nghiệp, nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân của doanh nghiệp.
Thứ 2: Nhu cầu vay vốn của khách hàng phải được xuất phát từ nhu cầu cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Khách hàng cần phải xây dựng phương án kinh doanh có hiệu quả, mang tính khả thi cao, đồng thời thiết lập một kế hoạch trả nợ phù hợp với năng lực tài chính và hợp đồng tín dụng mà khách hàng đã ký với Ngân hàng.
Thứ 3: Khi giao kết hợp đồng tín dụng với Ngân hàng, khách hàng cần chủ động cung cấp đầy đủ, trung thực mọi thông tin, giấy tờ liên quan tới tài sản bảo đảm khoản vay cho Ngân hàng. Hoàn thiện các giấy tờ mà Ngân hàng yêu cầu càng sớm càng tốt để hợp đồng tín dụng được ký kết sớm; hơn nữa với việc chủ động hợp tác chắc chắn khách hàng sẽ được Ngân hàng ghi nhận và coi đó là một trong những căn cứ để đánh giá và xếp loại khách hàng.
Kết luận
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, khảo nghiệm tổng kết thực tiễn và các phương pháp khác; qua các nội dung đã trình bày, bày viết cơ bản đã hoàn thành các nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Khái quát quá trình ra đời và phát triển của NHTM trên thế giới và ở Việt Nam, khái quát các chức năng hoạt động chủ yếu mà các NHTM trên thế giới đã và đang thực hiện.
2. Trình bày, diễn giải quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng của các NHTMVN.
3. Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm tài sản trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa.
4. Tổng kết, nhận định chung việc thực hiện quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm tháo gỡ khó khăn cho chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa nói riêng và các NHTMVN nói chung trong việc thực hiện quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết mà tác giả đã trình bày, với khối lượng kiến thức còn hạn chế và thời gian thực tế cũng không nhiều, hơn nữa những gì mà bài viết đề cập đến hãy còn đang được tranh luận chưa thống nhất nên bài viết khó tránh khỏi những hạn chế cần được đóng góp bổ sung cho phù hợp với thực tế. Chính vì vậy em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để bài viết này được hoàn thiện và thiết thực hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33564.doc