Lãi suất là một đại lượng biến động liên tục, nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng. Ngân hàng không thể tự xác định mức lãi suất mà lãi suất này do thị trường quy định. Ngân hàng chỉ có thể điều chỉnh sự hoạt động của mình theo sự biến động của lãi suất thị trường . Do đó, công tác quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng là hết sức khó khăn và phức tạp.
Hiện nay, khi Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO thì thị trường rộng mở, có nhiều ngân hàng nước ngoài đã vào Việt Nam kinh doanh. Lãi suất thị trường liên tục biến động trong vòng 2 năm qua. Điều này đòi hỏi sự phối hợp giữa các ngân hàng thương mại và sự điều chỉnh của ngân hàng nhà nước nhằm han chế những rủi ro lãi suất đem lại cho các ngân hàng.
Tại ngân hàng TMCP Quân đội, việc quản trị rủi ro lãi suất là vấn đề khá mới mẻ và mới chỉ được quan tâm trong vài năm gần đây. Ngân hàng Quân đội đã sử dụng kợp đồng kì hạn và hợp đồng hoán đổi lãi suất để hạn chế rủi ro lãi suất. Tuy nhiên các biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất khác ( như sử dụng hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai,.) chưa được ngân hàng sử dụng. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ nhân viên và nhà quản trị chưa có kinh nghiệm cũng như chuyên môn về quản trị rủi ro lãi suất.
63 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Rủi ro lãi suất và quản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
%/tháng); lãi suất cho vay ngắn hạn 10-13,8%/năm; lãi suất trung hạn cho vay từ 10-11%/năm. Việc điều chỉnh tăng lãi suất cho vay chưa biết sẽ kiềm chế được lạm phát hay không, nhưng trước mắt, động thái này sẽ làm tăng rủi ro cho cả NHTM và DN.
Từ năm 2004-2007 thì lãi suất của Ngân hàng liên tục biến động, đặc biệt là trong năm 2007. Cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng cuối năm 2007 đã gây tình trạng vốn chạy lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu cực chung đến tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của hệ thống NHTM.
Lãi suất tăng báo hiệu một chu kỳ sút giảm lợi tức của ngành ngân hàng, do GAP (chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay) sẽ bị thu hẹp lại. Lãi suất tăng cũng làm giảm đầu tư của doanh nghiệp, do chi phí lãi suất tăng lên và lợi nhuận giảm xuống.
Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng GDP. Đó cũng là cái giá phải trả cho ý tưởng dùng lạm phát để kích thích tăng trưởng điều này chỉ có thể đạt được trong ngắn hạn mà thôi.
3. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro lãi suất ở Ngân hàng TMCP Quân đội:
3.1. Thành tựu của hoạt động quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng TMCP Quân đội:
Ngân hàng TMCP Quân đội đã bắt đầu quan tâm đến công tác quản trị rủi ro lãi suất, thể hiện qua việc thành lập phòng nghiên cứu rủi ro trong ngân hàng. Quy trình quản trị rủi ro được thực hiện đối với riêng từng rủi ro và đối với toàn bộ danh mục rủi ro. Trong quản trị rủi ro lãi suất, ngân hàng TMCP Quân đội thực hiện quản trị rủi ro đối với từng khoản và đối với toàn bộ danh mục lãi suất. Vì vậy lợi nhuận trước thuế của ngân hàng liên tục tăng mặc dù những năm gần đây sự biến động của lãi suất đã khiến cho nhiều ngân hàng gặp khó khăn.
Ngân hàng Quân đội luôn duy trì lãi suất hợp lý phù hợp với chỉ đạo của NHNN, có bộ phận nghiên cứu lãi suất và biến động lãi suất nên trước cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng trong thời gian qua ngân hàng không gặp phải rủi ro cho hoạt động kinh doanh.
3.2. Hạn chế của hoạt động quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng TMCP Quân đội:
Hiện nay, công tác quản lý rủi ro của các ngân hàng nói chung và ngân hàng TMCP Quân đội nói riêng vẫn còn những mặt hạn chế cơ bản như sau:
Một là, chưa có sự quan tâm thích đáng về quản lý rủi ro lãi suất của bộ máy lãnh đạo trong ngân hàng. Sự thiếu quan tâm thể hiện ở chỗ ngân hàng chưa xây dựng một chính sách quản lý rủi ro lãi suất, chưa có những quy định cụ thể những nội dung cần thực hiện trong quá trình quản lý rủi ro,... Trong thời gian qua, mặc dù lãi suất tại thị trường Việt Nam có nhiều biến động, nhưng thực tế, mức độ dao động không quá lớn nên những thiệt hại do rủi ro lãi suất của ngân hàng chưa nhiều. Tuy nhiên, kinh nghiệm tại một số quốc gia cho thấy, những cú sốc lớn về lãi suất có thể gây nên những hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với các NHTM và nền kinh tế nói chung. Nếu không nhận thức đầy đủ về loại rủi ro này, các NHTM Việt Nam có thể sẽ không có những chuẩn bị cần thiết, tạo cho mình khả năng chống đỡ trước những biến động lớn của thị trường, đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế, tài chính quốc tế hiện nay. Ngân hàng Quân đội cần phải có hệ thống giám sát chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp của danh mục tín dụng để từ đó đưa ra kì hạn đặt lãi phù hợp, kỳ hạn tái định giá giữa tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng. Việc giám sát chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng giúp cho ngân hàng có được cái nhìn tổng thể về rủi ro, từ đó, dễ dàng nhận biết được rủi ro đầu tư tập trung vào những hạng mục (khách hàng, khu vực, ngành nghề,..), trên cơ sở đó, có những điều chỉnh thích hợp để tránh sự tập trung đầu tư quá mức nhằm làm giảm thiểu rủi ro.
Hai là, trong nhận thức về rủi ro lãi suất, Ngân hàng TMCP Quân đội mới chỉ dừng lại ở nhận định là ngân hàng có rủi ro lãi suất khi lãi suất thị trường thay đổi, nhưng chưa đo lường, đánh giá cụ thể mức rủi ro là bao nhiêu, lãi suất biến động theo chiều hướng nào sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng,... Hiện nay, các NHTM tại nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng nhiều phương pháp, mô hình để lượng hóa rủi ro lãi suất phù hợp với trình độ của từng ngân hàng và quy định của cơ quan quản lý ở từng nước. Mặc dù mỗi mô hình đo lường rủi ro lãi suất đều có những mặt hạn chế nhất định, nhưng việc sử dụng những mô hình này có thể giúp các NHTM xác định một cách cụ thể những thiệt hại cả trong quá khứ, hiện tại và dự tính thiệt hại trong tương lai mỗi khi lãi suất thị trường biến động. Những tính toán này sẽ là cơ sở cần thiết để ngân hàng áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm hạn chế thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Tuy nhiên, do chưa thực hiện việc lượng hóa rủi ro lãi suất vì chưa có đủ điều kiện cần thiết nên các biện pháp mà ngân hàng TMCP Quân đội đã sử dụng để kiểm soát loại rủi ro này mới chỉ dựa trên cảm tính và chưa hiệu quả.
Ba là, ngân hàng chưa thực hiện một cách toàn diện những biện pháp cần thiết để phòng ngừa rủi ro lãi suất. Cụ thể, về các biện pháp nội bảng, chủ yếu ngân hàng mới chỉ dừng lại ở việc áp dụng chính sách lãi suất thả nổi trong cho vay trung- dài hạn mà chưa có những biện pháp tích cực để duy trì sự cân xứng về kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ. Về các biện pháp ngoại bảng, cho đến nay, hầu hết các ngân hàng hoàn toàn chưa ứng dụng các nghiệp vụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất.
Hiện tại, NHNN đã ban hành Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, trong đó quy định những điều kiện cụ thể đối với các tổ chức tín dụng thực hiện giao dịch hoán đổi. Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ những điều kiện này. Chẳng hạn, một trong những điều kiện quy định trong quy chế là các tổ chức tín dụng phải “xây dựng quy trình thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, trong đó gồm cả biện pháp phòng ngừa rủi ro” thì hiện nay chưa được xúc tiến tại các NHTM Việt Nam.
Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác quản lý rủi ro lãi suất tại ngân hàng TMCP Quân đội: Có nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan dẫn đến những hạn chế kể trên trong công tác quản lý rủi ro lãi suất của ngân hàng.
Nguyên nhân khách quan:
-Trong một thời gian dài, Ngân hàng hoạt động kinh doanh trong điều kiện lãi suất tiền gửi và cho vay hoàn toàn chịu sự điều tiết của NHNN
Giai đoạn năm 1994-1995, NHNN quy định mức lãi suất cho vay cho từng khu vực, từng thành phần, từng ngành kinh tế và từng loại cho vay. Những mức lãi suất này được quy định áp dụng thống nhất tại tất cả các NHTM trong đó có ngân hàng TMCP Quân đội. Trong giai đoạn từ 1996 đến năm 2000, mặc dù NHNN không còn quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể như trước nhưng vẫn quy định trần lãi suất và yêu cầu ngân hàng không được cho vay vượt trần. Do sự quản lý trực tiếp của NHNN nên lãi suất trong nền kinh tế không thực sự phản ánh mối quan hệ cung- cầu về vốn và do vậy, hầu như lãi suất rất ít biến động. Chính vì vậy trong thời gian này, các NHTM chưa phải đối mặt với rủi ro lãi suất và vấn đề quản lý rủi ro lãi suất chưa được các ngân hàng quan tâm.
Từ tháng 7/2000 đến tháng 6/2002, NHNN bắt đầu sử dụng lãi suất cơ bản trong điều hành lãi suất. Mặc dù trong thời gian này, NHNN vẫn khống chế biên độ dao động trên của lãi suất cơ bản, nhưng chính sách lãi suất tiến gần đến các nguyên tắc lãi suất thị trường hơn khi mức lãi suất cơ bản được hình thành căn cứ vào mức lãi suất cho vay của một số các tổ chức tín dụng chiếm đa số thị phần tín dụng. Kể từ thời gian này, lãi suất huy động và cho vay của các NHTM có xu hướng biến động nhiều hơn, đặc biệt đối với lãi suất cho vay ngoại tệ được quy định gắn với SIBOR nên biến động của nó hoàn toàn phụ thuộc vào những thay đổi lãi suất của thị trường quốc tế. Từ 1/6/2002, NHNN công bố việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, xóa bỏ quy định biên độ khống chế theo lãi suất cơ bản, chính thức tự do hóa lãi suất trong nền kinh tế.
Trong bối cảnh lãi suất thị trường có xu hướng biến động nhiều hơn, các NHTM Việt Nam đã có nhận thức về nguy cơ rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và bước đầu có giải pháp để phòng ngừa. Tuy nhiên, những nhận thức này mới chỉ là bước đầu và chưa toàn diện.
-Có cơ quan dự báo sự thay đổi của lãi suất nhưng chưa có kinh nghiệm
Việc đo lường rủi ro lãi suất không chỉ nhằm đánh giá những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu trong quá khứ, trong điều kiện lãi suất thị trường biến động mà quan trọng hơn, giúp các ngân hàng dự tính được những thiệt hại có thể phát sinh trong tương lai, qua đó, giúp ngân hàng lựa chọn những giải pháp phòng ngừa một cách có hiệu quả những rủi ro này. Để dự tính được chính xác mức độ thiệt hại của ngân hàng khi lãi suất thị trường biến động thì một trong những vấn đề quan trọng là phải dự báo chính xác mức độ biến động của lãi suất trong tương lai. Đây cũng là một khó khăn không nhỏ đối với các ngân hàng trong việc lượng hóa rủi ro lãi suất một cách chính xác.
- Nhà nước chưa hoàn thiện các văn bản pháp lý về việc đo lường và quản lý rủi ro lãi suất
Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật về hoạt động ngân hàng chưa có văn bản nào quy định về việc quản lý, đo lường rủi ro lãi suất tại các NHTM, kể cả trong Quy chế giám sát của Thanh tra NHNN cũng chưa có quy định nội dung giám sát này. Một khi cơ quan quản lý chưa có yêu cầu cụ thể thì các NHTM chưa thể nhận thức đầy đủ về sự cần thiết cũng như cách thức thực hiện việc quản lý rủi ro lãi suất và đây cũng chính là một điểm hạn chế cho việc lượng hóa rủi ro lãi suất tại các NHTM.
Mặt khác, các văn bản pháp lý về nghiệp vụ phát sinh cũng chưa được hoàn thiện. Hiện tại, NHNN mới chỉ ban hành các văn bản quy định về nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ như giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi, đối với nghiệp vụ phái sinh lãi suất mới chỉ có giao dịch hoán đổi lãi suất, chưa có văn bản pháp lý nào được ban hành để hướng dẫn các NHTM thực hiện các nghiệp vụ phát sinh về lãi suất khác như kỳ hạn tiền gửi (FFD), kỳ hạn lãi suất (FRA), các nghiệp vụ quyền chọn như CAP, FLOORS, COLLAR,... Đối với các giao dịch phát sinh về chứng khoán như giao dịch kỳ hạn, quyền chọn trái phiếu, cổ phiếu cũng chưa có cơ sở pháp lý để thực hiện tại Việt Nam.
- Thị trường tài chính- tiền tệ đang trên đà phát triển
Hiện nay, sự phát triển của thị trường tài chính- tiền tệ của Việt Nam còn rất hạn chế. Xét về độ sâu tài chính, mức độ tiền tệ hóa nền kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn chưa phát triển và không bằng so với các nước trong khu vực. Sự nông cạn của thị trường sẽ làm cho các công cụ thị trường kém phát huy tác dụng, trong đó bao gồm cả lãi suất. của. Thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động được 6 năm, nhưng mức độ sôi động còn thấp, hàng hoá trên thị trường còn chưa phong phú. Trên sàn giao dịch chứng khoán của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán chưa có nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu niêm yết. Thực chất, hiện nay thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chỉ là khởim đầu theo đúng nghĩa của nó, sự tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường mới chỉ ở mức thăm dò, nhiều tổ chức còn đứng ngoài cuộc. Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ với sự hoạt động của thị trường mở, thị trường liên ngân hàng mới bắt đầu sôi động. Các giao dịch trên thị trường này còn mang tính một chiều, tức là một số ngân hàng luôn là người cung ứng vốn, còn một số ngân hàng luôn có nhu cầu vay vốn. Chính vì vậy mà thị trường tiền tệ hoạt động còn rất nhiều hạn chế, chưa trỏ thành nơi cung cấp những thông tin quan trọng về mức lãi suất ngắn hạn để có thể hình thành được đường cong lãi suất, làm cơ sở cho việc dự báo lãi suất thị trường cũng như việc định giá các trái phiếu có lãi suất cố định và các hợp đồng phát sinh. Nghiên cứu của một số nhà kinh tế đã chỉ ra hai trường hợp của Thái Lan và Hàn Quốc là những quốc gia đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển thị trường trái phiếu và thị trường phát sinh vì thị trường tiền tệ của hai quốc gia này không phát triển. Như vậy, chính sự kém phát triển của thị trường tài chính- tiền tệ đã gây những khó khăn hạn chế cho các NHTM Việt Nam trong việc định lượng và sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất.
- Kiến thức hiểu biết của nhiều doanh nghiệp về các giao dịch phát sinh và vấn đề phòng chống rủi ro lãi suất còn quá thấp
Phần lớn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp là nguồn vay nợ từ bên ngoài, đặc biệt từ ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp có các hợp đồng tín dụng trung- dài hạn với giá trị lớn và lãi suất cố định cũng như các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thường xuyên ở vào các vị thế mở về ngoại tệ (trường hoặc đoản) luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thị trường rất lớn như rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái. Đối với khách hàng huy động vốn trên thị trường bằng hình thức phát hành trái phiếu trung và dài hạn từ 5 đến 10 năm với mức lãi suất cố định, muốn chuyển đổi thành lãi suất thả nổi để giảm chi phí và cân đối bảng tổng kết tài sản, hoặc khi có dự đoán lãi suất xuống, việc bán hợp đồng hoán đổi lãi suất có thể đáp ứng được yêu cầu này. Đối với các khách hàng có nhu cầu đảm bảo có nguồn vốn ổn định và dài hạn cho hoạt động, có thể hoán đổi các giao dịch vốn ngắn hạn với ngân hàng thành một nguồn vốn ổn định và dài hạn với lãi suất cố định. Tuy nhiên, hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chưa quan tâm và chưa có kiến thức về vấn đề này. Những hiểu biết về các kỹ thuật phòng chống rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái bằng các giao dịch phát sinh lại càng xa lạ. Chính vì vậy, các doanh nghiệp không sẵn sàng tham gia phòng ngừa rủi ro bằng các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi và hợp đồng quyền chọn dẫn đến những khó khăn cho các NHTM trong việc phát triển các nghiệp vụ phát sinh. Điều này cũng cho thấy rằng tại các NHTM Việt Nam, công tác marketing ngân hàng với các hoạt động tuyên truyền, tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm dịch vụ mới còn có nhiều hạn chế.
Nguyên nhân chủ quan
-Tại ngân hàng chưa có những cán bộ được đào tạo chuyên sâu về quản trị rỉ ro lãi suất
Hiện nay, vấn đề rủi ro lãi suất còn chưa phổ biến với cán bộ nhân viên ngân hàng. Vì vậy, việc nhận biết, đánh giá rủi ro của các cán bộ nhân viên ngân hàng còn hạn chế. Những hạn chế này khiến các ngân hàng thường bỏ ngỏ những bước quan trọng. Trên thực tế, muốn biết được mức độ tổn thất của rủi ro lãi suất để có biện pháp phòng chống thì các ngân hàng cần phải tính toán được rủi ro lãi suất tác động như thế nào đến thu nhập ròng cũng như giá trị tài sản của ngân hàng. Để xác định một cách chính xác những tác động này đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải thực sự am hiểu về quản lý tài sản nợ- tài sản có của ngân hàng, đồng thời có những kiến thức nhất định về tài chính để nắm vững những kỹ thuật đo lường rủi ro lãi suất bằng việc sử dụng các mô hình. Đối với các NHTM Việt Nam, đây là vấn đề tương đối mới và phần lớn cán bộ nhân viên ngân hàng đều chưa được trang bị những kiến thức này.
Bên cạnh đó, trình độ hiểu biết của cán bộ nhân viên ngân hàng về các nghiệp vụ phát sinh như giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn,... vẫn còn hạn chế. Ngân hàng chưa có đội ngũ nhân viên am hiểu những kiến thức về tài chính, pháp lý, về thị trường giao dịch, đặc biệt là kỹ thuật định giá và giao dịch các công cụ tài chính phái sinh, và đây chính là một trong những nguyên nhân gây trở ngại trong việc triển khai các nghiệp vụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất tại ngân hàng.
- Hệ thống kế toán thống kê tại ngân hàng chưa cung cấp đầy đủ những số liệu cần thiết cho việc tính toán, lượng hóa rủi ro lãi suất
Để tính toán đo lường rủi ro lãi suất cần phải có các số liệu thống kê về các tài sản trong ngân hàng một cách chính xác, nhưng hiện nay tại ngân hàng chưa thống kê được các số liệu này. Chẳng hạn, hiện nay ngân hàng chưa có các số liệu thống kê về thời gian còn lại của các khoản cho vay, các tài sản đầu tư cũng như thời hạn còn lại của các nguồn vốn huy động và vốn vay. Đối với các khoản mục tài sản được thanh toán theo nhiều kỳ hạn, ví dụ: Cho vay tiêu dùng trả góp, cho vay trung dài hạn,... các ngân hàng cũng chưa có số liệu tổng hợp về giá trị của các luồng thanh toán ứng với từng kỳ hạn,... Chính hạn chế này sẽ gây trở ngại rất lớn cho các ngân hàng trong việc lượng hóa và quản lý rủi ro lãi suất một cách hữu hiệu.
- Có bộ phận chuyên trách thực hiện việc đo lường rủi ro lãi suất nhưng chưa có kinh nghiệm và chưa được đào tạo chuyên sâu:
Đo lường, đánh giá rủi ro lãi suất của ngân hàng là công việc tương đối khó và đòi hỏi những kỹ thuật khá phức tạp. Công việc này có một vị trí quan trọng trong quá trình quản lý rủi ro lãi suất của mỗi ngân hàng nên thường do một bộ phận chuyên trách thực hiện. Tuy nhiên, hiện tại bộ phận nghiên cứu và quản lí rủi ro của ngân hàng mới ra đời, chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Hơn nữa, hiện nay việc nghiên cứu và đo lường rủ ro lãi suất trong ngân hàng là công việc rất khó khăn và phức tạp.
- Hệ thống thông tin, trình độ công nghệ của ngân hàng chưa đáp ứng yêu cầu quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng trong xu thế hội nhập quốc tế.
Để tăng cường quản lý rủi ro lãi suất nhằm giảm thiểu những tổn thất đối với ngân hàng từ loại rủi ro này, đòi hỏi trong thời gian tới, ngân hàng cần quan tâm tìm hiểu những nguyên nhân gây hạn chế, trên cơ sở đó nghiên cứu áp dụng các giải pháp cần thiết, nhanh chóng khắc phục những mặt còn hạn chế trong công tác quản lý rủi ro lãi suất.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng TMCP Quân đội.
1. Định hướng hoạt động của Ngân hàng TMCP Quân đội và yêu cầu đặt ra đối với quản trị rủi ro lãi suất của Ngân hàng:
1.1 Định hướng hoạt động của Ngân hàng TMCP Quân đội:
Ngân hàng TMCP Quân đội cải cách triệt để và phát triển hệ thống theo hướng đa năng, hiện đại, đa dạng về sở hữu và loại hình tổ chức, có quy mô lớn và hoạt động theo nguyên tắc thị trường với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận, áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế vào hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Chỉ tiêu kế hoạch năm 2008:
-Tổng nguồn vốn tăng : trên 15%
-Tổng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế: tăng 20-22%
-Tổng dư nợ tín dụng: tăng 18-20%
-Tỷ lệ nợ xấu: dưới 3%
-Lợi nhuận sau thuế tăng 15%
Những nhiệm vụ cụ thể của NHTMCP Quân đội cần làm được trong thời gian tới là:
- Cơ cấu lại tổ chức và hệ thống quản lý theo mô hình hướng tới khách hàng và theo chuẩn mực của ngân hàng hiện đại. Lành mạnh hoá hệ thống tài chính và tiến tới đạt các chỉ tiêu theo thông lệ quốc tế về ngân hàng.
- Đa dạng hoá hoạt động kinh doanh ngân hàng bao gồm cả hoạt động ngân hàng bán buôn và hoạt động ngân hàng bán lẻ. Mở rộng quan hệ khách hàng với mọi thành phần kinh tế, chú trọng hơn tới các khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Mở rộng mạng lưới và các kênh hoạt động ngân hàng trên địa bàn Hà Nội. Phát triển nhanh các sản phẩm và dịch vụ của Ngân hàng Quân đội dựa trên nền tảng của công nghệ hiện đại.
- Phát huy vai trò quan trọng trên thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại tệ và hoạt động xuất nhập khẩu.
- Tăng cường đào tạo, đào tạo lại và tuyển dụng mới cán bộ, tạo lập nguồn nhân lực chất lượng cao của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Xây dựng trụ sở và tạo lập không gian giao dịch ngân hàng hiện đại, khang trang, không ngừng nâng cao và hoàn thiện ứng dụng công nghệ trong quản lý và kinh doanh ngân hàng nhằm đa dạng hoá hoạt động nghiệp vụ và đa dạng hoá khách hàng.
Năm 2008, MB cố gắng đẩy nhanh những chương trình phát triển nhằm đưa MB và các công ty thành viên tiếp cận tới những thông lệ tốt nhất trên thế giới và vẫn duy trì được bản sắc riêng của mình.
Theo Trung tướng Phạm Tuân - Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) cho biết: “Ngân hàng TMCP Quân đội sẽ phấn đấu trở thành tập đoàn tài chính lớn”. Ông Phạm Tuân cho rằng mô hình hoạt động của tập đoàn sẽ tuân thủ theo nguyên tắc đem lại lợi ích tối ưu cho khách hàng đối với các nhu cầu sản phẩm và dịch vụ tài chính - ngân hàng, bảo vệ tối đa quyền lợi và lợi ích cổ đông, tuân thủ các quy định pháp luật, tạo điều kiện cho các đơn vị thành viên phát huy tối đa được sức mạnh của mình.
Trung tướng Phạm Tuân cũng cho biết, trong thời gian tới, MB cùng với các công ty thành viên, hoặc cả tập đoàn, tùy thuộc theo mô hình tổ chức, sẽ tiến hành các thủ tục cần thiết để niêm yết chứng khoán của mình trên thị trường, có thể trong và ngoài nước. Việc niêm yết sẽ được tiến hành vào thời điểm thích hợp khi đã hội đủ các điều kiện, đặc biệt sau khi việc lựa chọn đối tác chiến lược đã được hoàn tất. Ông Tuân bày tỏ tin tưởng, cổ phiếu và trái phiếu của MB hay MB Holdings sẽ trở thành một trong những tài sản, công cụ tài chính ổn định cho các nhà đầu tư.
MB đang nhắm đến mục tiêu phát triển ổn định, bền vững, trở thành một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam trong mảng thị trường đã chọn. Năm 2008, MB đặt mục tiêu hoàn tất công cuộc cải tổ trong chiến lược phát triển 2004 - 2008, đồng thời xác định mục tiêu tăng trưởng toàn diện tối thiểu 1,4 - 2 lần so với năm 2007 và mạng lưới phát triển tối thiểu là 100 điểm giao dịch; tổng tài sản đạt trên 47.000 tỷ đồng (trong đó Mb là hơn 40.000 tỷ đồng), phấn đấu đẩy mạnh tiến trình cải tổ mô hình hoạt động của ngân hàng và các công ty thành viên theo hướng hình thành tập đoàn MB Group.
Cơ sở cho việc xây dựng chiến lược hoạt động qua các năm là:
Tăng trưởng cao bằng cách tạo nên sự khác biệt trên cơ sở hiểu biết nhu cầu khách hàng và hướng tới khách hàng .
Xây dựng hệ thống quản lý rủi ro đồng bộ, hiệu quả và chuyên nghiệp để đảm bảo cho sự tăng trưởng được bền vững.
Duy trì tình trạng tài chính ở mức độ an toàn cao, tối ưu hóa việc sử dụng vốn cổ đông MB trở thành một định chế tài chính vững mạnh, có khả năng vượt qua mọi thách thức trong môi trường kinh doanh còn chưa hoàn hảo của ngành ngân hàng Việt Nam.
Có chiến lược chuẩn bị nguồn nhân lực và đào tạo lực lượng nhân viên chuyên nghiệp nhằm đảm bảo quá trình vận hành của hệ thống liên tục, thông suốt và hiệu quả.
Xây dựng “Văn hóa MB” trở thành yếu tố tinh thần gắn kết toàn hệ thống một cách xuyên suốt
MB đang từng bước thực hiện chiến lược tăng trưởng ngang và đa dạng hóa.
Chiến lược tăng trưởng ngang: thể hiện 3 hình thức
Tăng trưởng thông qua mở rộng hoạt động: hiện nay trên phạm vi toàn quốc, MB đang tích cực phát triển mạng lưới kênh phân phối tại thị trường mục tiêu, khu vực thành thị Việt Nam, đồng thời nghiên cứu và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới để cung cấp cho thị trường đang có và thị trường mới trong tình hình yêu cầu của khách hàng ngày càng tinh tế và phức tạp. Ngoài ra, khi điều kiện cho phép, MB sẽ mở văn phòng đại diện tại Hoa Kỳ.
Tăng trưởng thông qua hợp tác, liên minh với các đối tác chiến lược: hiện nay, MB đã xây dựng được mối quan hệ với các định chế tài chính khác, ví dụ như các tổ chức thẻ quốc tế, các công ty bảo hiểm, chuyển tiền Western Union, các ngân hàng bạn (Banknet), các đại lý chấp nhận thẻ, đại lý chi trả kiều hối, v.v… Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng, MB đang quan hệ hợp tác với các định chế tài chính và doanh nghiệp khác để cùng nghiên cứu phát triển các sản phẩm tài chính mới và ưu việt cho khách hàng mục tiêu, mở rộng hệ thống kênh phân phối đa dạng. Đặc biệt, MB đang nỗ lực tham khảo kinh nghiệm, kỹ năng chuyên môn cũng như công nghệ của các đối tác để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình cho quá trình hội nhập.
Tăng trưởng thông qua hợp nhất và sáp nhập: MB ý thức là cần phải xây dựng năng lực tiếp nhận đối với loại tăng trưởng không cơ học này và thực hiện chiến lược hợp nhất và sáp nhập khi điều kiện cho phép.
Chiến lược đa dạng hóa
Đa dạng hóa là một chiến lược tăng trưởng khác mà MB quan tâm thực hiện, MB đã có Công ty chứng khoán Thăng Long, Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản, Công ty quản lý quỹ đầu tư hà Nội đang chuẩn bị thành lập Công ty Cho thuê tài chính. Với vị thế cạnh tranh đã được thiết lập khá vững chắc trên thị trường, trong thời gian sắp tới, MB có thể xem xét thực hiện chiến lược đa dạng hóa tập trung để từng bước trở thành nhà cung cấp dịch vụ tài chính toàn diện thông qua các hoạt động sau đây:
*Cung cấp và tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty bảo hiểm để phối hợp cung cấp các giải pháp tài chính cho khách hàng.
*Nghiên cứu khả năng thực hiện hoạt động dịch vụ ngân hàng đầu tư
Tuy MB đã khẳng định được mình nhưng luôn nhận thức rằng thách thức vẫn còn phía trước và phải nỗ lực rất nhiều, đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện các chương trình trợ giúp kỹ thuật, các dự án nâng cao năng lực hoạt động, hướng đến áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế để có khả năng cạnh tranh và hội nhập khu vực thành công. Do vậy, từ năm 2005, MB đã bắt đầu cùng các cổ đông chiến lược xây dựng lại chiến lược mới. Đó là chương trình Chiến lược 5 năm (2006-2011) và tầm nhìn 2015.
1.2 Yêu cầu đặt ra đối với quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng:
Trong kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong thu nhập của các ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này luôn tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế mới nổi như Việt Nam bởi hệ thống thông tin thiếu minh bạch và không đầy đủ, trình độ quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế, tính chuyên nghiệp của cán bộ ngân hàng chưa cao… Do đó, yêu cầu xây dựng một mô hình quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro lãi suất có hiệu quả và phù hợp với điều kiện Việt Nam là một đòi hỏi bức thiết để đảm bảo hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh, hướng đến các chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro và phù hợp với môi trường hội nhập.
Tất cả các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng đều chứa đựng rủi ro theo công thức: khả năng sinh lời càng lớn thì rủi ro càng cao. Chính vì vậy, khi tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tư duy của Ngân hàng TMCP Quân đội phải thay đổi, yêu cầu trước hết và lớn nhất là quản trị rủi ro. Từ chỗ coi mở rộng, phát triển cả bề rộng và chiều sâu là chính, đến chỗ phải coi quản trị được rủi ro bao gồm phòng ngừa, ngăn chặn, giải quyết hậu quả (nếu có). Ðiều đó đặt ra không những đối với các nghiệp vụ truyền thống mà với bất cứ một nghiệp vụ, dịch vụ mới nào; không những hoạt động nghiệp vụ mà cả việc sắp xếp bộ máy.
Năm 2007 đã có nhiều ngân hàng nước ngoài bắt đầu đặt chi nhánh tại Việt Nam khiến cho hệ thống ngân hàng tại Việt nam càng trở nên phong phú. Những cuộc chạy đua về lãi suất giữa các ngân hàng đã khiến cho nền kinh tế lạm phát nhiều hơn. Điều này khiến cho ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phải đưa ra các chính sách mới về lãi suất để kiềm chế sự lạm phát nền kinh tế.
- Thứ nhất yêu cầu nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại bằng việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, điều chỉnh lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý. Ngoài ra, các ngân hàng cần cơ cấu đầu tư vốn trong điều kiện mới theo hướng, giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, phát triển cho vay tiêu dùng đối với các cá nhân trong nền kinh tế.
- Thứ hai là yêu cầu tăng cường hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán. Ngân hàng thương mại cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, các dự án đầu tư công nghệ cần tính toán kỹ lưỡng để sử dụng công suất phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng TM đa số sử dụng phần mềm T24 cho hoạt động tín dụng và kế toán.
- Thứ ba là yêu cầu nhân lực chất lượng cao là động lực để bức phá. Nâng cao năng lực cán bộ thông qua nâng cao trình độ quản trị điều hành.
- Thứ tư là yêu cầu về hoàn thiện bộ máy tổ chức quản trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường xuyên trong ngân hàng.
- Cuối cùng là yêu cầu phối hợp giữa các ngân hàng trong cùng hệ thống để nắm bắt thông tin kịp thời và đưa ra những điều chỉnh hợp lý nhằm hạn chế rủi ro đem lại cho ngân hàng.
2. Các giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro lãi suất:
2.1. Nâng cao trình độ nhận thức nhà quản lý, cán bộ Ngân hàng, khách hàng về rủi ro lãi suất:
Cần có sự phối hợp giữa ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại để nâng cao trình độ nhận thức của nhà quản trị và cán bộ nhân viên ngân hàng. Trước hết các nhà quản trị ngân hàng cần phải được trang bị kiến thức một cách đầy đủ, sâu sắc về các phương pháp lượng hóa rủi ro lãi suất (dặc biệt là mô hình thời lượng- mô hình đang được đánh giá là tốt nhất hiện nay), cùng với đó là quản lí các nghiệp vụ phát sinh (quy trình giao dịch, phương pháp tính phí giao dịch, phương pháp tính lợi nhuận thu được từ hợp đồng…), biết cách đánh giá mức độ nhạy cảm của các ngưồn và tài sản với lãi suất cũng như xác định chính xác được giá trị của nguồn và tài sản nhạy cảm với lãi suất tại những thời điểm nhất định. Một khi nhà quản trị ngân hàng đã nắm vững kiến thức trên thì việc đào tạo và phổ biến cho hệ thống nhân viên sẽ là vấn đề đơn giản, dễ dàng thực hiện hơn.
Hiện nay, phòng nghiên cứu và quản trị rủi ro của ngân hàng tuy đã có nhưng vẫn chưa hoạt động hiệu quả và chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động quản trị rủi ro, đặc biệt là quản trị rủi ro lãi suất. Ngân hàng nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ, kết hợp với nỗ lực của các ngân hàng thương mại để có thể tổ chức các khóa học đào tạo chuyên sâu tại các nước tiên tiến hoặc đào tạo tại Việt Nam nhưng do chuyên gia nước ngoài- đã áp dụng thành công mô hình quản lí rủi ro lãi suất trực tiếp giảng dạy.
Với nguồn nhân lực hiện có, ngân hàng còn phải đối mặt với tình trạng thiếu các chuyên gia giỏi, có khả năng hoạch định chiến lược và nạn chảy máu chất xám. Theo ông Nguyễn Văn Giàu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân hàng này hiện chưa có đến 1% cán bộ có bằng tiến sĩ, thấp hơn Thái Lan 10 lần và châu Âu là 25 lần. Cũng đề cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực, có ý kiến muốn đặt hàng các trường đào tạo các giám đốc cho ngân hàng. “Việc sắp xếp các giám đốc hiện nay mới chỉ là người “phó” lên thay ông “trưởng”, học lại cách làm việc cũ của ông “trưởng”. Ngân hàng này cũng sẵn sàng đầu tư tài chính cho các trường đào tạo theo nhu cầu của mình. Các chuyên gia của cả ngành ngân hàng, tài chính và giáo dục đào tạo đều cho rằng, các trường nhất thiết phải chỉnh sửa các chương trình đào tạo, bỏ đi một số môn không cần thiết, đi sâu vào đào tạo các kỹ năng chuyên môn, tăng thực hành; Phương pháp đào tạo phải gắn với thực tiễn, nâng cao chất lượng giảng viên; Thông tin về thị trường lao động của ngành phải có sự liên thông giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp… Chính điều này làm cho chất lượng nhân lực tài chính ngân hàng chưa đáp ứng được nhu cầu hiện nay. Vì vậy rất khó để có thể có những chuyên gia giỏi trong lĩnh vực quản trị rủi ro lãi suất, Điều này yêu cầu bức thiết về chất lượng nguồn nhân lực tài chính ngân hàng.
Các nhà quản trị ngân hàng cần kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn và rút ra bài học cho chính mình từ các nước vận dụng đi trước. Bên cạnh đó là việc tăng cường công tác marketing về sản phẩm phòng ngừa rủi ro lãi suất đến cho khách hàng, giúp cho các khách hàng có thể trang bị được những kiến thức cơ bản về rủi ro lãi suất và xây dựng tâm lí phòng ngừa đối với khách hàng. Có như vậy ngân hàng mới có thể phát triển và được khách hàng tín nhiệm.
2.2. Hoàn thiện hệ thống kế toán thống kê tại ngân hàng, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, đầy đủ:
Muốn đo lường rủi ro lãi suất một cách chính xác, đầy đủ thì ngân hàng cần phải có các số liệu thống kê về tài sản, nguồn vốn trong ngân hàng chính xác, kịp thời. Hiện nay, ngân hàng đã hiện đại hóa hệ thống thông tin, nâng cao trình độ công nghệ nhằm tính toán và cung cấp số liệu một cách đầy đủ và chính xác. Chúng ta thấy rằng thời kì tính khe hở kì hạn càng nhỏ thì mức độ an toàn càng cao. Vì vậy thông tin và số liệu của ngân hàng luôn được quản lí và theo dõi từng ngày thậm chí là từng giờ. MB đưa vào sử dụng hệ thống phần mềm chuyên dụng, có tính bảo mật cao, hoàn toàn tích hợp với hệ thống ngân hàng core banking T24 của Ngân hàng. Ngoài chức năng xếp hạng và phân loại nợ, hệ thống còn bổ sung chức năng hỗ trợ ra quyết định cho vay, cho phép trích lập dự phòng trực tiếp và chiết xuất ra được các báo cáo theo yêu cầu quản trị. Đây là những tính năng rất ưu việt của hệ thống này, đáp ứng tốt các yêu cầu về phát triển kinh doanh và quản trị rủi ro của MB. Chính điều này giúp cho việc lượng hỏa rủi ro lãi suất của ngân hàng đạt hiệu quả cao.
2.3. Nghiên cứu, dự báo biến động lãi suất:
Lãi suất là một yếu tố quan trọng, luôn biến động, hết sức phức tạp và khó dự đoán. Những biến động lãi suất có thể giúp cho ngân hàng thu được những khoản lợi khổng lồ nhưng cũng có thể khiến ngân hàng thiệt hại trầm trọng và gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Vì thế, phòng ban chức năng có nhiệm vụ nghiên cứu lãi suất, biến động của nó và tác động của biến động lãi suất đến ngân hàng cùng toàn bộ nền kinh tế. Khi lãi suất thị trường thay đổi thì ngân hàng cần xác định được mức thiệt hại hay lợi nhuận đối với bản thân ngân hàng.
Báo cáo gần đây của Ngân hàng Nhà nước cho thấy diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và của các ngân hàng thương mại đã có những chuyển biến tích cực; cung – cầu vốn cũng đã tương đối cân bằng và vốn khả dụng toàn hệ thống đã có dư thừa…
Từ ngày 2/4 tới, lãi suất huy động VND của các ngân hàng thương mại (với 100% thành viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đồng thuận) sẽ đồng loạt rút về mốc 11%/năm các ký hạn trên 6 tháng; với kỳ hạn 6 tháng trần sẽ là 10,5%/năm.
2.4. Hoàn thiện văn bản pháp lý về đo lường và quản lý rủi ro lãi suất:
Nhà Nước cần hoàn thiện hệ thống luật pháp để điều chỉnh các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro lãi suất giúp cho hoạt động phòng ngừa rủi ro lãi suất của ngân hàng có thể đạt hiệu quả cao. Trước hết ngân hàng nhà Nước phải có những quy chế hướng dẫn, quy định nội dung, quy trình tiến hành các nghiêp vụ phòng ngừa rủi ro. Các giao dịch phát sinhcần có những quy định chặt chẽ về nghĩa vụ cũng như các biện pháp cưỡng chế buộc các bên thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Đồng thời việc luật hóa các nghiệp vụ nhằm quản trị rủi ro lãi suất cũng như xác định trách nhiệm của ngân hàng thương mại về vấn đề quản trị rủi ro lãi suất còn tạo động lực, buộc các ngân hàng phải quan tâm đến vấn đề này.
3. Các điều kiện để thực hiện giải pháp:
3.1. Hiện đại hóa cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ Ngân hàng:
Cung cấp cơ sở hạ tầng thông tin hiện đại nhằm đáp ứng các vấn đề về kinh tế, quy định và cổ đông mà các ngân hàng đang phải đối đầu. Công nghệ phần mềm lõi (core banking) là điều kiện cần để hiện đại hóa hoạt động ngân hàng (NH), mở ra khả năng xử lý đa dịch vụ với cơ sở dữ liệu tập trung. Tiền, tài sản thế chấp trong ngân hàng thực ra chỉ ở trên giấy, sổ sách kế toán, dữ liệu máy tính... chỉ hiển thị bằng thông tin và quản lý tài sản đó thông qua thông tin chứ không thể quản lý tài sản vật lý. Lõi banking chính là hạt nhân toàn bộ hệ thống thông tin của một hệ thống ngân hàng. Core banking chính là một hệ thống các phân hệ nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng như tiền gửi, tiền vay, khách hàng. Thông qua đó, ngân hàng phát triển thêm nhiều dịch vụ, sản phẩm và quản lý nội bộ chặt chẽ, hiệu quả hơn. Trước đây, khi các ngân hàng chưa có "core" hiện đại hoặc dùng "core" lỗi thời, việc quản lý khách hàng rất rải rác và vô cùng bất tiện cho khách hàng. Tiền gửi ở đâu, phải đến đó, không thể rút ở điểm giao dịch khác, mặc dù các điểm này đều trong cùng hệ thống một ngân hàng. Thậm chí, khách hàng muốn giao dịch ở bao nhiêu điểm thì phải mở bấy nhiêu tài khoản. Với sự ra đời của core banking hiện đại, khách hàng chỉ cần có một mã duy nhất ở ngân hàng là có thể giao dịch với rất nhiều sản phẩm và ở bất cứ điểm giao dịch trong cùng hoặc không trong cùng một hệ thống. Ngoài ra, sự ưu việt của phần mềm mới còn ở chỗ chúng chứa tham số rất lớn để mỗi khi ngân hàng muốn phát triển một dịch vụ, sản phẩm sẽ dễ dàng hơn, chỉ cần định nghĩa tham số là có thể tạo sản phẩm mới mà không phải sửa thẳng vào code chương trình. Phần mềm mới này cũng giúp cho ngân hàng có thể thực hiện tới 1.000 giao dịch/giây, quản trị tới 50 triệu tài khoản khách hàng và hỗ trợ thực hiện giao dịch qua hệ thống 24h/ngày.
Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và phải xem đây là mục tiêu chiến lược để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút khách hàng trong nước. Đặc biệt là cơ chế thanh toán, phải nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và có tính hệ thống, đồng bộ và đảm bảo tính an toàn bảo mật cao. Mạng lưới phủ khắp nơi, nhưng giữa các chi nhánh không liên lạc với nhau được thì vô nghĩa. Đầu tư vào công nghệ hiện đại có thể làm tăng chi phí ban đầu, nhưng sẽ giảm chi phí nghiệp vụ trong dài hạn, thu hút nhiều khách hàng, quản trị được rủi ro do thông tin nhanh chóng, công tác điều hành hiệu quả, đặc biệt là ngân hàng sẽ huy động nhiều tiền gởi thanh toán (lãi suất thấp) do thanh toán dễ dàng, tiện lợi và mở rộng kênh phân phối.
Để ngân hàng giảm chi phí và tăng doanh thu thông qua việc bỏ bớt giấy tờ, chuyển đổi chi nhánh ngân hàng thành các trung tâm tài chính, cung cấp dịch vụ hoàn chỉnh giữa các kênh. Thông tin trong chi nhánh được đồng bộ hóa với thông tin tại các trung tâm dịch vụ cung cấp qua điện thoại (call center), trên máy rút tiền tự động ATM và cả mạng Internet. Giải pháp này còn bao gồm khả năng phát triển sang những công nghệ mới, tập trung trọng tải trên các máy chủ và tái tạo lại chi nhánh nhằm giúp chi nhánh bán được nhiều dịch vụ hơn trong khi giảm được chi phí vận hành.
Đặc biệt với việc sử dụng hệ thống phần mềm T24 đã giúp cho MB hoạt động hiệu quả hơn do hệ thống có khả năng chiết xuất ra được các báo cáo theo yêu cầu quản trị.
Điện tử hóa là lời giải duy nhất đúng cho bài toán cạnh tranh của ngành ngân hàng thời mở cửa hội nhập. Thế nhưng, trong khi các ngân hàng đã tự tin tuyên bố về các dịch vụ được số hóa thì phần lớn khách hàng còn dè dặt, thăm dò và sử dụng hạn chế các dịch vụ như Home-banking, Phone-banking, Mobile-banking, Internet-banking,.. Điều này được lý giải là do tâm lý người dùng khi an ninh bảo mật chưa bao giờ được coi là thế mạnh của ngành ngân hàng Việt Nam. Những lo lắng cho vấn đề an toàn trong hệ thống thông tin là cần thiết nhưng không vì thế mà khách hàng Việt Nam có thể mãi nói không với các hình thức thanh toán phi tiền mặt. Đặc biệt khi các cam kết WTO được thực thi một cách đầy đủ thì vấn đề đổi mới và điện tử hóa trở thành yêu cầu bắt buộc với các ngân hàng trong nước trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này. Việc tìm ra các giải pháp, có thể chưa toàn diện nhưng là tối ưu là một bài toán cần có lời giải sớm từ các ngân hàng và các nhà cung cấp giải pháp nói chung.
3.2. Nâng cao chất lượng cán bộ ngân hàng và nhà quản trị ngân hàng:
Việc đào tạo nhân lực ngành tài chính-ngân hàng theo nhu cầu xã hội là nâng cao chất lượng. Cần phải đào tạo đội ngũ nhân viên chuyên sâu về nghiệp vụ, nắm bắt được những yêu cầu về quản trị rủi ro tại ngân hàng. Trong những năm qua, quy mô đào tạo trình độ ĐH, CĐ ngành Tài chính - Ngân hàng (TC-NH) tăng nhanh. Trong tổng số khoảng 1,5 triệu sinh viên năm học 2006-2007 thì có hơn 400 nghìn sinh viên theo học ngành TC-NH. Dự kiến đến năm 2010, nhu cầu nguồn nhân lực của các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kiểm toán và thẩm định giá khoảng 13.500 người. Trong đó, lĩnh vực chứng khoán cần tới 5.000 người, tăng trên 500% so với hiện nay; nhu cầu nhân lực đối với ngành kiểm toán đứng thứ 2 với tốc độ tăng 103% so với hiện nay (khoảng 3.000 người); lĩnh vực thẩm định giá cũng được dự báo cần tới 500 người (tăng 20% so với hiện nay)… Nhu cầu nguồn nhân lực cho ngành này mỗi năm cần khoảng 15.000 nhân viên tốt nghiệp đại học nhưng cộng số sinh viên tại các trường mới chỉ đáp ứng 11.000 người, mỗi năm thiếu gần 4.000 người. Đại diện Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam cũng cho biết hiện nay hầu hết các sinh viên ra trường đều chưa thể đáp ứng ngay được công việc. Gần như 100% các nhân viên đều phải qua một khóa đào tạo ngắn hạn ít nhất là ba tháng của ngân hàng, rồi sau đó có một thời gian “cầm tay chỉ việc” mới có thể làm được.
Trong năm 2007, hệ thống Ngân hàng Việt Nam phát triển nhanh nhiều loại hình với quy mô đa dạng đòi hỏi có sự cạnh tranh cao cả về số lượng và chất lượng. Khi các tổ chức tín dụng phát triển nhanh dẫn đến nguy cơ thiếu hụt lao động có chất lượng. Và bản thân hệ thống Ngân hàng cũng rất lo thiếu nguồn lực. Với khoảng 5.000 cán bộ viên chức của Ngân hàng thì đội ngũ được đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ chiếm chưa đầy 5%, trình độ ĐH chiếm khoảng 61%. Tuy nhiên, xét về kỹ năng nghề nghiệp thì vẫn yếu, khả năng tiếp cận và xử lý công việc theo nhóm còn gặp nhiều khó khăn...
Nguyên nhân của những vấn đề trên là do chương trình đào tạo chậm đổi mới theo yêu cầu sử dụng nguồn nhân lực trong xã hội. Mặt khác, những tồn tại về chất lượng đào tạo còn xuất phát từ một số nguyên nhân liên quan đến chính sách tài chính. Cụ thể, đã giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sử dụng các nguồn lực tài chính nhưng các cơ sở đào tạo chưa thực sự hạch toán đầy đủ, hiệu quả các nguồn lực đầu tư kinh tế tài chính của xã hội. Việc đào tại các trường còn nặng về "cung" chưa chú ý đến nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực trong xã hội. Chưa có cơ chế khuyến khích gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và sử dụng. Việc thực hiện các chính sách của Nhà nước về miễn giảm học phí, trợ cấp xã hội thông qua các cơ sở đào tạo làm ảnh hưởng đến nguồn thu của các trường. Từ đó tạo ra tâm lý các trường "ngại" không muốn tiếp nhận học sinh diện chính sách. Bên cạnh đó, vẫn còn tư tưởng trông chờ bao cấp ngân sách từ nhà nước cấp nên dẫn đến một số cơ sở đào tạo không năng động, thiếu cạnh tranh trong hoạt động...,
Ngân hàng cũng cần có một chiến lược kinh doanh trung hạn và dài hạn, đặc biệt là chiến lược nhân sự. Gắn chiến lược nhân sự với các trường đại học trọng điểm và hình thành các trung tâm đào tạo tại các ngân hàng thương mại. Nhân viên ngân hàng là những người làm việc trên lĩnh vực dịch vụ cao cấp nên phải đảm bảo tính chuyên nghiệp và lương cao. Vì vậy, cần có cơ chế tiền lương phù hợp với trình độ và năng lực của cán bộ, tránh chi trả lương theo cơ chế doanh nghiệp nhà nước, hạn chế việc bình bầu thi đua khen thưởng. Nếu tiếp tục như vậy sẽ mất hết cán bộ giỏi hoặc cán bộ dễ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực…
3.3. Hoàn thiện bộ máy quản trị nội bộ:
Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường xuyên. Như vậy sẽ giúp cho việc quản trị rủi ro chính xác và đem lại hiệu quả cao hơn do việc được cung cấp số liệu và diễn biến tình hình của tăng giảm lãi suất thị trường kịp thời. Từ đó giúp nhà quản trị đưa ra những biện pháp và những hành động đúng lúc, hạn chế được rủi ro về lãi suất với ngân hàng.
3.4. Sự điều chỉnh của ngân hàng nhà nước:
Ngân hàng nhà nước đưa ra những điều chỉnh nhằm hạn chế rủi ro lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế. Việc Kho bạc Nhà nước rút tiền gửi ở các ngân hàng Thương mại về gửi ở Ngân hàng Nhà nước sẽ có tác động đối với mục tiêu kiểm soát lạm phát của nước ta. Đây là hoạt động nằm trong tổng thể chung thắt chặt tiền tệ và tài chính. Điều đó là cần thiết vì trước đây Kho bạc Nhà nước để tiền ở các ngân hàng thương mại thì coi như một khoản vốn của Ngân hàng thương mại. Và đương nhiên Ngân hàng thương mại sẽ mở rộng lượng tín dụng của mình khiến cho tổng cung tăng lên. Chúng ta có thể nhìn thấy rõ, các ngân hàng thương mại ở khu vực Hà Nội trong năm 2007 đã tăng mức tín dụng của mình tới gần 80%, trong khi GDP tăng chỉ trên dưới 10%. Đây là một con số cực kỳ lớn. Do đó để thắt chặt tín dụng bằng tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất ở mức độ nhất định thì việc kéo tất cả các luồng tiền có khả năng trở thành tín dụng dù là tín dụng ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn đều cần chặt chẽ hơn. Về nguyên tắc các khoản tiền gửi của Kho bạc Nhà nước vào ngân hàng thương mại là nhận lãi suất không thời hạn, vì vậy hoàn toàn không gặp khó khăn gì.
Trước sức ép của lạm phát và lo ngại rủi ro quá lớn từ các khoản cho vay bất động sản và cổ phiếu, từ giữa năm 2007, NHNN dường như đã bớt phải chịu sức ép tăng trưởng. Sau nhiều năm, NHNN lại có cơ hội có được quyền lực thực sự mà đáng lẽ nó phải được hưởng. Trên thực tế, NHNN đã có những động thái mạnh mẽ nhằm rút tiền ra khỏi lưu thông: tháng 6/2007, NHNN đã điều chỉnh tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi đối với cả nội tệ. Tuy vậy, lạm phát không giảm mà còn tăng vọt, lên tới 14%/năm trong tháng 1/2008, có lẽ là hậu quả của việc tăng cung tiền mua USD trong năm 2007. Cuối tháng 1/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo điều chỉnh các lãi suất cơ bản, tái cấp vốn và chiết khấu; Ngày 13/2, NHNN thông báo sẽ phát hành 20,3 nghìn tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc đối với 41 NHTM. Đây có lẽ là quyết định gây ra cú sốc cho thanh khoản của hệ thống ngân hàng, vốn đã khá khó khăn từ cuối 2007. Có lẽ do đã cho vay đến hết hạn mức, các ngân hàng thương mại bắt đầu cuộc chạy nước rút để kiếm đủ tiền mặt trả cho tín phiếu, VIBOR lại tăng vọt… NHNN tiếp tục điều hành các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu và lãi suất cơ bản phù hợp với chính sách lãi suất thực dương và yêu cầu kiểm soát chặt chẽ tiền tệ. Trong thời gian trước mắt, mức lãi suất như hiện nay sẽ được ổn định. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay sẽ được điều hành linh hoạt theo hướng giảm dần, phù hợp với tình hình cung cầu vốn trên thị trường.
Việc các ngân hàng thương mại đã phát hành lượng tín dụng lớn ra bên ngoài trong thời gian qua cũng là hiện tượng bình thường của nền kinh tế phát triển trong thời kỳ gia nhập WTO cũng như do những chính sách kinh tế mở khuyến khích phát triển vì vậy tạo ra động lực cho phát triển nóng. Đây cũng là yếu tố bình thường và các nước khác cũng gặp phải. Tuy nhiên khi nóng quá và lại trên cơ sở thiếu lành mạnh, tức là các ngân hàng chỉ dựa trên cơ sở là ra quyết định mượn trụ sở và huy động vốn để tung ra thị trường, thì thiếu tính đảm bảo. Bởi theo nguyên tắc, để lành mạnh hóa thị trường tài chính tín dụng, nhất là thị trường cho vay của ngân hàng thì các ngân hàng đều phải đảm bảo lượng tiền tối thiểu của mình là 8%. Thế nhưng thực tế nhiều ngân hàng không đạt được như vậy, chỉ trừ một số ngân hàng lớn.
Như vậy rõ ràng chúng ta để tình trạng thiếu kiểm soát sự bành trướng của các ngân hàng không lành mạnh sẽ gây ra lượng tín dụng cũng không lành mạnh và nó gây nguy cơ sốt nóng cao và dễ đổ vỡ. Chính vì vậy Chính phủ đã ra quyết định để Ngân hàng Nhà nước có động thái thắt chặt tiền tệ, tăng tính thanh khoản và kiểm soát lượng tín dụng cũng như bắt buộc phải tăng vốn điều lệ, cơ cấu lại ngân hàng, tạo sự lành mạnh.
Tuy nhiên cũng đã đến lúc chúng ta phải tự do hóa tài chính theo lộ trình WTO, tức là dòng vốn nước ngoài sẽ đổ vào rất nhiều và đây mới là yếu tố cần phải tính tới, cần phải chuẩn bị nhiều hơn. Dòng vốn trong nước cũng chỉ là dòng vốn trong nước và có hạn, dòng vốn nước ngoài đổ vào mới là lớn. Đây là bài toán mới đòi hỏi có giải pháp không thể giống như trước đây, không thể cấm đoán, ngăn chặn mà phải bằng những công cụ kinh tế.
Kết luận
Rủi ro lãi suất và quản trị rủi ro lãi suất là vấn đề quan trọng của ngân hàng, nó quyết định đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi lãi suất thay đổi thì tác động đến toàn bộ bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của ngân hàng.
Lãi suất là một đại lượng biến động liên tục, nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng. Ngân hàng không thể tự xác định mức lãi suất mà lãi suất này do thị trường quy định. Ngân hàng chỉ có thể điều chỉnh sự hoạt động của mình theo sự biến động của lãi suất thị trường . Do đó, công tác quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng là hết sức khó khăn và phức tạp.
Hiện nay, khi Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO thì thị trường rộng mở, có nhiều ngân hàng nước ngoài đã vào Việt Nam kinh doanh. Lãi suất thị trường liên tục biến động trong vòng 2 năm qua. Điều này đòi hỏi sự phối hợp giữa các ngân hàng thương mại và sự điều chỉnh của ngân hàng nhà nước nhằm han chế những rủi ro lãi suất đem lại cho các ngân hàng.
Tại ngân hàng TMCP Quân đội, việc quản trị rủi ro lãi suất là vấn đề khá mới mẻ và mới chỉ được quan tâm trong vài năm gần đây. Ngân hàng Quân đội đã sử dụng kợp đồng kì hạn và hợp đồng hoán đổi lãi suất để hạn chế rủi ro lãi suất. Tuy nhiên các biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất khác ( như sử dụng hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai,...) chưa được ngân hàng sử dụng. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ nhân viên và nhà quản trị chưa có kinh nghiệm cũng như chuyên môn về quản trị rủi ro lãi suất.
Để nâng cao hoạt động quản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng nói chung và ngân hàng TMCP Quân đội nói riêng thì ngân hàng cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp phòng trảnh rủi ro trong thời gian dài. Đối với chính phủ, cần ban hành các chính sách và điều luật quy định rõ ràng về hoạt động rủi ro ở ngân hàng nhằm hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh ngân hàng phát triển ổn định và vững chắc. Ngân hàng nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ các ngân hàng thông qua việc điều chỉnh mức lãi suất phù hợp.
Trên đây là những vấn đề về rủi ro lãi suất và hoạt động quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng TMCP Quân đội. Do nhận thức có hạn nên bài làm không tránh khỏi thiếu sót. Em mong nhận được lời nhận xét góp ý của quý Thầy, Cô cùng các bạn sinh viên để bài làm thêm phần hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
NHẬN XÉT CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình ngân hàng thương mại – Chủ biên PGS.TS Phan Thị Thu Hà – Nhà xuất bản Thống kê (2006)
Giáo trình quản trị doanh nghiệp thương mại - Đồng chủ biên PGS.TS Hoàng Minh Đường và PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc – Nhà xuất bản lao động xã hội (2006)
Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - Chủ biên PGS.TS Nguyễn Hữu Tài – Nhà xuất bản Thống kê (2006)
Quy chế hoạt động của Ngân hàng TMCP Quân đội
Báo cáo kết quả kinh doanh của ngân hàng TMCP Quân đội tử năm 1994-2007
Báo Thị trường tài chính tiền tệ số 23 – Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam
Web:
Web:
Web:
10. Web:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11488.doc