LỜI MỞ ĐẦU.
Trong những năm gần đây, hoạt động của các ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng diễn ra rất sôi động. Cùng với đó là sự cạnh tranh rất quyết liệt giữa các ngân hàng. Mặt khác, kể từ khi Việt Nam ra nhập WTO đã tạo ra những cơ hội và thách thức cho nền kinh tế của nước ta nói chung và hoạt động của các ngân hàng thương mại nói riêng. Để có thể đứng vững trên thị trường liên ngân hàng, đòi hỏi các ngân hàng thương mại luôn phải cố gắng và đưa ra những biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trog hoạt động kinh doanh của mình.
Lợi nhuận luôn song hành với rủi ro. Trong các ngân hàng thương mại thì rủi ro luôn gắn liền với mọi hoạt động đặc biệt là rủi ro trong hoạt động cho vay vốn đầu tư.
Khi có biến cố xảy ra thì trước hết ngân hàng bị giảm tỷ suất lợi nhuận, thị phần và uy tín với khách hàng. Sau đó là hàng loạt các hệ luỵ như: thâm hụt quỹ dự phòng rủi ro, cắt giảm tiền lương của các cán bộ . Do vậy, phòng ngừa rủi ro là một vấn đề rất quan trong đối với bất kỳ một tổ chức tín dụng nào.
Được thành lập vào ngày 01/03/1985, tính đến nay trải qua 25 năm hoạt động, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Hà Nội đã không ngừng phát triển và kinh doanh có hiệu quả. Năm 2004, vinh dự được Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng huân chương lao động hạng 3.
Nhận thấy rằng, ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Hà Nội có nhiều điều đáng học hỏi, em đã chọn Ngân hàng là nơi thực tập tốt nghiệp của mình. Qua một thời gian thực tập tại ngân hàng, em nhận thấy một vấn đề tuy không mới nhưng vẫn là một vấn đề khá khó đó là: đánh giá rủi ro trong quá trình thẩm định dự án đầu tư. Vậy nên, em đã chọn đề tài: Rủi ro và đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án vay vốn tại ngân hàng TMCP ngoại thương Hà Nội.
Do hiểu biết còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận được sự góp ý từ phía các thầy cô và các cán bộ phòng quan hệ khách hàng.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề được chia làm 2 chương:
Chương 1: Thực trạng công tác đánh giá rủi ro dự án vay vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương chi nhánh Hà Nội.
Chương 2: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lương công tác đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án vay vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương chi nhánh Hà Nội.
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1707 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Rủi ro và đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án vay vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, với kinh nghiệm xây dựng dây chuyền 1, nhà máy sẽ có những phương án khắc phục ngay từ đầu khi xây dưng.
- Qua thẩm định tại cơ sở ũng thấy các tiêu chuẩn về nguồn nước, không khí đều trong giới hạn cho phép. Qua đó, chúng ta cũng thấy được rằng rủi ro về môi trường đối với dự án này là rất ít.
* Rủi ro mô hình tổ chức quản lý, điều hành dự án.
- Bộ máy lãnh đạo: gồm 4 người trong đó có một giám đốc phụ trách chung và chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả sản xuất kinh doanh của nhà máy. Bên cạnh đó, là 3 giám đốc phụ trách 3 lĩnh vực: lĩnh vực kỹ thuật, lĩnh vực kinh doanh, lĩnh vực nội chính. Ngoài ra, giúp việc cho ban lãnh đạo là các phòng chức năng như: phòng kế hoạch, phòng quản lý chất lượng, phòng tiêu thụ…
- Nhu cầu nhân lực của nhà máy được xác định trên cơ sở:
+ Căn cứ vào chế độ làm việc của các phân xưởng chính của nhà máy.
+ Số liệu tổng kết về năng suất lao động trong các nhà máy xi măng lò quay ở Việt Nam vào khoảng 1700 – 2000 tấn xi măng 1 năm.
+ Tham khảo các bảng chào hàng của nước ngoài.
- Nguồn nhân lực cho nhà máy dự kiến là 615 người, giai đoạn 1 đã đưa vào phân tích hiệu quả đầu tư của dự án là 384 người, vậy nên dây chuyền 2 chỉ tính với 231 người.
- Nhu cầu lao động sử dụng cho 2 mỏ đá vôi và đá sét là 178 người, giai đoạn 1 đã đưa vào phân tích hiệu quả đầu tư của dự án là 107 người, dây chuyền 2 chỉ tính với 71 người.
Với những yêu cầu về nguồn nhân lực như trên thì nhà máy đã chú trọng đến khâu đào tạo nguồn nhân lực cho nhà máy:
- Thực hiện tốt khâu tuyển dụng nhân sự cho nhà máy: cán bộ lãnh đạo và quản lý có thể thuê giám đốc hoặc tuyển dụng trực tiếp; lao động kỹ thuật thì lựa chọn từ các trường đại học liên quan, lao động giản đơn tuyển dụng tại địa phương…
- Kế hoạch đào tạo: nhà máy có những chương trình đào tạo trong nước đối với những kỹ sư, công nhân tuyển dụng từ các trường đại học, trung cấp, dạy nghề và thực tập tại một số nhà máy xi măng lò quay. Ngoài ra, cần gửi một số cán bộ, kỹ sư chủ chốt đi học tập tại nhà máy có công nghệ giống lúc chạy thử tại nước ngoài.
Chương trình đào tạo:
Đào tạo trong nước: lực lượng kỹ sư, công nhân tuyển dụng từ các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề được học lý thuyết và thực hành tại một nhà máy xi măng lò quay theo chương trình 3-6 tháng.
Chương trình đào tạo công nhân vận hành dây chuyền công nghệ gồm 18 tháng lý thuyết và 6 tháng thực hành tại một nhà máy xi măng lò quay.
Toàn bộ công nhân, kỹ sư vận hành và bảo dưỡng thiết bị được đào tạo, huấn luyện trong giai đoạn lắp đặt và chạy thử trong chương trình do các chuyên gia của nhà cung cấp thiết bị đảm nhiệm.
Đào tạo nước ngoài: chủ đầu tư cần cử 1 nhóm nhân sự chủ chốt ra nước ngoài thực tập tại nhà máy có công suất và trình độ công nghệ tương tự trước giai đoạn chạy thử.
Nhân sự thực tập ở nước ngoài bao gồm:
+ Kỹ sư công nghệ: 4 người.
+ Kỹ sư vận hành tại buồng điều khiển trung tâm: 8 người.
+ Kỹ sư sử dụng máy phân tích Rơnghen: 2 người.
+ Kỹ sư cơ khí: 2 người.
+ Kỹ sư điện và tự động hoá: 2 người.
+ Kỹ sư bảo dưỡng dụng cụ đo: 4 người.
Thời gian thực tập dự kiến là: 3 tháng.
Kết luận: - Do dự án dây chuyền 2 của nhà máy là dự án mở rộng nên có thể tận dụng tối đa nguồn nhân lực của giai đoạn 1 để quản lý và vận hành, góp phần giảm thiểu chi phí và nếu cần thì có thể tuyển dụng thêm lao động ở địa phương. Vậy nên, dự án sẽ không gặp phải vấn đề rủi ro về lao động trong quá trình triển khai.
* Rủi ro về kinh tế vĩ mô:
- Rủi ro về lạm phát: nếu có lạm phát xảy ra thì giá cả nguyên vật liệu tăng lên, nhưng cũng không ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả của dự án.
- Rủi ro về thay đổi tỷ giá hối đoái: ngoại tệ mà dự án sử dụng là USD, do vậy cần phải tính đến trường hợp thay đổi tỷ giá.
- Rủi ro về tốc độ tăng trưởng: dự kiến mức tăng trưởng kinh tế của nước ta là ổn định.
- Các cam kết của Nhà Nước về phá giá đồng tiền và cung cấp ngoại hối là không có.
Kết luận: rủi ro về các yếu tố kinh tế vĩ mô là có thể chấp nhận được.
b. Phương pháp định lượng trong đánh giá rủi ro đầu tư dự án.
Sau khi phân tích một cách định tính rủi ro đầu tư dự án, các cán bộ nhận thấy dự án nhạy cảm với yếu tố giá cả nguyên vật liệu và tổng mức đầu tư là nhiều nhất.
Do vậy, sau khi tập hợp các khoản mục chi phí và doanh thu tăng khi giá cả nguyên vật liệu và tổng mức đầu tư thay đổi, các cán bộ thẩm định đã tiến hành phân tích độ nhạy về tính khả thi của dự án. Các cán bộ đã đưa ra những trường hợp sau:
Trường hợp 1:
Bảng 1.7: khi tổng mức đầu tư thay đổi.
Các chỉ tiêu được khảo sát
PA cơ bản
Mức độ thay đổi tổng mức đầu tư
-2%
-1%
0%
2%
4%
6%
8%
10%
NPV_TIP
341.264
368.215
354.721
341.264
314.453
287.773
261.218
234.779
208.451
IRR_TIP
15.28g
15.61
15.44
15.28
14.95
14.63
14.33
14.03
13.74
NPV_EPV
195.679
219.153
207.416
195.679
172.204
148.730
125.255
101.781
78.307
IRR_EPV
17.25%
17.92%
17.58
17.25%
16.63%
16.04%
15.49%
14.97%
14.47%
Trong trường hợp này, khi mà tổng vốn đầu tư tăng lên nhiều nhất là 10% thì khi đó, đứng trên quan điểm của ngân hàng khi đó NPV=208.451 triệu đồng >0, IRR= 13,74%> 11.32% do vậy dự án vẫn hiệu quả khi tổng vốn đầu tư tăng lên.
Trường hợp 2 :
Bảng 1.8: khi giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng lên.
STT
Các chỉ tiêu được khảo sát
PA cơ bản
Tốc độ tăng giá nguyên vật liệu đầu vào
2%
4%
6%
1
NPV_TIP
341.264
293.910
83.478
- 165.573
2
IRR-TIP
15,28%
14.78%
12.39%
8.89%
3
NPV_EPV
195.679
154.480
-28.073
-243.175
4
IRR_EPV
17.25%
16.41%
12.32%
6.1%
Trong trường hợp này, đứng trên quan điểm của ngân hàng thì khi giá cả nguyên vật liệu tăng lên 2%, 4% thì dự án vẫn mang lại hiệu quả, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính vẫn dương và lớn hơn các chỉ tiêu giới hạn. Khi giá cả nguyên vật liệu tăng lên 6% thì NPV <0 và IRR < 11.32%. Tuy vậy, trường hợp này là rất khó xảy ra
Trường hợp 3:
Bảng 1.9: khi cả giá nguyên vật liệu và tổng mức vốn đầu tư cùng thay, đứng trên quan điểm của ngân hàng.
Phương án ban đầu
Mức độ thay đổi tổng vốn đầu tư.
NPV_TIP
341.264
2%
5%
7%
10%
Mức độ thay đổi giá cả nguyên vật liệu
2%
267.223
227.428
201.044
161.672
4%
57.356
18.336
-7.507
-46.148
6%
-191.007
- 229.015
-254.265
-292.016
7%
-331.986
-369.425
-394.313
-431.548
Các cán bộ thẩm định đã giả sử đồng thời cả tổng mức đầu tư và giá cả nguyên vật liệu cùng thay đổi. Trong trường hợp, tổng mức vốn đầu tư tăng 7% và giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng 4% thì các chỉ tiêu hiệu quả tính toán bắt đầu âm.
Kết luận: các cán bộ thẩm định đã phân tích độ nhạy một cách rất kỹ lưỡng. Họ không những tính đến sự thay đổi của 1 yếu tố mà còn tính đến sự thay đổi của đồng thời 2 yếu tố. Các bảng phân tích đã cho thấy ngay cả khi trong những trường hợp xấu nhất hầu như không thể xảy ra thì dự án vẫn tạo ra được những khoảng an toàn nhất định.
1.2.2.3 Rủi ro tín dụng
Để đảm bảo cho khoản tiền vay của mình thì ngân hàng cũng rất cẩn thận trong việc xem xét các biện pháp đảm bảo tiền vay của khách hàng.
Tài sản đảm bảo được khách hàng đưa ra là tài sản được hình thành từ vốn vay.
Đánh giá tài sản đảm bảo:
Tài sản đảm bảo là tài sản hình thành từ vốn vay đối với các hạng mục công trình thiết bị được giải ngân. Gía trị tài sản đảm bảo bằng giá trị quyết toán công trình hoặc bằng giá trị thanh toán phần mua, bán nhập khẩu thiết bị. Tỷ lệ % tài sản đảm bảo/ giá trị cấp tín dụng = 100%. Tổng tài sản đảm bảo ước tính: 500 tỷ đồng = 100% giá trị cấp tín dụng. Hơn thế nữa, khả năng chuyển nhượng tài sản hình thành từ vốn vay cũng dễ chuyển nhượng hơn so với các thiết bị khác.
Ngoài ra, ông Đặng Lê Hoa là cổ đông lớn nhất của Chủ đầu tư, sẽ cam kết dùng tài sản cá nhân của mình để thế chấp trong trường hợp dự án không đạt hiệu quả và không có khả năng trả nợ.
Kết luận:
Đối với tài sản hình thành từ vốn vay, do có yếu tố hao mòn trong quá trình sử dụng nên định kì 6 tháng hoặc 1 năm phải định giá lại tài sản, nếu giá trị tài sản bảo đảm nhỏ hơn nghĩa vụ nợ thì sẽ yêu cầu khách hàng bổ sung thêm tài sản. Măt khác, tài sản hình thành từ vốn vay phải được mua bảo hiểm trong thời gian vay vốn ngân hàng.
Đối với việc ông Đặng Lê Hoa cam kết dùng tài sản cá nhân để thanh toán nghĩa vụ nợ, thì phải được xác nhận và có giấy tờ chứng nhận hợp pháp.
Từ những căn cứ nêu trên, rủi ro do cấp tín dụng đầu tư dự án là rất khó xảy ra. Ngân hàng có thể cho vay vốn đầu tư dự án.
1.4 Tình hình thẩm định dự án tại ngân hàng trong thời gian qua.
Bảng 1.10: Số dự án vay vốn, số dự án được phê duyệt.
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
Số dự án xin vay vốn
20
25
34
28
55
Số tiền vay
567,8
646,7
756,5
580
1250
Số dự án được phê duyệt
16
20
28
23
53
Tổng dư nợ cho vay dự án
300,1
578,3
650,6
400,2
1000
Số dự án điều chỉnh kì hạn nợ
0
1
2
1
0
Số dự án có nợ quá hạn
1
0
0
1
1
Tổng dư nợ quá hạn
13
0
0
25
20
(Nguồn: phòng quan hệ khách hàng)
- Trong thời gian qua, phòng quan hệ khách hàng đã thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý và cho vay theo dự án. Phòng quan hệ khách hàng không những ra quyết định đầu tư những dự án mang lại hiệu quả cao cho ngân hàng mà còn đóng góp cho sự phát triển của kinh tế thủ đô nói riêng và đất nước nói chung.
- Số dự án vay vốn và được phê duyệt tăng mạnh qua các năm. Không những thế số tiền vay vốn còn tăng dần qua các năm. điều đó chứng tỏ công tác thẩm định dự án nói chung và đánh giá rủi ro nói riêng của ngân hàng luôn được chú trọng và nâng cao.
- Nhìn vào bảng ta thấy số dự án phải điều chỉnh kì hạn nợ trong các năm 2006, 2008 là 1 dự án, năm 2005, 2009 là không dự án nào, năm 2007 là một dự án. Số dự án có nợ quá hạn chỉ là một dự án. Năm 2008, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nên việc vay vốn đầu tư cho các dự án là khó khăn, vì lãi suất cao chi phí sử dụng vốn vay cao, kinh tế rơi vào tình trạng giảm phát.
- Từ những số liệu trên đã cho thấy, các dự án được đánh giá rủi ro khá kĩ, khả năng trả nợ của các chủ đầu tư là rất tốt, các dự án có nợ quá hạn và phải điều chỉnh nợ là rất ít.
Hơn thế nữa, ngân hàng còn luôn tìm các dự án hiệu quả để tài trợ nhằm tìm kiếm lợi nhuận và phục vụ khách hàng được tốt hơn. Những lĩnh vực mà ngân hàng cho vay: đầu tư văn phòng, cao ốc cho thuê, các khu du lịch nghỉ dưỡng, các dự án mở rộng sản xuất.
- Ngân hàng ngoại thương trong những năm qua đã không ngừng đổi mới về mọi mặt để phục vụ khách hàng được tốt hơn.
- Ngân hàng chú trọng xây dựng quy trình tín dụng cụ thể để hướng dẫn các cán bộ thực hiện cho tốt, việc kiểm tra, giám sát tín dụng được thực hiện thường xuyên trước, trong và sau khi cho vay. - Bên cạnh đó, các hoạt động bảo lãnh cũng phát huy tác dụng nhằm đáp ứng nhu cầu này càng đa dạng của khách hàng. Ngân hàng phân loại đối tượng khách hàng thành khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân giao cho 2 phòng quan hệ khách hàng và phòng tín dụng thể nhân để đảm bảo phục vụ khách hàng được chuyên sâu hơn.
- Chính nhờ những đổi mới, nỗ lực nêu trên mà trong thời gian vừa qua, ngân hàng đạt được những kết quả đáng kể.
Biểu đồ 1.2: Tổng dư nợ qua các năm.
(Nguồn: phòng quan hệ khách hàng)
- Nhìn vào biểu đồ ta thấy, tình hình dư nợ các năm tăng dần. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần, khối khách hàng cá nhân vay vốn ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.
- Năm 2008, do suy thoái kinh tế nên dư nợ cho vay giảm, năm 2009 đã có dấu hiệu phục hồi.
- Năm 2009, dư nợ tín dụng đạt 3000 tỷ đồng, vượt 10% kế hoạch đề ra cho năm 2009. Tỷ lệ nợ xấu, khó đòi chiếm 1,1% tổng dư nợ. có được những kết quả trên phải kể đến nỗ lực không ngừng của các cán bộ tín dụng cộng thêm công tác đánh giá rủi ro có độ tin cậy và chính xác cao.
Đánh giá công tác đánh gía rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại ngân hàng ngoại thương chi nhánh Hà Nội.
1.5.1 Những kết quả đạt được.
1.5.1.1 Về thông tin.
- Về công tác thu thập thông tin
Các án bộ thẩm định sau khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng, bước đầu họ sẽ kiểm tra sơ bộ các tài liệu liên quan trong hồ sơ vay vốn, sau đó nếu thấy cần bổ sung thêm thì họ sẽ yêu cầu khách hàng nhanh hoàn thiện hồ sơ. Trong trường hợp từ chối cho vay thì các cán bộ thẩm định phải ghi rõ lý do. Bên cạnh nguồn thông tin do khách hàng cung cấp, các cán bộ thẩm định sẽ thu thập từ nhiều nguồn khác như: thông qua những uy tín vay vốn với những lần vay vốn trước, qua tìm hiểu bên ngoài., từ trên mạng …do vậy phần thu thập thông tin là tương đối đầy đủ và toàn diện, đảm bảo tính khách quan, khoa học và toàn diện.
- Về công tác xử lý thông tin:
Sau khi thông tin được thu thập về từ các nguồn, các cán bộ thẩm định sẽ xem xét, sàng lọc thông tin thật cẩn thận, lập báo cáo thẩm định và đánh giá rủi ro sau đó trình lãnh đạo phòng ký duyệt. đối với nhũng dự án lớn vượt thẩm quyền của lãnh đạo phòng thì sẽ chuyển lên cho giám đốc ra quyết định, hơn nữa là hội đồng tín dụng cơ sở xem xét giải quyết
Mặt khác, ngân hàng được trang bị một hệ thống máy tính hiện đại và đồng bộ nên việc trao đổi thông tin trong nội bộ ngân hàng và toàn hệ thống là rất nhanh và hiệu quả.
- Về công tác lưu trữ thông tin:
Công tác này luôn phải được kiểm tra chặt chẽ. Hồ sơ của khách hàng sẽ được lưu trữ tại bộ phận kho quỹ và kế toán, bên cạnh đó sẽ được nhập thông tin vào hệ thống máy tính của các cán bộ thẩm định. Do vậy công tác lưư trữ thông tin luôn được đảm bảo.
1.2.5.2 Về đội ngũ cán bộ.
- Hiện nay, ngân hàng có 2 đợt tuyển dụng cán bộ vào tháng 6 và tháng 10 hàng năm. Các cán bộ được tuyển vào làm việc phải trải qua 2 vòng thi: vòng 1 thi lý thuyết nghiệp vụ và tiếng anh, vòng 2 là vòng phỏng vấn. do vậy chất lượng cán bộ được đảm bảo.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định là một đội ngũ cán bộ năng động, trẻ trung, có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Trình độ cán bộ được đảm bảo, với hầu hết là trình độ đại học, trong đó có những cán bộ là trình độ thạc sĩ. Các cán bộ được đào tạo về nhiều mảng khác nhau phục vụ nhu cầu vay vốn đa dạng của các dự án: vay đầu tư cao ốc, văn phòng cho thuê, dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất… Hơn thế nữa, hàng năm ngân hàng luôn tổ chức những buổi tập huấn trao đổi kinh nghiệm và nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ.
- Phòng quan hệ khách hàng được chia thành các tổ: tổ thẩm định, tổ quản lý rủi ro, tổ tín dụng. Với sự chuyên môn hoá này sẽ làm cho công tác thẩm định và quản lý rủi ro được xâu chuỗi, chuyên nghiệp và hiệu quả hơn.
1.5.1.3 Về quy trình đánh giá rủi ro.
- Tất cả các dự án đầu tư vay vốn tại ngân hàng đều được đánh giá rủi ro một cách cẩn thận và kỹ lưỡng theo đúng quy trình nghiệp vụ.
- Sau khi tiếp nhận hồ sơ, các cán bộ thẩm định sẽ tiến hành theo đúng các quy định và trình tự ở trên. việc đánh giá rủi ro một cách khoa học, toàn diện sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được những rủi ro không đáng có trong việc cho vay đầu tư dự án.
- Ngân hàng luôn lấy phương châm nhanh chóng, chính xác, kịp thời, khách quan, khoa học toàn diện để đánh giá rủi ro. Một mặt vừa đảm bảo cho ngân hàng giảm thiểu được rủi ro, vừa giúp cho khách hàng nhanh chóng được biết kết quả tránh làm lỡ cơ hội kinh doanh của khách hàng.
1.5.1.4 Về phương pháp đánh giá rủi ro.
- Một dự án đầu tư luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, ngân hàng đã áp dụng nhiều phương pháp đánh giá khác nhau để phù hợp với từng loại rủi ro và cũng để kết quả đánh giá rủi ro được khách quan, khoa học và toàn diện.
- Đối với phương pháp định tính: bằng việc xác định xem dự án có những loại rủi ro nào và xảy ra trong trường hợp nào các cán bộ thẩm định sẽ đưa ra từng phương án xử lý cho từng trường hợp cụ thể,
- Đối với phương pháp phân tích độ nhạy: phương pháp này xem xét các yếu tố bất lợi tác động đến dự án, khi các yếu tố này tác động đến làm ảnh hưởng đến hiệu quả và tính khả thi của dự án như thế nào. Các cán bộ thẩm định đánh giá rủi ro sao cho nó là sự kết hợp của các khả năng khác nhau để tìm ra giải pháp thích hợp.
- Đối với phương pháp thẩm định theo trình tự: các rủi ro được đánh giá một trình tự từ chi tiết đến tổng hợp. khi thẩm định, trong khi xem xét từng khía cạnh riêng biệt sau đó sẽ được tổng hợp lại thành các nhóm rủi ro của dự án. điều đó giúp không phải đánh giá lại các rủi ro tránh việc phải đánh gía lại và thiếu xót các rủi ro.
- Đối với phương pháp dự báo: bằng việc đặt ra các câu hỏi điều gì có thể xảy ra, và vấn đề then chốt là gì, các cán bộ thẩm đinh sẽ xem yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án để từ đó loại trừ được những yếu tố không chắc chắn, cũng như việc đưa ra các quyết định về khả năng sinh lời của dự án.
1.5.1.5 Về nội dung thẩm định.
- Các nội dung thẩm định được đánh giá khá toàn diện và đầy đủ. Các nhận định do các cán bộ thẩm định đưa ra từ các loại rủi ro đều có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau trong việc đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng.
- Thông qua việc sử dụng kết hợp các phương pháp đánh giá rủi ro mà nội dung thẩm định được đánh giá tỷ mỷ, kỹ lưỡng, đầy đủ khách quan.
- Các rủi ro đầu tư dự án được xem xét khá đầy đủ: rủi ro về chính sách; rủi ro về thị trường, thu nhập, thanh toán.; rủi ro về nguồn cung cấp; rủi ro vận hành, bảo trì; rủi ro xây dựng, thi công; rủi ro về kinh tế vĩ mô; rủi ro về môi trường xã hội.
1.5.1.6 Về trình độ công nghệ.
- Ngân hàng trang bị một hệ thống máy tính rất hiện đại, với đầy đủ các phần mềm có những tính năng chuyên dụng phục vụ cho việc phân tích và n thẩm định dự án như : microsoft word, excel, pdf…
1.5.2 Những khó khăn còn tồn tại.
1.5.2.1 Hạn chế về mặt thông tin.
Để đánh giá rủi ro thật chính xác thì công tác thu thập, xử lý thông tin là rất quan trọng. Nó góp phần cho việc ra quyết định có cho vay hay không đối với các dự án đầu tư. Nhưng công tác này còn được thực hiện chưa thật tốt tại Ngân hàng.
những nguồn thông tin mà các cán bộ do sử dụng chủ yếu vẫn là do khách hàng cung cấp. Do vậy, thông tin thu thập được mang nặng tính chủ quan của khách hàng. Mặt khác, nếu sử dụng nguồn thông tin từ hệ thống ngân hàng, đôi khi các thông tin không được cập nhật, nếu là nguồn thông tin từ trên mạng thì nguồn thông tin này chưa được một cơ quan nhà nước nào đứng ra đảm bảo là chính xác. Vậy nên nguồn thông tin chỉ mang tính hình thức.
1.5.2.2 Hạn chế về cán bộ.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, thì các cán bộ thẩm định ở ngân hàng còn có một số mặt hạn chế:
- Đội ngũ nhân viên làm công tác thẩm định tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ, do vậy họ không có nhiều kinh nghiệm trong giải quyết một số vấn đề khó khăn, vướng mắc trong quá trình đánh giá rủi ro.
- Khi mà đất nước ta đang trong đà phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, thì nhu cầu về vốn đầu tư cho các dự án là rất lớn. nhưng đội ngũ cán bộ của phòng quan hệ khách hàng còn mỏng và thiếu. số lượng các dự án ngày càng tăng về số lượng trong khi đội ngũ cán bộ còn mỏng làm cho chất lượng của những báo cáo rủi ro sẽ bị giảm xuống.
- Hơn thế nữa, với bối cảnh cạnh tranh gay gắt, đan xen giữa những cơ hội và thách thức thì công tác quản lý rủi ro càng gặp nhiều khó khăn. Đứng trước những mặt hạn chế trên, ngân hàng phải luôn cố gắng để đáp ứng nhu cầu cũng như giữ vững lòng tin của khách hàng.
1.5.2.3 Về quy trình đánh giá rủi ro.
Ngân hàng luôn chú trọng công tác đánh giá rủi ro. Tuy nhiên, quy trình đánh giá rủi ro của ngân hàng còn sơ sài, mang nặng tính hình thức.
Như quy trình đã nêu ở trên, chúng ta thấy rằng Ngân hàng chỉ mới đưa ra được quy trình tổng quát mà chưa có được những quy trình cụ thể riêng đối với đánh giá rủi ro của dự án đầu tư, gây khó khăn chi các cán bộ làm công tác thẩm định.
Mặt khác, hệ thống chấm điểm tín dụng mặc dù đã được Ngân hàng áp dụng từ rất lâu, tuy nhiên trong bối cảnh nhiều biến động thì Ngân hàng nên có những thay đổi trong các tiêu chí đánh giá để phù hợp hơn với thực tế.
1.5.2.4 Hạn chế về nội dung phân tích.
Bên cạnh những mặt thuận lợi đã kể trên thì nội dung phân tích của ngân hàng còn có những mặt hạn chế:
Nhìn chung, ngân hàng mới chỉ tập trung vào xem xét các vấn đề liên quan đến rủi ro kinh tế, kỹ thuật mà không quan tâm đến các vấn đề khác như: rủi ro về kinh tê vĩ mô, rủi ro xây dựng thi công...
* Khi đánh giá rủi ro dự án đầu tư:
- Về khía cạnh kỹ thuật: thông thường những cán bộ làm công tác thẩm định được đào tạo chỉ chuyên sâu về lĩnh vực kinh tế, vậy nên phần đánh giá rủi ro kỹ thuật mang nặng tính hình thức, chỉ dựa vào những tài liệu do khách hàng cung cấp, thiếu những tìm hiểu thực tế.
- Về tổng vốn đầu tư: đôi khi khách hàng sẽ nâng tổng mức vốn đầu tư ban đầu nên rất cao so với thực tế với hy vọng sẽ vay được nhiều vốn hơn từ ngân hàng. Do vậy, nếu như không xem xét kỹ ngân hàng rất dễ gặp rủi ro, mất vốn.việc tính toán các chỉ tiêu doanh thu và chi phí dự kiến của dự án gặp rất nhiều khó khăn.
- Doanh thu dựa trên hàng loạt những báo cáo nghiên cứu thị trường mà khách hàng cung cấp, giá bán sản phẩm dự kiến, thị phần mà dự án có thể chiếm lĩnh. Tuy nhiên, những con số này là rất khó xác định. Đối với khoản mục chi phí: một số chi phí được tính toán dựa trên mặt bằng giá thị trường( chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công…), đối với một số loại chi phí khác như: chi phí quản lý doanh nghiệp…thường chấp nhận theo giá dự toán của chủ đầu tư.
- Do vậy, không thể tránh khỏi những sai lầm trong đánh giá hiệu quả tài chính.Việc phân tích tài chính dự án là khá đầy đủ dựa trên một loạt các chỉ tiêu như: NPV, B/C, IRR,T… tuy vậy, trong quá trình đánh giá, Ngân hàng thường bỏ qua yếu tố trượt giá, lạm phát.
- Hơn thế nữa, ngoài các loại rủi ro nêu trên thì Ngân hàng đã bỏ qua một loại rủi ro cũng khá quan trọng, đó là tự bản thân mỗi dự án đã chứa đựng những loại rủi ro đặc thù, vậy nên Ngân hàng cần xem xét kĩ và đưa vào nội dung đánh giá để giảm thiểu được các loại rủi ro có thể xảy đến.
1.5.2.5 Hạn chế về phương pháp đánh giá rủi ro.
Ngân hàng thường căn cứ vào đặc điểm của các loại rủi ro mà lựa chọn phương pháp đánh giá. Tuy vậy, các loại rủi ro lại được xem xét một cách độc lập mà không có sự tương quan với những loại rủi ro khác.
Trong phương pháp phân tích độ nhạy, thường ngân hàng chỉ xem xét đến sự biến động của một nhân tố mà chưa xem xét đến trường hợp hai hay nhiều nhân tố cùng một lúc, do vậy kết quả đánh giá rủi ro nhiều khi còn hạn chế.
Bên cạnh đó, thì việc phân tích độ nhạy còn sơ sài, chưa tính toán cụ thể, chủ yếu chỉ tập trung vào các biến động xoay quanh tổng vốn đầu tư, doanh thu chi phí mà không xem xét đến các biến động khác.
1.5.2.6 Hạn chế về trình độ công nghệ.
Hiện nay, ngân hàng chưa có những phần mềm hỗ trợ các cán bộ trong việc đánh giá rủi ro, trong phân tích tài chính sử dụng excel chỉ hỗ trợ được phần tính toán,các công viêc còn lại chủ yếu vẫn là do các cán bộ đảm nhiệm. vậy nên, đối với các dự án lớn thì các cán bộ thẩm đinh gặp rất nhiều khó khăn.
1.5.3 Nguyên nhân của những tồn tại trên.
Những hạn chế nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Vì vậy, ngân hàng cần tìm hiểu rõ nguyên nhân để đưa ra những đối sách hợp lý nhằm giảm thiểu những rủi ro, tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển.
* Nguyên nhân từ bản thân ngân hàng.
- Các cán bộ thẩm định hầu hết là còn rất trẻ, còn thiếu kinh nghiệm làm việc và những vấn đề phát sinh trong quá trình đánh giá rủi ro. Mặt khác, hầu hết họ được đào tạo chuyên về kinh tế và tài chính nên những vấn đề liên quan đến lĩnh vực phi tài chính là khó khăn lớn khi mang ra xem xét, đánh giá.
- Việc thiếu những chỉ tiêu hiệu quả tài chính của doanh nghiệp, khách hàng và dự án đầu tư đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả đánh giá rủi ro.
Nguyên nhân từ phía khách hàng:
- Hiện nay, số lượng các ngân hàng ngày càng nhiều, vậy nên sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt. các doanh nghiệp lại có càng nhiều cơ hội lựa chọn ngân hàng để vay vốn. Do vậy, muốn giữ chân khách hàng thì công tác bảo mật thông tin luôn được chú trọng.
vậy nên thiếu những trao đổi thông tin về tình hình dư nợ, quan hệ tín dụng của khách hàng đối với các ngân hàng khác, do đó rất khó khăn trong việc đánh giá rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp hiện nay thường không muốn công khai, minh bạch hoá tình hình tài chính một cách rộng rãi vì điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Do vậy, các cán bộ thẩm định sẽ rất kho khăn trong việc đánh giá rủi ro.
Một số nguyên nhân khác:
- Ngân hàng Nhà Nước với vai trò là chỉ đạo, hướng dẫn , quản lý các ngân hàng thương mại đã chưa thực hiện tốt vai trò của mình. Hệ thống các văn bản hướng dẫn, những quy định chồng chéo, hay thay đổi là những khó khăn cho các ngân hàng trong việc thẩm định tín dụng.
- Hiện nay chưa có một hệ thống đánh giá mức độ tín nhiệm, minh bạch về tài chính của các doanh nghiệp nên gây trở ngại cho các ngân hàng trong quá trình thu thập thông tin đánh giá rủi ro cho khách hàng.
- Do sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại về khách hàng tiềm năng, nên không có sự trao đổi thông tin với nhau mặc dù điều này là rất cần thiết.
- Hơn thế nữa, nước ta hiện nay chưa có một hệ thống chung đánh giá mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp, mà hầu hết đều do các quy định riêng của từng ngân hàng quy định. Do vậy, thiếu đi một nguồn thông tin rất hữu ích cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PH ÁP NHẰM NÂNG CAO CHÂT LƯỢNG CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG CHI NHÁNH HÀ NỘI.
2.1 Phương hướng hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới.
2.1.1 Về huy động vốn.
Có thể nói vốn là linh hồn của mọi hoạt động trong nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Hiểu rõ tầm quan trọng của vốn, ngân hàng ngoại thương chi nhánh Hà Nội đưa ra những chủ trương như sau:
- Đẩy mạnh việc huy động tiền gửi từ dân cư.
- đa dạng hoá các sản phẩm huy động với lãi suất và kỳ hạn linh hoạt đáp ứng tối đa nhu cầu gửi tiền của khách hàng.
- Xây dựng những sản phẩm huy động vốn mang đặc trưng riêng của chi nhánh.
- Duy trì mối quan hệ với những khách hàng truyền thống, khách hàng lớn, đồng thời mở rộng tìm kiếm khai thác thêm những khách hàng mới giàu tiềm năng.
- Nâng cao tỷ trọng huy động vốn trung và dài hạn nhằm tập trung vốn cho vay đầu tư phát triển.
- Có những dịch vụ chăm sóc khách hàng chu đáo, những chương trình khuyến mại nhằm thu hút lượng tiền gửi.
- Chuyển dịch cơ cấu nguồn theo hướng tự chủ về nguồn, đảm bảo đáp ứng nhu cầu cho vay đầu tư phát triển.
- Đánh giá, phân tích cơ cấu tài sản nợ, định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra theo biến động thị trường để xây dựng kế hoạch điều chỉnh cho hợp lý.
- Cập nhật thường xuyên thông tin về thị trường, nắm bắt thông tin từ nhiều nguồn, nghiên cứu dự báo sự biến động của lãi suất để có kế hoạch điều chỉnh kịp thời.
2.1.2 Về thẩm định và cho vay dự án.
Dư nợ cho vay theo dự án ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của ngân hàng. Do vậy, ngân hàng có những phương hướng để công tác cho vay theo dự án tránh được rủi ro và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
- Nâng cao chất lượng tín dụng, thẩm định dự án và tư vấn khách hàng nhằm tăng trưởng dư nợ cho vay.
- Luôn luôm hoàn thiện công tác kiểm tra giám sát tín dụng, đặc biệt là sau khi giải ngân, đề phòng vốn sử dụng sai mục đích nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra đối với các khoản vay.
- Đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nợ tồn đọng.
- Đẩy mạnh công tác tiếp thị, nghiên cứu thị trường để hướng tập trung vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
- Trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo đúng thực tế hoạt động của ngân hàng, theo quy định của Hội sở chính.
- Tăng cường thu nợ trung và dài hạn, giảm bớt cho vay trung và dài hạn đối với những dự án mới, tăng cường cấp tín dụng bổ sung đối với những dự án hoạt động có hiệu quả.
- Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đảm bảo công tác tín dụng được hiệu quả và an toàn.
- Tăng trưởng tín dụng dựa trên cơ sở vững chắc, an toàn.
- Mở rộng danh mục các dự án cho vay, tìm hiểu những dự án hiệu quả để tài trợ vốn.
- Tăng cường công tác rà soát hồ sơ tín dụng, đảm bảo thực hiện tốt các quy định của hội sở chính.
- Mở rộng các hình thức cho vay đồng tài trợ,
- Chú trọng khai thác tiềm năng đối với khối doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Tích cực theo dõi kiểm tra các doanh nghiệp có nợ xấu và nợ quá hạn, đôn đốc trả nợ.
2.1.3 Về đầu tư phát triển.
- Có thể nói nguồn lực con người là nhân tố quan trọng trong các hoạt động của nền kinh tế. Nhận thức rõ được điều này, ngân hàng ngoại thương chi nhánh Hà Nội luôn chú trọng đến chiến lược nâng cao chất lương nguồn nhân lực.
- Ngân hàng luôn tạo điều kiện cho các cán bộ đi học nâng cao trình độ, có những buổi hội thảo, tập huấn nhằm nâng cao trình độ và hiệu quả làm việc.
- Bên cạnh đó, ngân hàng cải tạo cơ sở vật chất theo hướng hiện đại, tạo môi trường làm việc thoải mái hiệu quả giúp các cán bộ làm việc tốt hơn.
- Ngân hàng có những chính sách thu hút nhân tài để có thể thu hút được những nhân tài về làm việc trong bối cảnh cạnh tranh lớn về nguồn nhân lực khi mà có rất nhiều ngân hàng mới được thành lập.
- Hơn nữa những chính sách lương thưởng, động viên khuyến khích kịp thời các cá nhân có thành tích xuất sắc tạo động lực cho họ làm việc như chia thưởng theo thành tích làm việc, theo những đóng góp…
2.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại ngân háng ngoại thương chi nhánh Hà Nội.
2.2.1 Giải pháp về thông tin.
Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, thương trường là chiến trường, ai nắm bắt thông tin được nhanh hơn thì khả năng thành công sẽ cao hơn. Hoạt động cho vay của ngân hàng cũng không phải là một ngoại lệ. Thông tin có vai trò rất quan trọng trong việc cho vay nói chung và cho vay theo dự án đầu tư nói riêng. Vậy nên thông tin, đặc biệt là thông tin phục vụ cho hoạt động đánh giá rủi ro phải thường xuyên cập nhật, phân tích và khai thác có hiệu quả.
Do vậy, ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp sau:
* Ngân hàng cần hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ giữa các chi nhánh và Hội sở chính:
Ngân hàng và các chi nhánh khác cần định kì cung cấp thông tin cho Hội sở chính và bộ phận lưu trữ thông tin của chi nhánh mình. Những thông tin cần thiết liên quan đến các dự án phải được cập nhật liên tục, chính xác, đầy đủ trong toàn hệ thống. Hệ thống ngân hàng ngoại thương, có một điểm mạnh là hầu hết các chi nhánh đều tập trung ở các tỉnh, thành phố mà không có về đến các huyện…Do vậy, vấn đề tiếp cận thông tin qua hệ thống mạng là rất thuận tiên. Mặt khác, các chi nhánh đều được trang bị máy tính hiện đại nên việc trao đổi thông tin giữa các chi nhánh với nhau và hội sở chính là rất nhanh. Một mặt, chi nhánh cung cấp thông thông tin cho hội sở chính và các chi nhánh khác, mặt khác chi nhánh có thể khai thác nguồn thông tin hữu ích từ kho thông tin chung đó.
Ngân hàng nên cập nhật và phân loại thông tin theo các khía cạnh sau:
- Thông tin về tình hình kinh tế xã hội nói chung: như các đường lối chủ trương phát triển của Đảng, Nhà Nước, các định hướng phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong thời gian tới, tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài…
- Thông tin về thị trường giá cả: nguyên vật liệu sản xuất, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng.
- Thông tin về tài chính ngân hàng: các nghị định thông tư của chính phủ, các văn bản hướng dẫn, quy định, quy chế của bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các thông tư liên bộ.
- Thông tin về đầu tư: các thay đổi trong luật đầu tư, các vấn đề liên quan đến tình hình đầu tư vào nước ta và ra nước ngoài.
* Ngân hàng cần tăng cường thu thập thông tin từ bên ngoài:
- Thông tin được sử dụng để đánh giá rủi ro là thông tin đa chiều. vậy nên, nếu chỉ dựa trên nguồn thông tin trong nội bộ Ngân hàng là chưa đủ. Với những lợi thế sẵn có về cơ sở vật chất, ngân hàng nên phát huy thu thập thông tin từ bên ngoài qua việc kết nối với mạng máy tính của ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại khác, các trung tâm lưu trữ thông tin khác.
- Mặt khác, các cán bộ thẩm định có thể thu thập thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua cơ quan thuế. Đây là nguồn thông tin hữu ích, đáng tin cậy để các cán bộ thẩm định kiểm tra nguồn thông tin do khách hàng cung cấp.
- Hơn thế nữa, trong quá trình thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án, đây là một điểm yếu của các ngân hàng, do vậy ngân hàng có thể nhờ đến các chuyên gia kỹ thuật hoặc các tổ chức tư vấn kỹ thuật trợ giúp trong vấn đề này.
- Ngoài ra, ngân hàng có thể khai thác thông tin từ các nguồn khác từ những tìm hiểu thực tế như: từ các bạn hàng của doanh nghiệp, thuê các công ty kiểm toán kiểm tra tính xác thực của các báo cáo tài chính doanh nghiệp cung cấp đối với những dự án lớn.
- Công tác lưu trữ thông tin cũng là vấn đề đáng lưu tâm. Một mặt, ngân hàng lưư trữ thông tin ở dạng giấy tờ trong kho, mặt khác nên đưa những thông tin này vào máy tính để quản lý và khai thác hiệu quả hơn. Với một hệ thống máy tính hiện đại và trình độ cán bộ tốt thì việc thu thập, xử lý thông tin trên máy tính sẽ đạt hiệu quả cao, dần ngân hàng sẽ xây dựng được cho mình phương pháp đánh giá rủi ro hữu hiệu.
2.2.2. Giải pháp về nhân sự
- Trong hoạt động thẩm định dự án vay vốn nói chung và đánh giá rủi ro nói riêng, chất lượng cán bộ làm công tác thẩm định có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thẩm định và đánh giá rủi ro và cuối cùng là hiệu quả cho vay của ngân hàng.
vậy nên, trong thời gian tới ngân hàng cần chú trọng đến chất lượng và số lượng đội ngũ làm công tác thẩm định.
- Để nâng cao chất lượng công tác đánh giá rủi ro, ngân hàng cần có những chiến lược lâu dài, đảm bảo đạt được những yêu cầu đề ra. Một cán bộ thẩm định giỏi, trước hết họ phải được đào tạo một cách toàn diện các kiến thức về kinh tế, và phi kinh tế như: kỹ thuật, xây dựng…nhưng điều đó là chưa đủ nếu như họ không có đạo đức nghề nghiệp. Làm việc trong môi trường nhiều cám dỗ như lĩnh vực ngân hàng thì yếu tố đạo đức luôn được đề cao. Đạo đức nghề nghiệp thể hiện rõ ở: tinh thần, trách nhiệm làm việc, ngoài ra còn được thể hiện ở sự cống hiến và phục vụ tổ chức nơi mình làm việc.
Muốn vậy, trong thời gian tới Ngân hàng cần thựchiện những giải pháp sau:
- Khâu tuyển dụng cán bộ đầu vào phải đảm bảo chất lượng:
Có thể nói khâu tuyển dụng cán bộ đầu vào là khâu then chốt, quyết định đến chất lượng cán bộ của Ngân Hàng. Do vậy, Ngân hàng phải đề ra một quy trình tuyển dụng phù hợp với thực tế cũng như tránh những tiêu cực xảy ra. việc tuyển dụng không những chỉ chú trọng đến các sinh viên giỏi mới ra trường mà còn phải kể đến các du học sinh trở về nước làm việc. Khi cần thiết, Ngân hàng có thể tham khảo các giảng viên đại học để nội dung đề thi tuyển dụng và các vấn đề phỏng vấn phù hợp với thực tế hơn.
- Bố trí cán bộ một cách hợp lý:
Công tác bố trí cán bộ cũng là một yêu cầu cấp thiết, quan trọng để mang lại hiệu quả làm việc cao. Sắp xếp cán bộ theo trình độ chuyên môn, năng lực của các cán bộ. Khi phát hiện các cán bộ yếu kém về trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cần kiên quyết loại bỏ.
- Có những chính sách bồi dưỡng cán bộ hợp lý:
Kiến thức và trình độ chuyên môn đòi hỏi phải luôn được đào tạo và cập nhật liên tục. Do vậy, các cán bộ thẩm định cần phải được đào tạo và đào tạo lại để luôn trau dồi kiến thức chuyên môn.
Một cán bộ thẩm định giỏi không những am hiểu kiến thức liên quan đến chuyên môn của mình mà còn phải am hiểu những vấn đề liên quan như về luật pháp, kỹ thuật… Do đó, ngân hàng nên có những buổi tập huấn trực tiếp nhằm nâng cao trình độ, chia sẻ kinh nghiệm giữa các cán bộ với nhau cũng như những chuyên gia về các lĩnh vực liên quan.
- Có những chế độ đãi ngộ phù hợp:
Hiện nay, sự cạnh tranh nguồn nhân lực giữa các ngân hàng là rất gay gắt. Vậy nên, nếu như ngân hàng ngoại thương không có những chính sách đãi ngộ phù hợp sẽ khiến cho việc xây dựng và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao là rất khó khăn. Ngân hàng cần có một chế độ đãi ngộ thích hợp để kích thích tinh thần sáng tạo và làm việc của nhân viên như động viên tinh thần các cán bộ và tập thể có thành tích suất xắc trong công việc, công đoàn quan tâm đến đời sống cán bộ, công nhân viên trong cơ quan, quan tâm đến các vấn đề phúc lợi xã hội như: mua bảo hiểm y tế, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm nghề nghiệp cho tất cả cán bộ công nhân viên…
2.2.3 Giải pháp về trình độ công nghệ.
- Công nghệ đóng vai trò khá quan trọng trong việc thẩm định và đánh giá rủi ro. Ngân hàng nên xây dựng và củng cố đường truyền chi nhánh và các phòng giao dịch trực thuộc để đảm bảo cho yêu cầu các hoạt động. ngân hàng nên mua sắm và thay thế những công nghệ đã lạc hậu, mua sắm các công nghệ có bản quyền. đồng thời, nâng cao trách nhiệm của phòng tin học và trình độ tiếp cận công nghệ mới của đội ngũ nhân sự.
2.2.4 Giải pháp về quy trình đánh gía rủi ro.
Quy trình đánh giá rủi ro của Ngân hàng nhìn chung còn sơ sài, mới dừng lại ở quy trình tổng quát mà chưa đi sâu vào các khía cạnh cần phân tích. Vậy nên, Ngân hàng cần khắc phục theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1: Tổng hợp rủi ro của dự án đầu tư.
Thẩm định cơ sở pháp lý của dự án
Rủi ro về cơ chế, chính sách.
Thẩm định thị trường, sản phẩm
Rủi ro về thị trường, thu nhập, thanh toán
Thẩm định khả năng cung cấp NVL đầu vào
Rủi ro về cung cấp.
Thẩm định các điều kiện kinh tế vĩ mô,
Rủi ro kinh tế vĩ mô
Thẩm định kỹ thuật, công nghệ của dự án
Rủi ro kỹ thuật, vận hành, bảo trì.
Thẩm định khía cạnh tổ chức quản lý và nhân sự
Rủi ro về xây dựng, thi công.
Thẩm định hiệu quả tài chính dự án.
Rủi ro về khẩ năng trả nợ.
Thẩm định hiệu quả kinh tế xã hội
Rủi ro về môi trường, xã hội.
Một vấn đề cũng rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro là hệ thống chấm điểm tín nhiệm khách hàng. Trong những năm vừa qua, hệ thống này đã phát huy vai trò quan trọng của nó trong việc đánh giá rủi ro tại ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam nói chung và ngân hàng TMCP ngoại thương chi nhánh Hà Nội nói riêng.
Với hệ thống chấm điểm tín dụng này, việc đo lường và định dạng rủi ro trong hệ thống ngân hàng ngoại thương từ Hội sở chính đến các chi nhánh và phòng giao dịch.
2.2.4 Giải pháp về nội dung phân tích.
Có thể nói kết quả thẩm định rủi ro dự án đầu tư là căn cứ cuối cùng để ngân hàng đưa ra quyết định cuối cùng có tài trợ vốn cho các dự án đầu tư hay không. Nếu không làm tốt công tác đánh giá rủi ro thì ngân hàng dễ đi đến quyết định đầu tư cho những dự án kém hiệu quả và hậu quả có thể là không thu hồi được vốn. Vậy nên, trong nội dung phân tích các cán bộ thẩm định cần phải chú trọng hơn nữa đến các vấn đề sau:
Việc đánh giá tổng mức đầu tư cũng là một vấn đề khó đối với các ngân hàng: hiện nay, ngân hàng chỉ đánh giá tổng mức đầu tư dựa trên các báo cáo do chủ u tư cung cấp và dựa trên kinh nghiệm thẩm định các dự án tương tự trước đó. Điều này là chưa đủ, ngân hàng cần xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu định giá đối với từng loại dự án đầu tư. Mặt khác, ngân hàng có thể thiết lập một bộ phận chuyên định giá, để có thể đánh gía được những nhu cầu vốn cần thiết cho các dự án đầu tư, tránh trường hợp xác định nhu cầu vốn đầu tư quá lớn so với thực tế.
Việc xác định lại các yếu tố doanh thu và chi phí gặp nhiều vương mắc do: khi xác định lại các yếu tố liên quan như: công suất của dây chuyền, các thiết bị, máy móc, giá bán sản phẩm. Đối với dự án trên thì yếu tố giá bán sản phẩm là dựa trên các sản phẩm cùng loại trên thị trường, do vậy các cán bộ thẩm định phải có những am hiểu về thị trường. Mặt khác, chi phí của dự án cũng là một yếu tố khó xác định. Do chi phí cho nguyên vật liệu đầu vào luôn thay đổi theo diễn biến của thị trường, mà dự án đầu tư diễn ra trong một thời gian dài nên không tránh khỏi những biến động về giá. Hơn thế nữa, những khoản mục chi phí như: chi phí vận chuyển, chi phí quản lý hầu như thường chấp nhận theo ý kiến đưa ra của chủ đầu tư. Các loại chi phí như chi phí xây dựng, chi phí giải phóng mặt bằng… sẽ có những định mức với từng loại công trình. Do vậy, các cán bộ thẩm định luôn phải cập nhật những thông tư, quy định hướng dẫn của các bộ ngành đưa ra.
Các vấn đề về kỹ thuật cũng là những vướng mắc trong khâu đánh giá rủi ro. vậy nên, ngân hàng có thể lập những tổ tư vấn kỹ thuật riêng, hoặc nhờ đến các tổ chức tư vấn.
Khi tính dòng tiền của dự án, thì tỷ suất chiết khấu sử dụng để tính chuyển các khoản tiền phải tính đến cả yếu tố lạm phát và trượt giá. Vì có thể khi không tính đến yếu tố lạm phát thì dự án mang lại hiệu quả, đảm bảo khả năng trả nợ, nhưng kkhi có tính đến các yếu tố trượt giá thì không còn hiệu quả nữa.
2.2.5 Giải pháp về phương pháp đánh giá.
* Đối với phương pháp định lượng:
- Nhìn chung ngân hàng đã đánh giá khá đầy đủ các trường hợp có thể xảy ra với dự án. Các cán bộ thẩm định cũng đã đưa ra những trường hợp mà 2 yếu tố cùng tác động tới dự án để đánh giá rủi ro có thể gặp phải. Tuy nhiên, các cán bộ thẩm định mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá sự thay đổi của các chỉ tiêu: NPV, IRR mà chưa xem xét sự biến động của các chỉ tiêu khác như T, B/C. Ngoài phương pháp phân tích độ nhạy nêu trên thì ngân hàng có thể sử dụng một số phương pháp khác như:
- Phương pháp toán xác suất: phương pháp này được sử dụng trong trường hợp dự án có nhiều khả năng và rủi ro. Phương pháp này cho phép lượng hoá được những biến cố ở tương lai trong điều kiện bất định của các biến cố, đặc biệt là trong trường hợp sự xuất hiện của một biến cố nào đó sẽ loại trừ sự xuất hiện của bất kì biến cố nào khác. Trong quá trình lập và phân tích các dự án đầu tư, chúng ta phải dự đoán các đầu vào, đầu ra của dự án kển từ khi bắt đầu đến khi dự án được bắt đầu đi vào thực hiện và cho đến cuối đời dự án.bằng việc tính kỳ vọng toán của các biến cố, người đầu tư có thể cân nhắc, lựa chọn phương án tối ưu trong các phương án có thể có.
Nếu ta gọi qi là xác suất của biến cố i, pi là giá trị của biến cố i thì khi đó kỳ vọng toán(EV)sẽ được tính như sau:
EV= pi*qi.
Tuy nhiên, kỳ vọng toán của các yếu tố chỉ có tác dụng để xem xét đánh giá hiệu quả tài chính của dự án chứ không phản ánh giá trị thực của các biến cố.
Phương pháp mô phỏng của Monte Carlo: đây là phương pháp phân tích kết quả của dự án trong sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau trong có tính tới phân bố xác suất và giá trị có thể của các biến số yếu tố đó.
Phương pháp mô phỏng Monte Carlo bao gồm:
+ Lựa chọn các biến làm biến quan trọng đưa vào mô hình phân tích.
+ Xác định mô hình biến động của các yếu tố ảnh hưởng trong mối quan hệ của chúng với biến ngẫu nhiên.
+ Xác định các xác suất.
+ Sử dụng mô hình mô phỏng cho xác định các kết quả phân tích. Các kết quả này sẽ giúp cho việc đánh giá dự án được chính xác.
Đối với phương pháp định tính:
Để khắc phục những hạn chế đã nêu trên thì ngân hàng cần áp dụng thêm các phương pháp sau:phương pháp ma trận SWOT…
Phương pháp ma trận SWTO:
Đây là một kỹ thuật phân tích rất mạnh trong việc xác định các Điểm mạnh (Streng- S) , điểm yếu(Weakness- W) để từ đó tìm ra cơ hôi( O- Oppurtunity) và các nguy cơ tiềm ẩn ( T – Threat).
Nó có thể giúp người phân tích xem xét tất cả các cơ hội mà họ có thể tận dụng được, và hiểu được những rủi ro của dự án đầu tư mà các cán bộ thẩm định sẽ quản lý và triệt tiêu những rủi ro mà họ chưa biết hết.
Sơ đồ 2.2: Mô hình ma trận SWTO.
S - Điểm mạnh W - Điểm yếu
O - Cơ hội T -Thách thức.
Các cán bộ có thể sử dụng phương pháp này để đánh giá các doanh nghiệp như sau:
Điểm mạnh:
- Doanh nghiệp này có lợi thế gì?
- Doanh nghiệp có những gì đặc biệt hơn so với những doanh nghiệp khác.
- Các doanh nghiệp khác thấy công ty này có điểm nổi bật gì trên thị trường.
Các cán bộ thẩm định sẽ xem xét từ nội bộ doanh nghiệp và quan điểm của các khách hàng và đối tượng khác trên thị trường.
Điểm yếu:
- Doanh nghiệp phải cải tiến cái gì?
- Doanh nghiệp phải tránh cái gì?
Các cán bộ một mặt sẽ xét xem: doanh nghiệp đó có tự nhận thức được điểm yếu của mình hay không? Có phải các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp đang làm tốt hơn hay không.
Cơ hội:
- Đâu là những xu thế mà doanh nghiệp đang mong đợi.
- Đâu là những cơ hội tốt nhất có thể.
Nguy cơ:
- Trở ngại của công ty là gì?
- Đối thủ của công ty đang làm gì?
- Sự thay đổi công nghệ có làm thay đổi vị trí của doanh nghiệp hay không?
- Doanh nghiệp có nợ xấu tồn động hay không?
Việc phân tích này có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó giúp chỉ ra những yếu điểm cần phải khắc phục, những ưu thế có thể phát huy để từ đó nhận ra được những nguy cơ tiềm ẩn, những cơ hội tốt xảy đến.
2.3 Một số kiến nghị.
2.3.1 Kiến nghị với chính phủ và các bộ ban ngành có liên quan.
- Chính phủ cần xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, tránh tình trạng chồng chéo giữa qui định của các ngành.
- Chính phủ cần phối hợp với các Bộ ngành có liên quan, các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, lập các báo cáo tài chính theo đúng quy định
Đây sẽ là nguồn thông tin hữu hiệu giúp cho các Ngân hàng trong việc đánh giá rủi ro.
- Các bộ có liên quan như Bộ tài chính, Bộ Nông Nghiệp, Bộ xây dựng,, Tổng cục thống kê hàng năm nên hệ thống hoá các thông tin về ngành, lĩnh vực thuộc quyền quản lý của mình, được đăng tải trên mạng để giúp cho các Ngân hàng tìm kiếm thông tin phục vụ tốt hơn nữa công tác đánh giá rủi ro.
- Các bộ, ngành nên đưa ra những tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật, các tiêu chuẩn về môi trường, các tiêu chuẩn đánh giá, xếp hạng các doanh nghiệp …để các cán bộ lấy đó làm căn cứ đánh giá doanh nghiệp, so sánh các doanh nghiệp cùng ngành nghề, định giá chi phí doanh thu một cách hợp lý.
- Bộ kế hoạch và đầu tư nên có những thông tin, trợ giúp về luật đầu tư, những qui định cơ chế… cho chủ đầu tư và các Ngân hàng có thể giải đáp những thắc mắc có liên quan.
2.3.2 Kiến nghị với ngân hàng nhà nước.
- Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà Nước có chức năng thu thập và cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng cho NHNN, các tổ chức tín dụng, các cá nhân, tổ chức khác nhằm góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, hạn chế các rủi ro tín dụng.
Để phát huy vai trò của hệ thống này trong thời gian tới, NHNN nên áp dụng các biện pháp sau:
- Cập nhật thường xuyên và đa dạng các thông tin về các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập.
- Không ngừng hoàn thiện và đổi mới công nghệ để thu thập, xử lý thông tin một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ không những giỏi về chuyên môn mà còn có đạo đức nghề nghiệp.
Ngoài ra, NHNN nên có những chủ trương, đường lối phát triển chung cho toàn ngành, tạo sự gắn kết, hợp tác lẫn nhau giữa các Ngân hàng, điều này giúp cho các ngân hàng học hỏi được kinh nghiệm trong việc quản lý tín dụng nói chung và công tác thẩm định rủi ro đầu tư dự án nói riêng.
- Ngân hàng nhà nước nên tổ chức những cuộc hội thảo nhằm trao đổi kinh nghiệm thẩm định dự án giữa các ngân hàng, nhằm phục vụ tốt hơn nữa công tác thẩm định.
2.3.3 Kiến nghị với ngân hàng ngoại thương chi nhánh Hà Nội.
Trong thời gian tới, ngân hàng ngoại thương chi nhánh Hà Nội nên chú trọng công tác đào tạo cán bộ, thường xuyên tổ chức những buổi tập huấn, hội thảo nhằm trao đổi kinh nghiệm giữa các cán bộ thêm vào đó bổ sung kiến thức phi kinh tế khác. Mặt khác, tạo điều kiện cho các cán bộ học tập nâng cao trình độ ở trong nước và nước ngoài.
Ngoài ra, ngân hàng cần xây dựng một hệ thống thông tin đa chiều để phục vụ cho công tác đánh giá rủi ro. Đặc biệt, ngân hàng cần hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro để tránh tình trạng thiếu sót, bỏ qua những rủi ro.
2.3.4 Kiến nghị với chủ đầu tư.
Kết quả thẩm định tài chính có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ra quyết định cho vay của ngân hàng. Mà thông tin để đưa vào thẩm định và đánh giá rủi ro tài chính hầu hết phụ thuộc vào nguồn thông tin do chủ đầu tư cung cấp. Do vậy, đề nghị các chủ đầu tư thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kiểm toán để các báo cáo tài chính đưa ra là hợp lý, tạo tiền đề cho công tác đánh giá rủi ro.
KẾT LUẬN.
Rủi ro luôn luôn tồn tại trong các hoạt động kinh doanh, hoạt động tín dụng của các ngân hàng cũng không phải là một ngoại lệ. Vậy nên, công tác đánh giá rủi ro có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án vay vốn vì dự án đầu tư vay vốn thường có thời gian dáo hạn dài và số vốn vay lớn. Công tác đánh giá rủi ro có liên quan đến quyết định cuối cùng có tài trợ vốn cho dự án hay không, ngân hàng cho vay có thu hồi được vốn hay không.
Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương chi nhánh Hà Nội đang trên đà phát triển và khẳng định uy tín của mình đối với khách hàng, do vậy ngân hàng đã nhận thức được rõ tầm quan trọng của công tác đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án vay vốn.
DANH MUC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Giáo trình lập dự án đầu tư.
Giáo trình quản trị rủi ro.
Website: www.vcbhanoi.com.vn.
Website: www.creditinfo.org.vn.
Quy trình thẩm định của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương chi nhánh Hà Nội.
Báo cáo thường niên các năm 2005, 2006, 2007, 2007, 2008, 2009.
Hồ sơ vay vốn của dự án đầu tư nhà máy xi măng Hướng Dương.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.
TMCP: thương mại cổ phần.
CĐT: chủ đầu tư.
DA ĐT: dự án đầu tư.
ĐBTV: đảm bảo tiền vay.
QHKH: quan hệ khách hàng.
CBTĐ: cán bộ thẩm định.
DANH MỤC SƠ ĐỒ - BẢNG - BIỂU.
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức của ngân hàng TMCP ngoại thương Hà Nội.
Sơ đồ 1.2: Vị trí của bước tổng hợp rủi ro của dự án trong thẩm định dự án xin vay vốn tại NHTMCP ngoại thương chi nhánh Hà Nội.
Sơ đồ 1.3: Quy trình tổng quát về đánh giá rủi ro tại ngân hàng TMCP ngoại thương chi nhánh Hà Nội.
Sơ đồ 2.1: Tổng hợp rủi ro của dự án đầu tư.
Sơ đồ 2.2: Mô hình ma trận SWTO.
Bảng 1.1: Trình độ nhân sự qua các năm.
Bảng 1.2: Thu nhập trung bình các cán bộ qua các năm.
Bảng 1. 3: Doanh thu qua các năm của chi nhánh.
Bảng 1.4: Phương án lựa chọn nhà thầu thực hiện các gói thầu.
Bảng 1.5: Tổng mức đầu tư cho dự án.
Bảng 1.6: Cơ cấu nguồn vốn của dự án.
Bảng 1.7: khi tổng mức đầu tư thay đổi.
Bảng 1.8: khi giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng lên.
Bảng 1.9: khi cả giá nguyên vật liệu và tổng mức vốn đầu tư cùng thay, đứng trên quan điểm của ngân hàng.
Bảng 1.10: Số dự án vay vốn, số dự án được phê duyệt.
Biểu đồ 1.1: Tổng vốn huy động qua các năm.
Biểu đồ 1.2: Tổng dư nợ qua các năm.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110930.doc