Chuyên đề Sự hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty cổ phần giầy Hà Nội

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng là một biện pháp quan trọng nhằm sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nó đã gặt hái được không ít thành công và thể hiện sự phù hợp của nó trong cơ chế thị trường. Công tác này đã được sự quan tâm của Đảng và nhà nước bằng việc ban hành một loạt những văn bản để triển khai công tác này trên thực tế. Tuy nhiên, đây là một công việc mới mẻ và sự mới mẻ nào lại không mang theo những khó khăn, biết phát hiện ra những khó khăn ấy để khắc phục thì sẽ là một con đường dẫn đến sự thành công. Bài viết này chỉ là tổng kết lại những vấn đề sau khi thực thi cổ phần hoá trên thực tế và đưa ra những giải pháp nhằm có thể phần nào khắc phục được. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã khắc phục được tình trạng buông lỏng quản lý và làm ăn thiếu hiệu quả tại các doanh nghiệp Nhà nước tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả của các công ty. Góp phần vào việc tăng trưởng nền kinh tế, đưa đất nước từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

doc31 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Sự hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty cổ phần giầy Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Đất nước ta hiện nay đang thực hiện công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước đã đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI(1986). Trong công cuộc đổi mới này, vấn đề phát triển một nền Kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo là một mục tiêu hết sức quan trọng. Thực tế cho thấy, qua gần 16 năm phát triển kinh tế theo đường lối này, nền kinh tế thị trường nước ta đã bước đầu thu được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, nền kinh tế của chúng ta vẫn còn là một nền kinh tế thị trường ở dạng sơ khai và trước mắt còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Một trong những khó khăn, bất ổn mà chúng ta cần phải nói tới đó là sự yếu kém của khu vực kinh tế Nhà nước nói chung mà nói riêng là là hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước(DNNN). Có thể nói trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã thực sự bộc lộ những yếu kém của mình như: công nghệ lạc hậu, tài sản manh mún, cơ chế quản lý cứng nhắc, trình độ quản lý thấp kém, tinh thần người lao động sa sút.... Nói chung phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ, làm ăn cầm chừng. Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Khu vực kinh tế Nhà nước như cổ phần hoá một bộ phận DNNN, sắp xếp lại các DNNN, giải thề các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả... trong đó cổ phần hoá được coi là giải pháp hàng đầu, có khả năng mang lại lợi ích hài hoà cho Nhà nước cũng như nhiều bộ phận xã hội khác. Chính vì vậy việc nghiên cứu về cổ phần hoá trong thời điểm hiện nay tuy không phải là mới mẻ nhưng lại rất cần thiết, đặc biệt là đối với những sinh viên ngành Kinh tế. Thông qua việc tìm hiều nội dung của chính sách cổ phần hoá và các vấn đề có liên quan, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan hơn về những hiệu quả cũng như những khó khăn hạn chế của cổ phần hoá, từ đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những hạn chế đó. Với lý do đó, mặc dù trình độ bản thân còn nhiều hạn chế, nên tôi xin mạnh dạn đưa ra một số quan điểm về vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp hiện nay. Chương I : Lý luận chung về cổ phần hoá và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá ở Việt Nam. Chương II : Sự hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Cổ phần giầy Hà nội. Chương III : Những vấn đề tồn tại sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Chương IV : Một số giải pháp nhằm Trước khi bắt đầu vào nội dung chính, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo đã hướng dẫn, chỉ bảo giúp tôi có thể hoàn thành đề tài này. Cuối cùng, do bài viết còn nhiều sai sót và hạn chế, tôi rất mong các thầy cô và các bạn sinh viên giúp đỡ và góp ý. Xin chân thành cảm ơn ! Chương I Lý luận chung về cổ phần hoá và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá ở Việt Nam. I/ Lý luận chung về cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam: 1. Quan niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước: Chúng ta có thể hiểu, cổ phần hoá là việc chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp không phải công ty cổ phần sang hoạt động theo quy chế của công ty cổ phần. Từ quan niệm trên, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, có thể đưa ra khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là Nhà nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp. Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp đã được điều tra có 6 đặc trưng nổi bật: Doanh nghiệp cổ phần hoá đăng ký hoạt động dưới hình thức pháp lý là công ty cổ phần, hoạt động theo luật doanh nhgiệp, chứ không phải theo luật doanh nghiệp Nhà nước chế định các doanh nghiệp Nhà nước. Sở hữu đa dạng: nếu Nhà nước nắm giữ đa số cổ phần, không có cá nhân nào được phép sở hữu hơn 5% tổng số cổ phần và không một tổ chức nào được sở hưũ trên 10% tổng số cổ phần; nếu Nhà nước năm ít hơn số cổ phần chi phối thì mỗi cá nhân chỉ được phép nắm tối đa 10% và mỗi tổ chức chỉ được phép sở hữu tối đa 20%. Cổ phần đước bán theo giá do Ban định giá tài sản xác định. Phương pháp đấu thầu cạnh tranh không được sử dụng. Người lao động và người quản lý thường là các chủ sở hữu lớn hoặc ít nhất là được sở hữu một số lượng cổ phần nhất định. Nhà nước thường giữ lại một phần cổ phần, rất ít trường hợp Nhà nước là cổ đông lớn hoặc không có cổ phần. Các bên thứ ba thường sở hữu một số lượng cổ phần, nhưng rất ít khi là người sở hữu chính. Từ nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII(6/1992), tiếp theo đó là quyết định số 202/CT(6/1992) của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), rồi tới các nghị định số 28/CP(7/5/1996), 25/CP(23/7/1997) và nghị định 44/CP(29/6/1998), cổ phần hoá luôn được Đảng và Nhà nước xác định là việc chuyển các DNNN thành các Công ty cổ phần nhằm thực hiện các mục tiêu: Chuyển một phần sở hữu Nhà nước sang sở hữu hỗn hợp Huy động vốn của toàn xã hội Tạo điều kiện để người lao động trở thành người chủ thực sự trong doanh nghiệp Thay đổi phương thức quản lý trong doanh nghiệp Như vậy có thể thấy so với các nước đã và đang tiến hành CPH trên thế giới, ở nước ta, chủ trương CPH DNNN lại xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay: chúng ta đang bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản của Nhà nước. Đó là đặc điểm lớn nhất chi phối, quyết định mục đích nội dung và phương thức CPH DNNN. Vì vậy về thực chất CPH ở nước ta là nhằm sắp xếp lại DNNN cho hợp lý và hiệu quả, còn việc chuyển đổi sở hữu của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiện quan trọng để thực hiện mục đích trên. 2. Mục tiêu cổ phần hoá. Theo điều 2 - NĐ 44/CP, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm những mục tiêu sau: Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm công ăn việc làm, phát triển doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý doanh nghiệp tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước. 3. Nội dung cổ phần hoá: Với mục tiêu như trên, tiến trình CPH đã dành được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Chính phủ và các ban ngành, chính quyền địa phương. Trong suốt gần 10 năm thực hiện, nhiều văn bản pháp qui quy định chi tiết nội dung cổ phần hoá DNNN đã được ban hành nhằm đưa công tác CPH phù hợp với từng giai đoạn. Đặc biệt Nghị định 44/CP(29/6/1998) của Chính phủ quy định chi tiết nội dung CPH bao gồm: đối tượng cổ phần hoá, hình thức cổ phần hoá, xác định giá trị doanh nghiệp, đối tượng mua cổ phần và phân tích đánh giá thực trạng doanh nghiệp. a) Về đối tượng cổ phần hoá: Xuất phát từ thể chế chính trị, lịch sử, để phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện kinh tế nước ta, đối tượng thực hiện cổ phần hoá là những DNNN hội tụ đủ 3 điều kiện : có quy mô vừa và nhỏ ; không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn đầu tư ; có phương án kinh doanh hiệu quả hoặc tuy trước mắt có khó khăn nhưng triền vọng tốt. Trong 3 điều kiện này, điều kiện thứ 2 ( doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn đầu tư ) được coi là quan trọng nhất bởi những DNNN giữ 100% vốn đầu tư là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước , là đòn bẩy kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, theo đúng định hướng XHCN. b) Về lựa chọn hình thức tiến hành: Theo quy định thì có 4 hình thức CPH , Ban cổ phần hoá sẽ lựa chọn một hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và người lao động. Các hình thức đó là: giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp ; bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp ; tách một bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hoá ; bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. c) Trên cơ sở đã lựa chọn hình thức CPH, khâu tiếp theo đó là xác định giá trị doanh nghiệp: Đây là một khâu quan trọng và thường chiếm nhiều thời gian, công sức nhất trong quá trình CPH. Có 2 nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp được đưa ra, đó là: Giá trị thực tế là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Người mua và người bán cổ phần sẽ thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, đôi bên cùng có lợi. Tại các nước có nền kinh tế phát triển, thoả thuận này diễn ra trên thị trường chứng khoán, còn ở nước ta thoả thuận có thể diễn ra thông qua các công ty môi giới, kiểm toán( đã diễn ra trên thị trường chứng khoán nhưng chưa phổ biến). Trên cơ sở xác định được giá trị thực tế của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp sẽ là phần còn lại của giá trị thực tế sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải trả. Cơ sở xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp đó là số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm CPH và giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp được xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm CPH. Nguyên tắc này được đặt ra để đảm bảo tính khách quan trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Thực tế việc CPH các doanh nghiệp cho thấy, các doanh nghiệp đăng ký CPH thường có xu hướng định thấp giá trị doanh nghiệp, thông qua việc khai báo không chính xác như khai thấp giá trị TSCĐ của doanh nghiệp, khai không đúng lượng vốn…từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến việc định giá trị doanh nghiệp và gây thiệt hại cho Nhà nước. Ngược lại, hiện tượng cơ quan kiểm toán định giá cao hơn giá trị thực của doanh nghiệp lại có thể làm thiệt hại cho người mua cổ phần. d) Về việc xác định đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần: Các đối tượng được phép mua cổ phần đó là: các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân Việt Nam, người nước ngoài định cư ở Việt Nam trong đó có cán bộ công nhân viên tại các DNNN là đối tượng được ưu tiên mua cổ phần. Về số lượng cổ phần được mua có quy định như sau: Loại doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt: Một pháp nhân được mua không quá 10%, một cá nhân được mua không quá 5% tổng số cổ phần của doanh nghiệp. Loại doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt: Một pháp nhân được mua không quá 20%, một cá nhân được mua không quá 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp. Loại DNNN không tham gia cổ phần: không hạn chế số lượng cổ phần lần đầu mỗi pháp nhân và cá nhân được mua nhưng phải đảm bảo số cổ đông tối thiểu theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp. Trên đây là mức quy định cụ thể về đối tượng mua cũng như mức mua cổ phần, tuy nhiên nghị định 44/CP đã có sự điều chỉnh nhằm khuyến khích việc mua cổ phần. Cụ thể là mọi người mua cổ phần sẽ được vay một cổ phiếu khi mua một cổ phiếu bằng tiền mặt. Với người lao động, họ sẽ được Nhà nước bán cổ phần với mức giá thấp hơn 30% so với giá bán cho các đối tượng khác, mỗi năm làm việc tại doanh nghiệp được mua tối đa 10 cổ phần. Đối với người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá, ngoài việc được mua cổ phần ưu đãi họ còn được hoãn trả tiền mua cổ phần trong 3 năm đầu mà vẫn được hưởng cổ tức, số tiền này sẽ trả dần trong 10 năm không phải trả lãi. II/ Đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống DNNN và sự cần thiết phải tiến hành CPH ở Việt Nam: 1.Tình hình hoạt động của các DNNN tại Việt Nam hiện nay: Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, khu vực Kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo nhằm chi phối nền kinh tế quốc dân cũng như giúp đỡ các thành phần kinh tế khác. Song trên thực tế, hiệu quả hoạt động của khu vực Kinh tế Nhà nước nói chung và hệ thống DNNN nói riêng còn tồn tại rất nhiều yếu kém. Trên địa bàn cả nước hiện nay, chúng ta có khoảng 5800 DNNN nắm giữ 88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả kinh doanh rất thấp. Chỉ có trên 40% DNNN là hoạt động có hiệu quả, trong đó thực sự làm ăn có lãi và lâu dài chỉ chiếm dưới 30%. Trên thực tế, DNNN nộp ngân sách chiếm 80-85% tổng doanh thu, nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì DNNN chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách Nhà nước. Đặc biệt nếu tính đủ chi phí và TSCĐ, đất tính theo giá thị trường thì các DNNN hoàn toàn không tạo ra được tích luỹ. Đánh giá thực lực các DNNN trên 3 mặt: vốn- công nghệ-trình độ quản lý, có thể thấy: Vốn: Các doanh nghiệp luôn trong trạng thái đói vốn. Tình trạng doanh nghiệp phải ngừng hoạt động do thiếu vốn kinh doanh đã xuất hiện. Tình trạng doanh nghiệp không có vốn và không đủ khả năng huy động vốn để đổi mới công nghệ được coi là phổ biến. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn thấp kém, thất thoát vốn của Nhà nước ngày càng trầm trọng. Năm 1998 chỉ tính riêng số nợ khó đòi và lỗ luỹ kế của các DNNN đã lên đến 5.005 tỷ đồng . Theo Tổng cục Quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp , trong số hơn 5800 DNNN, chỉ 40,4% được đánh giá là hoạt động có hiệu quả (bảo toàn được vốn, trả được nợ, nộp đủ thuế, trả lương cho người lao động và có lãi) ; 44% số doanh nghiệp hoạt động chưa có hiệu quả, khó khăn tạm thời ; còn 15,6% số doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Tổng cộng, có tới trên 59,6% DNNN hoạt động kém hiệu quả. Công nghệ: Công nghệ của các DNNN lạc hậu so với trình độ chung của khu vực và của thế giới (thường từ 2-3 thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu tới 5-6 thế hệ), 76% máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 50-60 và chủ yếu do Liên Xô cũ và các nước Đông Âu cung cấp. Hiện nay có đến 54,3% DNNN trung ương và 74% DNNN địa phương còn sản xuất ở trình độ thủ công, hiệu quả sử dụng trang thiết bị bình quân dưới 50% công suất. Đó chính là nguyên nhân làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường nội địa cũng như quốc tế hết sức thấp kém. Điều này thực sự là một nguy cơ đối với các doanh nghiệp Nhà nước và với nền kinh tế trong quá trình hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Trình độ, năng lực và bản lĩnh quản lý còn thấp so với yêu cầu. Ta thấy rằng, ở các doanh nghiệp Nhà nước, quyền sở hữu không gắn với quyền quản lý vốn và tài sản. Mặt khác, do những nguyên nhân lịch sử, do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp Nhà nước có số lượng lao động lớn, cơ cấu lao động bất hợp lý, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu. Bên cạnh trách nhiệm về kinh tế, mối doanh nghiệp còn phải đảm trách nhiều chức năng xã hội nữa. Từ tình hình trên, có thể thấy khu vực kinh tế Nhà nước không phải là điểm sáng như chúng ta mong đợi, đặc biệt nó vẫn chưa thực sự thể hiện tốt vai trò chủ đạo vủa mình. Do đó vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có một loạt những giải pháp tiến hành đồng bộ. Trong đó, CPH DNNN là một trong những biện pháp được Đảng và Nhà nước đặt lên vị trí then chốt, hàng đầu. 2. Sự cần thiết phải tiến hành CPH doanh nghiệp Nhà nước : Xuất phát từ thực tế nêu trên, thực hiện CPH là một nhiệm vụ rất cần thiết và quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, CPH sẽ giải quyết được các vấn đề sau: w Thứ nhất: Thực hiện CPH là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. CPH góp phần thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trước đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ công hữu, thể hiện ở một số lượng quá lớn các DNNN mà không nhận thấy quan hệ sản xuất này không phù hợp với lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Vì vậy CPH sẽ giải quyết được mâu thuẫn này, giúp lực lượng sản xuất phát triển. w Thứ hai: Thực hiện CPH nhằm xã hội hoá lực lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện CPH , người lao động sẽ gắn bó , có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp. Ngoài ra, phương thức quản lý được thay đổi, doanh nghiệp sẽ trở nên năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất. w Thứ ba: Bên cạnh đó, CPH là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới. w Thứ tư: Thực hiện CPH là một trong những giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với việc huy động được các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. w Thứ năm: Cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần không những chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở cả phạm vi doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền kinh tế quốc dân. w Thứ sáu: Cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế trong quá trình đổi mới. Như vậy, đứng trước thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN, CPH với những ưu điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quá trình đổi mới, phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên CHXH ở nước ta. Chương II sự hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Cổ phần giầy Hà nội. Sự hình thành và phát triển của Công ty cổ phần giầy Hà nội. Cùng với quá trình phát triển và đổi mới kinh tế của Nhà nước ta thì việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những chính sách cơ bản trong quá trình cải cách cổ phần hoá các doanh ngiệp Nhà nước là hướng đi cơ bản nhằm sắp xếp đổi mới doanh nghiệp. Công ty giầy da Hà nội được cổ phần hoá thành Công ty cổ phần giầy Hà nội theo quyết định số 5652/QĐ - UB ngày 30/12/19 , với số vốn điều lệ của công ty là 5.8 tỷ đồng. Thay đổi hìh thức sở hữu, từ sở hữu Nhà nước nay trở thành sở hữu cổ đông. Tiền thân của Công ty cổ phần giầy Hà nội.là một phân xưởng Giầy (phân xưởng lao động xã hội chủ nghĩa đầu tiên) của xí nghiệp X40 (thuộc Bộ quốc phòng). Ngày 20/9/1968 phân xưởng được tách ra và thành lập xí nghiệp Giầy da Hà nội, sản xuất chủ yếu phục vụ cho quốc phòng ( cho cục quân nhu và cục quân khí ). Năm 1972 Xí nghiệp Giầy da Hà nội mà sau này gọi là Công ty Giầy da Hà nội chuyển hướng sản xuất phục vụ cho ba đối tượng là: Xã hội. Quốc phòng. Dân dụng. Ngày 1/1/1999 Công ty Giầy da Hà nội chính thức cổ phần hoá và đổi tên thành Công ty cổ phần Giầy Hà nội Tên Tiếng việt của công ty : Công ty cổ phần Giầy Hà nội. Tên Quốc tế của công ty : Hanoi shoes join stock company. Tên Viết tắt của công ty : HASJOCO. Trụ sở giao dịch: Km 6 - Đường Nguyễn Trãi – Thanh xuân – Hà nội. Công ty cổ phần Giầy Hà nội được phép kinh doanh một số ngành nghề sau: Sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu các sản phẩm giầy dép các loại, túi, cặp, găng tay,mũ, bạt, đệm… Xuất nhập khẩu các thiết bị, công cụ dụng cụ, nguyênvật liệu, hoá chất phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty và các đơn vị ngành nghề khác. Sản xuất kinh doanh một số thiết bị, công cụ dụng cụ, nguyên vật liệu, bán thành phẩm…phục vụ cho nhu cầu của công ty và nhu cầu của thị trường. Liên doanh, liên kết, hợp tác với các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước để tổ chức sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, cho thuê văn phòng, cửa hàng trưng bầy bán hàng hoá. Mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán theo quy định của Nhà nước và theo các pháp lệnh về chứng khoán. Công ty có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập sử dụng con dấu riêng, hoạt động theo điều lệ của công ty và theo Luật doanh nghiệp. Hiện nay công ty chủ yếu thực hiệ các hợp đồng gia công với các công ty nước ngoài như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và các nước EU. Cùng với những khó khăn chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là thị trường cạnh tranh khốc liệt, thiếu vốn, thiếu công nghệ hiện đại, đặc biệt là thiếu đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao. Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Lao động gián tiếp. + Đại học + Trung cấp + Cấp III Lao động trực tiếp 9,57 3,15 3,58 2,94 90,53 9,61 3,2 3,81 2,6 90,39 9,6 3,21 3,83 2,56 90,4 9,69 3,18 3,82 2,69 90,31 Bên cạnh đó công ty còn có những khó khăn riêng như là hiện nay công ty không còn có sự giúp đỡ và tạo điều kiện về vốn của Nhà nước vì vậy phải tự huy động vốn bằng nhiều con đường khác nhau. Tuy nhiên, cùng với sự cố gắng của hội đồng quản trị, ban giám đốc và các thành viên của công ty đang tạo cho mình những bước đi vững chắc trong sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và sản xuất của Công ty cổ phần giầy Hà nội. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty cổ phần giầy Hà nội. Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Chủ tịch HĐQT Các thành viên HĐQT Phó chủ tịch HĐQT, Gián đốc điều hành Phòng đời sống Phòng tài vụ Phòng cung ứng Phó giám đốc sản xuất và kỹ thuật Phòng tổ chức Phòng ytế Phòng bảo vệ Phòng kỹ thuật Phòng kế hoạch Khối SX - KD Phân xưởngSXKD phụ Phân xưởngSXKD chính Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội cổ đông Giám đốc: là người điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện quyền và nhiệm vụ được giao. Các phó giám đốc: thay mặt giám đốc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh khi giấm đốc đi vắng, trực tiếp phụ trách cá mảng công việc cụ thể. Ban kiểm soát: chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về những sai phạm gây thiệt hại cho công ty trong khi thực hiện nhiệm vụ. Các phòng ban: mỗi phòng ban nghiệp vụ có một chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc. Cơ cấu tổ chức sản xuất của Công ty cổ phần giầy Hà nội. Ban giám đốc PX cơ điện PX cắt PX may I PX may II PX may III PX thái PX ý Đứng đầu là ban giám đốc giữ vai trò lãnh đạo chung của công ty chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Giúp giám đốc còn có hai phó giám đốc: phó giám đốc sản xuất và phó giám đốc kỹ thuật. Đứng đầu các phân xưởng là các quản đốc phân xưởng, các quản đốc lãnh đạo phân xưởng và chịu trách nhiệm trước giám đốc về kết quả hoạt động sản xuất kinh của phân xưởng. Quy trình công nghệ sản xuất Giầy của công ty là vừa sản xuât theo kiểu song song, vừa theo kiểu liên tục. Các nguyên liệu khác nhau được xử lý theo các bước công nghệ khác nhau để cuối cùng kết hợp lại cho ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Vải, cao su, hoá chất Bồi vảI Cắt mũ giầy Chặt bán thành phẩm May mũ giầy Gò, ép, sấy hoàn chỉnh Đóng hộp, gián màu Nhập kho thành phẩm Để bảo đảm chất lượng sản phẩm và cao hơn nữa là uy tín của công ty trên thương trường, tất cả các sản phẩm trước khi nhập kho đều phải được kiểm tra chất lượng kỹ càng để loại đi những sản phẩm chưa đạt tiêu chuẩn. Chương III Những vấn đề tồn tại sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 1. Công tác xây dựng cơ chế, chính sách cổ phần hoá Tốc độ xây dựng chính sách chưa đi kịp với tình hình thực tế. Thực tiễn cho thấy nghị định 28 sau một thời gian đi vào thực tiễn đã bộc lộ những nội dung chưa theo kịp tiến trình, hơn thế còn quá cứng nhắc trong xử lý những vấn đề phát sinh làm chậm trễ tốc độ cổ phần hoá tại nhiều doanh nghiệp. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung nghị định 28 mang tính chất cấp thiết, gắn liền với việc đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá. Song việc tiến hành lại rất chậm: năm 1997 chỉ sửa đổi nội dung thẩm quyền quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần (Nghị định 25/CP ngày 26/03/1997) và phải đến tháng 6 năm 1998 mới có sự thay đổi hoàn toàn bằng nghị định 44. Nghị định44/CP đã khắc được rất nhiều hạn chế của nghị định28/CP. Sự thay đổi của nó thể hiện trên những điểm sau: + Mở rộng chủ thể được phép mua cổ phần: Điều 3-NĐ 44/CP qui định: “Các tổ chức kinh tế, xã hội, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài định cư tại Việt Nam đều có quyền mua cổ phần ở các doanh nghiệp cổ phần hoá”. Như vậy, việc qui định người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam có quyền mua cổ phiếu là một điểm mới so với NĐ 28/CP. Đây là một qui định phù hợp với tình hình thực tại. Mấy năm trở lại đây những người Việt Nam ở nước ngoài đang có xu hướng đầu tư về trong nước, hơn nữa cơ chế mở cửa của nhà nước cũng thu hút nhiều người nước ngoài đến định cư tại Việt Nam. Đây là một nguồn đầu tư lớn mà ta cần phải khai thác. Nghị định 44/CP đã qui định vấn đề này, nó góp phần làm cho khả năng cổ phần hoá được mở rộng. + Hình thức cổ phần hoá: Nghị định 44/CP đã qui định thêm một hình thức đó là: “Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần” (Khoản 4 - điều 7). Nghĩa là ở hình thức này nhà nước không tham gia cổ phần ở công ty cổ phần. Đây là một sự thay đổi rất táo bạo, một nhận thức mới của nhà nước ta. + Quyền được mua cổ phiếu cũng được qui định một cách cụ thể hơn, rõ ràng hơn. + Việc sử dụng tiền bán cổ phiếu thuộc sở hữu nhà nước được qui định tại điều 9. Qui định này đã phần nào làm cho mục tiêu của việc cổ phần hoá được thực thi trên thực tế, tạo tâm lý yên tâm cho người lao động khi doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. + Những ưu đãi đối với người lao động thay đổi. Điều 11 - NĐ 28/CP qui định: “Người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá được nhà nước cấp một số cổ phiếu tuỳ theo thâm niên công tác và chất lượng công tác của từng người. Và trị giá cổ phiếu cấp cho mỗi người không quá 6 tháng lương cấp bậc, chức vụ theo thang bảng lương nhà nước ban hành”. Còn điều 14-NĐ 44/CP lại qui định: “Nhà nước bán với giá ưu đãi cho người lao động tuỳ theo năm công tác của từng người. Một năm làm việc cho nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần với mức giảm giá30% so với các đối tượng khác. Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 20% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có vốn tự tích luỹ từ 40% giá trị doanh nghiệp trở lên thì tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 30% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp”. Qui định này có phần thực tế hơn, công bằng hơn. + Việc tổ chức thực hiện cũng được qui định một cách rộng rãi hơn, chi tiết hơn. Thẩm quyền của các Tổng công ty được xác lập. Thành lập các Tổng công ty với quy mô lớn, hoạt động rộng khắp cũng là một trong những giải pháp để thay đổi bộ mặt doanh nghiệp nhà nước. Qui định thẩm quyền của Tổng công ty nhà nước trong việc lựa chọn và quyết định doanh nghiệp cổ phần hoá, quyết định giá trị doanh nghiệp đã làm cho việc cổ phần hoá được xúc tiến một cách nhanh chóng hơn. + Thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng được rút ngắn một cách rõ rệt từ 15 ngày qui định trong khoản 2 điều 16 nghị định 28/CP còn 7 ngày (Khoản 2 điều 16 nghị định 44/CP). Cùng với việc cổ phần hoá sẽ đưa công ty cải thiện được kết quả hoạt động trên hai khu vực. Thứ nhất, phân chia lợi nhuận, người chủ mới sẽ có su hướng tăng tính hiệu quả và lợi nhuận của doanh nghiệp. Thứ hai, việc thoát khỏi những hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước về lương, quản lý có thể tạo ra người lao động có chất lượng cao. Công ty cổ phần có thể giúp cải thiện tình hình đó là khả năng chủ động. Nhờ được giải phóng khỏi những kiểm soát hành chính và các mục tiêu chính trị, các nhà quả lý công ty cổ phần được tự do theo đuổi mục tiêu và dành nhiều thời gian cho những gì thực sự quan trọng làm sao đưa công ty phát triển và có lợi nhuận cao. Như vậy, từ NĐ 28/CP đến NĐ 44/CP là cả một sự thay đổi lớn, ảnh hưởng mạnh mẽ đến kết quả của công tác cổ phần hoá. Cụ thể, đến hết năm 1997, cả nước mới có 18 doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần nhưng tính đến ngày 31/12/1998 đã có thêm 98 doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần. Dù vậy khi triển khai trên thực tế NĐ 44 cũng đã bộc lộ không ít những hạn chế. Những hạn chế của NĐ 44 được thể hiện ở những điểm sau: - Một số nội dung cơ chế, chính sách chưa thực sự bám sát đời sống doanh nghiệp. Vấn đề khống chế mức mua cổ phần theo giá ưu đãi của các cán bộ quản lý doanh nghiệp không quá mức bình quân của người lao động trong doanh nghiệp. Qui định này chưa khuyến khích cán bộ quản lý trong doanh nghiệp mua cổ phần, đồng thời tạo ra sự không bình đẳng giữa người lao động lâu năm đang giữ các chức vụ lãnh đạo trong doanh nghiệp với lao động phổ thông mới vào nghề. Vấn đề bán cổ phần cho người nước ngoài tuy trên thực tế đã phát sinh nhu cầu nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể dù là thí điểm (hiện tại mới trong dự thảo) nên hạn chế rất nhiều việc huy động vốn từ nước ngoài. - Công tác tuyên truyền phổ biến các chính sách mới cho người lao động chưa được đẩy mạnh. Qua khảo sát thăm dò một số doanh nghiệp ngay tại Hà Nội vào tháng 9 năm 1998 của cơ quan chức năng thì việc tiếp cận và hiểu rõ những tinh thần, nội dung mới trong chính sách cổ phần hoá còn rất chậm, có trường hợp chưa hiểu rõ nội dung mới. - Thiếu một hệ thống hỗ trợ, tư vấn cho các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Công ty cổ phần đối với nước ta là một dạng công ty mới mẻ hơn nữa doanh nghiệp nhà nước đang từ sự bảo trợ của nhà nước chuyển sang kinh doanh một cách độc lập, chịu sự chi phối của nền kinh tế thị trường sẽ gặp phải những vướng mắc. Thiếu đi sự hỗ trợ, tư vấn của các cấp có thẩm quyền sẽ là một khó khăn lớn cho tâm lý của những doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá. - Thiếu đi một hệ thống văn bản pháp quy có tính pháp lý cao như luật, pháp lệnh về cổ phần hoá. Tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp mang tính chất triệt để nhất, cương quyết nhất. Do đó rất cần phải có văn bản pháp lý cao làm cơ sở vững chắc cho việc triển khai thực hiện. 2. Công tác tổ chức bộ máy chỉ đạo Cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và là một nội dung của chương trình tổng thể đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Xuất phát từ quan điểm đó công tác tổ chức bộ máy chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá năm qua đã được kiện toàn lại. Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp TW do Phó Thủ tướng Ngô Xuân Lộc làm trưởng ban được qui định rõ chức năng nhiệm vụ để ban có đủ khả năng chỉ đạo công tác đổi mới doanh nghiệp. Sau khi được kiện toàn công tác chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá đã có nhiều khởi sắc. Quy trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được đổi mới theo hướng giảm bớt các khâu, các thủ tục không cần thiết để đảm bảo một đề án cổ phần hoá được hoàn thành trong thời gian từ 4 - 5 tháng so với bình quân 27 tháng. Công tác triển khai thực hiện cổ phần hoá tại các địa phương cũng được đẩy mạnh. Nhiều bộ, địa phương trên cơ sở triển khai công tác sắp xếp, phân loại doanh nghiệp nhà nước hiện có bước đầu đã lựa chọn đăng ký với Chính phủ các doanh nghiệp nhà nước có thể cổ phần hoá trong năm 1998. Tính đến 11/1998 cả nước đã có trên 250 doanh nghiệp nhà nước đăng ký thực hiện cổ phần hoá. Đến hết năm 1998, các địa phương cơ bản hoàn thành việc phân loại và lập đề án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước. Hiện tại hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hố Chí Minh đã hoàn thành việc phê duyệt đề án và đã xác định được số doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần đến năm 2000. Tuy nhiên, trên thực tế công tác này đã gặp phải không ít những khó khăn. Một là, việc tổ chức thực hiện cổ phần hoá chưa đồng đều và rộng khắp. Công tác tổ chức thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thời gian qua và ngay cả trong năm 1998 tiến hành không đồng đều giữa các ngành, địa phương và các tổng công ty nhà nước. Đến nay còn nhiều bộ, ngành và địa phương chưa có doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần, thậm chí chưa hoàn thành việc đăng ký danh sách doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá. Hai là, đội ngũ cán bộ chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Số lượng cán bộ kiêm nhiệm còn nhiều nên chưa chú trọng, thiếu chủ động và kiên quyết trong tổ chức triển khai và đẩy nhanh cổ phần hoá. Thực tế cho thấy trong những điều kiện tương tự, thậm chí trong những điều kiện còn khó khăn hơn, nơi nào được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo thì nơi đó triển khai tốt và ngược lại. Ba là, công tác giám sát và đôn đốc của ban chỉ đạo TW đối với công tác cổ phần hoá ở các cấp cơ sở chưa có sự khen thưởng động viên cũng như kỷ luật kịp thời. Bốn là, công tác phối hợp giữa các cấp chưa nhịp nhàng dẫn đến thiếu thống nhất trong triển khai cổ phần hoá ở các địa phương. Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một khó khăn lớn đối với các cơ quan có thẩm quyền. Hơn nữa, việc tính tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi cổ phần hoá thì rất khó đánh giá được sát sao tình hình thực tế của doanh nghiệp. Chính vì tính hình thức và tương đối đó của việc xác định giá trị doanh nghiệp mà sự kết hợp giữa các cấp đã thiếu đi sự nhịp nhàng, thống nhất. Ngoài ra, việc qui định mang tính hình thức này còn là nguyên nhân dẫn đến tình trạng xác định giá trị doanh nghiệp một cách chủ quan ở các địa phương như đánh giá cao giá trị doanh nghiệp nhằm thu hồi vốn hay đánh giá thấp giá trị doanh nghiệp để đẩy nhanh cổ phần hoá nhằm lấy thành tích. Do đó, làm chậm tốc độ cổ phần hoá hoặc gây thất thoát tài sản quốc gia. Xác định giá trị doanh nghiệp là một khâu quan trọng của cổ phần hoá, sự khó Chương IV Những giảI pháp nhằm khắc phục những vấn đề của công tác sau cổ phần hoá. 1. Về công tác tổ chức thực hiện - Tiếp tục kiện toàn và củng cố bộ máy chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá đảm bảo hết năm 1999 tất cả các bộ, ngành, địa phương đều có các bộ máy chỉ đạo công tác cổ phần hoá. Tăng cường công tác giám sát, đôn đốc, phối hợp giữa ban chỉ đạo TW với các ban đổi mới doanh nghiệp cơ sở. Nâng cao chất lượng các cán bộ chỉ đạo, đảm bảo cán bộ cấp cơ sở có thể giải quyết nhanh những vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện cổ phần hoá ở từng doanh nghiệp. - Tiến hành công tác tổng kết và đúc rút kinh nghiệm việc thực hiện kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước năm 1998 làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện các biện pháp nhằm hoàn thành kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước năm 1999. Tập trung chỉ đạo công tác cổ phần hoá tại một số bộ, địa phương trọng điểm như Bộ Xây dựng, Bộ Công nghiệp, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tổng kết đánh giá và triển khai rộng ra các địa phương khác. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để nâng cao sự hiểu biết của quần chúng nhân dân về lợi ích của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay công tác tuyên truyền đang bộc lộ rõ những yếu kém, dẫn đến tình trạng có những bộ phận trong dân cư chẳng hiểu gì về công tác cổ phần hoá. Điều này dẫn đến một hậu quả là khó thu hút được sự quan tâm của đông đảo quần chúng nhân dân và như vậy có nghĩa là mất đi một nguồn vốn đầu tư không phải là nhỏ trong những bộ phận dân cư này. - Hoàn thiện quy trình cổ phần hoá cũng như đơn giản hoá quy trình đó. Theo như qui định hiện hành thì quy trình cổ phần hoá của nước ta hơI phức tạp. Chính vì thế thời gian hoàn thành cổ phần hoá một doanh nghiệp nhà nước kéo dài trung bình là 27 tháng, ngắn nhất là 9 tháng dài nhất là 79 tháng. Quy trình định giá liên quan đến quá nhiều cơ quan. Vì vậy quy trình nên được đơn giản bằng việc có một cơ quan định giá riêng. Đây là một giải pháp để đơn giản hoá thủ tục hành chính và theo đó thời gian để cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được rút ngắn lại. - Một cản trở khác cho quy trình cổ phần hoá là sự thiếu tự nguyện của người lao dộng. Việc thuyết phục người lao động có vẻ như mất rất nhiều thời gian cho các doanh nghiệp. Một giải pháp đưa ra là nên cung cấp những tài liệu rõ ràng để các giám đốc doanh nghiệp nhà nước, bộ chủ quản, UBND tỉnh có thể sử dụng để giải thích lý do cần phải cổ phần hoá để người lao động hiểu được họ sẽ đạt được lợi ích gì khi tham gia vào việc mua cổ phần. 2. Những giải pháp đối với người lao động và quyền lợi của lao động. Khi doanh nghiệp nhà nướccó quyết định chuyển thành công ty cổ phần thì Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc công ty cổ phần phải có trách nhiệm: + Tiếp tục thực hiện những cam kết trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể đã được ký kết trước đó cho đến khi hết hạn hoặc thương lượng để thay đổi, bổ sung nội dung của hợp đồng lao đông, thoả ước lao động tập thể hoặc ký kết hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể mới. + Tiếp tục thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định tại điều lệ bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành kem theo nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ và Thông tư số 06/LĐTBXH-TT ngày 04/04/1995 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội. Trên cơ sở công ty cổ phần và người lao động tiếp tục đóng báo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật thì công ty tiếp tục được cơ quan bảo hiểm xã hội uỷ quyền thực hiện 3 chế độ bảo hiểm xã hội (ốm đau; thai sản; tai nạn lao động; bệnh nghề nghiệp) + Đối với những lao động mới mà công ty cổ phần mới tuyển thì phải áp dụng theo các quy định của pháp luật lao động hiện hành. + Đối với ba chức danh Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần nếu không đảm nhiệm các chức danh taị công ty cổ phần thì cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm chức danh này có trách nhiệm giải quyết việc làm và mội quyền lợi cho người lao động theo quy định của Nhà nước. - Giải pháp về vấn đề lao động dôi dư trong doanh nghiệp Trước hết là doanh nghiệp tự sắp xếp. Doanh nghiệp phải lập phương án, kế hoạch đề xuất số lao động nào hiện tại không phù hợp với lao động sản xuất kinh doanh cần được xử lý. Có nhiều biện pháp để thực hiện công việc này. Thứ nhất, đào tạo lại và bố trí việc làm mới cho họ. Đây là biện pháp tích cực nhất để đảm bảo cho người lao động có cuộc sống ổn định, thu nhập ổn định. Thứ hai, nếu không thì phải tạo điều kiện cho họ được hưởng chế độ nghỉ sớm để họ có thể ra ngoài làm việc theo khả năng của mình. Đây là một giải pháp cần thiết góp phần ổn định xã hội. - Giải quyết tình hình công nợ của các doanh nghiệp nhà nước thông qua quỹ hỗ trợ cũng là một giải pháp cho người lao động. Quả vậy, hiện tượng nợ nần trong các doanh nghiệp khá nghiêm trọng, thậm chí có trường hợp nợ phải trả lớn hơn cả tài sản thực tế của doanh nghiệp. Nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn còn có thị trường tiêu thụ, vẫn có khả năng vực dậy được nếu có sự hỗ trợ về tài chính. Duy trì được doanh nghiệp cũng có nghĩa là duy trì được công ăn việc làm cho người lao động, đóng góp cho ngân sách, ổn định tình hình xã hội. Kết luận Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng là một biện pháp quan trọng nhằm sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nó đã gặt hái được không ít thành công và thể hiện sự phù hợp của nó trong cơ chế thị trường. Công tác này đã được sự quan tâm của Đảng và nhà nước bằng việc ban hành một loạt những văn bản để triển khai công tác này trên thực tế. Tuy nhiên, đây là một công việc mới mẻ và sự mới mẻ nào lại không mang theo những khó khăn, biết phát hiện ra những khó khăn ấy để khắc phục thì sẽ là một con đường dẫn đến sự thành công. Bài viết này chỉ là tổng kết lại những vấn đề sau khi thực thi cổ phần hoá trên thực tế và đưa ra những giải pháp nhằm có thể phần nào khắc phục được. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã khắc phục được tình trạng buông lỏng quản lý và làm ăn thiếu hiệu quả tại các doanh nghiệp Nhà nước tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả của các công ty. Góp phần vào việc tăng trưởng nền kinh tế, đưa đất nước từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tài liệu tham khảo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Luật Doanh nghiệp Nhà nước. Luật Doanh Nghiệp. Thông tư hướng dẫn về chính sách đối với người lao động.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0823.doc
Tài liệu liên quan