Chuyên đề: “ Sự tác động của chính sách xã hội đến đời sống gia đình thương binh” là một việc làm hết sức cần thiết. Trước tiên về chế độ ưu đãi trợ cấp, phụ cấp hàng tháng đã góp phần nâng cao mức sống của TB, đời sống ngày càng được cải thiện. Đời sống tinh thần ngày càng phong phú và ổn định, mọi nhu cầu về hoạt động xã hội đều có sự quan tâm của toàn xã hội.
Chế độ ưu đãi về nhà ở thì Đảng bộ và Nhân dân huyện đã thực hiện một cách đồng bộ và phát triển sâu rộng như: Việc hỗ trợ tiền sử dụng đất căn cứ vào mức độ thương tật của TB mua nhà của Nhà nước là hợp lý hay phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, sửa chữa nhà . Bên cạnh đó, việc thực hiện chế độ ưu đãi này còn ít được phổ biến trong toàn huyện vì kinh phí còn có hạn.
62 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1769 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Sự tác động của chính sách xã hội đối với đời sống gia đình thương binh ở huyện Thanh Hà - Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 20% trong tổng số dân. Khi vay vốn thì qua tổ trưởng tổ vay vốn với hình thức nhanh gọn, không còn các thủ tục rườm rà như trước nữa. Số hộ gia đình chính sách nghèo thì được ưu tiên với lãi suất thấp hơn.
Thanh Hà là một huyện có dân số đông, diện tích bình quân theo đầu người không cao, số hộ GĐCS thiếu đất để sản xuất là 10 hộ chiếm 20%( thiếu cả đất ở và đất nông nghiệp). ở đây, mỗi người dân bình quân chỉ được 1 sào 15 thước đất cấy lúa. Bây giờ địa phương cũng đã chỉ đạo việc thực hiện giao đất canh tác cho GĐTB để họ tăng gia sản xuất nhưng số này còn quá ít. Với chính sách cho GĐTB ở địa phương mượn đất để sản xuất, để có thể phát triển về mọi mặt làm cho đời sống ngày càng được nâng cao hơn. Do đó, chính quyền địa phương cần tận dụng hết những diện tích đất hoang, chưa sử dụng để đưa vào canh tác giúp cho gia đình chính sách có điều kiện mượn thêm đất. Vì các hộ gia đình này chủ yếu đều làm nông nghiệp nên thiếu đất là khó khăn lớn. Số hộ GĐTB thiếu lao động là 10 hộ chiếm 20% lý do đa số gia đình họ có con đã trưởng thành sống riêng và một số gia đình con còn đang đi học lên không thể tham gia lao động được. 10% số hộ thiếu kỹ thuật canh tác va 16 % số hộ thiếu công cụ sản xuất. Như chúng ta thấy đa số TB khi trở về với cuộc sống do trình độ học vấn thấp nên khó áp dụng thành tưụ khoa học kinh tế vào sản xuất. Vì vậy, rất cần sự quan tâm của chính quyền địa phương trong việc tổ chúc trao đổi kinh nghiệm làm ăn, bồi dưỡng kiến thức là việc làm hết sức thiết thực, hết sức quan trọng tạo điều kiện cho GĐTB có mức thu nhập ổn định. Ngoài ra còn 2 hộ gia đình gặp khó khăn và thiếu thốn về các yếu tố khác trong cuộc sống.
Chính vì vậy, chúng ta thấy được những khó khăn chủ yếu của các hộ GĐTB, chỉ những gia đình này gặp khó khăn thì đã nhận được sự giúp đỡ gì từ chính quyền địa phương, để hiểu rõ hơn tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả sau:
Bảng 2.11. Khi GĐTB khó khăn đã nhận được sự giúp đỡ của
chính quyền địa phương
Nhận được sự giúp đỡ
Số hộ
Tỷ lệ (%)
Cho mượn thêm đất
4
8
Cho vay vốn
17
34
Hướng dẫn tăng gia sản xuất
8
16
Khác
21
42
Tổng
50
100
(Nguồn: qua khảo sát tại huyện Thanh Hà).
Từ số liệu bảng 2.11 cho ta biết : Những GĐTB khi gặp khó khăn trong cuộc sống thì đã nhận được sự giúp đỡ của chính quyền đoàn thể địa phương tạo điều kiện cho các GĐTB tham gia lao động sản xuất tăng thu nhập để ổn định đời sống gia đình, sự giúp đỡ này có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của họ. Khi gặp phải khó khăn thì 17 hộ trong tổng số 50 hộ đã được vay vốn để phát triển sản xuất, làm kinh tế để cải thiện đời sống. 8 hộ GĐTB đã nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn về kỹ thuật canh tác, trao đổi kinh nghiệm để các hộ này có sự hiểu biết đúng đắn về cuộc sống của mình và khi được áp dụng chúng sẽ mang lại hiệu qủa kinh tế cao. Số hộ nhận được giúp đỡ về nhiều mặt khác có tới 21 hộ, và những hộ được mượn thêm đất để sử dụng mới chỉ có 4 hộ do số đất dư thừa của huyện, xã còn rất ít. Vì vậy, khi các GĐTB gặp khó khăn trong đời sống thì đã nhận được sự giúp đỡ động viên từ Đảng và chính quyền địa phương để tạo niềm tin cho họ đối với các chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước và nhờ sự giúp đỡ ủng hộ mà các GĐTB đã giảm bớt được phần nào khó khăn trong đời sống.
Và thực trạng nhà ở là một trong những tiêu chí để đánh giá thực chất điều kiện đời sống của GĐTB. Những năm gần đây, nhờ có chính sách ưu đãi về nhà ở của nhà nước đối với các đối tượng chính sách lên nhà ở của TB ngày càng được cải thiện. Chính sách ưu đãi về nhà ở có một ý nghĩa thiết thực thể hiện sự quan tâm đến đời sống vật chất của GĐCS. Do đó, tôi đã tiến hành điều tra về thực trạng nhà ở của các hộ GĐTB . Qua đó hiểu được tình trạng và để có được những kiến nghị thiết thực với chính quyền địa phương.
Bảng 2.12. Thực trạng nhà ở của các hộ thương binh
Thực trạng nhà ở
Số hộ
Tỷ lệ(%)
Nhà mái bằng
30
60
Nhà mái ngói
12
24
Nhà cần sửa chữa
8
16
Tổng
50
100
( Nguồn: số liệu khảo sát tại huyện Thanh Hà )
Nhìn vào bảng số liệu 2.11 ta thấy rằng: Còn 8 hộ gia đình có nhà ở cần sửa chữa trong tổng số 50 hộ. Đây là loại nhà mà các cấp các ngành, nhân dân, cùng với bản thân GĐTB cần quyết tâm xoá bỏ, để không còn phải sống trong tình trạng nhà ở bị dột nát, chật chội. Số hộ có nhà mái bằng chiếm tỷ lệ cao với 30 hộ trong tổng số 50 và 12 hộ có nhà mái ngói. Đây là loại nhà cũng tương đối chắc chắn để cho gia đình họ có thể yên tâm ở mỗi khi gặp những bất chắc xảy ra như: mưa, bão... Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được nâng cao thì vấn đề nhà ở không còn là nhu cầu trú ẩn nữa, mà nó còn là nơi thể hiện và diễn ra các hoạt động trong cuộc sống, là tiêu chí để đánh giá mức sống của từng gia đình và sự phát triển của mỗi quốc gia. Việc thực hiện chính sách về nhà ở một cách nghiêm túc đã phần nào giảm bớt được những khó khăn trong sinh hoạt của TB và gia đình họ. Chính sách này đã tạo được lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính quyền, tạo niềm vui, phấn khởi cho các đối tượng yên tâm lao động, sản xuất, kinh doanh... Mặt khác, do điều kiện còn hạn chế về nhiều mặt lên sự giúp đỡ chưa được nhiều về kinh phí. Vì vậy, chính quyền địa phương cần quan tâm hơn nữa động viên, giúp đỡ nhau về ngày công trong việc sửa chữa nhà để tình trạng nhà ở của TB ngày càng được cải thiện hơn.
Ngoài ra, tiện nghi sinh hoạt và phương tiện đi lại của GĐTB cũng nhờ sự tác động của những chính sách về việc làm, thu nhập lên mức sống của TB ngày càng được cải thiện, nhu cầu vật chất ngày càng tăng, chất lượng cuộc sống ngày càng ổn định. Hầu hết các gia đình đều có tiện nghi sinh hoạt đầy đủ như: Tivi, đài, quạt và các tiện nghi khác. Ngày nay, trước nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường và những nhu cầu chính đáng về tiện nghi sinh hoạt trong gia đình là không thể thiếu được. Do đó, CSXH đúng, phù hợp sẽ nâng cao hơn nữa đời sống của TB. Các tiện nghi sinh hoạt của gia đình là một trong những nhân tố đánh giá mức sống và sự tác động của CSXH đến đời sống GĐTB . Đảng bộ và Nhân dân huyện Thanh Hà không ngừng cố gắng, nỗ lực để đem lại mức sống cao hơn cho TB và gia đình họ.
Từ những phân tích trên ta thấy sự tác động của CSXH đến đời sống vật chất của GĐTB là rất mạnh mẽ. Những chính sách đó nếu được thực hiện tốt thì có tác động tích cực lớn đến đời sống của họ, nhằm cải thiện đời sống, giải quyết những khó khăn mà họ gặp phải, từ đó đời sống của họ được nâng cao, họ sẽ có niềm tin đối với Đảng và Nhà nước. Nhưng bên cạnh đó cũng còn một số hạn chế đó là một số chính sách được thực hiện nhưng mang lại hiệu quả chưa cao . Vì thế, Đảng và chính quyền địa phương phải có những biện pháp để thực hiện tốt hơn nữa các chính sách làm cho hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện, để đảm bảo đời sống vật chất đầy đủ cho các GĐTB và các gia đình chính sách khác nữa.
2.4.2. Phân tích thực trạng tác động của chính sách xã hội đối với việc giáo dục con cái trong gia đình thương binh huyện Thanh Hà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Để thu được kết quả như mong đợi thì ta phải có sự đầu tư cho giáo dục và người ta thương nói: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư mang lại nhiều lợi nhuận nhất”. Giáo dục có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta rất coi trọng vấn đề giáo dục nhất là giáo dục về đức và tài, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân có ich cho gia đình cũng như toàn xã hội.
Hiện nay, trong điều kiện phát triển của kinh tế thị trường, tuy nhiên cũng còn có nhiều gia đình gặp không ít khó khăn không có điều kiện cho con em đến trường, trong số đó cũng có con em của một số GĐTB. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách quan tâm đặc biệt tới con em các hộ gia đình này để các con em được đi học. Việc chăm sóc giáo dục con em TB vừa thể hiện trách nhiệm và dó cũng là lòng biết ơn đối với những người đã cống hiến hy sinh cho sự nghiệp của đất nước. Những năm qua toàn huyện Thanh Hà đã thực hiện tốt các chính sách ưu đãi giáo dục cho con em TB như: cấp giấy chứng nhận cho học sinh phổ thông để được ưu tiên trong xét tuyển và cũng như việc miễn giảm cho các em, huyện cũng làm hoàn chỉnh những hồ sơ về ưu đãi giáo dục, chi trả trợ cấp giáo dục theo đúng quy định của Nhà nước tạo điều kiện giảm bớt những khó khăn trong gia đình các em để các em cũng có thể tiếp tục học tiếp. Ngoài ra, chính quyền huyện cũng như địa phương đã quan tâm kịp thời tới việc giáo dục này, đã thành lập được nhiều quỹ khuyến học, khuyến khích động viên cho các em thi vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học. Hàng năm đến dịp tổng kết năm học chính quyền địa phương lại tổ chức họp mặt các học sinh, sinh viên là con em TB để động viên, biểu dương, khích lệ, tặng quà tinh thần học tập của các em. ( Cấp xã có quỹ hỗ trợ cho các em là học sinh nghèo vựơt khó để các em tích cực hơn nữa). Với những chính sách ưu đãi, khuyến khích về giáo dục như thế thì đã mang lại điều đáng mừng là năm học 2006 vừa qua 100% con em thương binh đều được phổ cập giáo dục tiểu học. Qua khảo sát 50 hộ ở huyện Thanh Hà về mức dộ ưu đãi mà con cái họ được hưởng trong việc học hành.
Bảng 2.13. Phân loại con em thương binh theo học ở các trường học
Mức độ
Số hộ
Tỷ lệ (%)
Cộng điểm thi
12
24
Miễn học phí
9
18
Giảm học phí
24
48
Hỗ trợ khác
5
10
Tổng
40
100
( Nguồn: Số liệu khảo sát tại huyện Thanh Hà).
Từ số liệu trên ta thấy tất cả con em TB của các hộ được điều tra đều được hưởng những khoản ưu đãi về giáo dục nhưng ở nhiều mức độ khác nhau. Số hộ gia đình có con được giảm học phí là 24 hộ chiếm 48%, 9 hộ có con được miễn học phí, số con em TB được cộng điểm thi là 12 hộ, ngoài ra còn có 5 hộ có con được nhận sự ưu đãi khác về giáo dục.
Trong các năm học vừa qua, toàn huyện Thanh Hà đã thực hiện tốt chính sách ưu đãi giáo dục cho con em TB như việc cấp giấy chứng nhận con TB cho học sinh phổ thông để được ưu tiên trong xét tuyển và cũng như việc miễn giảm học phí cho các em, huyện cũng làm hoàn chỉnh những hồ sơ về ưu đãi giáo dục, chi trả trợ cấp giáo dục hàng tháng đúng theo quy định của nhà nước tạo điều kiện để giảm bớt những khó khăn trong giáo dục các em để các em có thể tiếp tục học ở các cấp cao hơn. Ngoài ra chính quyền địa phương cũng như địa phương xóm, xã cũng quan tâm kịp thời tới việc giáo dục này, đã thành lập được nhiều quỹ khuyến học, khuyến khích động viên cho các em thi vào các trường Đại học – Cao đẳng – Trung cấp. Hàng năm đến dịp tổng kết năm học chính quyền xã lại tổ chức gặp mặt các học sinh, sinh viên là con em của TB để động viên, biểu dương, tặng quà khích lệ tinh thần học tập của các em ở cấp xã còn có quỹ hỗ trợ các em học sinh nghèo vượt khó để các em tích cực học tập hơn nữa. Với những chính sách ưu đãi, khuyến khích về giáo dục như thế thì đã mang lại điều đáng mừng là năm học 2005 – 2006 vừa qua 100% con em TB đều được phổ cập giáo dục. (Theo báo cáo của phòng NV – LĐTB &XH huyện). ở huyện Thanh Hà vấn đề giáo dục đối với con em TB cũng đã thu được bước đầu những kết quả đáng mừng. Qua khảo sát 50 hộ ở huyện Thanh Hà về mức dộ ưu đãi mà con cái họ được hưởng trong việc học hành. GĐTB thì 100% con em của các gia đình này đều đã tốt nghiệp PTCS . Số em theo học ở trường Đại học là 11 em, số em học Cao đẳng là 21 em, số em học ở các trường THCN là 35 em đây là một con số chưa nhiều nhưng cũng đáng hoan nghênh. Và còn một số em đang học ở các lớp ĐTDN để tạo cho mình một công việc ổn định và có điều kiện giúp đỡ gia đình. Mặt khác, nhiều gia đình vẫn còn gặp nhiều khó khăn, con cái học tập tốt nhưng lại không có điều kiện để học mà các em đó phải nghỉ học ở nhà để ở nhà giúp đỡ gia đình, đây cũng là một thiệt thòi lớn với các em. Những khó khăn của gia đình này cần có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành, tạo điều kiện, động viên để con cái họ được đi học tiếp.
Nói chung, chính sách ưu đãi giáo dục không những tạo điều kiện cho con em TB có cơ hội học cao hơn mà còn có ý nghĩa giáo dục tinh thần rất lớn trong việc khích lệ, động viên ý thức tự giác chăm chỉ học hành nâng cao kiến thức. Những chính sách này không chỉ giúp các em mà nó còn là động lực rất lớn cho bản thân TB. Chính sách ưu đãi giáo dục và đào tạo giáo dục đối với con em TB đã thể hiện được sự quan tâm chăm sóc của Đảng và Nhà nước ta, chính sách đãi ngộ này góp phần khắc phục những khó khăn và nâng cao mức sống của GĐTB . Bên cạnh đó, cũng cần sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa cho phù hợp với điều kiện như bây giờ, phù hợp với con em TB, như con thương binh hạng 3, hạng 4 không được khoản trợ cấp nào khác ngoài việc giảm mức học phí, đây là một thiệt thòi rất lớn. Cần bổ sung những chính sách cụ thể, thiết thực hơn nữa để đảm bảo cuộc sống: “ Yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần”
2.4.3. Phân tích đời sống tinh thần của gia đình thương binh huyện Thanh Hà dưới sự tác động của chính sách xã hội.
Đời sống tinh thần được coi là sự phản ánh của đời sống vật chất vì thế muốn nhìn nhận và đánh giá đời sống chung của mỗi cá nhân, nhóm xã hội không chỉ xuất phát từ lĩnh vực đời sống vật chất mà phải được đánh giá một cách toàn diện về cả mặt đời sống tinh thần. Đời sống tinh thần mà những lí tưởng quan niệm, niềm tin của mỗi con người nói chung cũng như các con GĐTB nói riêng. Mọi hoạt động diễn ra trong đời sống tinh thần của TB đều thể hiện sự quan tâm chăm sóc của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính quyền địa phương. Nếu con người có đời sống tinh thần tốt sẽ làm vơi đi những buồn phiền, lo âu trong cuộc sống, tạo sự vui vẻ phấn khởi tích cực trong lao động sản xuất dẫn đến năng suất lao động cao . Với truyền thống:”Uống nước nhớ nguồn”,”Đền ơn đáp nghĩa”,”Ăn quả nhớ người trồng cây” cùng với cả nước Nhân dân huyện Thanh Hà đã dấy lên phong trào chăm sóc TB thể hiện sự kính trọng biết ơn sâu sắc đó bằng các hoạt động như: đi thăm viếng nghĩa trang, đến nhà thương binh.... Chính quyền địa phương thì thăm hỏi, động viên quà các GĐTB trong các ngày lễ tết và khi họ gặp khó khăn. Để khơi dậy tốt các phong trào ấy thì cần phải có sự tuyên truyền phổ biến rộng rãi đến với các tầng lớp nhân dân qua hệ thống sách báo, đài phát thanh... Các cán bộ chính sách tại địa phương phải dược trang bị những hiểu biết về chính sách, giải quyết kịp thời những thắc mắc từ gia đình chính sách khi họ chưa hiểu rõ về nó. Tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí sau những giờ làm việc mệt mỏi, tạo tinh thần sảng khoái cho TB .
Thương binh là những người dễ mặc cảm với bản thân thì họ cần có sự quan tâm hơn nữa của người thân, của cộng đồng và của toàn xã hội giúp cho họ có điều kiện tham gia vào các tổ chức xã hội và đoàn thể . Qua khảo sát ta thấy:
Bảng 2.14. Cơ cấu thương binh tham gia vào các hoạt động xã hội
Các tổ chức, đoàn thể
Số người
Tỷ lệ(%)
Hội cựu chiến binh
23
46
Hội nông dân
15
30
Đảng, chính quyền
5
10
Hội và các đoàn thể khác
7
14
Tổng
50
100
(Nguồn: số liệu khảo sát tại huyện Thanh Hà)
Cơ cấu Thương binh tham gia vào các hoạt động xã hội trong bảng 2.14 cho thấy: Thương binh không chỉ có vai trò quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc mà khi đất nước đã hoà bình thì họ lại tiếp tục phát huy vai trò của mình đối với công việc xây dựng Tổ quốc. Họ lại tiếp tục sự nghiệp của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của quê hương, họ tham gia vào các đoàn thể, Đảng và chính quyền ở địa phương mình sinh sống. Số TB tham gia vào hội cựu chiến binh chiếm một phần lớn 46% trong tổng số 100% các hộTB, số TB tham gia hội nông dân chiếm 30%( tham gia vào hội này họ trực tiếp giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động sản xuất như : trồng trọt, chăn nuôi, hỗ trợ nhau về vốn.....để họ có thể cải thiện đời sống. Số TB tham gia chính quyền, Đảng chưa nhiều mới chỉ kiếm 10% trong tổng số. Ngoài ra, còn có một số TB đã tích cực tham ra vào hội và các đoàn thể khác chiếm 14%(hội người cao tuổi, hội bảo thọ...) khi tham gia vào những hội này, đa số các TB tham gia rất tích cực vì nó mang và đem lại cho họ cuộc sống vui vẻ,bổ ích hơn.
Những hoạt động trên đã tích cực cho đời sống tinh thần củaTB, giúp họ có niềm tin phấn khởi và ngày càng tham gia tích cực hơn vào các hoạt động của địa phương. Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương, những hoạt động mang ý nghĩa tinh thần đã phần nào bù đắp những mất mát của họ; giúp họ tin tưởng vào chủ trương chính sách của Đảng và tích cực đi đầu trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Trên đây là những việc làm đầy tình nghĩa của Nhân dân, các cấp uỷ Đảng, chính quyền huyện Thanh Hà đối vớiTB . Nhằm tạo ra cho những gia đình đó có một cuộc sống vui vẻ, bù đắp được phần nào những mất mát đau thương do hậu quả của chiến tranh để lại đối với TB và gia đình họ.
PHẦN THỨ BA
NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH THƯƠNG BINH
HUYỆN THANH HÀ
I. Quan điểm của Đảng và Nhà Nước về ưu đãi XH đối với GĐTB
Dân có giàu nước có mạnh thì cần phải có những chính sách kinh tế đúng đắn đồng thời xây dựng một số CSXH phù hợp nhằm giải quyết những vấn đề xã hội nẩy sinh, làm cho mọi người có cuộc sống ấm lo hạnh phúc. Đảng và nhà nước ta đã đặc biệt chú ý tới các CSXH.
Trong hệ thống CSXH của nước ta có một bộ phận CSXH đặc thù đó là chính sách ưu đãi xã hội. Ưu đãi xã hội là một vấn đề rộng lớn, phức tạp mang đậm tính chất kinh tế, chính trị, lịch sử tư tưởng và tình cảm sâu sắc. Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt về vật chất và tinh thần của XH, cộng đồng, nhà nước đối với những người có công với dân, với nước đặc biệt là GĐTB. Vì thế, thực hiện ưu đãi xã hội với người có công không chỉ là sự “Đền ơn đáp nghĩa” mà còn tác dụng sâu sắc giáo dục các thế hệ con cháu về lòng biết ơn “Uồng nước nhớ nguồn” tôn vinh sự hi sinh to lớn của những người có công với cách mạng. Dân tộc việt nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh tàn khốc và ác liệt, chịu những trận mưa bom bão đạm của kẻ thù. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân và dân ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, giải phóng dân tộc thống nhất non sông, giữ gìn độc lập của Tổ quốc. Chiến tranh đã qua đi nhưng hậu quả để lại rất nặng nề. Hàng triệu người con của dân tộc đã hy sinh anh dũng, hàng chục vạn người đã góp một phần sương máu của mình cho Tổ quốc, non sông. Vấn đề đời sống của tầng lớp dân cư nói chung và của GĐTB nói riêng là chủ đề luôn được các cấp, các ngành, các cơ quan đoàn thể quan tâm nghiên cứu, xem xét một cách chủ động. Nhằm ổn định và nâng cao hơn nữa cuộc sống của GĐTB. Trong những năm gần đây đã diễn ra nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu thảo luận của các cơ quan , các tổ chức xã hội và các cá nhân về các đối tượng thương binh. Những phương tiện truyền thông đã giành những thời lượng, các sách báo, tạp chí với những trạng viết lớn để nói lên vấn đề này. Tất cả đều nói lên những công lao to lớn của những anh hùng đã cống hiến hi sinh cho Tổ quốc, những TB đã bỏ lại một phần máu thịt của mình nơi chiến trường để mang lại độc lập tự do cho đất nước. Qua đó cũng khẳng định được truyền thống cao cả của dân tộc ta, coi chăm sóc thương binh là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Bên cạnh đó còn có các nghiên cứu của các vùng, các địa phương khắp nơi trên cả nước hướng về ngày TB. Hàng năm cứ đến ngày này nhân dân trong cả nước lại tổ chức kỉ niệm ngày TB và coi đó là sự kiện quan trọng có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Kỷ niệm 60 năm “Ngày thương binh” theo tinh thần chỉ thị 08CT/TƯ của Ban bí thư. Ngoài ra còn diễn ra các cuộc thi tìm hiểu về chính sách đối với GĐTB các phong trào đó đã dấy lên trong cả nước, thể hiện lòng biết ơn của những người đã để lại nơi chiến trường một phần sương máu của mình. Ngoài những cuốn sách những tạp chí có giá trị cao về tính nhân văn, nhân bản còn có những cuộc triển lãm, những cuộc trưng bày của các tổ chức xã hội, các cá nhân về các đề tài chiến tranh, đề tài TB. Qua đó thấy rõ những mất mát hy sinh to lớn của những người con yêu nước và cũng phần nào bày tỏ lòng kính trọng, biết ơn sâu sắc của chúng ta đối với những người có công với cách mạng. Tất cả những cuộc nghiên cứu, trưng bày đó, triển lãm đó đều có tác động đến CSXH và gây ảnh hưởng đến đời sống gia đình các đối tượng chính sách mà chủ yếu là đời sống GĐTB. Mỗi nghiên cứu đều mang một mục đích chủ định và một sắc thái riêng, nhưng dù sao những sắc thái riêng áy là cơ sở vô cùng quan trọng cho vấn đề nghiên cứu.
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về ưu đãi xã hội đối với GĐTB.
GĐTB là một vấn đề chính trị, một vấn đề tư tưởng, một vấn đề tình cảm, một vấn đề xã hội, một trong những vấn đề lớn của Đảng và Nhà nước, một vấn đề phức tạp mà giải quyết lâu dài. Ngay từ khi mới giành được chính quyền, Đảng và nước ta đã quan tâm chăm sóc đối với GĐTB. Điều này phản ánh bản chất chế độ chính trị xã hội của Đảng và Nhà nước ta đối với những người con trung hiếu với Đảng và nhân dân đã hi sinh phấn đấu cho nền độc lập và tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của đồng bào. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ghi nhận và đời đời đền đáp, ghi tạc công lao, nếu không làm tốt sẽ tác động đến chính trị xã hội, gây mất lòng tin của nhân dân và chế độ của Đảng và Nhà nước. Làm tốt công tác đối với TB là chia sẻ và làm giảm bớt nỗi đau thương mất mát của một bộ phận dân cư trong quan hệ công đồng, tạo nên sự đoàn kết gắn bó tin tưởng vào chế độ trong nhân dân.
2. Làm tốt công tác TB là thể hiện tình cảm trong sáng của Đảng, thể hiện đạo lý của dân tộc ta.
Vấn đề TB là một vấn đề rất nhạy cảm rễ bị tác động đến toàn xa hội. Nếu làm không tốt sẽ tạo ra sự băng giá lòng người đối với chế độ xã hội hiện tại. Xã hội nào cũng vậy chăm sóc người có công xây dựng nên chế độ ưu đãi xã hội là trách nhiệm của Nhà nước có chức năng bổn phận với các thành viên đặc biệt này. Đó là những người có công với nước mà cuộc sống của người khó khăn phải được đền đáp suy tôn giúp đỡ.
Một trong những vấn đề lớn của Đảng và Nhà nước ta: Công tác ưu đãi XH đối với TB là CSXH đặc biệt đối với những thành viên đặc biệt của XH đó là những người có công với cách mạng. Làm tốt công tác này sẽ tác động với toàn bộ đời sống xã hội trên các mặt kinh tế. Làm tốt công tác này sẽ tác động tới toàn bộ đời sống xã hội trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, tinh thần, tư tưởng xã hội, đến sự an toàn , an ninh quốc phòng của đất nước. Bởi vì số lượng trong dân cư rất lớn và trải dài trong thời gian lịch sử, qua nhiều thế hệ, có quan hệ xã hội rất rộng lớn và sâu sắc, vấn đề nhạy cảm đặc biệt do đó không cho phép bất cứ ai, cấp nào, nghành nào, địa phương nào không làm tốt vấn đề này. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “Không cho phép cấp ủy, cấp chính quyền Nhà nước, đoàn thể xã hội nào, bất cứ ai không làm tốt công tác thương binh” ((10) Bài nói tại Hội nghị tổng kết công tác của Bộ nội vụ tháng 3/ 1969
).
3. Xã hội hóa việc chăm sóc các TB bằng phong trào quần chúng.
Đảng và Nhà nước ta coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Công tác TB là một công tác cách mạng tác động đến kinh tế chính trị , an ninh quốc phòng, tình cảm đạo đức văn hóa, văn minh xã hội công tác đó phải do dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đây là một lĩnh vực rất lớn, khó khăn phức tạp đòi hỏi huy động sức mạnh và trí sáng tạo của nhân dân. Bác Hồ nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Vấn đề TB là vấn đề truyền thống đạo lý con người nên nhân dân rất trân trọng và đồng tình ủng hộ công tác chăm sóc, đền ơn đáp nghĩa. ở nhân dân có tiềm năng là sự sáng tạo to lớn, từ những lúc đất nước còn quá nghèo, trong kháng chiến chống Pháp, Bác đặt niềm tin vào nhân dân chăm lo công tác TB là đã trở thành hiện thực của phong trào đón TB về làng để dân cáng đáng việc chăm lo toàn diện về đời sống của họ.
Hiện nay, phong trào quần chúng đã gắn bó với các chương trình lớn như nhà tình nghĩa, vườn cây tình nghĩa, sổ vàng tiết kiệm, chăm sóc TB nặng, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa…Động viên TB phát huy kế tục truyền thống cách mạng tham gia có ích cho xã hội để trở thành người công dân kiểu mẫu, gia đình cách mạng gương mẫu. Bác Hồ đã chỉ cho toàn Đảng, toàn dân ta là: chăm sóc TB sao cho “yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần, tạo điều kiện cho anh em tham gia công việc có ích cho XH”. Bác Hồ còn dạy TB “tàn nhưng không phế”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, TB là những quần chúng cách mạng đặc biệt. Họ sẽ gắn bó suốt đời với cách mạng, với dân, với nước. Họ đòi hỏi xã hội phải công bằng về đãi ngộ nhưng rất tự trọng, tự hào vươn lên thể hiện bản lĩnh và không tủi hổ với gương hi sinh vì nước, không làm suy giảm vai trò người chiến sỹ đã từng quả cảm vì chiến đấu ngoài mặt trận trong danh hiệu “Bộ đội cụ hồ”. Nay họ lại tiếp tục trong hoàn cảnh mới muốn thể hiện tính trung kiên và tự hào của mình với đất nước ví “Qúa khứ vinh quang tự hòa đến mấy chỉ có giá trị khi hiện tại là đẹp cho đời”
4. Chính sách ưu đãi xã hội đối với GĐTB.
Là một bộ phận quan trọng cấu thành của CSXH, nó phản ánh được sự quan tâm, sự chăm sóc giúp đỡ của các thế hệ đi sau đối với những người cha, người anh đi trước đã hy sinh nằm lại nơi chiến trường hoặc có những người trở về thì mang trên mình đầy thương tích, để lại một phần sương máu của mình nơi chiến trường. Đó là sự hy sinh cao quý vĩ đại mà không có gí sánh được. Chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công không phải là sự “đền bù” mà lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc. Như chúng ta đã biết ngay từ năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp Đảng, Nhà nước, Hồ Chủ Tịch cùng với toàn dân đã quan tâm tới chính sách đối với gia đình người có công trong cách mạng đặc biệt là gia đình TB. Để thực thi chính sách này vào năm 1946 “hội giúp binh sỹ bị thương”được thành lập ở Thuận hóa (huế). Các cuộc kháng chiến đã đi qua nhưng mà hậu quả của nó để lại thì vô cùng to lớn không có gì có thể nói hết được vì hàng triệu chiến sỹ đồng bào ta đã anh dũng hy sinh để bảo vệ độc lập của Tổ quốc. Để đền đáp được phần nào hy sinh những hy sinh to lớn, vĩ đại ấy, đó cũng là sự kế tục và phát huy đạo lý dân tộc của ông cha ta. Ngay từ năm 1947 Hồ Chủ Tịch đã chọn ngày 27/7 hàng năm là ngày TB. Điều này đã thể hiện sự kính trọng vì mục đích cao cả đó. Thấu hiểu sự mất mát hy sinh to lớn đó, chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Chính phủ và dân tộc ta phải quan tâm báo đáp “Đồng bào sẵn sàng giúp đỡ, chính phủ ra sức nâng đỡ, làm cho TB được yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần, tạo điều kiện cho họ tham gia vào các hoạt động xã hội”. Từ đó đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn ghi nhớ và thực hiện lời dạy của Bác Hồ hết lòng chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần cho TB. Hệ thống các chế độ, các chính sách của Đảng và Nhà nước luôn được sửa đổi và bổ xung nhằm từng bước cải thiện đời sống của gia đình thuộc diện chính sách đặc biệt là các GĐTB.
II. Các giải pháp tăng cường sự tác động của chính sách xã hội đối với GĐTB huyện Thanh Hà.
1. Xây dựng các trung tâm phục hồi chức năng.
Để thực hiện phục hồi chức năng cho TB, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã xây dựng nhiều trung tâm phục hồi chức năng, cùng với đó là hệ thống rộng khắp các trại điều dưỡng, an dưỡng ở trung tâm cũng như địa phương nhằm phục hồi chăm sóc sức khỏe cho TB. Các địa phương đều xây dựng các cơ sở dạy nghề, các cơ sở sản xuất, tạo công ăn việc làm cho TB và con em TB. Gần đây việc ban hành pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước trao tặng cho TB. Một lần nữa Đảng, Nhà nước và nhân dân đã thể hện lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với TB. Tiếp nối truyền thống nhân ái của dân tộc, nhiều phong trào của các địa phương, của các tổ chức xã hội, các cá nhân đã làm cho công tác chăm sóc TB trở thành công việc thường xuyên của XH như phong trào chăm sóc Tb tại nhà, nhiều các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và các cá nhân đã đóng góp quỹ tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm nhận nuôi dưỡng TB…Việc nâng cao mức sống của TB đã được làm rất tốt. Nhiều công trình có giá trị khoa học lâu dài về hậu quả của chiến tranh được nghiên cứu giúp nhà nước trong việc hoạch định chính sách TB. Ngày nay, trong quá trình đổi mới nền kinh tế thị trường phải hiểu đúng sự thật là những người có công chịu thiệt thòi vì vậy mà Đảng và Nhà nước có những văn bản, pháp lệnh, nghị định… thể hiện đạo lý của dân tộc. Trong những năm qua Đảng, Nhà nước và toàn bộ nhân dân ta đã cố gắng chăm lo rất nhiều cho công tác TB nhưng so với yêu cầu to lớn của công việc này chúng ta còn phải cố gắng nhiều hơn nữa để tiếp tục hoàn thiện hơn các chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác chăm sóc TB phải được thực hiện tốt ở mọi cấp, ngành.
2. Tăng cường kinh phí xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người có công và con em họ.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Đó là mục tiêu, khát vọng của toàn Đảng, toàn dân vừa tạo điều kiện thực hiện tốt hơn công tác chăm sóc TB. Theo điều 3 Nghị định 28/CP ngày 29/4/1995 của CP thì hàng năm, ngoài phần ngân sách đảm bảo cho việc thực hiện chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Nhà nước cần dành một kinh phí trong quỹ quốc gia về giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo …để người có công với cách mạng vay, tạo việc làm, ổn định đời sống. Giải quyết việc làm là một nội dung cơ bản của chính sách đối với người có công và gia đình họ bởi cả cuộc đời những con người ấy đã gắn bó với công cuộc giải phóng và bảo vệ tổ quốc khi trở về họ lại gặp nhiều khó khăn như tình trạng sức khỏe yếu kém, thiếu thốn sản xuất làm ăn…Vì vậy, pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng đã chú ý tới vấn đề xắp xếp việc làm tăng thu nhập gia đình họ, tạo điều kiện để người có công phát huy năng lực sở trường của mình làm giàu cho GĐ & XH, góp phần làm giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng vì trong môi trường làm việc họ vẫn thấy mình có đóng góp có ý nghia đối với xã hội. Chính sách cho TB vay vốn làm kinh tế cũng rất quan trọng đối với các hộ gia đình này bởi vì đa số các GĐTB đều mất đi những lao động chủ chốt hoặc do những thương tật, bệnh tật, do thiếu vốn và những và những hiểu biết cần thiết để làm ăn trong cơ chế mới, vì thế trong làm kinh tế gặp rất nhiều khó khăn. Đảng và Nhà nước đã có những chính sách vay vốn giúp gia đình chính sách làm kinh tế nhưng chưa nhiều mới chỉ giải quyết được phần nào nhu cầu này. Ngoài ra, còn thực hiện chính sách 5 chương trình chăm sóc TB như: Xây dựng nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, chăm sóc TB và ổn định đời sống TB nặng tại nhà.
Cùng với chính sách của Đảng, Nhà nước việc toàn dân tham gia chăm sóc TB đã trở thành phong trào rộng khắp, đạt được những thành công vô cùng to lớn, góp phần ổn định và nâng cao đời sống vật chất tinh thần đối với TB. Đây không chỉ là vấn đề tình cảm mà còn là trách nhiệm nghĩa vụ của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với những người có nhiều cống hiến cho cách mạng, giành độc lập tự do cho Tổ Quốc và cuộc sống yên bình của nhân dân. Các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân huyện Thanh Hà đã ra sức ngày đêm lao động sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, góp phần cùng cả nước đấu tranh giành độc lập thống nhất nước nhà. Con em Thanh Hà chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên mọi miền của Tổ quốc đã tỏ rõ truyền thống khí phách của người Thanh Hà xứ đông-lập công xuất sắc. Hàng ngàn đồng chí được Đảng, Nhà nước khen thưởng các hình thức, huân chương chiến sỹ, huân chương chiến thắng, huân chương chiến sỹ vẻ vang…Nhiều đồng chí là con em Thanh Hà đã công tác trong quân đội tiến bộ trở thành cán bộ cao cấp giữ một số trọng trách lớn do Đảng, Nhà nước và quân đội giao cho. Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Hà đã vinh dự được nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: “huyện anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Đất nước thống nhất quân và dân Thanh Hà có quyền tự hào về quê hương mình đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đóng góp đáng kể sức người, sức của vào cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ, vô cùng ác liệt của dân tộc. Những hy sinh và tổn thất xương máu của con em Thanh Hà đã đóng góp cho nền độc lập thống nhất đất nước là to lớn. Với 1.211 TB thì có 56 đồng chí TB mất sức 81% trở lên.
Ngày nay, các chế độ chính sách ưu đãi đối với người có công đã thành một hệ thống văn bản tương đối chặt chẽ đã thực hiện với một lực lượng đông đảo các đối tượng. Những quy định này dần được Luật hóa, với mục đích trú trọng chăm lo cả về vật chất lẫn tinh thần cho các đối tượng có công với cách mạng. Pháp luật ưu đãi người có công đã được xây dựng và từng bước được hoàn thiện.
Phát huy truyền thống của quê hương Thanh Hà, anh dũng chiến đấu, cần cù thông minh, sáng tạo lao động sản xuất với đạo lý uống nước nhớ nguồn, sống nhất mực thủy chung. Cán bộ và nhân dân Thanh Hà đã nhận thức và thực hiện tốt phong trào TB. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội đã căn cứ vào nội dung trong pháp lệnh và Nghị định 176/NĐ-CP ngày 20/10/1994 của CP và các văn bản Thông tư hướng dẫn của Bộ LĐ-TB&XH. Làm tốt công tác giải thích tuyên truyền, học tập, quán triệt rỗng rãi từ trong Đảng tới quần chúng nhân dân. Các cấp đã thành lập Hội đồng thi đua khen thưởng để xét với yêu cầu chính xác kịp thời và khách quan. Việc giải quyết những tồn tại người có công theo thông tư của Bộ LĐ - TB & XH Ban chỉ đạo từ huyện tới các xã đã và đang tiếp tục làm một cách chặt chẽ, kịp thời, đúng đối tượng. Huyện ủy, UBND huyện thường xuyên nghe báo cáo của cơ quan chuyên môn về công tác TB kịp thời có ý kiến chỉ đạo và chỉ thị cho các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện tốt, đầy đủ công tác TB. Lãnh đạo huyện thường xuyên giành thời gian để thăm tặng quà một số đối tượng TB tiêu biểu có hoàn cảnh khó khăn. Các chính sách ưu đãi của TB dần đã đi vào thực hiện có nề nếp. Thường xuyên chăm lo đến đời sống của gia đình chính sách nghèo. Tạo công ăn việc làm cho TB, tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế xã hội góp phần ổn định kinh tế xã hội ở từng địa phương. Công tác TB đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân huyện nhà thực hiện tốt. Đặc biệt là sau 5 năm thực hiện pháp lệnh ưu đãi đối với TB đã nổi lên nhiều đơn vị tập thể, ngành, cơ quan đơn vị, chính quyền địa phương, nhiều cá nhân thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa. Điển hình là Đảng ủy, chính quyền xã Tân Việt làm tốt công tác TB. chú ý chăm lo giải quyết công ăn việc làm nhân dân trong đó có GĐTB. Nhiều hộ chính sách có đời sống kinh tế khá, các mặt hoạt động của địa phương có nhiều tiến bộ. Đảng, chính quyền xã An Lương, xã Hồng Lạc là 2 địa phương điển hình trong việc thực hiện xét duyệt các chế độ đối với người có công đảm bảo chính xác, kịp thời đúng quy định nhà nước. Xã Vĩnh Lập là một xã không thuộc trung tâm huyện, đời sống kinh tế còn khó khăn nhưng đã biết tổ chức vận động, động viên nhân dân hàng năm xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, tu sửa, xóa nhà tranh tre cho các đối tượng la TB. Các xã như: T.T. Thanh Hà, Thanh Thủy, Phượng Hoàng, Quyết Thắng, Cẩm Chế…đã có nhiều cố gắng, hàng năm trích một phần kinh phí của tập thể để tu sửa, xây dựng thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn. Các cơ quan như: Phòng LĐ - TB & XH, phòng GDĐT, hội cựu chiến binh…đã kịp thời tam mưu cho huyện ủy – HĐND – UBND huyện lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiên tốt công tác TB. Nhiều GĐTB làm kinh tế giỏi, chấp hành tốt đầy đủ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Biết tự thân phấn đấu vươn lên làm giàu cho gia đình, tạo dựng được cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần, không ỷ lại, trông chờ vào nhà nước.
3. Phát động phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với người có công và gia đình họ.
Ban chỉ đạo huyện đã xây dựng triển khai những nội dung cơ bản như: Phát động quân và dân trong huyện hưởng ứng cuộc vận động đóng góp xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa để tu sửa, xóa nhà tranh tre cho các đối tượng là TB. Giao chỉ tiêu cho các xã, thị trấn tổ chức vận động xây dựng giảm họ nghèo thuộc diện chính sách xã hội. Các ngành, các cấp có hoạt động thiết thực, gặp gỡ động viên, thăm hỏi các gia đình TB tiêu biểu. Huyện ủy – HĐND – UBND – UBMTTQ đi thăm, tặng quà cho GĐTB một số xã có hoàn cảnh khó khăn. Tiếp tục tuyên truyền về chính sách TB. Tập chung giải quyết những tồn tại về CSTB. Biểu dương gương tập thể, cá nhân thực hiện tốt công tác TB. Các cấp tổ chức mít tinh kỷ niệm, gặp mặt cá GĐTB tiêu biểu, động viên, khen thưởng, tặng quà nhân dịp kỷ niệm ngày 27/7.
Với những thành tích và cố gắng đã đạt được trong công tác chăm sóc TB huyện Thanh Hà đã thực hiên tốt chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần quan trọng làm giảm bớt khó khăn, thiếu thốn, nâng cao mức sống củaTB . Nhưng vẫn còn những tồn tại cần khắc phục nhằm thục hiện và quán triệt mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra với việc nâng cao đời sống TB được tốt hơn. Vì vậy, tôi đưa ra một giải pháp sau:
Trước tiên, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc chăm sóc TB, phát triển sâu rộng phong trào hoạt động tình nghĩa toàn dân dưới nhiều hình thức phong phú. Duy trì, phát triển mạnh việc xậy dựng quỹ: “Đền ơn đáp nghĩa ” ở địa phương để đối tượng được chăm sóc tốt hơn, tránh hộ gia đình chính sách tái nghèo, tạo điều kiện để họ phát triển sản xuất.
Thứ hai: Chính quyền địa phương nên có một quỹ hỗ trợ vay vốn đôi với nhóm CSXH với lãi suất thấp, thời gian được kéo dài và các thủ tục vay đơn giản, tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho các GĐTB phát triển sản xuất kinh doanh để nâng cao đời sống. Cần có sự giúp đỡ đối với con cái các GĐTB trong việc đào tạo học nghề và tạo công ăn việc làm để phát huy được hết nguồn nhân lực lao động sẵn có, mang lại nhưng thu nhập, làm giảm bớt nhưng khó khăn và tạo cho họ có được một công việc ổn định và cần có chính sách nâng mức trợ cấp hơn nũa cho các hộ GĐTB để phù hợp với chính sách hiện nay.
Thứ ba: Chính quyền địa phương cần tạo điều kiện cho TB học hỏi kinh nghiệm sản xuất để phát triển kinh tế gia đình để có cơ hội trao đổi kinh nghiêm sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tăng thêm thu nhập và ổn định đời sống.
Thứ tư: Cần tạo điều kiện và thực hiện tốt hơn nữa trong việc chăm sóc sức khoẻ, chế độ ưu đãi về nhà ở, y tế...Địa phương tổ chức chi trả trợ cấp đúng đối tượng, kịp thời, đầy đủ với các đối tượng được hưởng chế độ.
Thứ năm: Đảng và Nhà nước thường xuyên sửa đổi hoạch định các chính sách ưu đãi cho phù hợp với thực tiễn đời sống của TB, tích cực chăm lo hơn nữa tới TB không còn khả năng lao động, già yếu mà chỉ sống nhờ vào tiền phụ cấp.
Thứ sáu: Cần phải nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ chuyên ngành làm công tác TB ở các cấp,các ngành địa phương để họ làm tốt công tác này, có hiệu quả hơn nữa.Khắc phục nhận thức và quan điểm không đúng, thái độ làm việc theo kiểu ban ơn, làm phúc, cửa quyền, hối lộ...
Và các đoàn thể, các tổ chức xã hội nhờ những phương tiện truyền thông để giáo dục nhân dân về truyền thống đạo lý:”Uống nước nhớ nguồn”, thực hiện phong trào”Đền ơn đáp nghĩa”, động viên các hộ chính sách khó khăn vươn lên làm giàu. Hướng tới mục tiêu:”Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Để thực hiện tốt công tác TB năm 2006 và những năm tiếp theo cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể cần tập chung làm tốt hơn nữa việc tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân về chủ trương chính sách quy định của Đảng và Nhà nước về những thành quả của công tác TB. Biểu dương, khen thưởng những tập thể và cá nhân làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, những TB gương mẫu vượt khó vươn lên tạo dựng cuộc sống no, đủ, tốt đẹp hơn.
Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa công tác chăm lo TB. Đặc biệt coi trọng động viên phát triển sâu rộng hoạt động tình nghĩa của toàn dân từ cơ sở thôn xóm, hộ dân cư với nhiều hình thức phong phú, thiết thực hiệu quả. Phát triển mạnh việc xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, sử dung quỹ đúng mục đích, có hiệu quả để việc xây dựng quỹ đó trở thành việc làm thường xuyên hàng năm của mỗi cấp chính quyền.
Cần coi trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Phát động rộng khắp phong trào thi đua để nhiều xã, thị trấn, cơ quan, đơn vị làm tốt công tác TB. Đồng thời, thường xuyên chú trọng đến công tác đào tạo bồi dưỡng, sắp xếp công ăn việc làm cho TB, tạo điều kiện cho các gia đình đối tượng chính sách tự vươn lên phát huy năng lực sở trường của mình, sản xuất kinh doanh các hoạt động xã hội khác vừa ích nước vừa lợi nhà.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị xã hội của địa phương, tập chung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đúng, đầy đủ, chu đáo các chế độ ưu đãi người có công. Phấn đấu hoàn thành cơ bản công tác xác nhận người có công trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến trước ngày 30/12/2002 trên cơ sở công khai, dân chủ, chống phiền hà, sách nhiễu, kiên quyết xử lí kịp thời những vụ việc sai phạm. Khẩn trương tiến hành việc tu sửa, nâng cấp xây dựng các công trình ghi công ở các xã, thị trấn và đài tưởng niệm của huyện. Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi người có công, nghiên cứu xử lý những bất hợp lý trong quá trình thực hiện chính sách, đồng thời kịp phản ánh với Đảng, Nhà nước và cơ quan có thẩm quyền những vấn đề phát sinh mâu thuẫn trong quá trình thực hiện CSTB. Thực hiện đầy đủ pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.
Và các đoàn thể, các tổ chức xã hội nhờ những phương tiện truyền thông để giáo dục nhân dân về truyền thống đạo lý:”Uống nước nhớ nguồn”, thực hiện phong trào”Đền ơn đáp nghĩa”, động viên các hộ chính sách khó khăn vươn lên làm giàu. Hướng tới mục tiêu:”Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Công tác LĐ - TB &XH có phương hướng, nhiệm vụ cụ thể cần: Hoàn thành việc xác nhận người có công với cách mạng trong 3 thời kỳ theo thông tư số 09 của Bộ LĐ - TB&XH làm các thủ tục hưởng chế độ kịp thời cho các đối tượng. Hoàn thành việc điều tra bổ xung người nhiễm chất độc hóa học theo quyết đinh 74/QĐ-TTg và công văn số 1748/CV – LBLĐ - TB&XH. Tiếp tục đề nghị giải quyết chế độ ưu đãi cho các đối tượng có đủ căn cứ theo văn bản nhà nước quy định. Thanh toán trả chế độ cho các đối tượng kịp thời, đúng tiêu chuẩn quy định. Tiếp tục thẩm định chuyển tỉnh duyệt số hồ sơ ưu đãi kháng chiến đối với người tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc được huân huy chương theo chính sách của Nhà nước. Giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra CSXH, quản lý tài chính, cấp phát cho các đối tượng được hưởng trợ cấp hàng tháng đầy đủ và kịp thời. Xây dựng huyện và xã điển hình, làm tốt công tác LĐTB, làm tốt công tác bảo trợ xã hội, chú ý tới các đối tượng xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, kiểm tra rà soát lại các đối tượng đang hưởng trợ cấp 202 để các đối tượng trên được hưởng các chế độ đúng chính sách của Đảng và Nhà nước. Chú ý đến việc đào tạo nghề cho trẻ em khuyết tật, tạo điều kiện cho trẻ em có việc làm, thu nhập sớm, hòa nhập với cộng đồng. Thường xuyên thăm hỏi động viên các GĐTB. Xây dựng kế hoạch tuyên truyền và tổ chức kỷ niệm 60 năm ngày TB với tinh thần tiết kiệm, trang trọng, có ý nghĩa giáo dục truyền thống cho cán bộ nhân dân trong toàn huyện với đạo lý uống nước nhớ nguồn. Xây dựng chi bộ cơ quan trong sạch, vững mạnh, đoàn kết thống nhất, không có cán bộ Đảng viên vi phạm khuyết điểm, thực hiện tốt quy chế hoạt động, quy chế dân chủ trong cơ quan, động viên cán bộ nhân viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đã giao.
Tiếp tục tuyên truyền về chính sách TB. Tập chung giải quyết những tồn tại về CSTB. Biểu dương gương tập thể, cá nhân thực hiện tốt công tác TB. Các cấp tổ chức mít tinh kỷ niệm, gặp mặt các GĐTB tiêu biểu, tặng quà nhận dịp kỷ niệm ngày 27/7. Để thực hiện tốt công tác TB năm 2006 và những năm tiếp theo, cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể cần tập chung làm tốt hơn nữa việc tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân về chủ trương, chính sách, quy định của Đảng và Nhà nước về những thành quả của công tác TB. Biểu dương, khen thưởng những tập thể cá nhân làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, những TB gương mẫu vượt khó vươn lên tạo dựng cuộc sống no đủ tốt đẹp hơn. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa công tác TB. Đặc biệt coi trọng động viên phát triển sâu rộng phong trào hoạt động tình nghĩa của toàn dân, từ cơ sở thôn xóm, khu dân cư với những hình thức phong phú, thiết thực hiệu quả. Phát triển mạnh việc “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, sử dụng quỹ đúng mục đích, hiệu quả để việc xây dựng quỹ trở thành việc làm thường xuyên hàng năm của mỗi cấp chính quyền. Cần coi trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Phát động rộng khắp phong trào thi đua để nhiều xã, thị trấn, đơn vị , cơ quan làm tốt công tác TB. Đồng thời thường xuyên chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp công ăn việc làm cho TB, tạo điều kiện cho các gia đình đối tượng chính sách tự vươn lên phát huy năng lực sở trường của mình, sản xuất, kinh doanh các hoạt động xã hội khác vừa ích nước, vừa lợi nhà. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị xã hội của địa phương tập chung lao động, chỉ đạo thực hiện đúng, đầy đủ, chu đáo các chế độ ưu đãi người có công. Phấn đấu hoàn thành cơ bản công tác xác nhận người có công trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến trước ngày 30/12/2002. Trên cơ sở công khai, dân chủ, chống phiền hà, sách nhiễu kiên quyết sử lý kịp thời những vụ việc sai phạm. Khẩn trương tiến hành việc tu sửa nâng cấp, xây dựng các công trình ghi công ở các xã, thị trấn và đài tưởng niệm của huyện. Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi người có công, nghiên cứu xử lý những bất hợp lý trong quá trình thực hiện chính sách, đồng thời kịp phản ánh với Đảng, Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền về những mâu thuẫn trong quá trình thực hiện CSTB. Thực hiện đầy đủ các pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Để làm tốt những việc trên, cần tăng cường sự phối hợp, liên kết của các ban ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhiều tầng lớp nhiều lực lượng cùng nhau thực hiện có hiệu qủa đối với công tác TB. bằng nhiều biện pháp thích hợp, duy trì sự phát triển phong trào quần chúng “Đền ơn đáp nghĩa”, khơi dậy sự sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân trong huyện trong việc chăm sóc người có công với cách mạng, việc chấp hành chính sách và làm tốt các mặt công tác ở địa phương, đơn vị. Giáo dục, động viên những người hưởng chính sách ưu đãi, phát huy truyền thống cách mạng tốt đẹp của gia đình cách mạng gương mẫu, người công dân kiểu mẫu, phấn đấu vươn lên vượt qua khó khăn để tạo dựng đời sống tốt đẹp cho mình và góp phần xây dựng đất nước.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân huyện nhà cùng với nhân dân cả nước đã trải qua 2 cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại đầy hy sinh gian khổ để giành độc lập dân tộc. Chúng ta đã giữ vững và phát huy đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”.Toàn Đảng, toàn dân trong huyện đồng tâm hiệp lực không ngừng phấn đấu phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của huyện, từng bước phấn đấu vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” .
KẾT LUẬN
Chuyên đề: “ Sự tác động của chính sách xã hội đến đời sống gia đình thương binh” là một việc làm hết sức cần thiết. Trước tiên về chế độ ưu đãi trợ cấp, phụ cấp hàng tháng đã góp phần nâng cao mức sống của TB, đời sống ngày càng được cải thiện. Đời sống tinh thần ngày càng phong phú và ổn định, mọi nhu cầu về hoạt động xã hội đều có sự quan tâm của toàn xã hội.
Chế độ ưu đãi về nhà ở thì Đảng bộ và Nhân dân huyện đã thực hiện một cách đồng bộ và phát triển sâu rộng như: Việc hỗ trợ tiền sử dụng đất căn cứ vào mức độ thương tật của TB mua nhà của Nhà nước là hợp lý hay phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, sửa chữa nhà…. Bên cạnh đó, việc thực hiện chế độ ưu đãi này còn ít được phổ biến trong toàn huyện vì kinh phí còn có hạn.
Chế độ ưu đãi về y tế, chăm sóc sức khoẻ thì việc cấp sổ BHYT miễn phí khám chữa bệnh định kỳ, miễn phí …có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của họ. Do điều kiện còn nhiều hạn chế nên việc chăm sóc sức khoẻ cho GĐTB chưa được chu đáo và phát triển sâu rộng.
Chính sách ưu đãi về giáo dục: Chế độ miễn giảm học phí và xây dựng trường lớp cho con em TB là việc làm hợp lý. Nó không những tạo điều kiện thuận lợi cho GĐTB cho con em tham gia học tập mà khuyến khích, động viên các em. Con TB hạng 1, hạng 2 còn được trợ cấp 1 lần khi theo học tại các trường. Còn con em TB hạng 3, hạng 4 chỉ được giảm 50% học phí và xây dựng trường lớp. Ngoài ra không được hưởng cấp 1 khoản trợ cấp nào khác là một thiệt thòi.
Và chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp có tác dụng giảm bớt những khó khăn trong đời sống của GĐTB . TB hạng 1, hạng 2 được miễn giảm 100%, TB hạng 3, hạng 4 giảm 50%. Đây thể hiện sự quan tâm của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân đối với gia đình chính sách nói chung và cũng là sự quan tâm của Đảng bộ và Nhân dân Thanh Hà đối với các GĐTB nói riêng để tạo cho họ có một cuộc sống ổn định và hạnh phúc.
Với mục tiêu tạo cho TB có cuộc sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình ở địa phương, đầy đủ về vật chất, ổn định về tinh thần của Đảng và Nhà nước đã dần trở thành hiện thực. Những CSXH đã tác động tích cực đến đời sống của TB. Để nâng cao hơn nưa đời sống của họ cần có sự phối hợp, liên kết của các ban ngành, đoàn thể. Như vậy mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhiều tầng lớp lực lượng cùng nhau thực hiện công tác chăm sóc TB.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ LĐTB & XH: (2002) Hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công “NXB LĐ & XH, Hà nội 2002”.
2. Phạm Như Cường: “ Góp phần nghiên cứu chính sách xã hội”; NXB Khoa học Xã hội ; Hà Nội 1998.
3. Nhóm biên soạn Hồng mây, Ngọc Sương, Minh Mẫn: Từ điển tiếng Việt. NXB Thống kê.
4. Bộ LĐTB & XH: Sổ tay công tác thương binh, liệt sỹ. Hà Nội, 2002.
5. Bộ LĐTB & XH: Tài liệu nghiệp vụ LĐ-TB&XH dùng cho cán bộ ở cấp xã, phường. T2 / 2002.
6. Phòng NV-LĐTB&XH huyện: Báo cáo tổng kết công tác TB &XH huyện Thanh Hà.
7. Bộ LĐTB & XH: Tài liệu huấn luyện cán bộ TB & XH tỉnh, huyện và cấp tương đương.
8. Vụ chính sách TBLS 7-1996: Sổ tay công tác đối với người có công với cách mạng ở xã, phường.
9. Bộ LĐTB & XH: Tập huấn công tác TBLS và người có công. Hà Nội, tháng 11/1998
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32044.doc