Công ty Cổ phần Nông sản Agrexim tuy mới chỉ cổ phần hóa được hơn 10, đặc biệt là trong giai đoạn mới cổ phần, tình hình kinh tế chính trị thế giới có nhiều biến đổi, thị trường trong nước cũng có nhiều thay đổi theo hướng bất lợi cho hoạt động kinh doanh của công ty, nhưng công ty đã vượt qua được những khó khăn trước mắt đó để hòan thành tốt được các chỉ tiêu, kế hoạch kinh doanh đã đặt ra. Đặc biệt là từ đầu năm 2007, khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, sự kiện này đã có nhiều tác động đến các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung và tác động đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng nông nghiệp nói riêng của công ty Cổ phần Nông sản Agrexim. Các cam kết, các hiệp định, các thay đổi trong chính sách kinh tế của Nhà nước để Việt Nam có thể gia nhập WTO đã có nhiều tác động cả những mặt thuận lợi và cả những mặt khó khăn đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty Agrexim. Do đó, công ty cần phải nắm bắt được những cơ hội mới để có thể tăng cường hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng nông nghiệp, đồng thời dự báo trước các khó khăn, thách thức đối với doanh nghiệp để từ đó có các biện pháp phòng tránh hay hạn chế những khó khăn thách thức đó.
Với việc thực hiện đề tài “Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty Cổ phần Nông sản Agrexim“, em hi vọng sẽ góp phần nhỏ bé trong việc đánh giá được những tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty Agrexim, đưa ra những thuận lợi cũng như những thách thức, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Agrexim.
59 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1787 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty cổ phần nông sản agrexim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c quốc tế về tài chính và tiền tệ. Tháng 2/1946 Hội đồng Kinh tế Thương mại (Liên hiệp quốc) đã tổ chức Hội nghị Thương mại và đưa ra Hiến chương La Habala. Theo Hiến chương này, một Ban lâm thời được thành lập nhằm xúc tiến việc hình thành một tổ chức thương mại mang tầm quốc tế với mục tiêu thúc đẩy thương mại quốc tế và tạo việc làm. Trên tinh thần này, ngày 23/10/1947 một Hội nghị gồm 23 nước thành viên sau khi đàm phán đã ký Nghị định tạm thời về việc thi hành Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Khoảng 48 năm sau khi Nghị định này có hiệu lực, GATT đã tổ chức tiếp 8 vòng đàm phán, lúc đầu xoay quanh chủ đề về thuế quan, sau đó là các biện pháp chống phá giá, biện pháp phi quan thuế, các Hiệp định khung, các nội dung liên quan đến dịch vụ, sở hữu trí tuệ, trợ giá, tranh chấp thương mại...
Sau vòng đàm phán Uruguay (1994), ngày 1/1/1995, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được thành lập với 124 bên ký kết và 25 nước nộp đơn xin gia nhập. Với sự ra đời của WTO, hệ thống thương mại đa biên đã ngày càng được mở rộng cả về quy mô lẫn các định chế thương mại. Và WTO cũng luôn tìm kiếm những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống của mình. Song, Vòng đàm phán Doha (được bắt đầu từ cuối năm 2001) với chủ đề về Lao động, Môi trường, Xã hội cho đến nay vẫn chưa đạt được “tiếng nói chung”.
Cơ cấu tổ chức, mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của WTO
2.1 Cơ cấu tổ chức của WTO
Về cơ cấu tổ chức của WTO: có một cơ cấu gồm ba cấp:
(1) Các cơ quan lãnh đạo chính trị và có quyền ra quyết định bao gồm Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp và Cơ quan kiểm điểm chính sách thương mại;
(2) Các cơ quan thừa hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa phương, bao gồm Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS;
(3) Cuối cùng là các cơ quan thực hiện chức năng hành chính - thư ký là Tổng Giám đốc và Ban Thư ký WTO.
2.2 Mục tiêu hoạt động của WTO
WTO đã xác định ba mục tiêu cụ thể là:
(1) thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới,
(2) giải quyết các bất đồng, tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, và
(3) nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên.
2.3 Nguyên tắc hoạt động của WTO
Hoạt động của WTO dựa vào 5 nguyên tắc cơ bản:
Thứ nhất: Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này thể hiện qua 2 quy chế:
- Quy chế đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) là quy chế mỗi nước thuộc WTO phải giành cho sản phẩm nhập khẩu từ một quốc gia thành viên khác đối xử không kém ưu đãi hơn so với sản phẩm nhập khẩu từ một nước thứ ba khác.
- Quy chế đối xử quốc gia (NT) là quy chế mà mỗi nước thành viên của WTO không giành cho sản phẩm nội địa những ưu đãi hơn so với sản phẩm của nước ngoài.
Thứ hai: Nguyên tắc điều kiện hoạt động thương mại ngày càng thuận lợi, tự do thông qua đàm phán
Mỗi nước phải xây dựng lộ trình cắt giảm thuế và các biện pháp phi thuế theo thoả thuận đã thông qua ở các vòng đàm phán đàm phán song phương và đa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá thương mại.
Thứ ba: Nguyên tắc xây dựng môi trường kinh doanh dễ dự đoán
Chính phủ các nước thành viên thuộc WTO không thay đổi cơ chế chính sách kinh tế một cách tuỳ tiện gây khó khăn cho các doanh nghiệp và nhà nhập khẩu.
Thứ tư: Nguyên tắc tạo ra môi trường kinh doanh mang tính cạnh tranh bình đẳng
Chính phủ của các nước thuộc WTO ngoài thực hiện nghiêm chỉnh 2 cơ chế MFN và NT, thì còn phải giảm việc áp dụng các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như trợ giá, trợ cấp xuất khẩu..
Thứ năm: Nguyên tắc giành một số ưu đãi về thương mại cho các nước đang phát triển
WTO áp dụng các nguyên tắc này thông qua các biện pháp:
Giành ưu đãi thuế nhập khẩu khi thâm nhập vào thị trường các nước công nghiệp phát triển (GSP).
Không phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của WTO như các nước công nghiệp phát triển.
Thời gian quá độ để điều chỉnh chính sách kinh tế và thương mại phù hợp với quy định của WTO dài hơn.
Các hiệp định liên quan đến nhập khẩu nông sản của WTO
Hiệp định nông nghiệp
Hiệp định nông nghiệp bao gồm 13 phần và 21 điều khoản và 5 phụ lục kèm theo. Những nội dung chính của Hiệp định gồm có:
1.1 Tiếp cận thị trường
1. Nhân nhượng tiếp cận thị trường có trong các Danh mục liên quan đến các cam kết ràng buộc và cắt giảm thuế quan, và các cam kết tiếp cận thị trường khác được nêu tại đó.
2. Các Thành viên sẽ không duy trì, viện đến, hoặc chuyển đổi bất kỳ các loại biện pháp phi thuế thuộc loại đã được yêu cầu chuyển sang thuế quan thông thường1 Các biện pháp này bao gồm hạn chế số lượng nhập khẩu, các loại thu đối với hàng nhập khẩu, giá nhập khẩu tối thiểu, cấp phép nhập khẩu tuỳ tiện, các biện pháp phi quan thuế được duy trì thông qua các doanh nghiệp thương mại quốc doanh, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, và các biện pháp cửa khẩu tương tự, khác với thuế quan thông thường, dù là biện pháp đó có được duy trì theo sự cho phép từng nước cụ thể tại GATT 1947 hay không, nhưng không bao gồm các biện pháp duy trì theo quy định về cán cân thanh toán hoặc theo các quy định chung phi nông nghiệp khác tại GATT 1994 hoặc các Hiệp định thương mại đa biên khác tại Phụ lục 1A của Hiệp định WTO.
, ngoại trừ có quy định khác tại Điều 5 và Phụ lục 5.
1.2 Tự vệ đặc biệt
1. Bất kể các quy định tại khoản 1(b) của Điều II, GATT 1994, bất kỳ một Thành viên có thể viện tới các quy định tại các khoản 4 và 5 dưới đây đối với việc nhập khẩu một sản phẩm nông nghiệp mà các biện pháp được dẫn chiếu tới tại khoản 2 Điều 4 của Hiệp định này áp dụng với sản phẩm đó đã được chuyển đổi thành thuế quan thông thường, và nông sản đó được đánh dấu trong Danh mục bằng ký hiệu "SSG", tức là sản phẩm đó là đối tượng nhân nhượng mà các quy định của Điều này có thể được viện tới, nếu:
(a) lượng nhập khẩu sản phẩm đó trong bất kỳ năm nào vào lãnh thổ hải quan của Thành viên có nhân nhượng vượt quá mức giá khống chế liên quan tới cơ hội tiếp cận thị trường hiện tại như quy định tại khoản 4; hoặc, nhưng không đồng thời:
(b) giá sản phẩm nhập khẩu vào lãnh thổ hải quan của Thành viên có nhân nhượng, được xác định trên cơ sở giá nhập khẩu CIF của chuyến hàng liên quan tính bằng đồng tiền của nước Thành viên đó, giảm xuống dưới mức giá lẫy tương đương với giá bình quân của sản phẩm đó trong các năm 1986 đến 19882 Giá đối chiếu được sử dụng nhằm viện dẫn đến các quy định tại tiểu khoản này nói chung là giá CIF đơn vị bình quân của sản phẩm có liên quan, hoặc là giá thích hợp tương ứng với chất lượng hoặc từng giai đoạn chế biến. Giá này phải được quy định cụ thể công khai ngay sau khi sử dụng lần đầu tiên để cho phép các Thành viên khác xác định mức thuế bổ xung có thể được áp dụng.
.
2. Lượng nhập khẩu theo các cam kết tiếp cận thị trường hiện hành và tối thiểu hình thành như là một phần của nhân nhượng nói tại khoản 1 trên đây nhằm xác định lượng nhập khẩu cần thiết để viện dẫn đến các quy định tại tiểu khoản 1(a) và khoản 4, nhưng lượng nhập khẩu này sẽ không chịu bất kỳ một khoản thuế quan bổ xung nào được áp dụng theo tiểu khoản 1(a) và khoản 4 hoặc tiểu khoản 1(b) và khoản 5 dưới đây.
3. Tất cả lượng nhập khẩu sản phẩm có liên quan hiện đang thực hiện trên cơ sở hợp đồng được ký trước khi thuế quan bổ xung được áp dụng theo tiểu khoản 1(a) và khoản 4 sẽ được miễn trừ thuế quan bổ xung đó, nhưng lượng nhập khẩu đó có thể được tính vào lượng nhập khẩu của sản phẩm có liên quan trong năm tiếp theo với mục đích viện dẫn các quy định tại tiểu khoản 1(a) trong năm đó.
4. Bất kỳ một khoản thuế bổ xung theo tiểu khoản 1(a) sẽ chỉ được duy trì cho tới cuối năm khi khoản thuế đó được áp dụng, và chỉ có thể được áp dụng với mức không vượt quá một phần ba mức thuế thông thường có hiệu lực tại năm khoản thuế bổ xung đó được áp dụng. Mức giá khống chế sẽ được đặt theo công thức sau đây dựa trên cơ hội tiếp cận thị trường được xác định bằng tỷ lệ phần trăm của mức tiêu thụ nội địa3 Nếu tiêu thụ nội địa không được tính đến, mức lẫy cơ sở theo tiểu khoản 4(a) sẽ được áp dụng.
trong ba năm có sẵn số liệu trước đó:
(a) nếu cơ hội tiếp cận thị trường đối với một sản phẩm thấp hơn hoặc bằng 10%, mức giá khống chế cơ sở sẽ bằng 125%;
(b) nếu cơ hội tiếp cận thị trường đối với một sản phẩm lớn hơn 10% nhưng thấp hơn hoặc bằng 30%, mức giá khống chế cơ sở sẽ bằng 110%;
(c) nếu cơ hội tiếp cận thị trường đối với một sản phẩm lớn hơn 30%, mức cơ sở sẽ bằng 105%.
Trong mọi trường hợp, thuế bổ xung có thể được áp dụng vào bất kỳ năm nào nếu tại năm đó lượng nhập khẩu tuyệt đối của sản phẩm có liên quan nhập vào lãnh thổ hải quan của Thành viên có mức nhân nhượng vượt quá tổng của (x) mức giá khống chế cơ sở được xác định như trên, nhân với lượng nhập khẩu trung bình của ba năm có sẵn số liệu trước đó và (y) lượng thay đổi tuyệt đối tiêu thụ nội địa sản phẩm có liên quan trong năm có sẵn số liệu gần nhất so với năm trước đó, với điều kiện mức giá khống chế cơ sở không được thấp hơn 105% lượng nhập khẩu trung bình nói tại (x) trên đây.
5. Thuế quan bổ sung được áp dụng theo tiểu khoản 1(b) sẽ được xây dựng theo công thức sau đây:
(a) nếu chênh lệch giữa giá CIF nhập khẩu của chuyến hàng tính bằng đồng tiền nội địa (sau đây gọi là “giá nhập”) và giá khống chế như đã định nghĩa tại tiểu khoản đó thấp hơn hoặc bằng 10% giá khống chế, không có thuế quan bổ xung nào được áp dụng;
(b) nếu chênh lệch giữa giá nhập và giá khống chế (sau đây gọi là “chênh lệch giá”) lớn hơn 10% nhưng thấp hơn hoặc bằng 40% mức giá khống chế, mức thuế bổ xung sẽ bằng 30% lượng chênh lệch giá vượt quá 10%;
(c) nếu chênh lệch giá lớn hơn 40% và nhỏ hơn hoặc bằng 60% mức giá khống chế, mức thuế bổ xung sẽ bằng 50% lượng chênh lệch giá vượt quá 40%, cộng thêm mức thuế bổ xung cho phép ở phần (b);
(d) nếu chênh lệch giá lớn hơn 60% nhưng nhỏ hơn hoặc bằng 75%, mức thuế bổ xung sẽ bằng 70% lượng chênh lệch giá vượt quá 60% giá khống chế , cộng thêm mức thuế bổ xung cho phép ở phần (b) và (c);
(e) nếu chênh lệch giá lớn hơn 75% giá lẫy, mức thuế bổ xung sẽ bằng 90% lượng chênh lệch giá vượt quá 75%, cộng thêm các mức thuế bổ xung ở phần (b), (c) và (d).
6. Đối với các sản phẩm dễ hỏng và theo thời vụ, các điều kiện quy định trên đây phải được áp dụng sao cho có thể tính đến các đặc tính riêng của các sản phẩm đó. Cụ thể là, khoảng thời gian ngắn hơn theo tiểu khoản 1(b) và khoản 4 có thể được áp dụng khi dẫn chiếu đến các khoảng thời gian tương ứng trong giai đoạn cơ sở, và các giá tham khảo khác nhau cho các giai đoạn khác nhau có thể được sử dụng theo tiểu khoản 1(b).
7. Việc áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt phải được thực hiện một cách minh bạch. Bất kỳ một Thành viên nào áp dụng theo tiểu khoản 1(b) trên đây cần thông báo trước bằng văn bản, với số liệu liên quan cho Uỷ ban Nông nghiệp càng sớm càng tốt nếu có thể, và trong mọi trường hợp trong vòng 10 ngày kể từ khi bắt đầu thực hiện. Trong các trường hợp có sự thay đổi trong lượng tiêu thụ phân theo từng dòng thuế, thực hiện theo khoản 4, số liệu liên quan cần bao gồm cả thông tin và phương pháp được sử dụng để phân theo sự thay đổi đó. Thành viên thực hiện theo khoản 4 cần tạo điều kiện để các nước có quan tâm có cơ hội tư vấn về các điều kiện áp dụng hành động đó. Bất kỳ một Thành viên nào khi thực hiện theo tiểu khoản 1(b) trên đây cần thông báo bằng văn bản, kể cả số liệu liên quan, cho Uỷ ban Nông nghiệp trong vòng 10 ngày kể từ khi thực hiện hành động đầu tiên, hoặc, đối với nông sản dễ hỏng và thời vụ, hành động đầu tiên trong bất kỳ giai đoạn nào. Các Thành
viên cam kết, trong chừng mực có thể, không viện tới các quy định tại tiểu khoản 1(b) khi lượng nhập khẩu sản phẩm có liên quan đang giảm. Trong mọi trường hợp, Thành viên có hành động như vậy cần tạo điều kiện cho các Thành viên có lợi ích trong đó được tham vấn về điều kiện áp dụng hành động đó.
8. Khi các biện pháp được thực hiện phù hợp với những quy định từ khoản 1 đến 7 nói trên, các Thành viên cam kết sẽ không viện đến các quy định tại khoản 1(a) và 3, Điều XIX của GATT 1994, hoặc khoản 2, Điều 8 của Hiệp định về Tự vệ đối với các biện pháp đó.
9. Các quy định tại Điều này sẽ có hiệu lực trong toàn bộ quá trình sửa đổi như được quy định tại Điều 20.
1.3 Cam kết về hỗ trợ trong nước
1. Các cam kết về giảm hỗ trợ trong nước của mỗi Thành viên có trong Phần IV của Danh mục của Thành viên đó sẽ áp dụng với tất cả các biện pháp hỗ trợ trong nước dành cho các nhà sản xuất nông nghiệp, trừ các biện pháp hỗ trợ trong nước không phải là đối tượng phải giảm theo các tiêu chí quy định tại Điều này và tại Phụ lục 2 của Hiệp định này. Các cam kết này được thể hiện bằng Tổng lượng hỗ trợ tính gộp và "Mức cam kết ràng buộc hàng năm và cuối cùng".
2. Theo Hiệp định Rà soát Giữa kỳ, các biện pháp hỗ trợ của chính phủ, dù là trực tiếp hay gián tiếp, nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp và nông thôn là bộ phận không tách rời trong chương trình phát triển của các nước đang phát triển, do đó trợ cấp đầu tư - là những trợ cấp nông nghiệp nói chung thường có tại các nước đang phát triển, và trợ cấp đầu vào của nông nghiệp - là những trợ cấp thường được cấp cho những người sản xuất có thu nhập thấp và thiếu nguồn lực tại các nước Thành viên đang phát triển, sẽ được miễn trừ khỏi các cam kết cắt giảm hỗ trợ trong nước đáng lẽ phải được áp dụng đối với các biện pháp như vậy, và những hỗ trợ trong nước dành cho người sản xuất tại các nước Thành viên đang phát triển nhằm khuyến khích việc từ bỏ trồng cây thuốc phiện cũng được miễn trừ. Hỗ trợ trong nước có đủ các tiêu chí tại khoản này sẽ không đưa vào trong tính toán Tổng AMS hiện hành của Thành viên đó.
3. Một Thành viên sẽ được coi là tuân thủ cam kết về cắt giảm hỗ trợ trong nước vào bất kỳ năm nào nếu hỗ trợ trong nước dành cho người sản xuất trong năm đó, được thể hiện bằng Tổng AMS hiện hành không vượt quá mức cam kết ràng buộc cuối cùng và hàng năm tương ứng đã được ghi cụ thể tại Phần IV trong Danh mục của Thành viên đó.
4. (a) Một Thành viên sẽ không yêu cầu đưa vào tính toán Tổng AMS hiện hành và không yêu cầu cắt giảm:
(i) hỗ trợ trong nước cho một sản phẩm cụ thể không đưa vào tính toán Tổng AMS hiện hành của Thành viên đó nếu hỗ trợ không vượt quá 5% tổng trị giá sản lượng của một sản phẩm nông nghiệp cơ bản của Thành viên đó trong năm liên quan; và
90
(ii) hỗ trợ trong nước không cho một sản phẩm cụ thể nào không đưa vào tính toán Tổng AMS hiện hành của Thành viên đó nếu hỗ trợ đó không vượt quá 5% trị giá tổng sản lượng nông nghiệp của Thành viên đó.
(b) Đối với các Thành viên đang phát triển, tỷ lệ phần trăm mức tối thiểu tại khoản này sẽ là 10%.
5. (a) Các khoản thanh toán trực tiếp trong các chương trình hạn chế sản xuất sẽ không phải là đối tượng cam kết cắt giảm hỗ trợ trong nước nếu:
(i) các khoản thanh toán dựa trên cơ sở vùng và sản lượng cố định; hoặc
(ii) các khoản thanh toán bằng hoặc thấp hơn 85% mức sản lượng cơ sở; hoặc
(iii) các khoản thanh toán cho chăn nuôi gia súc được chi trả theo số đầu gia súc cố định.
(b) Việc miễn trừ cam kết cắt giảm đối với các khoản thanh toán trực tiếp đạt các tiêu chí trên đây sẽ không tính vào Tổng AMS Hiện hành của một Thành viên.
1.4 Qui tắc chung về hỗ trợ trong nước
1. Mỗi Thành viên sẽ đảm bảo rằng tất cả các biện pháp hỗ trợ trong nước dành cho các nhà sản xuất nông nghiệp không phải là đối tượng cam kết cắt giảm vì các biện pháp đó hội đủ các tiêu chí quy định tại Phụ lục 2 của Hiệp định này được coi là phù hợp với các quy định đó.
2. (a) Bất kỳ một biện pháp hỗ trợ trong nước nào dành cho các nhà sản xuất nông nghiệp, kể cả các sửa đổi của biện pháp đó, và bất kỳ một biện pháp nào khác được đưa vào áp dụng sau đó mà không thoả mãn các điều kiện tại Phụ lục 2 của Hiệp định này hoặc là được miễn trừ cắt giảm với lý do theo điều khoản khác tại Hiệp định này sẽ phải được đưa vào tính toán Tổng AMS Hiện hành của Thành viên đó.
(b) Nếu không có cam kết về Tổng AMS tại Phần IV của Danh mục của một Thành viên, Thành viên đó sẽ không dành hỗ trợ cho các nhà sản xuất nông nghiệp vượt quá mức tối thiểu liên quan được quy định tại khoản 4 Điều 6.
1.5 Kiềm chế cần thiết
Trong giai đoạn thực hiện, bất kể các quy định tại GATT 1994 và Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp Đối kháng (tại Điều này được gọi là "Hiệp định Trợ cấp"):
(a) Các biện pháp hỗ trợ sản xuất trong nước phù hợp đầy đủ các quy định tại Phụ lục 2 sẽ:
(i) là trợ cấp không dẫn tới hành vi vì mục đích thuế đối kháng "Thuế đối kháng" dẫn chiếu tại Điều này là các loại thuế quy định tại Điều VI, GATT 1994 và Phần V của Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp Đối kháng.
;
(ii) được miễn trừ khỏi các hành vi dựa trên Điều XVI của GATT 1994 và Phần III của Hiệp định Trợ cấp; và
(iii) được miễn trừ khỏi các hành vi không vi phạm việc huỷ bỏ hoặc làm suy giảm lợi ích của một Thành viên khác được hưởng từ nhân nhượng thuế quan theo Điều II của GATT 1994, theo tinh thần của khoản 1(b) Điều XXIII của GATT 1994.
(b) Các biện pháp hỗ trợ trong nước tuân thủ đầy đủ các quy định tại Điều 6 của Hiệp định này, kể cả các khoản thanh toán trực tiếp tuân thủ các yêu cầu tại khoản 5 của điều đó, như được thể hiện trong Danh mục của mỗi Thành viên, và cả hỗ trợ trong nước nằm trong mức tối thiểu phù hợp với khoản 2 của Điều 6, sẽ:
(i) được miễn trừ thuế đối kháng, trừ khi gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại được xác định theo Điều VI GATT 1994 và Phần V của Hiệp định Trợ cấp, và cần có kiềm chế cần thiết khi tiến hành điều tra về bất kỳ thuế đối kháng nào;
(ii) được miễn trừ khỏi các hành vi theo khoản 1 Điều XVI GATT 1994 hoặc Điều 5 và 6 của Hiệp định Trợ cấp, với điều kiện các biện pháp này không trợ cấp cho một mặt hàng cụ thể và vượt quá mức trợ cấp trong năm tiếp thị 1992; và
(iii) được miễn trừ khỏi các hành vi không vi phạm việc huỷ bỏ hoặc làm suy giảm lợi ích của một Thành viên khác được hưởng từ ưu đãi thuế quan theo Điều II GATT 1994, theo nội dung của khoản 1(b) Điều XXIII của GATT 1994 với điều kiện các biện pháp đó không dành trợ cấp cho một sản phẩm cụ thể vượt quá mức trong năm tiếp thị 1992;
(c) Trợ cấp xuất khẩu tuân thủ đầy đủ các quy định tại Phần V, Hiệp định này, như được phản ánh trong Danh mục của mỗi Thành viên, sẽ:
(i) là đối tượng chịu thuế đối kháng chỉ khi xác định gây ra tổn hại hoặc đe doạ gây ra tổn hại về khối lượng, ảnh hưởng đến giá hoặc có ảnh hưởng gây hậu quả theo Điều VI, GATT 1994 và Phần V, Hiệp định Trợ cấp, và sự kiềm chế cần thiết phải được nêu trong giai đoạn đầu của quá trình áp dụng thuế đối kháng; và
(ii) được miễn trừ khỏi các hành vi dựa trên Điều XVI, GATT 1994 hoặc Điều 3, 5 và 6 của Hiệp định Trợ cấp.
1.6 Các biện pháp kiểm dịch động thực vật
Các Thành viên nhất trí thực hiện Hiệp định về các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật ...
1.7 Đối xử đặc biệt và khác biệt
1. Với sự thừa nhận rằng đối xử khác biệt và thuận lợi hơn đối với thành viên các nước đang phát triển là một phần không tách rời trong đàm phán, đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các cam kết sẽ được thực hiện như đã quy định tại các điều tương ứng của Hiệp định này và được thể hiện tại Danh mục nhân nhượng và cam kết.
2. Thành viên các nước đang phát triển được linh hoạt trong việc thực hiện cam kết cắt giảm trong một giai đoạn là 10 năm. Thành viên các nước kém phát triển sẽ không phải thực hiện cam kết cắt giảm.
1.8 Các nước kém phát triển và các nước đang phát triển nhập lương thực chủ yếu
1. Thành viên các nước phát triển sẽ thực hiện theo quy định trong khuôn khổ “Quyết định về các biện pháp liên quan đến các khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến Chương trình cải cách đối với các nước kém phát triển và các nước đang phát triển là nước nhập khẩu khẩu lương thực chủ yếu”.
2. Uỷ ban Nông nghiệp sẽ theo dõi việc thực hiện Quyết định đó.
(Nguồn: – Website của Ủy Ban Quốc Gia về hợp tác kinh tế quốc tế)
Hiệp định về hàng rào kĩ thuật trong thương mại (TBT)
Hiệp định bao gồm 15 Điều và 3 Phụ lục kèm theo. Nội dung của Hiệp định bao gồm các quy định về mặt kỹ thuật, các tiêu chuẩn, các thủ tục đánh giá hợp chuẩn, kể cả hợp chuẩn về mặt bao bì, nhãn mác. Hiệp định TBT quy định các quốc gia không được có các quy định phân biệt đối xử mang tính vô căn cứ giữa các sản phẩm do nguồn gốc xuất xứ của các sản phẩm, và để đạt được mục tiêu này, cần phải lựa chọn áp dụng các biện pháp ít gây cản trở nhất cho thương mại. Hiệp định cũng quy định những nguyên tắc thủ tục nhất định mà các nước phải tuân thủ khi áp dụng các biện pháp tiêu chuẩn kỹ thuật không dựa trên cơ sở các tiêu chuẩn quốc tế. Trước khi áp dụng phải thông báo trước cho Ban Thư ký WTO và cũng phải thông báo cho nước xuất khẩu để họ có cơ hội tham khảo và đóng góp ý kiến.
(Nguồn: – Website của Ủy Ban Quốc Gia về hợp tác kinh tế quốc tế)
Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động - thực vật (SPS)
Hiệp định này gồm 14 điều và 3 phụ lục, quy định về các biện pháp quản lý và kiểm soát có liên quan đến sức khoẻ của động vật, thực vật và của con người, quy định bắt buộc phải quy chiếu đến các chuẩn mực quốc tế. Nếu một quốc gia quy định các tiêu chuẩn về vệ sinh dịch tễ và bảo vệ thực vật khác với các tiêu chuẩn do các định chế quốc tế khuyến nghị áp dụng thì quốc gia đó phải đưa ra căn cứ giải thích về mặt khoa học, chuyên môn, có áp dụng một thủ tục phân tích rủi ro đã được quy định thống nhất. Hiệp định cũng quy định nghĩa vụ phải thông tin cho các nước thứ ba về những thay đổi trong quy định pháp luật quốc gia và quy định rõ rằng các biện pháp vệ sinh dịch tễ được áp dụng không nhằm mục đích bảo hộ.
(Nguồn: – Website của Ủy Ban Quốc Gia về hợp tác kinh tế quốc tế)
Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (LICE)
Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu gồm có 8 điều, trong đó có những quy định chung sau:
1. Trong Hiệp định này, cấp phép nhập khẩu được hiểu là các thủ tục Thủ tục này là "việc cấp phép" và các thủ tục hành chính tương tự khác.
hành chính được sử dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu, yêu cầu phải nộp đơn xin nhập khẩu hoặc các loại giấy tờ khác (không phải giấy tờ cần thiết cho các mục đích hải quan) cho cơ quan hành chính liên quan như là điều kiện đặt ra trước khi nhập khẩu hàng vào lãnh thổ hải quan của Thành viên nhập khẩu.
2. Các Thành viên đảm bảo rằng các thủ tục hành chính được áp dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu theo các qui định có liên quan của GATT 1994, kể cả các phụ lục, nghị định thư như được hiểu theo Hiệp định này nhằm ngăn chặn tình trạng bóp méo thương mại có thể nảy sinh trong quá trình thực
hiện không đúng các thủ tục đó, có tính đến mục đích phát triển kinh tế và nhu cầu tài chính, thương mại của các Thành viên đang phát triển Không có qui định nào trong Hiệp định này hàm ý là phải bị chất vấn theo quy định của Hiệp định này cơ sở áp dụng, phạm vi và thời hạn áp dụng các biện pháp thông qua thủ tục cấp phép.
.
3. Các quy định về thủ tục cấp phép nhập khẩu phải mang tính trung lập trong áp dụng và được thực hiện một cách bình đẳng và công bằng.
4. (a) Mọi quy định, thông tin liên quan đến thủ tục nộp đơn xin giấy phép nhập khẩu như điều kiện để người, công ty và tổ chức được quyền nộp đơn xin cấp phép, cơ quan hành chính cấp phép, danh mục hàng hoá phải xin phép nhập khẩu phải được công bố, đồng thời phải được thông báo cho Uỷ ban Cấp phép Nhập khẩu nói tại Điều 4 (trong Hiệp định này gọi là "Uỷ ban") với cách thức sao cho chính phủ Để thực hiện Hiệp định này, thuật ngữ "chính phủ" được hiểu là bao gồm cơ quan có thẩm quyền của Cộng đồng Châu Âu.
các nước và nhà kinh doanh có thể nắm bắt được. Nếu điều kiện cho phép, các Thành viên phải thông báo công khai các thông tin trên trong thời hạn 21 ngày trước khi các qui định, yêu cầu có hiệu lực, tuy nhiên trong mọi trường hợp không được muộn hơn ngày có hiệu lực. Tất cả các trường hợp ngoại lệ hoặc thay đổi qui định liên quan đến thủ tục cấp phép nhập khẩu hay danh mục các mặt hàng phải xin phép phải được công bố theo cách thức và trong cùng thời hạn nói trên. Các Thành viên phải gửi cho Ban Thư ký một bản sao tài liệu công bố trên.
(b) Các Thành viên muốn đưa ra nhận xét bằng văn bản đều có cơ hội để thảo luận về các nhận xét đó khi có yêu cầu. Thành viên liên quan phải xem xét cẩn trọng các nhận xét và kết quả thảo luận.
5. Mẫu đơn xin cấp phép nhập khẩu hoặc mẫu xin gia hạn giấy phép nhập khẩu, nếu có, phải càng đơn giản càng tốt. Khi nộp đơn xin phép nhập khẩu, có thể phải cung cấp một số tài liệu và thông tin được coi là tối cần thiết để thực hiện đúng chế độ cấp phép nhập khẩu.
6. Thủ tục nộp đơn và gia hạn giấy phép, nếu có, phải càng đơn giản càng tốt. Người nộp đơn được cho phép có một khoảng thời gian hợp lý để nộp đơn xin cấp phép nhập khẩu. Nếu có xác định ngày hết hạn nhận đơn, thì khoảng thời hạn nộp đơn phải tối thiểu là 21 ngày với quy định về việc gia hạn thời hạn này trong trường hợp khi chưa nhận đủ số đơn trong thời hạn này. Người làm đơn chỉ phải nộp đơn cho một cơ quan hành chính duy nhất. Trong trường hợp nhất thiết phải tiếp cận nhiều cơ quan hành chính, thì số cơ quan này không được quá 3 cơ quan.
7. Không được phép từ chối đơn xin cấp phép chỉ vì những lỗi nhỏ về tài liệu mà không làm thay đổi những số liệu cơ bản thể hiện trên tài liệu đó. Trong trường hợp có sai sót hoặc nhầm lẫn trong tài liệu hoặc thủ tục, thì hình phạt không được nặng hơn mức cần thiết để cảnh cáo nếu những sai sót hoặc nhầm lẫn này không nhằm mục đích gian lận hoặc do quá cẩu thả.
8. Không được từ chối hàng nhập khẩu đã được cấp phép chỉ vì có sự khác biệt nhỏ về giá trị, số lượng hay trọng lượng so với con số ghi trên giấy phép do sự chênh lệch phát sinh trong quá trình giao hàng, do tính chất của việc bốc hàng dời và những khác biệt nhỏ khác phù hợp với thực tiễn thương mại bình thường.
9. Người có giấy phép có quyền tiếp cận nguồn ngoại hối cần thiết để thanh toán hàng nhập khẩu cấp phép theo cùng điều kiện giống như đối với các nhà nhập khẩu hàng không cần giấy phép.
10. Các qui định của Điều XXI của GATT 1994 sẽ được áp dụng đối với các ngoại lệ vì lý do an ninh;
11. Những qui định trong Hiệp định này không yêu cầu các Thành viên phải tiết lộ thông tin bí mật ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật hoặc những thông tin trái ngược với lợi ích công cộng hoặc làm tổn hại đến lợi ích thương mại chính đáng của những doanh nghiệp nhà nước hoặc tư nhân cụ thể.
(Nguồn: – Website của Ủy Ban Quốc Gia về hợp tác kinh tế quốc tế)
CHƯƠNG 3
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO TỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA AGREXIM
Các tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với các doanh
nghiệp nhập khẩu hàng Nông sản ở Việt Nam
Những thuận lợi
Về đầu tư: Môi trường kinh tế xã hội ổn định, kết hợp với triển vọng hội nhập quốc tế đã có tác động tích cực tới đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp. Đến nay, cả ngành nông nghiệp đã có 558 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư là 2,86 tỷ USD. Số vốn đầu tư đã thực hiện là 1,39 tỷ USD, đạt gần 50%. Các dự án này đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển của ngành nông nghiệp thời gian qua; giúp nâng cao năng lực cho ngành nông nghiệp cả về vốn đầu tư, thiết bị công nghệ, thị trường tiêu thụ và cả cơ sở hạ tầng,…Nhiều nước đã đầu tư lớn vào Việt nam như: Đài loan, Hồng kông, Pháp, Trung quốc. Chính sách hội nhập của Việt nam sẽ tiếp tục tạo môi trường thông thoáng thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn. Thị trường tiêu thụ nông sản được mở rộng cũng là điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam hơn.
Về khoa học, công nghệ: Hoạt động hợp tác khoa học kỹ thuật, công nghệ và xây dựng năng lực là nội dung bao trùm tất cả các lĩnh vực của WTO dưới nhiều hình thức khác nhau. Các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam hy vọng sẽ được tham gia nhiều hơn các chương trình hợp tác về khoa học công nghệ cũng như tăng thêm các nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực khi gia nhập WTO. Nông nghiệp Việt nam sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều nguồn công nghệ mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông sản hàng hoá và khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt nam.
Tạo sức ép tự vươn lên nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước: Gia nhập WTO Việt nam không những được hưởng quyền lợi mà các nước thành viên dành cho nhau, ngược lại Việt nam cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dành ưu đãi cho các thành viên khác. Có nghĩa là, Việt nam cũng phải áp dụng mở cửa thị trường hàng nông sản nhiều hơn, chính sách minh bạch và bình đẳng hơn, các chính sách trợ cấp hoặc hỗ trợ cho nông nghiệp không phù hợp với WTO cũng dần phải loại bỏ. Như vậy, các doanh nghiệp Việt nam, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước không còn ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước được nữa. Doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển thì phải chấp nhận cạnh tranh. áp lực mang này buộc các doanh nghiệp Việt nam phải tự vươn lên nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và của doanh nghiệp.
Về thuế nhập khẩu và thủ tục cấp phép nhập khẩu: Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết WTO góp phần làm giảm chi phí nguyên liệu đầu vào, từ đó giúp hạ giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh. Thủ tục cấp phép nhập khẩu cũng được sửa đổi, trở nên đơn giản và thuận tiện hơn, giúp các doanh nghiệp có thể nhập khẩu được thuận lợi hơn.
Về cơ chế giải quyết tranh chấp: Khi Việt Nam gia nhập WTO, chúng ta có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (về lâu dài) giúp tránh được những vụ kiện vô lý như cá tra - cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ. Một khi ngành nông nghiệp đứng vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nông nghiệp trở thành động lực chính thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo. Lúc đó, nông nghiệp là chìa khóa tạo ra sự ổn định và phát triển vùng nông thôn. Trong bối cảnh đó, ngành nông nghiệp có thêm nhiều cơ hội phát triển.
Sự quan tâm, môi trường pháp lý và chính sách đối với nông nghiệp sẽ tốt hơn, minh bạch và ổn định hơn do vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển của Việt Nam, vừa phù hợp với các cam kết của WTO. Nhà nước sẽ điều chỉnh chiến lược, quy hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng thị trường hơn, bền vững hơn. Đây là điều quan trọng để giúp cho các doanh nghiệp phát triển bởi nhiều chiến lược, quy hoạch trong lĩnh vực nông nghiệp cho đến nay vẫn chưa thực sự theo hướng thị trường hoặc tôn trọng các quy luật của thị trường. Trong thời gian tới, khi thị trường phát triển tốt hơn thì doanh nghiệp cũng có cơ hội phát triển. Các biện pháp, công cụ hỗ trợ mới của Nhà nước đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ công bằng và phù hợp hơn theo cam kết của WTO.
Những khó khăn
Xuất phát điểm khi gia nhập WTO của Việt nam nói chung và nông nghiệp Việt nam nói riêng là quá thấp, lại thêm những quy định của WTO đòi hỏi ngày càng khắt khe hơn chắc chắn sẽ đem lại cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp những thách thức lớn, cụ thể:
Khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản nước ta còn thấp do năng suất, chất lượng thấp, giá thành sản xuất còn cao như đường mía, ngô, đậu tương, bông, thuốc lá, sữa, thịt lợn... khi gia nhập WTO, Việt Nam phải mở cửa thị trường nông nghiệp bằng việc cắt giảm thuế nông sản so với mức hiện hành, nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng sẽ phải chịu những tác động đáng kể, đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh nông sản và nông dân phải nỗ lực để vượt qua thách thức. Ngoài việc cắt giảm thuế, Việt Nam phải cam kết loại bỏ hết các hàng rào phi thuế, trừ các biện pháp hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng là đường, trứng gia cầm, thuốc lá và muối. Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch tương đương mức thuế tối huệ quốc (MFN) hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 50-60%, thuốc lá 30%, muối ăn 30%), thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch. Trong bối cảnh nền nông nghiệp của ta vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, năng suất và chất lượng thấp (giá trị sản xuất trên 1ha canh tác chỉ đạt 30 triệu đồng/năm), việc xoá bỏ hạn ngạch thuế quan các mặt hàng nông sản vốn có khả năng cạnh tranh thấp sẽ gây ra tác động tiêu cực đối với những người sản xuất trực tiếp.
Ngoài các cam kết về mở cửa thị trường, Việt Nam còn cam kết mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, quyền phân phối cho các doanh nghiệp nước ngoài. Vì thế, các công ty đa quốc gia vốn rất mạnh về tài chính, hệ thống phân phối, thông tin, trình độ quản lý... khi vào kinh doanh tại Việt Nam sẽ là những thách thức không nhỏ cho doanh nghiệp nội địa, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhanh chóng đổi mới, vươn lên để tồn tại và hoạt động có hiệu quả.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh nông lâm sản còn thấp: Đa số nhà máy chế biến qui mô nhỏ, công nghệ, thiết bị lạc hậu hơn nhiều so với trình độ công nghệ của các nước trong khu vực và thế giới. Phần lớn các doanh nghiệp thương mại có quy mô nhỏ. Gần 70% doanh nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT có vốn dưới 10 tỷ đồng. Khả năng nắm bắt và khai thác thị trường còn yếu. Mở cửa thị trường sẽ là những thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp. Chúng ta vẫn có tới 95% doanh nghiệp (trong đó có các doanh nghiệp nông nghiệp) quy mô vừa và nhỏ, thiếu vốn, yếu kém về năng lực quản lý và cạnh tranh; việc tổ chức sản xuất, kinh doanh các mặt hàng nông sản và các hoạt động khác liên quan trong nước còn rất nhỏ lẻ, phân tán, chuyển đổi chậm, không đồng bộ, thiếu đầu tư các khâu tạo thêm giá trị gia tăng, chưa liên kết thành chuỗi.
Cơ sở hạ tầng, dịch vụ, hệ thống pháp lý còn nhiều bất cập so với yêu cầu của hội nhập: Hệ thống giao thông được cải thiện nhiều, nhưng tới nay vẫn còn gần 400 xã (gần 6% số xã) chưa có đường ôtô đến khu trung tâm, 50% đường xã đi lại khó khăn về mùa mưa. hạ tầng dịch vụ phục vụ thương mại hàng nông lâm sản cũng còn thiếu nhiều: thiếu cảng chuyên dụng; chi phí bốc xếp, chờ đợi tại cảng cao (ví dụ: chi phí tại cảng cho mỗi tấn gạo xuất khẩu của ta cao gần gấp 2 lần của Thái Lan); các yêu cầu về thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng.
Trình độ của nguồn nhân lực còn chưa cao: Những yếu tố để đánh giá năng lực hội nhập kinh tế quốc tế như tỷ lệ cán bộ biết ngoại ngữ, vi tính, tham gia đào tạo, xây dựng mạng lưới khách hàng, thương hiệu... trong các doanh nghiệp nông nghiệp nhìn chung còn thấp, nhất là doanh nghiệp địa phương và doanh nghiệp tư nhân.
Những tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động nhập khẩu của Agrexim
Những thuận lợi
Về thuế nhập khẩu và thủ tục cấp phép nhập khẩu: Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết WTO góp phần làm giảm chi phí nguyên liệu đầu vào, từ đó giúp hạ giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh. Thủ tục cấp phép nhập khẩu cũng được sửa đổi, trở nên đơn giản và thuận tiện hơn, giúp các doanh nghiệp có thể nhập khẩu được thuận lợi hơn.
Các mặt hàng công ty đã nhập khẩu trong năm 2007 được cắt giảm thuế nhập khẩu ngay tại thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (11/01/2007) gồm có:
Mã hàng
Mô tả hàng hóa
Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập (%)
Thuế suất cam kết cắt giảm (%)
Thời hạn thực hiện (năm)
Quyền đàm phán ban đầu
Phụ thu nhập khẩu (%)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
2101
11
10
Cà phê tan
50
40
2010
-
-
2208
60
Rượu Vodka
65
45
2013
-
-
1905
32
20
Bánh kem xốp
40
35
2010
-
-
1704
90
90
Kẹo (trừ kẹo cao su, sôcôla trắng, kẹo dược phẩm)
40
15
2012
-
-
3505
20
00
Keo
20
-
-
-
-
1517
90
84
Dầu đậu nành
50
30
2012
-
-
1601
Xúc xích
40
22
2012
-
-
Bảng 7: Thuế suất tối huệ quốc của một số mặt hàng nông sản
(Nguồn: “Biểu cam kết hàng nông sản” - - Website của Trung tâm Thông tin PTNNNT - Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT - Bộ Nông nghiệp & PTNT )
Trong năm 2007, các mặt hàng cà phê tan, rượu, bánh kẹo, keo, dầu đậu nành và xúc xích đã được cắt giảm thuế nhập khẩu ngay tại thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (11/01/07), trừ mặt hàng keo ra, các mặt hàng còn lại sẽ có mức thuế cắt giảm đều hàng năm, bước cắt giảm đầu tiên tính từ ngày 1 tháng 1 của năm tiếp theo thời điểm gia nhập và chính thức trở thành thành viên WTO của CHXHCN Việt Nam. Các bước cắt giảm tiếp theo sẽ được thực hiện từ ngày 1 tháng 1 hàng năm cho đến khi đạt được mức thuế cam kết ghi trong cột “Thuế suất cam kết cắt giảm” theo thời hạn trong cột “Thời hạn thực hiện”.
Tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp: Khi Việt Nam gia nhập WTO, đồng nghĩa với việc công ty Agrexim có thể tiếp cận được cơ chế giải quyết tranh chấp minh bạch, rõ ràng và bình đẳng của WTO (về lâu dài) giúp tránh được những vụ kiện vô lý như cá tra - cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ.
Sức ép tự vươn lên nâng cao khả năng cạnh tranh của bản thân công ty: Gia nhập WTO Việt nam không những được hưởng quyền lợi mà các nước thành viên dành cho nhau, ngược lại Việt nam cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dành ưu đãi cho các thành viên khác. Có nghĩa là, Việt nam cũng phải áp dụng mở cửa thị trường hàng nông sản nhiều hơn, chính sách minh bạch và bình đẳng hơn, các chính sách trợ cấp hoặc hỗ trợ cho nông nghiệp không phù hợp với WTO cũng dần phải loại bỏ. Như vậy, muốn tồn tại và phát triển thì công ty phải chấp nhận cạnh tranh. Áp lực này buộc Agrexim phải tự vươn lên nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và của doanh nghiệp.
Sự quan tâm, môi trường pháp lý và chính sách đối với nông nghiệp tốt hơn, minh bạch và ổn định hơn do vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển của Việt Nam, vừa phù hợp với các cam kết của WTO. Nhà nước sẽ điều chỉnh chiến lược, quy hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng thị trường hơn, bền vững hơn. Đây là điều quan trọng để giúp cho các doanh nghiệp phát triển bởi nhiều chiến lược, quy hoạch trong lĩnh vực nông nghiệp cho đến nay vẫn chưa thực sự theo hướng thị trường hoặc tôn trọng các quy luật của thị trường. Trong thời gian tới, khi thị trường phát triển tốt hơn thì doanh nghiệp cũng có cơ hội phát triển. Các biện pháp, công cụ hỗ trợ mới của Nhà nước đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ công bằng và phù hợp hơn theo cam kết của WTO.
Có nhiều lựa chọn hơn trong việc lựa chọn đối tác nước ngoài, lựa chọn các loại mặt hàng nhập khẩu, tranh thủ nguồn vốn đâu tư, tiếp nhận khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý: Khi Việt Nam gia nhập WTO, với 151 nước thành viên, các nước thành viên sẽ quan tâm đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn, do các hiệp định mà nước ta đã cam kết khi gia nhập sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài. Môi trường kinh tế xã hội ở Việt Nam ổn định, kết hợp với triển vọng hội nhập quốc tế đã có tác động tích cực tới đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp. Đến nay, cả ngành nông nghiệp đã có 558 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư là 2,86 tỷ USD. Số vốn đầu tư đã thực hiện là 1,39 tỷ USD, đạt gần 50%. Các dự án này đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển của ngành nông nghiệp thời gian qua; giúp nâng cao năng lực cho ngành nông nghiệp cả về vốn đầu tư, thiết bị công nghệ, thị trường tiêu thụ và cả cơ sở hạ tầng,…Nhiều nước đã đầu tư lớn vào Việt nam như: Đài loan, Hồng kông, Pháp, Trung quốc. Chính sách hội nhập của Việt nam sẽ tiếp tục tạo môi trường thông thoáng thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn. Thị trường tiêu thụ nông sản được mở rộng cũng là điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam hơn. Từ đó, công ty có thể tranh thủ được nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tranh thủ được khoa học công nghệ, các kinh nghiệm quản lý của các công ty nước ngoài.
Những khó khăn
Các đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều hơn, mức độ cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn: Khi Việt Nam gia nhập WTO, ngoài việc cắt giảm thuế, Việt Nam phải cam kết loại bỏ hết các hàng rào phi thuế, trừ các biện pháp hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng là đường, trứng gia cầm, thuốc lá và muối. Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch tương đương mức thuế tối huệ quốc (MFN) hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 50-60%, thuốc lá 30%, muối ăn 30%), thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch. Trong bối cảnh nền nông nghiệp của ta vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, năng suất và chất lượng thấp (giá trị sản xuất trên 1ha canh tác chỉ đạt 30 triệu đồng/năm), việc xoá bỏ hạn ngạch thuế quan các mặt hàng nông sản vốn có khả năng cạnh tranh thấp sẽ gây ra tác động tiêu cực đối với những người sản xuất trực tiếp.
Ngoài các cam kết về mở cửa thị trường, Việt Nam còn cam kết mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, quyền phân phối cho các doanh nghiệp nước ngoài. Vì thế, các công ty đa quốc gia vốn rất mạnh về tài chính, hệ thống phân phối, thông tin, trình độ quản lý... khi vào kinh doanh tại Việt Nam sẽ là những thách thức không nhỏ cho doanh nghiệp nội địa.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn thấp: Từ bảng 1 về Bộ máy tổ chức hoạt động của công ty Cổ phần Nông Sản Agrexim ta thấy trong bộ máy của công ty, các xí nghiệp về chế biến nông lâm sản còn ít, với qui mô không lớn, gồm có xí nghiệp chế biến kinh doanh nông thổ sản Hải Phòng (15 người) và xí nghiệp chế biến kinh doanh nông thổ sản Hà nội (19 người). Đồng thời trình độ khoa học công nghệ áp dụng trong các qui trình chế biến nông sản đã lạc hậu, không được đổi mới. Số chi nhánh của công ty ở nước ngoài là gần như không có, chỉ có một chi nhánh đại diện ở LB Nga. Với qui mô này, khi các công ty đa quốc gia, với sự mạnh mẽ về tài chính, trình độ khoa học công nghệ, trình độ quản lý vượt trội ở tầm quốc tế, tham gia vào thị trường Việt Nam, thì khả năng cạnh tranh của công ty sẽ không thể bằng được họ.
Các đối tác làm ăn còn chưa nhiều: Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác làm ăn vẫn chỉ xoay quanh một số đối tác quen thuộc đến từ Hà Lan, Đức, Nga, Indo, Malaysia, Nhật. Với chủng loại mặt hàng nhập khẩu ít, không có sự mở rộng các chủng loại mặt hàng kinh doanh. Từ đó tạo ra sự hạn chế về đa dạng các mặt hàng kinh doanh của công ty.
Trình độ của đội ngũ cán bộ nhân viên chưa đáp ứng được với yêu cầu hội nhập: Những yếu tố để đánh giá năng lực hội nhập kinh tế quốc tế như tỷ lệ cán bộ biết ngoại ngữ, vi tính, tham gia đào tạo, xây dựng mạng lưới khách hàng, thương hiệu... trong công ty nhìn chung còn thấp, các nhân viên có trình độ giỏi chủ yếu tập trung ở các trung tâm như Hà Nội và Hải Phòng. Khi Việt Nam gia nhập WTO, thị trường nước ngoài sẽ được mở rộng hơn nữa, do đó đòi hỏi về trình độ ngoại ngữ và vi tính là rất cao, nếu trình độ của các nhân viên không đáp ứng được sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh chung của toàn công ty.
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN NÔNG SẢN AGREXIM
Xuất phát từ những thuận lợi cũng như những khó khăn, thách thức đối với hoạt động nhập khẩu của công ty Agrexim khi Việt Nam gia nhập WTO, sau đây là một số đề xuất với công ty nhằm có thể tận dụng những cơ hội mới, những điều kiện thuận lợi, cũng như khắc phục những khó khăn, vượt qua những thách thức mới trong thời gian tới:
Đầu tư cải thiện, làm mới hệ thống cơ sở vật chất hiện có: thay mới hoặc nâng cấp hệ thống máy tính, xây mới hoặc cải tạo lại hệ thống kho bãi. Do hệ thống cơ sở vật chất của công ty hiện tại đã cũ, hiệu quả đáp ứng công việc không cao. Khi Việt Nam gia nhập WTO, đồng nghĩa với việc gia tăng các đối tác làm ăn nước ngoài, do đó cơ sở vật chất, công nghệ là rất quan trọng, cần phải được đầu tư hiện đại thì mới có thể đáp ứng được hiệu quả công việc một cách cao nhất.
Tích cực tuyển mới và đào tạo, bồi dưỡng nhân viên mới, luôn có các khóa đào tạo để cập nhật, nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho các nhân viên trong công ty. Do những yếu tố để đánh giá năng lực hội nhập kinh tế quốc tế như tỷ lệ cán bộ biết ngoại ngữ, vi tính, tham gia đào tạo, xây dựng mạng lưới khách hàng, thương hiệu... trong công ty nhìn chung còn thấp, khi hệ thống cơ sở vật chất, máy móc công nghệ được đầu tư, nâng cấp hiện đại hơn thì đi kèm với nó là trình độ của nhân viên cũng phải tăng theo để có thể khai thác hết được hiệu quả của những máy móc thiết bị mới đó.
Tích cực tìm kiếm, mở rộng các mặt hàng kinh doanh nhập khẩu, tích cực tìm kiếm các đối tác nước ngoài để có thể hợp tác kinh doanh, đầu tư. Hiện nay công ty mới chỉ nhập khẩu từ một số ít nước như Đức, Nga, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật, Indonexia, Malaysia, Canada, Hoa Kỳ. Trong thời gian tới, công ty cần tích cực mở rộng quan hệ hợp tác với các thành viên khác trong WTO, tìm kiếm những đối tác phù hợp, những mặt hàng nhập khẩu mới, có khả năng cạnh tranh khi tiêu thụ ở thị trường trong nước. Đồng thời tranh thủ tiếp nhận những thành tựu về khoa học công nghệ, áp dụng trong chế biến nông sản, học tập những kinh nghiệm quản lý của các công ty lớn của nước ngoài, các công ty đa quốc gia.
Không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Khi chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng tăng lên, lượng hàng tiêu thụ ở thị trường trong nước sẽ tăng lên, từ đó dẫn đến lượng hàng nhập khẩu về để đáp ứng nhu cầu của khách hàng sẽ tăng lên.
Tìm hiểu và nắm vững tác động của các cam kết, hiệp định khi Việt Nam gia nhập WTO trong lĩnh vực nông nghiệp. Cập nhật các qui định về thuế nhập khẩu, thủ tục hải quan, các chính sách khuyến khích phát triển giành cho mặt hàng nông nghiệp thường xuyên. Để từ đó có các điều chỉnh trong chính sách hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cho phù hợp với những biến động thị trường.
Tích cực tìm hiểu về các đối thủ cạnh tranh hiện tại cũng như các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn đang cùng kinh doanh các mặt hàng nông nghiệp tại thị trường trong nước cũng như các đối thủ cạnh tranh nước ngoài có ý định thâm nhập vào thị trường trong nước. Từ đó có các giải pháp phù hợp để đối phó với sự cạnh tranh của họ.
Khi công ty Agrexim thực hiện tốt các đề xuất trên thì sẽ đạt được một số kết quả về các mặt:
Về cơ sở vật chất: Công ty sẽ có một cơ sở vật hiện đại, đáp ứng được đầy đủ và có hiệu quả cao với hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty, bao gồm hệ thống máy tính, văn phòng, kho bãi …
Về con người: Công ty sẽ có những nhân viên có trình độ ngoại ngữ tốt, có thể giao tiếp, thực hiện các công việc đàm phán, giao dịch với các đối tác nước ngoài. Có trình độ vi tính đủ để đáp ứng các yêu cầu về tin học cần phải có khi giao dịch thông qua các phương tiện truyền thông hiện đại như internet, email, fax, hội thảo trực tuyến, …
Về hoạt động Marketing: Công ty sẽ có được nhiều mối quan hệ hơn, có nhiều đối tác làm ăn quốc tế hơn, từ đó nâng cao uy tín của công ty trên thương trường quốc tế cũng như mở rộng được hoạt động kinh doanh của công ty ra nhiều quốc gia khác cũng là thành viên của WTO.
Về hoạt động kinh doanh nhập khẩu: Hoạt động nhập khẩu sẽ diễn ra thuận lợi hơn, do công ty luôn cập nhật và nắm vững các qui định trong nhập khẩu của Việt Nam cũng như các cam kết, hiệp định của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Đối với các đối thủ cạnh tranh hiện tại cũng như các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Công ty sẽ luôn có được những giải pháp ứng phó kịp thời, có hiệu quả trước sự cạnh tranh ngày càng gia tăng sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
KẾT LUẬN
Công ty Cổ phần Nông sản Agrexim tuy mới chỉ cổ phần hóa được hơn 10, đặc biệt là trong giai đoạn mới cổ phần, tình hình kinh tế chính trị thế giới có nhiều biến đổi, thị trường trong nước cũng có nhiều thay đổi theo hướng bất lợi cho hoạt động kinh doanh của công ty, nhưng công ty đã vượt qua được những khó khăn trước mắt đó để hòan thành tốt được các chỉ tiêu, kế hoạch kinh doanh đã đặt ra. Đặc biệt là từ đầu năm 2007, khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, sự kiện này đã có nhiều tác động đến các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung và tác động đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng nông nghiệp nói riêng của công ty Cổ phần Nông sản Agrexim. Các cam kết, các hiệp định, các thay đổi trong chính sách kinh tế của Nhà nước để Việt Nam có thể gia nhập WTO đã có nhiều tác động cả những mặt thuận lợi và cả những mặt khó khăn đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty Agrexim. Do đó, công ty cần phải nắm bắt được những cơ hội mới để có thể tăng cường hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng nông nghiệp, đồng thời dự báo trước các khó khăn, thách thức đối với doanh nghiệp để từ đó có các biện pháp phòng tránh hay hạn chế những khó khăn thách thức đó.
Với việc thực hiện đề tài “Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty Cổ phần Nông sản Agrexim“, em hi vọng sẽ góp phần nhỏ bé trong việc đánh giá được những tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty Agrexim, đưa ra những thuận lợi cũng như những thách thức, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Agrexim.
Do thời gian tìm hiểu và kinh nghiệm thực tế của bản thân còn ít ỏi cộng với trình độ hiểu biết còn hạn chế nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy các cô, các anh chị tại công ty Agrexim và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I – Tài liệu công ty, giáo trình, sách tham khảo
“Báo cáo tổng kết công tác năm 2004” – Công ty Cổ phần Nông sản Agrexim
“Báo cáo tổng kết công tác năm 2006” - Công ty Cổ phần Nông sản Agrexim
“Báo cáo thống kê T12/2006” – Công ty Cổ phần Nông sản Agrexim
“Báo cáo thống kê T12/2007” – Công ty Cổ phần Nông sản Agrexim
“Kinh doanh quốc tế” (tập 1), PGS.TS Nguyễn Thị Hường, NXB Lao động – xã hội, 2001.
“Kinh doanh quốc tế” (tập 2), PGS.TS Nguyễn Thị Hường, NXB Lao động – xã hội, 2003.
“Việt Nam: Hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa - Vấn đề và giải pháp”, NXB Chính trị quốc gia, H.2002, tr.436-439
III – Tài liệu từ internet
“Công ty Nông sản I (Agrexim), Bộ Thương mại” -
“Công ty Nông thổ sản I” –
“Gia nhập WTO: ảnh hưởng nhìn từ nhiều góc độ” -
“Gia nhập WTO: Đánh giá những tác động” -
“Hiệp định Nông nghiệp” -
“Một số rào cản thương mại sau 1 năm là thành viên WTO” -
“Những cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp khi Việt nam gia nhập WTO” -
“Nông nghiệp Việt Nam: Chống chọi với WTO!” -
“Thông tin doanh nghiệp” -
“Việt Nam gia nhập WTO - Những thách thức đối với chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp” –
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26449.doc