- Doanh nghiệp phải thực hiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm trong nước và trên thị trường quốc tế kết hợp với việc quản lý chặt chẽ thương hiệu, đảm bảo uy tín và hình ảnh của thương hiệu không ngừng được nâng cao.
- Vấn đề cốt lõi trong việc giữ gìn và phát triển thương hiệu bền vững là phải kết hợp hoàn hảo giữa chiến lược thương hiệu với chiến lược sản phẩm và phân phối sản phẩm của DN. Thương hiệu là hình ảnh của sản phẩm và chất lượng của hình ảnh này chính là phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm của DN. DN phải xây dựng được uy tín và hình ảnh thương hiệu bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ chăm sóc khách hàng, xây dựng mạng lưới phân phối, đưa thương hiệu đến với người tiêu dùng. Đồng thời quảng bá thương hiệu, thông tin sản phẩm, thuyết phục người tiêu dùng một cách có hiệu quả và không ngừng đầu tư vào nghiên cứu phát triển, tạo sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
- Xây dựng và phát triển thương hiệu cũng không chỉ là vấn đề của riêng DN, các chính sách và hỗ trợ của Nhà nước về phát triển thương hiệu cũng giữ vai trò hết sức quan trọng. Chính phủ và các bộ, ngành, hiệp hội, DN, các nhà tư vấn chuyên nghiệp. đẩy mạnh phổ biến kiến thức về thương hiệu trong cộng đồng DN và phát động phong trào xây dựng thương hiệu trong cộng đồng DN cả nước. Nhà nước đang xây dựng các chính sách hỗ trợ DN về phát triển thương hiệu và từng bước tiến hành quảng bá một số thương hiệu quốc gia ra thị trường nước ngoài. DN cần tranh thủ sự trợ giúp từ phía Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách phục vụ cho việc phát triển thương hiệu, các chương trình tuyên truyền, nâng cao nhận thức về thương hiệu, sự giúp đỡ của các cơ quan Nhà nước trong việc tăng cường năng lực kinh doanh, năng lực quản lý và xây dựng thương hiệu, tăng cường cơ chế thực thi bảo hộ thương hiệu, các biện pháp chống hàng giả, hàng nhái
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và phát triển thị trường: để đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và phát triển thị trường, cần tiến hành thực hiện các vấn đề sau:
Xây dựng hệ thống thông tin một cách có hiệu quả từ nhiều kênh khác nhau như: thu thập tại bàn, từ Internet, từ các thương vụ, cử đại diện ra nước ngoài làm tốt công tác dự báo về cung, cầu, giá cả phục vụ cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế. Đa dạng hoá thị trường tránh việc lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường, phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Đẩy mạnh công tác quảng cáo, tiếp thị hướng dẫn tiêu dùng, tích cực tham gia vào các hội chợ quốc tế nhằm quảng bá sản phẩm ký kết được nhiều hợp đồng kinh doanh.
115 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1583 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tác động gia nhập WTO đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính của Việt Nam
Với xu hướng hội nhập kinh quốc tế, bên cạnh việc được cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, các hàng rào thương mại thì Việt Nam phải đối mặt với những quy định và cam kết ngày càng khắt khe hơn về an toàn thực phẩm, các biện pháp kỹ thuật thương mại (TBT) ngày càng tinh vi hơn, các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS) của các nước nhập khẩu. Thị trường nhập khẩu sẽ tăng cường việc kiểm soát an toàn thực phẩm đặc biệt là dư lượng các chất dùng để chữa bệnh cho động vật nuôi trồng thủy sản. Danh mục các chất cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản khi đó sẽ dài hơn và danh mục các chất được cho phép sử dụng trong chữa bệnh cho động vật nuôi trồng thủy sản sẽ rất ngắn với độ MRL rất thấp. Điều này là một thách thức không nhỏ đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam trong việc tham nhập thị trường mới và duy trì những thị trường đã có. Các sản phẩm “ sạch” sẽ có khả năng thâm nhập vào thì trường thế giới dễ dàng hơn. Trong khi đó, chất lượng hàng thuỷ sản của ta tuy đã có nhiều cải thiện song vẫn còn dư lượng kháng sinh nhất định. Điều này được thế hiện như sau:
Thị trường Châu Á được coi là thị trường xuất khẩu thuỷ sản trọng điểm của ta trong thời gian qua. Tuy nhiên, nhìn chung việc duy trì thị phần hàng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cũng rất khó khăn do phụ thuộc lớn vào cạnh tranh của các nước xuất khẩu khác trong vùng, đặc biệt là sự cạnh tranh của Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ… Việc Trung Quốc gia nhập WTO cũng tác động bất lợi đến xuát khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị trường này.
Trên thị trường có thu nhập cao như Mỹ và EU thì trở ngại lớn nhất của ta là việc đảm bảo chất lượng và an toàn hàng thuỷ sản theo những điều kiện HACCP. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 60% doanh nghiệp chế biến đảm bào các tiêu chuẩn HACCP và được phép xuất khẩu vào thị trường EU. Bên cạnh đó, vấn đề về dư lượng kháng sinh và tình trạng nhiễm khuẩn do tiêm chích tạp chất và ngâm hóa chất vẫn đang tiềm ẩn gây ra rủi ro, thiệt hại cho xuất khẩu. Việt Nam hiện nay không còn bị EU kiểm tra giám sát an toàn về sinh 100% các lô hàng thuỷ sản xuầt khẩu, song vẫn có thể bị áp dụng trở lại nếu Việt Nam kiểm tra giám sàt vệ sinh an toàn thực phẩm không chặt chẽ. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia nhập khẩu thủy sản lớn nhất. Việc xuất khẩu thủy sản sản của Việt Nam sang thị trường này trong những năm gần đây có một số trục trặc liên quan đến các hàng rào luật lệ SPS/TBT, chẳng hạn như quy định về bảo vệ loài rùa biển, quy định cấm cá basa và cá tra mang nhãn hiệu cá da trơn (catfish), quy định tạm dừng các lô hàng thủy sản để xét nghiệm dư lượng flouroquinolone tại nơi đến trước khi thông quan ở 3 bang miền nam Hoa Kỳ (gồm có Louisiana, Alabama và Mississippi), v.v… Vì vậy, việc thực hiện đầy đủ và nghiêm ngặt các biện pháp đảm bào chất lượng, an toàn vệ sinh thuỷ sản từ tàu thuyền, ao nuôi đến chế biến xuất khẩu, việc thực hiện truy suất nguồn gốc sản phẩm, đáp ứng yêu cầu các thị trường là rất cần thiết.
Thứ ba, Việt Nam là thành viên thứ 150 trên tổng số 151 thành viên của WTO nên phải chịu nhiều bất lợi thế của nước đi sau.
Đó là những bất lợi về thiếu thông tin thị trường, năng lực quản lý, kinh nghiệm và kiến thức tiếp cận thị trường xuất khẩu, khả năng phát triển hệ thống kinh doanh tại các thị trường nước ngoài, phản ứng chính sách thường chậm và kém hiệu quả… Công tác dự báo thị trường của Việt Nam còn rất yếu, hơn nữa kinh nghiệm trong việc ngăn chặn và giải quyết các tranh chấp còn nhiều hạn chế. Việt Nam vẫn bị áp dụng những điểu khoản của nền kinh tế phi thị trường sau khi gia nhập WTO. Vị thế phi thị trường khiến Việt Nam phải chịu bất lợi trong các vụ kiện chống bán phá giá và đối kháng. Các đối tác thương mại sẽ dễ dàng hơn khi áp dụng biện pháp chống bán phá giá chống lại Việt Nam. Các chi phí sản xuất của Việt Nam sẽ phải so sánh được với các chi phí của các quốc gia tham chiếu trong khi các quốc gia này có thể cung cấp một cột mốc chuẩn thích hợp hoặc không. Trong khi đó, các lợi thế so sánh của Việt Nam trong quá trình sản xuất hàng hoá lại không được tính đến.
Thứ tư, yếu kém về năng lực cạnh tranh và tính năng động của thị trường
Gia nhập WTO Việt Nam đã có những cam kết về tự do hoá thương mại, mở của thị trường, cải tạo môi trường kinh doanh theo hướng công khai minh bạch rõ ràng và ổn định. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh và tính năng động của nền kinh tế Việt Nam còn yếu, cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý, cơ chế
tài chính vận hành chưa thực sự thông suốt. Hệ thống tài chính tiền tệ - một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của hoạt động xuất nhập khẩu chậm được đổi mới. Kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu, đăc biệt là đường xá, cảng biển và hệ thống mạng viễn thông. Trình độ công nghệ tuy đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực song vẫn còn lạc hậu so với công nghệ của các nước phát triển trên thế giới. Thêm vào đó, tư duy kinh doanh, nghiệp vụ và phương thức kinh doanh tiếp thị, tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam còn ở trình độ thấp so với trình độ thế giới, gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp cận, thâm nhập và mở rộng thị trường cho các sản phẩm có lợi thế của Việt Nam.
Thứ năm, vấn đề thương hiệu của hàng thuỷ sản Việt Nam còn nhiều bất cập
Vấn đề thương hiệu của thủy sản Việt Nam cũng được coi là một thách thức lớn, vì hiện nay các mặt hàng thủy sản Việt Nam được xuất khẩu thông qua các nhà nhập khẩu và được phân phối dưới nhiều thương hiệu khác nhau, vừa không quảng bá được sản phẩm, vừa có thể gây ra những rắc rối như vụ “cá basa” thành “cá mú” ở thị trường Mỹ vừa qua. Việc sản phẩm chúng ta bị đem ra kiện cũng là đều đáng bàn. Đúng là các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu không hề phá giá, nhưng Mỹ vấn thắng kiện? Điều đàu tiên, chính là sản phẩm của chúng ta chưa có thương hiệu và nhẵn mác trên thị trường họ. Hơn nữa, các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh không hề chú ý đến việc xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, khẳng định và nâng cao uy tín sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế. Đồng thời, hiểu biết của người quản lý khi tham gia hoạt động kinh tế trên thị trường quốc tế còn kém, chưa có cái nhìn sâu và nhạy bén trước tình hình đang diễn ra. Thêm nữa, mạng lưới các kênh phân phối để thựuc hiện xuất khẩu trực tiếp vào thị trường chính chưa tốt, chủ yếu là xuất khẩu trung gian môi giới và trung tâm tái xuất như Singapore, Hồng Kông. Xuất khẩu chủ yếu theo điều kiện của giá FOB và các điều kiện có hàm lượng dịch vụ bán hàng cao hơn mà chưa sử dụng được hình thức đại lý bán hàng thuỷ sản ở các nước tiêu thụ lớn như: Nhật Bản, EU, Mỹ… nên không tận dụng được cơ hội thì trường để đẩy mạnh xuất khẩu. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu chưa có một kế hoạch hay chương trình tổng thể xúc tiến bán hàng thuỷ sản ra nước ngoài. Mặc dù có một số hoạt động xúc tiến như việc tham gia các hội chợ thương mại và việc cử các đoàn cán bộ đi khảo sát ở nước ngoài, nhưng nhìn chung các hoạt động này còn mang tính tự phát chưa coi là hoạt động xúc tiến xuất khẩu thực sự. Ở nước ta hoạt động này nhin chung mới ở bước sơ khai chưa thực hiện kênh thông tin cho người tiêu dung ở các nứơc nhập khẩu, Cúng như phân tích, nghiên cứu cơ hội phát triển thị trường; hoạt động xúc tiến thương mại còn hạn chế. Do vậy, vẫn rất cần một phương pháp thâm nhập thị trường đem lại uy tín bền vững cho sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu. Bên cạnh đó thì hoạt động tổ chức thu mua, chế biến cho xuất khẩu còn nhiêu khê, chưa tạo được sự ổn định về chất lượng uy tín sản phẩm để cạnh tranh bền vững trên thị trường.
Thứ sáu, mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu và khu vực chế biến xuất khẩu
Thuỷ sản Việt Nam còn gặp phải sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu (đánh bắt, nuôi trồng...) và khu vực chế biến xuất khẩu thủy sản bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân như trình độ sản xuất và tổ chức sản xuất chưa cao, sản lượng và chất lượng sản phẩm thủy sản sau thu hoạch còn rất yếu; cơ chế phối hợp giữa hai lĩnh vực trên chậm hình thành. Thực tế, nguồn nguyên liệu của ta, ngoài dựa vào nuôi trồng thì vẫn có phần lớn do khai thác đánh bắt cung cấp, nên phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên như mùa vụ, thời tiết. Do vậy mà cung nguyên liệu nuôi trồng thường bị cảnh cáo vì hàm lượng kháng sinh cao trong sản phẩm. Tuy đã cố gắng quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP nhưng trên thực tế, những con số doanh nghiệp được công nhận tiêu chuẩn chất lượng, hay được thị trường chấp nhận như đã nói ở trên chỉ phàn nào thể hiện bề nổi của những thành tựu đạt được mà không thấy được hết những tồn tại hay những hạn chế mà các doanh nghiệp chưa đạt được. HACCP được xây dựng trên 7 nguyên tắc cơ bản, các doanh nghiệp của ta dù đã có hệ thống HACCP nhưng vẫn còn chưa thực hiện một cách hoàn chỉnh các nguyên tắc này. Nhưng thực tế, trong quản lý chất lượng của ta vẫn chưa có sự gắn kết chặt chẽ như vậy, chưa có sự ăn khớp trong cơ chế quản lý và người trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất. Trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm chế biến thuỷ sản xuất khẩu nước ta vẫn chưa thực sự tạo ra được một hệ thống phòng ngừa tin cậy theo đúng bản chất các nguyên tắc ISO- 9000 hay HACCP để có thể vững chắc bước vào thị trường thế giới. Công nghệ cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hàng chế biến. Thế nhưng, trong ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam, phần lớn các xí nghiệp có thiết bị còn lạc hậu thua kém so với thế giới. Cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản của ta vẫn chưa hợp lý, tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu thô còn lớn dẫn đến kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lớn nhưng giá trị thu về chưa cao.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM
1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở công nghiệp hoá hiện đại hoá ngành thuỷ sản, nâng cao khả năng cạnh tranh, đưa xuất khẩu thuỷ sản tiếp tục tăng trưởng một cách hiệu quả, bền vững, có vị thế cao trên thị trường quốc tế. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, giảm dần tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu thô. Xuất khẩu thuỷ sản vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu chuyển dịch kinh tế giữa các ngành trong khối công nghiệp, thúc đẩy nuôi trồng thuỷ sản và khai thác hải sản phát triển có hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống và làm giàu cho người dân vùng nông thôn ven biển và hải đảo. Tăng cường kinh tế nhanh và ổn định, mô hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản theo hướng thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, an sinh xã hội và an toàn sinh thái là điều kiện và mục tiêu để phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam.
2. Chiến lược phát triển ngành thuỷ sản đến năm 2020
Tổng quát:
Chiến lược phát triển sẽ dựa theo nguyên tắc tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định và bền vững, thay đổi mô hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thủy sản theo hướng thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, an ninh xã hội và an toàn sinh thái. Kết hợp chặt chẽ phát triển thủy sản với quốc phòng. Chú trọng về chất lượng và giá trị hơn mở rộng về diện tích và tổng sản lượng, chủ động sản xuất giống thủy sản đối với các loài nuôi chủ lực; đẩy mạnh đánh bắt xa bờ. Đồng thời, toàn ngành chủ trương tập trung phát triển công nghệ, mở rộng quy mô nuôi thâm canh, bán thâm canh, công nghiệp cho các đối tượng phục vụ xuất khẩu.
Về thị trường và xúc tiến thương mại: củng cố, phát triển các thị trường chính; tìm kiếm mở rộng thị trường tiềm năng, nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng để cải tiến và đa dạng hóa hàng hóa, sản phẩm thủy sản. Phối hợp chặt chẽ trong quản lý, sản xuất giữa 4 khu nhà và lồng ghép vấn đề “tam nông” nhằm hạn chế rủi ro về thị trường và nguồn vốn sản xuất.
Cụ thể:
Chiến lược phát triển ngành thuỷ sản đến năm 2020 trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển sang kinh tế tri thức tập trung chủ yếu:
- Lấy việc nâng cao chất lượng tăng trưởng bền vững, hiệu quả đầu tư và sức cạnh tranh làm cơ sở để đẩy cao tốc độ tăng trưởng, nanag cao vị thế quốc tế của ngành, doanh nghiệp và sản phẩm thuỷ sản Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
- Coi phát triển kinh tế thủy sản là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một ngành thuỷ sản hiện đại là yêu cầu cấp thiết.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế thuỷ sản với quốc phòng an ninh.
Các chỉ tiêu của chiến lược phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam đến năm 2020 (dự thảo) như sau:
- Giai đoạn từ nay đến 2010:
+ Sản lượng tăng với tốc độ bình quân: 2,15%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng với tốc độ bình quân 5,4%/năm; lao động nghề cá tăng bình quân 0,15%/năm.
+ Tổng sản lượng thuỷ sản đến năm 2010 đạt 4,8 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng 2,8 triệu tấn; khai thác hải sản 1,8 triệu tấn; khai thác nội địa 0,2 triệu tấn.
+ Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2010 4,8 - 5,0 tỷ USD.
+ Số lao động nghề cá 4,7 triệu người.
- Giai đoạn từ 2015 - 2020:
+ Sản lượng tăng với tốc độ bình quân: 2,7 5%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng với tốc độ bình quân 3,13%/năm; lao động nghề cá tăng bình quân 0,9%/năm.
+ Tổng sản lượng thuỷ sản đến năm 2010 đạt 6,3 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng 4,3 triệu tấn; khai thác hải sản 1,8 triệu tấn; khai thác nội địa 0,2 triệu tấn.
+ Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2015: 7,0 tỷ USD.
+ Số lao động nghề cá năm 2020 đạt 5 triệu người.
3. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
3.1. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thuỷ sản xuất khẩu
Để đứng vững và phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải coi không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh là yếu tố quyết định. Muốn nâng cao năng lực cạnh phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp như nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh, xây dựng chiến lược đa dạng hóa thị trường đa dạng hóa sản phẩm, tiết kiệm năng lượng để giảm giá thành sản phẩm…
3.1.1. Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
Việc đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm là vừa phải đảm bảo yêu cầu của thị trường xuất khẩu cũng như thoả mãn nhu cầu người tiêu dung trong nước, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh bền vững tạo được uy tín đối với người sử dụng. Để đạt được điều đó, cần phải có một số giải pháp nghiêm chỉnh, nhất quán, đồng bộ về an toàn thực phẩm như sau:
Về phía Nhà nước:
Cần nhanh chóng xây dựng chính sách quốc gia về chất lượng, định hướng phát triển chiến lược về chất lượng, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo chất lượng sản phẩm thoả mãn nhu cầu đảm bảo an toàn đến sức khoẻ và tính mạng cho người tiêu dùng thực phẩm. Cần tăng cường việc tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức về chất lượng cho các doanh nghiệp, nhằm tạo sự chuyển biến đồng bộ về quan điểm, nhận thức, trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc đảm bảo chất lượng và an toàn. Để các doanh nghiệp coi việc không ngừng cải tiến chất lượng, đảm bảo vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng vừa là trách nhiệm, vừa mang lại lợi ích cho chính doanh nghiệp. Vì nhờ đó mà doanh nghiệp có thể tăng uy tín và phát triển bền vững.
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sâu, rộng về tác hại của dư lượng hóa chất kháng sinh cấm trong thủy sản đồng thời sử dụng sức mạnh cộng đồng lên án mạnh mẽ các trường hợp vi phạm đi đôi với việc hướng dẫn triển khai chương trình thực hành nuôi thủy sản tốt (BMP, GAPP, COC), ứng dụng các kỹ thuật bảo quản thủy sản sau thu hoạch không sử dụng hóa chất kháng sinh
Triển khai mạnh mẽ chương trình kiểm soát chất lượng thuỷ sản sau thu hoạch (tập trung vào kiểm soát hoá chất bảo quản, dư lượng kháng sinh và tạp chất lạ) xử lý nghiêm, bao gồm cả việc đề nghị rút giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với những cơ sở vi phạm nghiêm trọng hoặc tái phạm nhiều lần. Thực hiện kiểm soát dư lượng hóa chất kháng sinh 100% các lô hàng thủy sản cá da trơn, giáp xác (tôm, cua...), thủy sản chân đầu (mực, bạch tuộc) nhập khẩu vào Việt Nam để chế biến xuất khẩu hoặc tiêu thụ nội địa.
Tiếp tục triển khai đào tạo nâng cao kỹ năng kiểm soát điều kiện sản xuất an toàn vệ sinh tàu cá, cảng cá, chợ cá, cơ sở sản xuất thức ăn, cơ sở sản xuất giống, cơ sở nuôi trồng thủy sản, các đại lý thu gom, bảo quản thủy sản sau thu hoạch cho cơ quan quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản các tỉnh thành phố, các doanh nghiệp chế biến thủy sản và hướng dẫn- kiểm tra quá trình thực hiện. Cần sớm nghiên cứu, quy hoạch các vùng chăn nuôi thuỷ sản một cách tổng thể, tạo điều kiện để kiểm soát toàn diện nguồn nguyên liệu cung cấp cho khu vực chế biến thuỷ sản đảm bảo an toàn và chất lượng.
Xây dựng một hệ thống quản lý từ trung ương đến địa phương. Hệ thống này được vận hành bởi đội ngũ am hiểu các tiêu chí an toàn và vệ sinh thực phẩm của các nước Cộng đồng châu Âu, Mỹ, Nhật, Austraylia... Năng lực của kiểm tra viên trong việc kiểm soát các điều kiện của cơ sở sản xuất/chế biến thực phẩm cũng là vấn đề rất quan trọng. Trong quá trình đánh giá cơ quan chuyên trách (khi đàm phán đa phương hoặc song phương), vấn đề năng lực của cơ quan chuyên trách sẽ dẫn đến mức tín nhiệm. Hiện nay, Việt Nam dường như đang thiếu đội ngũ nhân viên có đủ năng lực. Trong tương lai gần, nhu cầu rõ ràng đặt ra là phải ưu tiên nâng cao năng lực và đề ra kế hoạch đào tạo kiểm tra viên chuyên đánh giá các điều kiện của cơ sở sản xuất/chế biến thực phẩm
Cần có biện pháp xử lý thật nghiêm các cơ sở sản xuất và kinh doanh thuỷ sản không đảm bảo chất lượng và an toàn thông qua việc kiểm soát chặt chẽ, có kế hoạch và thường xuyên các hoạt động đảm bảo chất lượng VSATTP.
Bên cạnh đó các sản phẩm thuỷ sản đang phải đối mặt với những rào cản luật lệ TBT ngày càng tăng như: vấn đề ký mã hiệu (bao gồm việc dán nhãn sản phẩm biến đổi gen – GMO) và việc hài hóa hóa các tiêu chuẩn quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế. Nhiệm vụ của chứng ta là phải rà soát lại việc tổ chức và quản lý hoạt động tiêu chuẩn hóa ở Việt Nam, phát triển hệ thống xét nghiệm và kiểm tra cần phải được cân nhắc thích đáng khi đầu tư mua sắm hoặc nâng cấp thiết bị xét nghiệm, thiết bị đo lường và hiệu chỉnh để hỗ trợ hoạt động kiểm soát chất lượng. Đầu tư vào trang thiết bị hiện đại cần thiết để có được kết quả xét nghiệm nhanh hơn và đáng tin cậy hơn như máy sắc ký khối phổ GC/MS, máy ghép khối phổ 3 tứ cực LC/MS/MS để kiểm tra dư lượng hóa học theo yêu cầu của EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và các thị trường khác. Đưa ra các quy định về truy nguyên. Các quy định này cần được xây dựng cho phù hợp với các thị trường nhập khẩu chính.
Về phía doanh nghiệp
Các doanh nghiệp thuỷ sản cần đổi mới nhận thức kinh doanh, định hướng thị trường, định hướng khách hàng. Sản xuất kinh doanh vì người tiêu dùng mà tăng cường hơn nữa việc kiểm soát toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng và an toàn cho người tiêu dùng.
Tăng cường trách nhiệm lãnh đạo trong việc giáo dục, đào tạo đội ngũ nhân viên để nâng cao trình độ, năng lực và ý thức trách nhiệm trong việc thoả mãn khách hàng và người tiêu dùng về các tiêu chuẩn chất lượng, đặc biệt là việc tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu an toàn, vệ sinh và giữ gìn đạo đức kinh doanh. Nhìn chung, hầu hết các doanh nghiệp thực phẩm nước ta đều được xây dựng và phát triển từ nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung và bao cấp, hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, tình trạng đeo bám thói quen cũ vẫn còn phổ biến. Vì vậy phương thức làm ăn có chất lượng cũng như hoạt động đảm bảo chất lượng đối với họ còn rất xa lạ, đối phó. Trong khi đó, để đảm bảo chất lượng và thoả mãn khách hàng, trước hết cần đổi mới nhận thức và năng lực của cả đội ngũ cán bộ, nhân viên trong toàn doanh nghiệp. Lãnh đạo cần thấy rõ yếu tố quyết định trong hoạt động doanh nghiệp và hoạt động đảm bảo chất lượng là yếu tố con người. Việc đào tạo, giáo dục con người có kiến thức, có kỹ năng, có tinh thần trách nhiệm và ý thức bảo vệ người tiêu dùng phải được xác định là chiến lược trọng tâm và lâu dài của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư nâng cấp điều kiện sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc đào tạo huấn luyện con người có trình độ, kỹ năng, có ý thức trách nhiệm, tác phong làm việc tốt, cần chú ý cân đối việc đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, nhà xưởng, quy trình công nghệ một cách tương xứng. Con người được giáo dục và đào tạo cần phải được tạo điều kiện, cần có môi trường làm việc tốt để họ có thể phát huy phẩm chất và năng lực của mình. Vì vậy, song song với việc đào tạo huấn luyện con người, doanh nghiệp cần từng bước nâng cấp, đảm bảo đầy đủ điều kiện vật chất, kỹ thuật sản xuất từ kho tàng, nhà xưởng, bến bãi, dụng cụ, thiết bị đến công nghệ, kỹ thuật hiện đại để con người phát huy tốt nhất năng lực của mình để đảm bảo và cải tiến chất lượng. Đặc biệt, doanh nghiệp cần chú trọng các điều kiện đảm bảo vệ sinh, an toàn trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh thực phẩm, các điều kiện kiểm tra, kiểm soát, tranh được sự lây nhiễm bẩn, lây bệnh làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng của người tiêu dùng.
Tăng cường việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và hệ thống kiểm soát vệ sinh an toàn trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuỷ sản. Một trong những giải pháp phát triển bền vững đối với các doanh nghiệp là áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình sản xuất chế biến thực phẩm như HACCP, SQF1000, SQF2000, ISO - 14000 về quản lý môi trường và các giải pháp khác. Với việc áp dụng các mô hình quản lý chất lượng này, doanh nghiệp có điều kiện kiểm soát toàn diện quá trình hình thành chất lượng và các yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm, phát hiện và điều quan trọng là ngăn ngừa các mối nguy hại tiềm ẩn đối với sức khoẻ của người tiêu dùng. Bảo vệ người tiêu dùng và đời sống dân sinh của cộng đồng bằng chính sản phẩm chất lượng và an toàn.
Chú trọng kiểm soát nguyên liệu đầu vào. Doanh nghiệp thực phẩm nên chủ động kiểm soát chất lượng nguyên liệu đầu vào thông qua việc hỗ trợ, giúp đỡ những người nuôi trồng thuỷ sản về chọn giống, thuốc chữa bệnh và thức ăn cho nuôi trồng. Chủ động tăng cường hoạt động đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm trong sản xuất của đơn vị, đặc biệt là kiểm soát dư lượng hoá chất kháng sinh trong từng lô nguyên liệu thuỷ sản nhận vào nhà máy. Thực hiện nghiêm việc kiểm tra tra dư lượng, hóa chất kháng sinh đối với 100% số lô hàng thủy sản nhập khẩu để chế biến: chấp hành nghiêm túc các quy định về ghi mã số lô hàng, thực hiện kiểm tra đủ các chỉ tiêu chất lượng bắt buộc phải kiểm tra theo yêu cầu của từng thị trường. Mặt khác, doanh nghiệp có thể hỗ trợ một phần vốn sản xuất, kinh doanh để các cơ sở cung ứng có điều kiện tốt hơn trong việc phối hợp cùng doanh nghiệp đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào và đảm bảo chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Tăng cường hoạt động giới thiệu, hướng dẫn, giáo dục khách hàng và người tiêu dùng giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài các giải pháp thực hiện trong khuôn khổ của tổ chức mình, doanh nghiêp cần tăng cường các mối quan hệ với khách hàng và mở rộng liên kết với các bên có liên quan để hỗ trợ việc đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Doanh nghiệp có thể phối hợp cùng các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc tổ chức các chương trình, các hoạt động phong phú nhằm hướng dẫn, giáo dục người tiêu dùng có thêm những hiểu biết và khả năng phòng tránh việc sử dụng thực phẩm kém an toàn. Thông qua các chương trình quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, hội nghị khách hàng, doanh nghiệp có thể cung cấp những thông tin và kiến thức cần thiết để nâng cao hiểu biết, ý thức và trách nhiệm giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm từ phía người tiêu dùng. Đồng thời qua đó doanh nghiệp hình thành và phát triển các kênh thông tin nhiều chiều về mức độ thoả mãn khách hàng cũng như đảm bảo các yêu cầu vệ sinh, an toàn của thực phẩm để không ngừng đảm bảo chất lượng và phát triển kinh doanh.
Một số giải pháp trên đây cần được tiến hành đồng bộ cả từ phía nhà nước và từ các doanh nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ người tiêu dùng và phát triển kinh doanh một cách bền vững.
3.1.2. Giải pháp tiết kiệm năng lượng:
Tiết kiệm điện, nước và các yếu tố khác liên quan đến giảm giá thành sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thuỷ sản xuất khẩu. Bộ KH&CN, chương trình UNDP và Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) đang phối hợp triển khai áp dụng các giải pháp công nghệ tiết kiệm năng lượng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành chế biến thuỷ sản. Bằng các giải pháp điều chỉnh tối ưu lưu lượng nước cấp của hệ thống bơm, điều chỉnh lưu lượng hệ thống giải nhiệt giàn ngưng, cải tạo hệ thống chiếu sáng và đầu tư dây chuyền công nghệ sản xuất đá nhu cầu đá dùng trong sản xuất của các đơn vị sản xuất, chế biến thuỷ sản là rất lớn. Hầu hết các nhà máy chế biến thuỷ sản không thể thiếu một chiếc máy nghiền đá cây thành nhỏ. Chấp nhận sử dụng nó trong sản xuất, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp thuỷ sản chấp nhận tiêu tốn nhân công, nguồn năng lượng và chịu đựng ô nhiễm tiếng ồn công xưởng. Để khắc phục điều này, các doanh nghiệp thuỷ sản nên đầu tư mua một chiếc máy sản xuất đá vảy. Hệ thống sản xuất đá vảy tiện nghi hơn so với hệ thống sản xuất đá cây, chỉ với thời gian khoảng 1 giờ có thể có đá sử dụng chủ động sản xuất, bảo đảm vệ sinh, giải mức tiêu hao năng lượng . Một thực tế đang đặt ra với các doanh nghiệp Việt Nam mà nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là sức cạnh tranh thương trường để tồn tại và phát triển. Muốn nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, một trong những yếu tố quan trọng nhất là doanh nghiệp phải giảm được giá thành sản phẩm. Và một trong những phương pháp giảm giá thành sản phẩm chính là giảm chi phí tiêu hao năng lượng. Không chỉ nâng cao sức cạnh tranh, thu lợi mà các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp còn góp phần thực hiện chiến lược quốc gia về sử dụng hiệu quả và hết kiệm năng lượng. Với phương pháp cải tiến công nghệ thiết bị giản đơn, để triển khai thực hiện mà đầu tư ban đầu không quá cao, chỉ khoảng vài chục triệu đồng với thời gian thu hồi vốn nhanh, giải pháp công nghệ tiết kiệm năng lượng chắc chắn mang lại hiệu quả cao rõ rệt cho các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản.
3.1.3. Xây dựng chiến lược đa dạng hóa thị trường và đa dạng hoá sản phẩm.
Bài học từ hai vụ kiện cá tra, ba sa và tôm là cần đa dạng hóa sản phẩm và thị trường, giảm bớt lệ thuộc vào một thị trường, một sản phẩm, giảm rủi ro; nếu sản phẩm tốt, giá phải chăng, thì dù ở nơi nào, lúc nào, hàng thủy sản nước ta vẫn chiếm ưu thế. Bên cạnh việc tập trung vào các thị trường và sản phẩm chủ lực cần đa dạng hóa thị trường và mặt hàng để có thể chủ động phòng ngừa các biến động thường xuyên của thị trường không “dàn hàng ngang” đối với tất cả các sản phẩm thủy sản mà phải lựa chọn sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đặc trưng cho thương hiệu thủy sản Việt Nam tăng cường năng lực chế biến nhằm đa dạng hóa các mặt hàng thủy sản xuất khẩu đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm; Phương hướng của Việt Nam là giữ vững thị trường truyền thống, tăng nhanh tỷ trọng thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ và các thị tường thu nhập cao khác, mở rộng thêm các thị trường mới như Ucraina, Ai cập, Braxin… tập trung vào các sản phẩm đặc trưng cho thương hiệu thuỷ sản Việt Nam như tôm đông lạnh, cá tra cá basa…
Vì vậy để đa dạng hoá thị trường và đa dạng hoá sản phẩm trong thời gian tới cần phải:
- Đẩy mạnh phát triển theo chiều sâu gắn chặt với nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định bằng cách giải quyết sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu (đánh bắt, nuôi trồng...) và khu vực chế biến xuất khẩu thủy. Phát triển các loại hình sản xuất thủy sản sạch từ khâu con giống đến chế biến xuất khẩu, từ ao nuôi đến bàn ăn. Bảo đảm nguồn cung cấp nguyên liệu thủy sản sạch từ nuôi trồng và khai thác; chú trọng phát triển các vùng sản xuất nguyên liệu thủy sản ổn định, có khả năng cung cấp kịp thời nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động mở rộng thị trường với hoạt động ngoại giao.
- Thực hiện linh hoạt chính sách khuyến khích mở rộng thị trường phù hợp với những thay đổi của thị trường và pháp luật các nước nhập khẩu.
- Đổi mới công tác thông tin tiếp thị, áp dụng công nghệ thông tin, khuyến khích đa dạng hoá hoạt động thông tin ở cấp nhà nước và cấp doanh nghiệp, theo một tổ chức đồng bộ, thống nhất. với định hướng chiến lược chung và sách lược rõ ràng.
- Phát triển mạnh xuất khẩu tại chỗ phục vụ phát triển du lịch và thị trường tiêu thụ trong nước song song với thị trường nước ngoài.
- Phát triển xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản tươi sống, cá đông lạnh, đồ hộp, các mặt hàng giá trị gia tăng, các sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ.
- Phát triển xuất khẩu các sản phẩm từ cá và các đặc sản nước ngọt, phát triển sản xuất và xuất khẩu cá cảnh, tiến tới xuất khẩu các loại giống thuỷ sản và các chế phẩm sinh học có giá trị cao trong sinh học.
- Thành lập ngân hàng cổ phần thương mại thuỷ sản Việt Nam, nhằm huy đôngj vốn đóng góp của mọi thành phần kinh tế để thức đẩy và hỗ trợ cho phát triển sản xuất kinh doanh chế biến xuất khẩu thuỷ sản
- Thu hút và khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực thuỷ sản để có được nguồn vốn lớn và ổn định để xây dựng chiến lược đa dạng hoá thị trường và đa dạng hoá sản phẩm.
3.1.4. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản làm nguồn chính cung cấp nguyên liệu sạch cho chế biến xuất khẩu và tiêu dùng nội địa; đẩy mạnh cải tiến nghề nghiệp, công nghệ khai thác và bảo quản sau đánh bắt, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Ngành chủ trương nuôi thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa là một hướng đi quan trọng nhằm giảm dần khai thác vùng biển gần bờ và chủ động nguồn nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Theo đó, một số vùng sản xuất hàng hóa theo các nhóm sản phẩm chủ lực phục vụ xuất khẩu như tôm sú, cá tra, cá ba sa, tôm càng xanh với công nghệ nuôi mới, nuôi công nghiệp tuần hoàn khép kín không thay nước, sử dụng thức ăn công nghiệp, dần sử dụng các chế phẩm sinh học thay thế cho các hóa chất và thuốc phòng, chữa bệnh cho thủy sản dùng trong nuôi trồng có ảnh hưởng đến môi trường. Ngành thủy sản đang nỗ lực thực hiện nuôi sạch theo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh quốc tế (GAP, HACCP); áp dụng các công nghệ và phương pháp quản lý để loại bỏ việc dùng các hóa chất, thuốc kháng sinh bị cấm trong quá trình nuôi trồng thủy sản. Ðây được coi là một bước chuyển lớn của ngành thủy sản để bảo đảm yêu cầu vệ sinh thủy sản ngay từ khâu nguyên liệu.
3.2. Giải pháp đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm
Để tăng cường khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu chất lượng của hàng thủy sản xuất khẩu trong thời gian tới chúng ta cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
Tạo đột phá trong nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất giống chất lượng cao, kháng bệnh. Ưu tiên nhập công nghệ sản xuất giống và chế biến thuỷ sản các loại có giá trị cao để trang bị cho các xí nghiệp chế biến, tăng đối tượng phục vụ cho xuất khẩu. Tăng cường nghiên cứu và hướng dẫn để ứng dụng công nghệ mới trong chế biến thuỷ sản.
Thông qua các hình thức khuyến ngư, đa dạng hoá các hình thức chuyển tải thông tin, tuyên truyền và phổ biến kiến thức về công nghệ nuôi, khai thác, bảo quản và chế biến thuỷ sản, các kỹ thuật cơ bản về xử lý, bảo quản thuỷ sản cho các chủ tàu, ngư dân trực tiếp khai thác trên biển và các chủ nậu vừa thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Tăng cường các hình thức đào tạo trong và ngoài nước cho cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu và cán bộ về marketing, giỏi về nghiệp vụ và am hiểu về luật lệ và các chính sách kinh tế, thương mại của các nước và quốc tế để tăng cường và bổ sung đội ngũ các nhà doanh nghiệp kinh doanh thuỷ sản giổi trên thương trường quốc tế. Đồng thời chủ ý đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật, hướng dẫn nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng phát tiển của ngành. Phát triển hệ thống các trường đại học hiện có, nâng cao trình độ đào tạo và cơ sở vật chất của các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề thuỷ sản, đáp ứng yêu cầu đào tạo lao đọng theo những ngành nghề cần chú trọng. Tổ chức đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân ở các doanh nghiệp chế biến thủy sản. Đào tạo nghề phải hướng đến tạo lập được một đội ngũ cán bộ quản lý đầu ngành và công nhân lành nghề có khả năng tiếp thu nhanh khoa học công nghệ tiên tiến. Tổ chức các lớp về pháp luật và đào tạo hướng nghiệp.
Đổi mới kỹ thuật công nghệ và áp dụng các chương trình quản lý chất lượng quốc tế trong các khâu sản xuất thuỷ sản xuất khẩu nhằm nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu. Đầu tư cho đổi mới và cải tiến công nghệ trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản hiện có: cải tiến hệ thống thiết bị cấp đông block hiện có nhằm rút ngắn thời gian cấp đông trong chế biến hàng xuất khẩu sang các thị trường tái chế; đầu tư lắp đặt dây chuyền đông rời IQF để chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng, đáp ứng yêu cầu của các thị trường xuất khẩu cao cấp như Mỹ, EU, Nhật Bản… Xây dựng mới các trung tâm chế biến thủ sản lớn với công nghệ hiện đại, điều kiện sản xuất tiên tiến, gắn với các vùng nguyên liệu tập trung. Từng bước áp dụng các chương trình quản lý chất lượng theo HACCP trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu sang các thị trường lớn
3.3. Xây dựng thương hiệu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại và phát triển thị trường.
Xây dựng, phát triển thương hiệu trên thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản:
Trên thị trường quốc tế, các DN Việt Nam xuất khẩu mạnh các mặt hàng nông sản, thực phẩm chế biến, giày dép, quần áo, thủ công mỹ nghệ, thủy hải sản... với chất lượng ngày càng được nâng cao không hề thua kém các sản phẩm của các nước xuất khẩu lớn khác. Thế nhưng có một thực tế là 90% hàng Việt Nam do không thiết lập được thương hiệu độc quyền nên vẫn còn phải vào thị trường thế giới thông qua trung gian dưới dạng thô hoặc gia công cho các thương hiệu nổi tiếng của nước ngoài. Do đó, DN bị gánh chịu nhiều thua thiệt lớn và người tiêu dùng nước ngoài vẫn còn chưa có nhiều khái niệm về hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam.
Ngoài ra, các DN xuất khẩu lớn của Việt Nam cũng đang phải đối mặt với vấn đề bị các công ty nước ngoài ăn cắp hoặc nhái nhãn hiệu trên thị trường quốc tế. Trong những năm qua, các vụ tranh chấp thương hiệu đã liên tiếp xảy ra giữa các DN Việt Nam và các công ty của nước ngoài. Hàng loạt các thương hiệu lớn của Việt Nam đã lao đao vì bị mất cắp thương hiệu: Trung Nguyên ở thị trường Mỹ, Nhật; Petro Việt Nam, Vifon, Saigon Export, Việt Tiến.... ở thị trường Mỹ; Vinataba ở thị trường 12 nước Châu Á; Sa Giang ở thị trường Pháp, Biti’s ở Trung Quốc ... Cuộc chiến thương hiệu luôn đi kèm với những rắc rối về kiện tụng, mất mát nhiều thời gian và tiền bạc, dù được hay thua cũng đều gây ra những tổn thất rất lớn cho DN
Để giải quyết bài toán thương hiệu một cách hiệu quả, DN cần phải có chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu theo mô hình riêng phù hợp với DN mình. Những vấn đề cần làm chủ yếu là:
- Cần có nhận thức đúng và đầy đủ về thương hiệu trong toàn thể cán bộ lãnh đạo và nhân viên trong DN để có thể đề ra và thực thi được một chiến lược thương hiệu trên các mặt: xây dựng, bảo vệ, quảng bá và phát triển thương hiệu. Chiến lược thương hiệu này phải xuất phát từ việc nghiên cứu thị trường, xác định đối tượng khách hàng mục tiêu, từ đó thiết kế và định vị thương hiệu cho sản phẩm trong một chiến lược marketing tổng thể nhằm tác động tích cực tới nhận thức của đối tượng tiêu dùng trong và ngoài nước, tạo dựng một phong cách đặc biệt và vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
- Doanh nghiệp phải thực hiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm trong nước và trên thị trường quốc tế kết hợp với việc quản lý chặt chẽ thương hiệu, đảm bảo uy tín và hình ảnh của thương hiệu không ngừng được nâng cao.
- Vấn đề cốt lõi trong việc giữ gìn và phát triển thương hiệu bền vững là phải kết hợp hoàn hảo giữa chiến lược thương hiệu với chiến lược sản phẩm và phân phối sản phẩm của DN. Thương hiệu là hình ảnh của sản phẩm và chất lượng của hình ảnh này chính là phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm của DN. DN phải xây dựng được uy tín và hình ảnh thương hiệu bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ chăm sóc khách hàng, xây dựng mạng lưới phân phối, đưa thương hiệu đến với người tiêu dùng. Đồng thời quảng bá thương hiệu, thông tin sản phẩm, thuyết phục người tiêu dùng một cách có hiệu quả và không ngừng đầu tư vào nghiên cứu phát triển, tạo sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
- Xây dựng và phát triển thương hiệu cũng không chỉ là vấn đề của riêng DN, các chính sách và hỗ trợ của Nhà nước về phát triển thương hiệu cũng giữ vai trò hết sức quan trọng. Chính phủ và các bộ, ngành, hiệp hội, DN, các nhà tư vấn chuyên nghiệp... đẩy mạnh phổ biến kiến thức về thương hiệu trong cộng đồng DN và phát động phong trào xây dựng thương hiệu trong cộng đồng DN cả nước. Nhà nước đang xây dựng các chính sách hỗ trợ DN về phát triển thương hiệu và từng bước tiến hành quảng bá một số thương hiệu quốc gia ra thị trường nước ngoài. DN cần tranh thủ sự trợ giúp từ phía Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách phục vụ cho việc phát triển thương hiệu, các chương trình tuyên truyền, nâng cao nhận thức về thương hiệu, sự giúp đỡ của các cơ quan Nhà nước trong việc tăng cường năng lực kinh doanh, năng lực quản lý và xây dựng thương hiệu, tăng cường cơ chế thực thi bảo hộ thương hiệu, các biện pháp chống hàng giả, hàng nhái…
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và phát triển thị trường: để đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và phát triển thị trường, cần tiến hành thực hiện các vấn đề sau:
Xây dựng hệ thống thông tin một cách có hiệu quả từ nhiều kênh khác nhau như: thu thập tại bàn, từ Internet, từ các thương vụ, cử đại diện ra nước ngoài… làm tốt công tác dự báo về cung, cầu, giá cả phục vụ cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế. Đa dạng hoá thị trường tránh việc lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường, phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Đẩy mạnh công tác quảng cáo, tiếp thị hướng dẫn tiêu dùng, tích cực tham gia vào các hội chợ quốc tế nhằm quảng bá sản phẩm ký kết được nhiều hợp đồng kinh doanh.
Các doanh nghiệp phải xây dựng bộ phận marketing bao gồm các cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm trong nghiên cứu tình hình từng thị trường cụ thể trên cơ sở đó hoạch định được chiến lược kinh doanh từ khâu đảm bảo nguyên liệu sản xuất đến đầu tư chế biến nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường, của khách hàng.
Đầu tư nghiên cứu tiếp tục mở rộng các thị trường trọng điểm EU, Nhật Bản, Mỹ… khi thuỷ sản của Việt Nam đã có vị trí vững chắc tại các thị trường này thì việc mở rộng và phát triển thương mại thuỷ sản tại các thị trường khác sẽ không quá khó khăn.
Xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hoá, giảm dần tỷ trọng các thị trường trung gian và tăng tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp sản phẩm xuất khảu của Việt Nam, tăng tính chủ động trong phát triển thị trường tiêu thụ nội địa. Khuyến khích thành lập các cơ quan hỗ trợ phát triển thị trường cho các doanh nghiệp thuỷ sản.
3.4. Các biện pháp đảm bảo phát triển thuỷ sản bền vững
Để đảm bảo nguồn nguyên liệu lâu dài cho xuất khẩu thuỷ sản thì vấn đề cấn thiết là phải hướng tới phát triển bền vững nguồn lợi thuỷ sản và tài nguyên thiên nhiên ven bờ. Nguồn tài nguyên có phong phú đến đâu nhưng nếu cứ khai thác tràn lan, không có biện pháp bảo vệ và tái tạo thì cuối cùng cũng cạn kiệt. Muốn vậy, cần thực hiện một số nguyên tắc sau: Bảo đảm cân bằng, sử dụng hợp lý và bảo vệ các hệ sinh thái quan trọng đối với phát triển hệ ngành kinh tế thuỷ sản. Coi trọng phục hồi và bảo tồn các nguồn lợi thuỷ sản; ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong tất cả các khâu của quá trình phát tỉển và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, mở rộng nuôi thâm canh, năng suất cao; nâng cao nhận thức của cộng đồng, lôi cuốn cộng đồng tham gia vào sử dụng và quản lý hiệu quả nguồn lợi thuỷ sản; tăng cường thể chế và chính sách quản lý hiệu quả và bền vững ngành. Lồng ghép các cân nhắc môi trường vào trong các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của ngành; bảo đảm vệ sinh môi trường trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất thuỷ sản.
Bên cạnh việc thực hiện một số nguyên tắc nêu trên, chúng ta còn phải thực hiện tốt các vấn đề sau:
- Thực hiện tốt chương trình đánh bắt xa bờ: đánh bắt cá xa bờ làm một hình thức kiểm soát khai thác nguồn lợi thuỷ sản hợp lý. Vì vậy cần phải thực hiện tốt các vấn đề sau:
Chú trọng phát triển và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản của khu vực và cả nước. Đồng thời, tăng cường điều tra nguồn lợi ở các vùng xa bờ và với các loại cá di cư nhằm nắm vững trữ lượng cho phép khai thác, điều kiện môi trường, của vụ khai thác của các ngư trường… trên cơ sở đó quy định hạn mức cường lực khai thác cho mỗi địa phương, xác định rõ chủng loại, cơ cấu đội tàu và công nghệ khai thác thích hợp cho nghề khởi để tránh hiện tượng đầu tư, khai thác quá mức nguồn lợi thuỷ sản. Tiến hành đánh bắt thuỷ sản theo mùa vụ, địa điểm, loại ngư cụ được quy định cụ thể của từng địa phương, nghiêm cấm sử dụng các hình thức khai thác có tính huỷ diệt như xung điện, đánh mình, hoá chất độc… Hỗ trợ xây dựng các khu bảo tồn biển, các bãi rạn nhân tạo, lắp đặt các thiết bị dụ cá, tạo các vùng cư trú có tính chiến lược cho các loài giống thuỷ sản. thả giống một số giống loài ra vùng biển, cơ cấu lại lực lượng khai thác ven bờ một các hợp lý, đồng thời chuyển dần sang canh tác trên vùng biển ven bờ, vừa khai thác, vừa nuôi. Xây dựng các quy hoạch chi tiết về các khu vực nuôi trồng thuỷ sản sinh thái cảu miền Trung, ban hành và thực hiện các tiêu chuẩn về vùng nuôi an toàn, quy trình nuôi sạch nhằm đảm bảo hiệu quả môi trường nuôi thuỷ sản bền vững, hạn chế dịch bệnh và sản xuất có hiệu quả.
- Duy trì đa dạng sinh học cho sự phát triển bền vững của ngành thuỷ sản.
Đa dạng sinh học là cơ sở của nguồn lợi và có vai trò duy trì nguồn lợi ở trạng thái cân bằgn. Khai thác không hợp lý các đối tượng có giá trị, đương nhiên gây nên sự mất cân bằng đó và dẫn đến việc thất thoát nguồn lợi gen và diệt vong của tất cả các loài, kéo theo sự suy giảm nguồn lợi. Do đó, để duy trì đa dạng sinh học và phát triển nguồn lợi cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
Trước hết là bảo vệ các quẩn thể, các loài đang có nguy cơ bị đe doạ diệt vong bằng cách nghiêm cấm khai thác chúng trên cơ sở pháp luật, bao gồm cả các biện pháp hành chính và kinh tế. Đã đến lúc chúng ta cần tạo nên cơ sở gây nuôi, sản xuất giống trong các trại thực nghiệm hay bán tự nhiên nhằm khôi phục số lượng các quần thể và để “làm giàu” cho sông hồ và biển đối với những đối tượng đang có xu hướng cạn kiệt.
Biện pháp hữu hiệu nhất để bảo tồn và phát triển của loài là duy trì và bảo vệ chính nơi ở và hệ sinh thái mà loài đó là một đơn vị cấu thành. Bảo vệ nơi sống và hệ sinh thái bằng cách không gây ra xao động, không thu hẹp và huỷ hoại chúng, nhất là các hệ sinh thái điển hình. Việc xây dựng các vùng bảo vệ, vườn quốc gia trên biển đang trở thành nhiệm vụ bức xúc hiện nay.
Trước mắt cần thiết lập vùng cấm đánh bắt hoàn toàn hay theo mùa hco vùng nước nông ven bờ biển, các sông suối là đường di cư sinh sản hay bãi đẻ của các đối tượng thuỷ sản có giá trị.
Quản lý chặt chẽ việc phóng thải các chất thải rắn, thỉa lỏng của các cơ sở công nghiệp, du lịch và dân sinh ven sông, ven biển nhằm giảm thiểu mức ô nhiễm vực nước.
Vùng đất ngập nước nói chung hay ven biển nói riêng là địa bàn tranh chấp của nhiều lĩnh vực kinh tế, do đó lợi ích của ngành này thường mâu thuẫn với lợi ích của các ngành khác, lợi ích trước mắt của mỗi ngành mâu thuẫn với lợi ích lâu dài của toàn vùng. Để bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển kinh tế lâu bền, việc quy hoạch tổng thể cho sự phát triển của vùng phải được thiết lập dưới sự quản lý trực tiếp của trung ương hoặc cấp vùng, đủ thẩm quyền và năng lực điều phối hoạt động của các thành phần kinh tế.
Cần phải nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học, nguồn lợi và môi trường cũng như về pháp luật cho cộng đồng dân cư, Hiện tại pháp luật, chính sách… và sự nhận thức của người dân còn có khoảng cách khá lớn, trong khi đời sống thường nhật của họ còn gặp khó khăn. Giảm thiểu mức gia tăng dân số, giải quyết tốt công ăn việc làm nhằm xoá đói giảm nghèo trong các cộng đồng dân cư ven biển sẽ là điều kiện quyết định để đưa họ tham gia trực tiếp vào công tác quản lý đa dạng nguồn tài nguyên và môi trường.
3.5. Hoàn thiện cơ chế quản lý ngành
Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới thật sự tổ chức bộ máy và đổi mới phương thức quản lý Nhà nước đối với sản xuất kinh doanh của ngành thủy sản.
Cần sớm hoàn thành và thông qua Luật Thuỷ sản nhằm ổn định môi trường kinh doanh, cũng như tạo cơ sở để thực hiện kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh thuỷ sản từ khai thác, nuôi trồng đến chế biến thương mại… từ đó có những biện pháp xử lý đối với những tình trạng vi phạm pháp luật, đặc biệt là việc khai thác vừa bãi nguồn tài nguyên môi trường.
Xây dựng cơ chế phối hợp về quản lý và chỉ đạo thống nhất giữa Bộ Thuỷ sản và các địa phương trong việc thực hiện nuôi trồng thuỷ sản theo dung quy hoạch và các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản với chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, chương trình khai thác hải sản xa bờ giữa các chương tình với các hoạt động khác của ngành có tầm quan trọng trong kinh tế xã hội và quản lý môi trường nguồn lợi.
Tăng cường công tác quản lý kiểm tra, giám sát việc thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm nhằm đáp ứng các yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm, tránh dư lượng kháng sinh và đồng đều về chất lượng ngay từ khâu sản xuất nguyên liệu đến thu mua bảo quản và chế biến xuất khẩu. Tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản từ Trung ương đến địa phương.
Phát huy năng lực các tổ chức xã hôi nghề nghiệp (Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, Hội Nghề cá Việt Nam) và xây dựng các tổ chức quần chúng, xã hội nghề nghiệp này vững mạnh ở những địa phương trọng điểm có nghề cá phát triển. Tạo mọi điều kiện để các tổ chức này tham gia thực hiện chương trình, đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản. Xây dụng các quy chế phối hợp giữa Bộ và hai hội nhằm phát huy cao nhất vai trò của các tổ chức quần chúng trong quản lý và phát triển ngành cho phù hợp với yêu cầu đổi mới và hội nhập.
Kết luận
Có thể nói quá trình gia nhập vào WTO của Việt Nam nói chung và của ngành thuỷ sản nói riêng là một sự kiện vô cùng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế Việt Nam. Tham gia vào tổ chức thương mại thế giới là cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu thuỷ sảnViệt Nam tăng trưởng mạnh. Hiện nay, sản phẩm thuỷ sản nước ta đã có mặt trên 160 quốc gia trên thế giới và Việt Nam hiện đứng thứ 6 trong Top 10 quốc gia xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng khiến cho sản phẩm xuất khẩu của ta phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn nữa như các vấn đề về an toàn vệ sinh thực phẩm, các tiêu chuẩn về kỹ thuật thương mại, về thương hiệu, về giá cả, chất lượng sản phẩm… Chính những khó khăn này đòi hỏi các Doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cần nỗ lực hoàn thiện mình hơn nữa bằng việc đưa ra thị trường các sản phẩm có chất lượng cao đảm bảo vệ sinh, hoàn thiện hơn về chiến lược kinh doanh để có hướng đi đúng đắn gây dựng được thương hiệu sản phẩm, tạo được uy tín đối với người tiêu dung trong và ngoài nước.
Bài viết đã phân tích tác động của gia nhập WTO ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản đồng thời đưa ra một số các giải pháp để tận dụng cơ hội và hạn chế khó khăn nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Hy vọng các giải pháp đưa ra sẽ tạo được động lực giúp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản nước ta ngày càng phát triển.
Song, khi tham gia vào tổ chức thương mại quốc tế để có thể đứng vững và phát triển được thì không chỉ dựa vào sự cố gắng của một cá nhân hay một doanh nghiệp mà là sự chung tay góp sức của chính phủ, các ban ngành, các bộ, các hiệp hội …để tạo ra một khối đoàn kết cùng hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thu thập tài liệu cũng như viết bài nhưng do chưa có nhiều kinh nghiện thực tiễn và thời gian nghiên cứu có hạn, vì vậy, bài viết của em không tránh được những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo để bài viết của em đựoc tốt hơn.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ThS. Đặng Thị Lệ Xuân và chú Hoàng Văn Thành (phó trưởng ban Kinh tế Vĩ mô) đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Danh mục tài liệu tham khảo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư “ Đánh giá tác động của 5 năm triển khai hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ đối với thương mại, đầu tư và cơ cấu kinh tế của Việt Nam”, 2007, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia”
Bộ Kế hoạch và Đầu tư “Tác động hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ”, 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Bộ Tài chính Mỹ - Tổng cục Hải Quan “ Xuất khẩu sang thị trường Mỹ”, 2002
Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (Mutrap II), “Hướng dẫn đàm phán các thoả thuận thừa nhận lẫn nhau đối với hàng hoá nông sản các quy định của WTO về tương đương và công nhận tiêu chuẩn lẫn nhau”, 2008, Nhà xuất bản lao động – xã hội.
Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (Mutrap II), “Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới – giải thích các điều kiện gia nhập”, 2008, Nhà xuất bản lao động - xã hội.
Nguyễn Vinh Thanh, “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, 2005
PGS. TS. Nguyễn Chu Hồi, “Cơ hội và thách thức của ngành thuỷ sản khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại Thế giới”
Uỷ ban Quôc gia về hợp tác kinh tế Quốc tế “ Các văn kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO của Việt Nam”, 2007
Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế “Tổng quan các vấn đề về tự do hoá thương mại dịch vụ”, 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Một số các trang Web:
-
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21444.doc