Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô gồm nhiều yếu tố, bao trùm lên toàn bộ hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thâm hụt cán cân thanh toán, chính sách tỷ giá. Chúng có tác động to lớn đến hoạt động kinh doanh nói chung và công tác huy động tiền gửi của NH nói riêng. Để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần có những việc làm cụ thể sau:
- Phối hợp với các cơ quan chức năng của mình đảm bảo điều tiết một nền kinh tế phát triển ổn định, tránh các đột biến làm giảm bất thường giá trị đồng tiền, đặc biệt là các khoản tiền gửi tại NH, dù là dưới hình thức nào.
- Mặt khác, thông qua việc ổn định giá trị đồng tiền để xác định tỷ giá hợp lý nhằm giảm thiểu hiện tượng đầu cơ ngoại tệ. Kết quả là thu hẹp phạm vi hoạt động của ngoại tệ, mở rộng phạm vi lưu hành VND góp phần vào việc kiềm chế lạm phát một cách hiệu quả và chính xác, xây dựng lãi suất phù hợp và giữ vững ổn định tiền tệ.
Tạo lập môi trường pháp lý ổn định.
Hoạt động của NHTM vẫn nằm trong môi trường pháp lý do Nhà nước quy định, chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật về kinh doanh NH; Đòi hỏi Nhà nước phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của mình xây dựng được môi trường pháp lý ổn định. Việc ban hành một hệ thống pháp lý đồng bộ và rõ ràng không chỉ tạo niềm tin cho dân chúng mà những quy định, khuyến khích của nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh tiêu dùng và tiết kiệm, chuyển một bộ phận tiêu dùng chưa cần thiết sang đầu tư, chuyển dần tài sản cất giữ từ vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh hoặc gửi tiền vào NH.
Ngày nay chúng ta đang tiếp tục phát triển nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường, tiến tới giảm bớt sự can thiệp quá sâu của các cơ quan nhà nước vào hoạt động của các NHTM. Hệ thống NH với vai trò là mạch máu của nền kinh tế do đó giữ cho hệ thống NH hoạt động một cách hài hoà, ổn định là điều kiện cần thiết. Vì vậy nhà nước cần ban hành một hệ thống pháp luật vừa thống nhất, vừa đầy đủ tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động một cách lành mạnh, đạt hiệu quả cao.
Về môi trường xã hội
Ở nước ta hiện nay, công tác huy động tiền gửi của các NHTM vẫn bị hạn chế, do ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý của người dân, đặc biệt thói quen giữ tiền ở nhà, mua vàng tích trữ. Chính phủ cần có các biện pháp tuyên truyên nhằm khuyến khích động viên người dân gửi tiền và chi tiêu qua tài khoản mở tại NH, nên có quyết định bắt buộc các cán bộ thuộc cơ quan Nhà nước phải mở tài khoản và sẽ được trả lương qua tài khoản đó. để có thể thu hút được một lượng lớn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào NH. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn nâng cao đời sống và thu nhập của người dân để họ có thể tăng tích luỹ và sẽ gửi tiền vào NH ngày càng nhiều hơn.
83 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1990 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường huy động tiền gửi khách hàng của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân hàng, tổ chức tín dụng khác trong việc huy động tiền gửi. Thêm vào đó, các kênh huy động khác ngoài ngân hàng như các công ty bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm bưu điện, trái phiếu kho bạc, đầu tư chứng khoán …cũng ảnh hưởng đáng kể đến lượng tiền gửi huy động vào ngân hàng. Điều này có thể thấy rõ trong những tháng đầu năm 2008, chưa bao giờ cơn khát vốn của các NH lại trở nên gay cấn như lúc này, để lôi kéo khách hàng về phía mình, các NH đã không ngại tạo ra những cuộc đua “siêu lãi suất” trên thị trường, có khi cao hơn lãi suất cơ bản do Thống đốc NH nhà nước Việt Nam quyết định và giảm lãi suất tín dụng xuống dưới mặt bằng lãi suất chung.
Do điều kiện kinh tế chưa phát triển, thu nhập dân cư nhìn chung còn thấp, tích lũy chưa nhiều, bên cạnh đó, hiểu biết về hoạt động NH của người dân còn ít cũng là một hạn chế lớn cho hoạt động huy động tiền gửi của NH. Đặc biệt, tâm lý ưa dùng tiền mặt của người dân Việt Nam cũng có tác động không nhỏ tới hoạt động huy động của NH. Cụ thể, ở một số ngành như điện, nước, bưu điện, thuế, hải quan, xăng dầu... có số thu bằng tiền mặt lớn, nhưng chưa sẵn sàng chấp nhận các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, chưa thật sự tạo điều kiện cần thiết cho các dịch vụ thanh toán qua tài khoản cá nhân mở tại các ngân hàng, mà vẫn còn thu tiền mặt là chủ yếu. Một số khách hàng chưa thật sự tin vào NH. Có một bộ phận nhỏ trong dân chúng vẫn chưa quen với các hoạt động cũng như sử dụng các tiện ích của NH, tâm lý lo sợ tiền mất giá …khiến họ vẫn ngần ngại trong việc gửi tiền vào NH.
è Tóm lại, trong những năm qua, NH TMCP Nhà Hà Nội đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện các nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng…Với sự nỗ lực của Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên, NH đã đạt được những thành tích trong công tác huy động vốn, đặc biệt là huy động tiền gửi khách hàng. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, NH vẫn còn tồn tại hạn chế xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy, để tăng quy mô và bảo đảm cơ cấu nguồn tiền gửi huy động ổn định và vững chắc, NH cần phải nghiên cứu để đưa ra các biện pháp thiết thực, có tính khả thi cao, được phối hợp đồng bộ nhằm phát huy những thành tựu đạt được, đồng thời khắc phục những khó khăn, tồn tại tạo điều kiện cho sự phát triển an toàn và hiệu quả.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI KHÁCH HÀNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NHÀ HÀ NỘI
3.1. Định hướng đối với vấn đề huy động tiền gửi khách hàng tại NH trong thời gian tới
3.1.1. Nhiệm vụ các NH cần thực hiện trong thời gian tới
Hội nghị triển khai nhiệm vụ NH năm 2009 được tổ chức vào ngày 30/12/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ rõ những nhiệm vụ trọng tâm của ngành trong năm 2009 là:
Hệ thống NH, chính sách tiền tệ đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Ngành NH cần phải tham mưu đưa ra chính sách thích hợp để chống suy giảm kinh tế, kích cầu đầu tư. Điều này thực sự quan trọng trong bối cảnh NH hiện vẫn là một kênh dẫn vốn chủ yếu của nền kinh tế. Đồng thời bên cạnh việc dự báo, phân tích, đánh giá, nắm chắc tình hình để chủ động điều hành tham mưu thực hiện các mục tiêu đề ra, các NH cần phải huy động tổng hợp sức mạnh toàn ngành để thực hiện có hiệu quả, đoàn kết chung sức vì mục tiêu chung.
Điều hành lãi suất, tỷ giá linh hoạt hiệu quả để góp phần giữ ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống, đảm bảo khả năng thanh khoản của hệ thống NH nhưng đồng thời cũng phải đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế.
Phát huy những kết quả đạt được, lành mạnh hơn nữa hệ thống NH cả về năng lực tài chính, nâng cao chất lượng tín dụng, đổi mới hiện đại hóa công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao năng lực quản trị điều hành. Đặc biệt các NH cần có sự quan tâm đúng mức và không được chủ quan đối với vấn đề nợ xấu sẽ có chiều hướng gia tăng trong thời gian tới.
Hoàn thiện hệ thống thể chế về tiền tệ và NH, tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát đảm bảo hoạt động của hệ thống NH an toàn, hiệu quả, linh hoạt hơn, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Đồng thời, tăng cường năng lực quản lí của NHNN và đắp ứng yêu cầu đổi mới hoạt động NH trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Cánh cửa hội nhập đã thực sự được mở, đó là xu hướng tất yếu của nền kinh tế, là điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn cùng với công nghệ tiên tiến. Giai đoạn từ nay đến năm 2010, Việt Nam tiếp tục mở cửa dịch vụ NH, thực hiện các cam kết chung trong hiệp định thương mại Việt - Mỹ, hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO theo hướng thực hiện các hiệp định song phương đã ký kết với các nước thành viên WTO. Như vậy, hệ thống NH phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện môi trường pháp lý phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tiến tới xóa bỏ hàng rào ngăn cách tài chính giữa Việt Nam và Mỹ thông qua những bước đi cụ thể.
3.1.2. Mục tiêu phương hướng chung của NH TMCP Nhà Hà Nội
Định hướng chiến lược chung xuyên suốt trong những năm qua của NH TMCP Nhà Hà Nội là phát triển thành NH đa năng, tập trung phát triển hoạt động NH bán lẻ. Đồng thời, HABUBANK cũng luôn hướng tới mục tiêu trở thành một trong ba NH được tín nhiệm nhất Việt Nam về quản lý, môi trường làm việc, văn hóa doanh nghiệp chú trọng khách hàng, thúc đẩy, hợp tác sáng tạo và linh hoạt khi môi trường kinh doanh thay đổi nhằm duy trì sự hài lòng và gắn bó của khách hàng đối với HABUBANK. Để thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài trên, HABUBANK đã xác định cho mình đinh hướng phát triển trong năm 2009 như sau:
Xây dựng chiến lược kinh doanh và chiến lược quản trị theo thông lệ quốc tế, rút kinh nghiệm từ cuối năm 2008 và đầu năm 2009 để trước mắt giữ an toàn hoạt động, sau đó là để phát triển vững mạnh.
Tiếp tục cơ cấu lại và thực hiện các biện pháp tăng vốn điều lệ theo quy định của chính phủ, tiến dần đến việc trở thành NH ngang tầm khu vực.
Chủ động tiếp cận các thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực quản trị rủi rủ, song song với việc khẩn trương hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Tiếp tục phát triển sản phẩm dịch vụ NH mới , hiện đại hóa công nghệ NH và phát triển nguồn nhân lực. Đây sẽ là cơ sở để HABUBANK tiếp tụ chiến khai các bước chiến lược đã được hoạch định.
Trong thời gian tới, HABUBANK tiếp tục tập trung thực hiện các chương trình lớn và các giải pháp chủ yếu sau:
Dịch vụ NH đồng bộ phục vụ các doanh nghiệp tập trung tại Hội sở và chi nhánh HCM: hoàn thiện cơ cấu hệ thống NH bán buôn tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh với trọng tâm cung cấp các sản phẩm dịch vụ NH cho các đối tượng doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổ chức tài chính, tiền tệ hoạt động trên thị trường tiền tệ liên NH và trên thị trường vốn dài hạn.
Quản trị tập trung và tối ưu hóa nguồn vốn, kết hợp với việc đẩy mạnh hoạt động trên thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế tập trung tại Hội sở.
Cấu trúc NH bán lẻ tại chi nhánh và phòng giao dịch tập trung tại các khu đô thị lớn: Tổ chức hệ thống NH bán lẻ tại một số đô thị lớn với trọng tâm cung cấp các sản phẩm huy động và sử dụng vốn, dịch vụ NH cho các đối tượng dân cư, kinh tế các thể và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tin học hóa các quy trình kinh doanh và quản lý NH.
Củng cố và mở rộng mạng lưới chi nhánh và các phòng giao dịch tại Hà Nội, Hồ Chí Minh. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đảm bảo cả về chất và lượng đáp ứng nhu cầu nhân sự của hệ thống HABUBANK mở rộng trong các năm tới.
Trên cơ sở phân tích, dự báo tình hình thị trường cũng như hoạt động của ngành NH trong năm 2009, HABUBANK đã đưa ra một số chỉ tiêu kế hoạch:
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kế hoạch trong năm 2009
Chỉ tiêu
Tăng trưởng
Tổng tài sản
30 – 40 %
Vốn điều lệ
50 – 70%
Tổng vốn huy động
10 – 20%
Tổng dư nợ
10 – 15%
Tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn/Tổng dư nợ
10 – 15%
Tỷ lệ nợ quá hạn
< 2%
Nguồn: Báo cáo thường niên HABUBANK 2008
Bước sang năm 2009 với rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế quốc tế với các biến động bất thường của thị trường trong nước và quốc tế, với trải nghiệm của 20 năm hoạt động, HABUBANK đang dần từng bước xây dựng hệ thống của mình vững mạnh trở thành chỗ dựa tin cậy của khách hàng, là người bạn đồng hành cùng doanh nghiệp, là kênh dẫn nhập vốn hàng đầu nhằm phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu vốn theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
3.1.3. Định hướng cho hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của NH TMCP Nhà Hà Nội
Với nền kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng của tình hình kinh tế trên thế giới có nhiều biến động trong một vài năm qua làm cho hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang gặp khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu chững lại, thì việc tăng cường khai thác nguồn nội lực từ bên trong là một giải pháp hết sức cần thiết và cấp bách, để tiếp tục giữ vững được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã đạt được trong nhiều năm qua.
Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển hoạt động, trong những năm tới NH đặc biệt quan tâm đẩy mạnh công tác nguồn vốn: cố gắng duy trì và tăng trưởng nguồn vốn hiện có, chủ động nghiên cứu thị trường để có phương án mới hợp lý hơn, đặc biệt là trong công tác huy động tiền gửi dân cư. “Tạo vốn thông qua các nghiệp vụ thanh toán” là hình thức huy động vốn hiệu quả nhất, bởi không chỉ có chi phí trả lãi thấp mà còn mang lại nguồn thu dịch vụ đáng kể cho NH.
Đồng thời, thực hiện xây dựng chiến lược huy động vốn phải luôn đi đôi với chiến lược sử dụng vốn, nếu không sẽ gây áp lực lớn về chi phí và làm giảm hiệu quả hoạt động huy động vốn. Do vậy, NH cần bám sát định hướng chiến lược hoạt động của ngành, tích cực mở rộng các hình thức huy động vốn và đầu tư tín dụng nhằm nâng cao hệ số sử dụng vốn. Cố gắng tạo mối quan hệ huy động - sử dụng vốn chặt chẽ đối với các thành phần kinh tế, các ngành nghề trọng điểm được Nhà nước chú trọng phát triển cũng như không ngừng củng cố các đơn vị khách hàng truyền thống của NH.
3.2. Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi khách hàng tại NH TMCP Nhà Hà Nội
Theo yêu cầu của hội nhập, Việt Nam sẽ phải nới lỏng quyền tiếp cận thị trường và hạn chế về hoạt động cho các NH nước ngoài. Như vậy đến năm 2010, các NH nước ngoài được bỏ dần các ràng buộc trong khi họ mạnh về cả vốn lẫn khoa học kĩ thuật công nghệ, mạnh cả về kinh nghiệm. Điều này khiến cho hoạt động huy động tiền gửi đã khó khăn càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Do đó, các NHTM đều phải tìm cách tăng cường huy động tiền gửi để đáp ứng nhu cầu vốn vay, mở rộng triển khai các dịch vụ mới, áp dụng công nghệ NH nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng, tăng sức cạnh tranh khi đất nước mở cửa sâu rộng thị trường tài chính – ngân hàng. Trước tình hình đó, NH TMCP Nhà Hà Nội phải có các biện pháp cụ thể, hiệu quả nhằm tăng cường khả năng huy động tiền gửi như:
Đa dạng hóa các hình thức huy động
Đây có thể coi là giải pháp trung tâm trong ngắn hạn để tăng cường huy động tiền gửi. Thật vậy, đối với hoạt động NH, đa dạng hoá là một trong những biện pháp tăng cường hiệu quả hoạt động và phân tán rủi ro. Đối với hoạt động huy động tiền gửi của NH, việc đa dạng hoá hình thức huy động tiền gửi sẽ giúp NH tăng cường hiệu quả huy động vì mỗi công cụ tiền gửi mà NH đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu cầu của các tổ chức kinh tế và dân cư trong việc tiết kiệm và thanh toán, tăng khả năng lựa chọn của khách hàng, qua đó NH có thể tăng nguồn tiền gửi huy động.
Để có thể huy động được nguồn tiền có chất lượng cao và có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bên cạnh việc cải tiến các hình thức huy động cũ, NH nên xem xét đưa ra những sản phẩm mới phù hợp hơn với khách hàng trên địa bàn để vừa có thể tăng nguồn tiền gửi huy động vừa cải thiện được cơ cấu nguồn bất hợp lý hiện nay như:
NH có thể xem xét đưa ra hình thức nhận tiền gửi bằng vàng để huy động vốn. Biện pháp này có thể sẽ rất hiệu quả vì thói quen của đa số người Việt Nam là thường giữ thu nhập dư thừa bằng vàng vì họ cho rằng vàng không bị mất giá và đây là hình thức tiết kiệm an toàn nhất. Hiện nay, lượng vàng do dân chúng nắm giữ là rất lớn. Đây là nguồn vốn lớn nhưng chưa được các NH khai thác nhiều. Người dân mua vàng chỉ để tích trữ và khi có nhu cầu tiêu dùng họ sẽ bán. Do đó NH có thể đưa ra một sản phẩm mới vừa đáp ứng nhu cầu vốn của NH, vừa đem lại lợi ích cho dân chúng qua đó thu hút được lượng vốn nhàn rỗi cho sản xuất: NH có thể nhận tiền gửi bằng vàng và trả gốc bằng vàng khi hết hạn. Hình thức tiết kiệm sẽ này giúp người dân an tâm hơn, không sợ tiền bị mất giá đồng thời cũng tăng đáng kể nguồn tiền gửi huy động được của NH.
Chứng khoán hoá các khoản tiền gửi: điều này sẽ cho phép khách hàng có thể chuyển nhượng chúng. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp NH có thể nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn. Với hình thức này, NH có thể phát hành các thẻ tiết kiệm vô danh có thời hạn từ 1 - 5 năm với lãi suất luỹ tiến theo thời hạn gửi tiền. NH không phát hành đồng loạt như phát hành giấy tờ có giá mà sẽ phát hành thẻ khi khách hàng có nhu cầu gửi tiền vào NH. Công cụ này sẽ đem lại thuận lợi cho cả khách hàng và NH. Cụ thể, đối với khách hàng: Hình thức này khắc phục các nhược điểm của các khoản tiền gửi thông thường là có thể chuyển nhượng được. Khi đến hạn không cần đích thân người gửi tiền đến nhận mà có thể nhờ người khác lĩnh tiền hộ; đối với NH: NH vẫn có thể quản lý như một khoản tiền gửi thông thường đồng thời có thể thu hút được tiền gửi có kỳ hạn dài hơn...
NH cũng có thể xem xét đưa ra hình thức gửi tiền một lần và được rút một phần trước hạn mà không phải rút toàn bộ số tiền đã gửi. Phần rút trước hạn sẽ được tính theo lãi suất không kỳ hạn, phần còn lại vẫn được tính theo lãi suất bình thường. Hình thức này rất có lợi thế vì hiện nay nếu muốn rút trước hạn khách hàng phải rút toàn bộ số tiền đã gửi và tính lãi không kỳ hạn khiến người gửi tiền chia nhỏ số tiền muốn gửi ra làm nhiều kỳ hạn để đề phòng phải rút trước hạn một phần. Điều này gây khó khăn cho cả khách hàng và NH: tốn kém thủ tục, giấy tờ, lãi suất không cao, NH không huy động được khối lượng vốn lớn nhất... Vì thế, với phương thức huy động tiền gửi này, NH sẽ tăng thêm được lượng tiền gửi có kỳ hạn dài hơn.
Đa dạng về số lượng các công cụ là chưa đủ , mà NH phải đa dạng về kỳ hạn huy động, loại tiền sử dụng nữa . Đó là khả năng huy động tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau trong đó có cả nội tệ , ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt tương ứng sao cho người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý. Chẳng hạn như đa dạng hoá các kỳ hạn gửi tiền tiết kiệm: Bên cạnh các kỳ hạn đang áp dụng(TGTK có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng), ngân hàng cần mở thêm các thời hạn gửi tiền như: 2 năm, 3 năm... và thậm chí dài hơn. Việc áp dụng những hình thức tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với thời hạn khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn trung và dài hạn, tạo điều kiện đa dạng hóa cách thức sử dụng vốn tại ngân hàng. Với loại tiết kiệm có kỳ hạn này có thể dung hoà được lợi ích hai bên: ngân hàng và người gửi tiền. Cá nhân và các tổ chức ký gửi tại ngân hàng chủ động khi sử dụng vốn đột xuất, đồng thời ngân hàng tạo được nguồn vốn ổn định.
Ngoài ra, NH cần nghiên cứu đưa ra các hình thức trả lãi linh hoạt, đa dạng, phục vụ tối đa nhu cầu khách hàng. Các hình thức trả lãi có thể bao gồm:
Loại gửi một lần, rút một lần (lãi suất trả cao nhất)
Loại gửi một lần lấy lãi nhiều kỳ, giữ nguyên vốn (nên cho lấy lãi hàng tháng) hoặc lấy lãi 6 tháng một lần đối với kỳ hạn dài từ 2 năm trở lên.
Loại gửi một lần nhưng rút một phần trước hạn cần ưu đãi khách hàng theo cách tính lãi kỳ hạn tương đương.
Loại gửi tiền nhiều lần góp thành số tiền lớn trong thời gian dài mới rút ra một lần cần ưu đãi khách hàng bằng lãi suất của loại tiền gửi thời hạn dài, khi rút ra có thể tính lãi theo phương pháp số dư bình quân. Hình thức này phù hợp với công nhân viên chức, những người có thu nhập đều đặn...
Hình thức tính lãi suất luỹ tiến theo số lượng gửi tiền. Với cùng một kỳ hạn, ngân hàng có thể trả lãi suất lớn hơn một chút đối với những người gửi khoản tiền lớn và có sự ưu đãi về lãi suất luỹ tiến theo mức tăng của tiền gửi. Hình thức này rất có lợi thế vì hiện nay hầu hết các NH chỉ áp dụng lãi suất luỹ tiến cho khách hàng gửi tiền có kỳ hạn dài. Điều này sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với số lượng lớn hơn.
Đa dạng hoá khách hàng
Bên cạnh việc đa dạng hoá hình thức huy động tiền gửi, NH cũng cần mở rộng và đa dạng hoá khách hàng. Đa dạng hoá khách hàng sẽ giúp NH có thể giảm rủi ro đồng thời giúp NH có cơ cấu vốn hợp lý. Vì mỗi một nhóm khách hàng có một số đặc điểm chung về nguồn vốn, do đó khi có những biến động nhóm khách hàng này sẽ có phản ứng như nhau. Việc duy trì một tỷ trọng quá cao nguồn vốn vào một nhóm khách hàng sẽ dẫn đến rủi ro đồng thời cũng khiến cơ cấu nguồn vốn NH kém linh hoạt và bất hợp lý.
Biện pháp này sẽ giúp cho NH ít bị phụ thuộc vào những khách hàng lớn đồng thời giúp cho NH có thể chủ động đề ra mức lãi suất, các chi phí đầu vào từ đó cũng chủ động được lãi suất đầu ra. Đặc biệt, với cơ chế lãi suất theo tín hiệu thị trường như hiện nay càng đòi hỏi sự năng động, linh hoạt của NH trong quá trình tìm kiếm nguồn vốn để cho vay.
Đối với khách hàng là tổ chức kinh tế: Trong những năm qua, tỷ trọng tiền gửi của tổ chức kinh tế trong tổng nguồn tiền gửi của NH chưa cao. Đây là nguồn vốn có chi phí thấp giúp NH có thể cắt giảm chi phí huy động, đồng thời cũng liên quan đến các dịch vụ mà NH cung cấp nên trong thời gian tới NH nên tăng tỷ trọng của nguồn vốn này và cần áp dụng các biện pháp:
Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đảm bảo thanh toán nhanh, rút ngắn thời gian giao dịch, tạo lòng tin cho khách hàng, nâng cao uy tín của NH.
Cải tiến phong cách giao dịch để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn để có thể giữ vững những khách hàng hiện có và thu hút thêm khách hàng mới...
Đối với khách hàng là cá nhân, hộ sản xuất: Đây là khu vực giàu tiềm năng nhất đối với các ngân hàng thương mại, đồng thời cũng là khu vực có tính cạnh tranh gay gắt nhất. Nguồn tiền gửi huy động từ dân cư có một ưu điểm rất lớn là ổn định, ngân hàng biết trước được khoảng thời gian được dùng. Không chỉ Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội mà các ngân hàng khác trong định hướng hoạt động kinh doanh của mình đều đặt ra mục tiêu huy động được nhiều vốn ở khu vực này. Nhưng việc huy động tiền gửi từ dân cư gặp rất nhiều khó khăn mặc dù khách hàng chủ yếu của NH là cá nhân và hộ sản xuất. Để có thể huy động được tối đa nguồn vốn này trong dân, NH cần sử dụng các biện pháp sau:
NH cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động trực tiếp trên địa bàn hoặc gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Đơn giản hoá các thủ tục giao dịch giúp cho người dân dễ dàng thực hiện giao dịch với NH, rút ngắn thời gian giao dịch.
Nâng cao chất lượng dịch vụ
Bước vào giai đoạn hội nhập, mức độ cạnh tranh giữa các Ngân hàng tại Việt Nam ngày càng gay gắt với việc Việt Nam mở cửa hơn nữa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tạo điều kiện cho sự xâm nhập sâu rộng của các NH nước ngoài với tiềm lực mạnh cả về tài chính, công nghệ lẫn kinh nghiệm. Về phía khách hàng, họ đến ngân hàng không chỉ đơn thuần cần một chỗ để cất giữ giá trị và kiếm lời. Họ mong muốn một chất lượng dịch vụ cao. Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp NH cạnh trạnh phi lãi suất vì khách hàng mà NH phục vụ, không chỉ quan tâm đến lãi suất mà quan tâm đến chất lượng và loại hình dịch vụ mà NH cung ứng. Do đó, NH nào cải tiến chất lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức cạnh tranh sẽ cao hơn. Chất lượng dịch vụ là sự tổng hợp của các yếu tố:
Quy trình nhanh gọn.
Công nghệ hiện đại.
Nhân viên chuyên nghiệp.
Cải thiện một bước đáng kể chất lượng dịch vụ NH thông qua cải tiến quy trình nghiệp vụ: hướng tới đơn giản hóa các thủ tục trong hoạt động nghiệp vụ nhằm giúp cho việc thanh toán nhanh chóng, hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn, đầy đủ, tiết kiệm thời gian cho cả khách hàng lẫn NH. Hiện nay, nếu một người gửi tiền vàoNH thông thường phải mất từ 10- 20 phút trong một lần gửi hoặc rút. Đối với quá trình cho vay thủ tục còn kéo dài trong nhiều ngày. Điều này sẽ làm giảm đáng kể lượng khách hàng đến với NH vì sợ thủ tục phức tạp, mất thời gian. Mặc dù các thủ tục này củaNH đều thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nhưng NH cũng cần phải nghiên cứu biện pháp nhằm rút ngắn thời gian trong quá trình nhận tiền gửi hoặc cho vay của mình: chẳng hạn như trang bị máy vi tính cho các quỹ tiết kiệm, nối mạng giữa các máy ở các phòng trong NH, nối mạng giữa các máy của phòng kế toán với máy của kế toán trưởng và thủ quỹ, qua đó có thể kiểm tra lẫn nhau, đảm bảo tính chính xác, giảm bớt thời gian chờ đợi của khách hàng. Mặt khác, không phải ai cũng am tường hết mọi thủ tục, thể lệ gửi tiền cũng như các chính sách khuyến khích, ưu đãi mà họ được hưởng, nhất là với những khách hàng do trình độ học vấn chưa cao và với những khách hàng mới lần đầu đến gửi tiền tại NH. Việc có bảng niêm yết đầy đủ, công khai các tiện ích, dễ hiểu sẽ tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái dễ chịu và đơn giản trong thủ tục gửi tiền, hơn nữa sẽ giúp cho khách hàng tìm thấy được một cơ hội hấp dẫn để gửi tiền cho NH mà các NH khác không có được.
Hiện đại hóa công nghệ NH: Trong hoạt động kinh doanh NH hiện nay, sự thành bại phụ thuộc rất lớn vào công nghệ NH . Sức mạnh nằm trong tay những NH đặc quyền về thông tin, có hệ thống thanh toán hiện đại… Công nghệ và trình độ quản lý bao gồm quản trị NH, quản trị rủi ro,… vẫn được coi là điểm yếu của các NH trong nước so với các NH nước ngoài. Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi hầu hết các NH đã phải bỏ số tiền hàng triệu USD để đầu tư cho công nghệ thông tin và đào tạo nhân lực. Việc áp dụng công nghệ tin học đã trở nên khá phổ biến trong ngành NH, với nhiều loại máy hiện đại, có một đội ngũ cán bộ chuyên gia về máy tính đông đảo, tạo cơ hội sử dụng tối ưu nguồn vốn và huy động ngày càng nhiều nguồn.
Để bắt kịp với nhịp độ đó, NH TMCP Nhà Hà Nội cần coi trọng củng cố và kiện toàn phương tiện giải quyết mọi nhu cầu thanh toán; từng bước chuyển từ hình thức bán tự động sang tự động hoàn toàn một số khâu thanh toán chủ yếu để nâng cao hiệu suất giao dịch, phục vụ nhanh và đúng khách hàng trong các khâu thanh toán bù trừ, vận hành thị trường liên NH bằng điện tử; tăng cường cung cấp dịch vụ thẻ điện tử (cung cấp dịch vụ NH tại nhà, lắp đặt máy rút tiền tự động tại các điểm giao dịch), thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ NH hiện có, chú trọng nghiên cứu phát triển các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu được phục vụ ngày càng lớn, đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng.
Một điểm cần khắc phục ngay là hệ thống ATM. NH có quá ít các điểm rút tiền tự động, mỗi lần rút là cả một sự chờ đợi. Hiện nay, khi việc trả lương cho công nhân viên qua hệ thống ATM phát triển, NH cần khắc phục chất lượng của hệ thống ATM, tránh sự chờ đợi và hết tiền trong lúc chờ đợi rút tiền. Thêm vào đó, cần tăng hơn nữa số lượng các máy ATM, tham gia liên minh ATM rộng rãi hơn.
Như vậy, việc đầu tư hơn nữa các công nghệ mới hiện đại hơn để có thể thu hút được nhiều khách hàng sử dụng các dịch vụ của NH đặc biệt là dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, làm tăng hiệu quả kinh doanh của khách hàng, qua đó nâng cao uy tín của NH. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện tốt sẽ thu hút các tổ chức kinh tế, các thành phần dân cư mở tài khoản tiền gửi và thanh toán qua NH. NH làm tốt công tác thanh toán sẽ tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng và mặt khác thu hút được ngày càng nhiều vốn để tiến hành cho vay phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế ngày càng có hiệu quả và tăng lợi nhuận cho NH.
Nâng cao trình độ nhân viên NH: Một trong những yếu tố làm tăng tính cạnh tranh của NH chính là các nhân viên làm việc có chất lượng cao. Nó quyết định đến sự thành công trong hoạt động kinh doanh của NH. Đối với hoạt động huy động vốn, con người là yếu tố không thể thiếu, quyết định nguồn vốn huy động cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Để có thể phát triển kinh doanh, phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn, thì NH phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, có tinh thần trách nhiệm, có nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp… Do vậy, NH cần phải xây dựng một chiến lược bắt đầu từ khâu tuyển dụng, sắp xếp và bố trí công tác đến việc đào tạo cán bộ, cử cán bộ đi học, tập huấn … nhằm nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ công nhân viên nói chung và cán bộ làm công tác nguồn vốn nói riêng. Bước sang năm 2009, các hoạt động này cần phải được đẩy mạnh hơn nữa, cụ thể:
Tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại, sắp xếp, tổ chức cán bộ công nhân viên sao cho phù hợp với trình độ, được bố trí sử dụng đúng chuyên môn với phong cách làm việc, phẩm chất đạo đức, kỷ luật lao động và có tâm huyết với nghề nhằm phát huy năng lực sở trường của từng cán bộ. Nghĩa là, cán bộ làm công tác huy động vốn phải có kiến thức về mặt nghiệp vụ như: phải được đào tạo về tin học, về thanh toán không dùng tiền mặt... cán bộ công nhân viên phải được phổ cập các kiến thức cơ bản về vốn, lãi suất, ngoại tệ...để đáp ứng các yêu cầu của công việc ngày càng phức tạp. Từ đó, họ sẽ có khả năng xử lý mọi tình huống công tác một cách thành thạo, giải đáp được mọi thắc mắc của người gửi tiền, hướng dẫn họ làm đúng thủ tục nhằm tạo niềm tin nơi khách hàng.
Chú trọng đổi mới phong cách phục vụ khách hàng: Hiện nay, hầu hết khách hàng đến với NH chủ yếu để giao dịch, nhưng cũng có trường hợp đến để tìm hiểu NH trước khi quyết định trở thành khách hàng của NH đó. Do đó, thái độ, cung cách phục vụ của nhân viên NH là rất quan trọng. Hơn ai hết, họ là bộ mặt, là hình ảnh của NH, do vậy, phải thực sự nhiệt tình, vui vẻ, lịch sự, tận tâm, biết lắng nghe ý kiến đóng góp của khách hàng, có trình độ chuyên môn vững vàng và có phong cách phục vụ nhanh chóng, chính xác, tận tình, chu đáo...tạo ra sự đồng cảm và lòng tin của khách hàng đối với NH, làm cho khách hàng cảm thấy mình được coi trọng, thấy mình đang thực sự được là “thượng đế”, hãnh diện khi bước vào NH. Để từ đó, NH sẽ ngày càng thu hút được nhiều người đến gửi tiền và sử dụng các dịch vụ khác của NH, giúp NH nâng cao vị thế cạnh tranh và mở rộng thị phần.
Trang bị kiến thức Marketting cho các nhân viên NH nhằm tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong NH trở thành một mắt xích trong việc thu thập và xử lý thông tin, đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng. Đặc biệt là những cán bộ huy động vốn thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với khách hàng thì việc trang bị kiến thức sao cho họ phải là những cán bộ Marketting tốt nhất, phải luôn biết tận dụng cơ hội để quảng cáo, giới thiệu về NH mình, để hình ảnh NH đến được và tạo ấn tượng tốt đẹp đối với khách hàng.
Đẩy mạnh công tác tự đào tạo trong nội bộ NH, trong nội bộ phòng để các thành viên bổ trợ thêm kiến thức chuyên môn và của những bộ phận công việc liên quan để hỗ trợ nhau, nâng cao hiệu quả trong công việc.
Bên cạnh đó, NH cũng phải có chế độ quan tâm, khuyến khích thích đáng bằng lợi ích và vật chất đối với cán bộ thực sự có thành tích trong hoạt động của NH nói chung và trong trong công tác huy động vốn nói riêng.
à Giải pháp đào tạo cán bộ công nhân viên để có thể thực hiện được công việc của mình đối với NH TMCP Nhà Hà Nội nói riêng và hệ thống NH thương mại nói chung có ý nghĩa quan trọng trong việc từng bước nâng cao khả năng phục vụ khách hàng với chất lượng cao hơn, đối tượng rộng rãi hơn với các tầng lớp khác nhau trong nền kinh tế.
Mở rộng mạng lưới và tăng thêm thời gian giao dịch
Trong giai đoạn vừa qua, NH Nhà nước (NHNN) liên tục cấp phép cho các NH thương mại mở thêm chi nhánh, có thể nói chưa có giai đoạn nào số lượng chi nhánh và phòng giao dịch được các NH mở nhiều như hiện nay. Trước đây, các NH thương mại nhà nước có mạng lưới áp đảo các NH cổ phần thì nay, điều này phần nào đã thay đổi. Lớn nhất trong khối cổ phần vẫn thuộc về NH TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) với số chi nhánh và phòng giao dịch gần đạt mức 260. Trong vòng 2 năm trở lại đây, hầu hết các NH cổ phần đã nâng tốc độ mở rộng mạng lưới khoảng 10 – 20 điểm giao dịch mới mỗi năm. Điều này có thể trông thấy ngay trên chính các đường phố đô thị lớn, bảng hiệu các NH đã mọc lên “san sát”, việc tìm tới NH đã thuận tiện hơn rất nhiều cho người dân. Trong bối cảnh các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước cùng hoạt động đan xen trên cùng một địa bàn như vậy, với số lượng chi nhánh và phòng giao dịch mới đạt con số 40 thì việc mở rộng mạng lưới giao dịch đối với HABUBANK là rất cần thiết. Thật vậy, nguồn vốn tiềm ẩn trong dân cư còn rất lớn, để khai thác được những nguồn vốn này thì mạng lưới huy động của NH phải được mở rộng, đảm bảo thuận tiện cho khách hàng khi giao dịch,khách hàng có thể gửi tiền một nơi nhưng rút tiền ở nhiều nơi.
Nền kinh tế càng phát triển, khối lượng công việc ngày càng tăng lên thì vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để khách hàng có thể đến giao dịch với NH mà không mất nhiều thời gian. Với quỹ thời gian eo hẹp chưa chắc đã đủ cho họ hoàn thành công việc của mình chứ chưa nói đến việc bỏ ra thời gian để tới với NH, thậm chí còn phải chờ đợi cán bộ NH rất lâu để hoàn tất một nghiệp vụ (khi đông khách). Do đó, để khuyến khích công chúng gửi tiền, giao dịch nhiều hơn, HABUBANK cần có các biện pháp tiết kiệm và giảm bớt thời gian cho khách hàng nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến gửi tiền tại NH, cụ thể:
Bố trí mạng lưới một cách thích hợp, mở thêm các quỹ tiết kiệm lưu động đi thu tiền gửi tận nhà, hoặc cơ sở sản xuất, kinh doanh khi dân chúng yêu cầu, đặc biệt là tại những nơi có dự án đầu tư triển khai trên địa bàn để vận động và nhận tiền gửi dân cư khi họ nhận tiền đền bù từ giải phóng mặt bằng. Đồng thời, NH cũng cần nghiên cứu mở rộng mạng lưới giao dịch bằng việc thành lập thêm các quỹ tiết kiệm, thêm các phòng giao dịch tại các khu đông dân cư như khu chợ lớn, các trung tâm thương mại lớn của thành phố, các khu chung cư cao tầng ... mặc dù chi phí bỏ ra ban đầu là tương đối lớn song sẽ cho phép NH khai thác nguồn vốn với khối lượng lớn trong thời gian dài. Đồng thời, sự thâm nhập của mạng lưới các chi nhánh, bàn tiết kiệm lưu động vào cộng đồng dân cư sẽ góp phần quan trọng làm thay đổi tâm lý, tập quán giữ tiền tại nhà, sử dụng tiền mặt của người dân. Mặc khác, việc mở rộng mạng lưới giao dịch hiện nay là cần thiết bởi các quỹ tiết kiệm của NH hoạt động khá mạnh tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết do lượng khách rất đông, nhiều khi người gửi tiền và người rút tiền phải chờ đợi lâu bởi họ đến NH khi có tiền gửi, khi đến hạn rút mà giờ làm việc của họ cũng là giờ hành chính, NH cũng chỉ làm việc như thời gian quy dịnh. Chính vì thế nhiều khi các quỹ đông khách không đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng.
Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới, NH cũng cần nghiên cứu, áp dụng thời gian giao dịch cho phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và tâm lý, thói quen tích luỹ, tiêu dùng của người dân trên địa bàn hoạt động của mình. NH chủ yếu hoạt động trên địa bàn thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, là những nơi tập trung đông đúc các công ty, xí nghiệp lớn nhỏ, các tổ chức kinh tế – xã hội, cơ quan Chính Phủ... nên đại bộ phận là cán bộ công nhân viên, thì việc xem xét lại thời gian làm việc của NH là rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và công tác huy động vốn của NH nói riêng. Hiện nay giờ giao dịch của NH trùng với giờ làm việc của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nên gây khó khăn cho khách hàng khi giao dịch với NH, trong đó có những người muốn đến gửi tiền nhưng gặp khó khăn về thời gian. Vì vậy, NH nên bố trí cho riêng bộ phận quầy phục vụ các tài khoản cá nhân mở cửa sớm hơn và làm việc muộn hơn, rồi cho các cán bộ đó hưởng lương ngoài giờ. Bộ phận này có thể chia thành hai ca làm việc, hoạt động từ 7h đến 19h. Với lịch làm việc như vậy, những người có tài khoản có thể tranh thủ gửi tiền, rút tiền vào nhiều lúc khác nhau mà không ngần ngại khi nghĩ đến việc phải chờ đợi trong không khí đông đúc, ngột ngạt của quầy giao dịch khi đến đúng giờ cao điểm, vừa tận dụng tốt nhất thời gian rảnh rỗi của mình.
Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo
Để có được hình ảnh tốt trong tâm trí của khách hàng, trước hết NH phải được khách hàng biết đến. Một trong những giải pháp cần làm là tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo, đây là một công tác không kém phần quan trọng trong chiến lược huy động vốn, bởi nó tạo sẽ góp phần tạo ra nét khác biệt, vượt trội hơn hẳn của NH so với các đối thủ cạnh tranh. Trong thời gian qua NH TMCP Nhà Hà Nội đã thực hiện tuyên truyền, quảng cáo nhưng hiệu quả vẫn chưa cao. Do đó trong thời gian tới, NH cần tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo dưới mọi hình thức để giúp khách hàng hiểu biết được những lợi ích mà khách hàng có thể có khi giao dịch với NH, cụ thể:
Thường xuyên cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tài chính, báo cáo tài chính kiểm toán...của NH thông qua các ấn phẩm, truyền thanh, truyền hình để dân chúng biết cụ thể hơn về khả năng hoạt động và các dịch vụ mà NH cung cấp cũng như lợi ích mà nó sẽ đem lại cho khách hàng. Từ đó tạo ra cho khách hàng một cái nhìn tổng quát và chi tiết hơn về hoạt động của NH, giúp cho hình ảnh của NH đến được với khách hàng.
Để khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng biết thêm thông tin một cách thực tế hơn, NH nên khuyến khích họ tham gia vào các buổi nói chuyện, thuyết trình giới thiệu về hoạt động của NH, đặc biệt là các sản phẩm huy động tiền gửi tại các cơ quan, xí nghiệp, trường học hay đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng... Qua đó làm cho mọi người dân thấy được các ưu điểm của việc gửi tiền và sử dụng các dịch vụ của NH, đó là tính an toàn, tiện dụng, khả năng sinh lời.
Tuy nhiên chỉ tuyên truyền, quảng cáo là không đủ, muốn tạo lòng tin trong dân thì phải chứng minh bằng thực tế các ưu điểm của NH và các dịch vụ NH. Tại các địa bàn hoạt động mới, nơi người dân chưa quen với việc mở tài khoản tại NH, NH nên làm thí điểm việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân ở một số cơ quan, xí nghiệp; Khuyến khích một số cơ quan mở tài khoản cá nhân cho cán bộ và trả lương qua các tài khoản này một cách miễn phí. Việc NH thành công trong thí điểm thì chẳng những đã tạo được lòng tin trong dân chúng mà chính những người tham gia thí điểm này sẽ là những quảng cáo viên tốt nhất cho NH.
Cùng với việc tăng cường tuyên truyền, quảng cáo thì khuyến mãi là công cụ hỗ trợ đắc lực để hoạt động tuyên truyền, quảng cáo đạt hiệu quả cao. Để thu hút ngày càng nhiều người gửi tiền vào, NH nên áp dụng các hình thức khuyến mãi đa dạng, tạo sự thích thú nơi khách hàng, khách hàng không những được hưởng mức lãi suất hợp lý mà còn được hưởng sự ưu đãi do khuyến mãi đem lại như: tham dự hình thức quay xổ số dự thưởng, áp dụng lãi suất ưu đãi hoặc khuyến khích vật chất đối với những khách hàng duy trì giao dịch thường xuyên với NH như tặng quà vào những dịp đặc biệt (Lễ, Tết, ngày sinh nhật...), tài trợ cho các phong trào văn nghệ, thể thao, làm công tác từ thiện...nhằm gây ảnh hưởng, nâng cao uy tín của NH sâu rộng trong mọi tầng lớp dân cư.
Tổ chức nghiên cứu đối thủ cạnh tranh: Đây là công việc quan trọng để thực hiện chiến lược cạnh tranh có hiệu quả của NH. Việc nghiên cứu phải được tiến hành thường xuyên, trên cơ sở so sánh sản phẩm, giá cả (chi phí huy động), các hoạt động quảng cáo, mạng lưới NH... với các đối thủ gần gũi (các NH cùng địa bàn, các NH trong cùng khối cổ phần…). Với cách làm này, NH có thể xác định được các lĩnh vực cạnh tranh thuận lợi và bất lợi, tạo tiền đề cho NH giành thắng lợi trong cạnh tranh.
è Để giải quyết những khó khăn và tồn tại, ngoài việc áp dụng các giải pháp trên, NH TMCP Nhà Hà Nội cần áp dụng một số giải pháp hỗ trợ nhằm tăng cường khả năng huy động vốn như: áp dụng chính sách lãi suất một cách linh hoạt theo từng thời kì, gắn liền huy động vốn với sử dụng vốn một cách có hiệu quả, xây dựng chiến lược khách hàng, … Những giải pháp trực tiếp giúp NH có thể đạt được kết quả như mong muốn một cách nhanh chóng nhưng phải có các giải pháp hỗ trợ thì kết quả đạt được mới lâu dài, ổn định và bền vững.
3.3. Kiến nghị nhằm tăng cường huy động tiền gửi khách hàng tại NH TMCP Nhà Hà Nội
Để có thể tăng cường khả năng huy động tiền gửi khách hàng, góp phần mở rộng thị phần, nâng cao sức cạnh tranh của NH TMCP Nhà Hà Nội trên thị trường thị nỗ lực của bản thân NH là chưa đủ, mà cần có sự giúp đỡ từ phía NHNN và các ban ngành chức năng của Nhà nước.
3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước
Một thực trạng là hiện nay ở nước ta là đa số người dân vẫn có thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán, sử dụng tiền nhàn rỗi dưới dạng tích trữ vàng và ngoại tệ. Trong một vài năm trở lại đây, người dân có xu hướng sử dụng tiền nhàn rỗi để đầu tư vào bất động sản và thị trường chứng khoán. Một trong những lý do dẫn tới thực trang này là sự thiếu tin tưởng vào khả năng ổn định của nền kinh tế. Do đó để thu hút nguồn nhàn rỗi trong dân cư thì NHNN, với vai trò là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động NH, có chức năng quan trọng là thực hiện hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia với mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, ổn định cán cân thanh toán và giảm thất nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển xã hội, nâng cao đời sống người dân, phải có một chính sách tiền tệ hợp lý thông qua các công cụ lãi suất, tỷ giá, thị trường mở…Nhất là trong giai đoạn lạm phát tăng và lãi suất biến động bất thường như hiên nay. Cụ thể, NHNN cần thực hiện các biện pháp:
Thứ nhất, hoàn thiện môi trường pháp lý, chính sách liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Hiện nay, hoạt động NH tuân theo sự điều chỉnh của Luật NH nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, ngoài ra còn có nhiều quy định khác. Tuy nhiên, trong các văn bản quy phạm pháp luật này vẫn còn các quy định chưa rõ ràng, như quy định về vốn tự có của NH, quy định về các hoạt động huy động vốn, các quy định về chỉ tiêu hoạt động của NH bị thay đổi quá nhiều trong thời gian ngắn... Điều đó cho thấy những yếu tố còn thiếu chặt chẽ trong luật và các văn bản dưới luật do NH Nhà nước ban hành. Điều này đòi hỏi các cơ quan ban hành văn bản quy phạm về lĩnh vực NH tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung các văn bản luật và dưới luật một cách có hệ thống, chính xác đảm bảo mọi hoạt động tài chính, tiền tệ, tín dụng đều sự được điều chỉnh của luật pháp, tạo nên một môi trường ổn định về pháp lý và chế độ chính sách của các NH.
Thứ hai, NHNN cần có chính sách về lãi suất, về hạn mức, về dự trữ... hợp lý hơn, khoa học hơn trong từng thời kỳ trên cơ sở bảo vệ quyền lợi cho các NH và khách hàng.
Trước mắt, NHNN cần đưa ra lãi suất cơ bản và biên độ dao động phù hợp cho từng giai đoạn phát triển kinh tế. Nghĩa là tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của tăng trưởng kinh tế, của hoạt động NH để định ra lãi suất cơ bản hợp lý, phù hợp với mối quan hệ cung cầu về vốn và đảm bảo cho các NHTM kinh doanh có lãi.
Từng bước tiến tới điều hành lãi suất bằng biện pháp tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở, bỏ mức lãi suất cơ bản và biên độ dao động cho phép. Cụ thể, thay vì áp dụng lãi suất cơ bản với biên độ giao động cũng mang tính áp đặt về khung lãi suất như quy định lãi suất trần cho vay và sàn huy động của trước kia, NHNN sẽ chỉ công bố lãi suất tái chiết khấu mà NH áp dụng từ đó các NHTM sẽ đưa ra được mức lãi suất phù hợp. Điều này sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh với mức cao hơn giữa các NHTM, tạo thêm sự chủ động linh hoạt và tự chủ trong kinh doanh của các NH. Mỗi NHTM có thể tuỳ thuộc vào vị thế trên thị trường để ấn định mức lãi suất phù hợp hay vì bị kiềm chế bởi khung lãi suất.
Điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng xoá bỏ dần sự chênh lệch giữa lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ, chỉ để một mức chênh lệch hợp lý để cho dân chúng không đổi hết nội tệ sang ngoại tệ dẫn đến sức ép về tỷ giá. Về lâu dài, NHNN cần có biện pháp, chính sách để hạ dần mức lãi suất trong nước, để hoà nhập mặt bằng lãi suất trên thế giới. Điều này sẽ thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nước ngoài đổ vào trong nước.
Thứ ba, tăng cường hoạt động thanh tra giám sát các NHTM
NHNN cần chấn chỉnh, xử lý kịp thời những sai phạm làm thất thoát nguồn vốn của Nhà nước, của nhân dân, đưa hệ thống các TCTD đi vào nề nếp và có hiệu quả, nâng cao uy tín của hệ thống NH trong nền kinh tế. Bên cạnh đó cần thường xuyên tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các NHTM và chỉ đạo, hỗ trợ giúp các đơn vị hiện đại hóa NH, trên cơ sở đổi mới công nghệ NH, tạo tiền đề cho các NHTM phát triển mạnh trong hoạt động.
Thứ tư, xây dựng và điều hành một chính sách tiền tệ ổn định và hợp lý hơn trong từng thời kỳ
NHNN cần thực thi các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có việc kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự vận hành của hệ thống tài chính tiền tệ có hiệu quả nâng cao sự tín nhiệm của đồng việt nam trong quan hệ tài chính quốc tế. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần phải thực thi chính sách lãi suất và tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì để hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh bằng lãi suất giữa các NH thông qua việc điều tiết lãi suất thị trường theo lãi suất định hướng của mình.
à Chính sách này cần phải theo sát với tín hiệu của thị trường, góp phần ổn định giá trị đồng tiền, tạo lòng tin cho người dân yên tâm gửi tiền vào NH, khi đó NH có cơ hội thu hút nhiều nguồn vốn hơn đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư phát triển kinh tế.
Thứ năm, mở rộng bảo hiểm tiền gửi
Sự an toàn của NHTM luôn là mỗi quan tâm hàng đầu đối với người gửi tiền. Để đảm bảo an toàn (giảm thiểu rủi ro) cho các NHTM, công ty bảo hiểm tiền gửi ra đời nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền trong trường hợp rủi ro xảy ra nghĩa là NH bị phá sản. Bảo hiểm tiền gửi ra đời với mục đích sẽ làm tăng niềm tin của quần chúng vào NH, nhằm huy động tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền gửi của dân cư.
NH Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ cho công ty bảo hiểm tiền gửi như bắt buộc các NHTM phải gửi các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của mình để công ty bảo hiểm tiền gửi có thể hiểu rõ được hoạt động của NH và có biện pháp cứu trợ kịp thời khi NH gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh. NH Nhà nước giám sát hoạt động đóng phí bảo hiểm của các NH và các tổ chức tín dụng khác có thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi.
Bên cạnh đó, mức bồi thường thiệt hại rủi ro tiền gửi hiện nay vẫn chưa thoả đáng không kích thích khách hàng có cơ số tiền lớn gửi vào NH. NHNN nên có chính sách bảo hiểm tiền gửi giống như chính sách bảo hiểm các tài sản khác. Có như vậy mới giúp khách hàng an tâm gửi tiền và NH có thể huy động được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
3.3.2. Đối với chính phủ
Có thể nói, chủ trương chính sách của Chính phủ trong thời gian qua còn thiếu đồng bộ, có sự chồng chéo và thường xuyên thay đổi. Do đó, để tạo một môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động tiền gửi của các NHTM nói riêng, Chính phủ cần phải có thực hiện các biện pháp sau:
Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô gồm nhiều yếu tố, bao trùm lên toàn bộ hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thâm hụt cán cân thanh toán, chính sách tỷ giá... Chúng có tác động to lớn đến hoạt động kinh doanh nói chung và công tác huy động tiền gửi của NH nói riêng. Để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần có những việc làm cụ thể sau:
Phối hợp với các cơ quan chức năng của mình đảm bảo điều tiết một nền kinh tế phát triển ổn định, tránh các đột biến làm giảm bất thường giá trị đồng tiền, đặc biệt là các khoản tiền gửi tại NH, dù là dưới hình thức nào.
Mặt khác, thông qua việc ổn định giá trị đồng tiền để xác định tỷ giá hợp lý nhằm giảm thiểu hiện tượng đầu cơ ngoại tệ... Kết quả là thu hẹp phạm vi hoạt động của ngoại tệ, mở rộng phạm vi lưu hành VND góp phần vào việc kiềm chế lạm phát một cách hiệu quả và chính xác, xây dựng lãi suất phù hợp và giữ vững ổn định tiền tệ.
Tạo lập môi trường pháp lý ổn định.
Hoạt động của NHTM vẫn nằm trong môi trường pháp lý do Nhà nước quy định, chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật về kinh doanh NH; Đòi hỏi Nhà nước phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của mình xây dựng được môi trường pháp lý ổn định. Việc ban hành một hệ thống pháp lý đồng bộ và rõ ràng không chỉ tạo niềm tin cho dân chúng mà những quy định, khuyến khích của nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh tiêu dùng và tiết kiệm, chuyển một bộ phận tiêu dùng chưa cần thiết sang đầu tư, chuyển dần tài sản cất giữ từ vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh hoặc gửi tiền vào NH.
Ngày nay chúng ta đang tiếp tục phát triển nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường, tiến tới giảm bớt sự can thiệp quá sâu của các cơ quan nhà nước vào hoạt động của các NHTM. Hệ thống NH với vai trò là mạch máu của nền kinh tế do đó giữ cho hệ thống NH hoạt động một cách hài hoà, ổn định là điều kiện cần thiết. Vì vậy nhà nước cần ban hành một hệ thống pháp luật vừa thống nhất, vừa đầy đủ tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động một cách lành mạnh, đạt hiệu quả cao.
Về môi trường xã hội
Ở nước ta hiện nay, công tác huy động tiền gửi của các NHTM vẫn bị hạn chế, do ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý của người dân, đặc biệt thói quen giữ tiền ở nhà, mua vàng tích trữ. Chính phủ cần có các biện pháp tuyên truyên nhằm khuyến khích động viên người dân gửi tiền và chi tiêu qua tài khoản mở tại NH, nên có quyết định bắt buộc các cán bộ thuộc cơ quan Nhà nước phải mở tài khoản và sẽ được trả lương qua tài khoản đó... để có thể thu hút được một lượng lớn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào NH. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn nâng cao đời sống và thu nhập của người dân để họ có thể tăng tích luỹ và sẽ gửi tiền vào NH ngày càng nhiều hơn.
KẾT LUẬN
Hai năm đã đi qua từ khi Việt Nam là thành viên WTO, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, vẫn còn nhiều khó khăn thách thức mà Việt Nam phải vượt qua để có thể sánh tầm với thế giới. Với chức năng đầu mối tài chính cho nền kinh tế, để tạo thế đứng của mình trên thị trường, các NHTM không ngừng nâng cao khả năng thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư, phát triển sản xuất. Do đó, việc mở rộng phạm vi áp dụng ảnh hưởng của các loại tiền gửi tới các tổ chức kinh tế cũng như các tầng lớp dân cư là vấn đề sống còn của NH nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng, tăng sức cạnh tranh khi đất nước mở cửa sâu rộng.
Nhận thức được vấn đề này, HABUBANK đã có những bước đi tích cực trong việc phát triển hoạt động huy động tiền gửi khách hàng và bước đầu đã có những thành công nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, HABUBANK còn nhiều hạn chế về mặt chất lượng dịch vụ nhất là cán bộ huy động tiền gửi khách hàng và công nghệ ngân hàng. Đó là tồn tại lớn nhất cản trở sự phát triển của hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của ngân hàng.
Do những hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm, tài liệu cũng như thời gian nghiên cứu, chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như chưa hoàn chỉnh về mặt hình thức. Tuy nhiên, em hy vọng với việc nghiên cứu thực trạng, từ đó đưa ra các giải pháp, chuyên đề có thể góp một phần nào đó vào việc phát triển sâu rộng hơn nữa hoạt động huy động vốn nói chung và huy động tiền gửi khách hàng nói riêng tại NH TMCP Nhà Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo – T.S Lê Thanh Tâm cùng toàn thể cán bộ phòng Phát triển kinh doanh NH TMCP Nhà Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề này. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng Thương mại, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
Frederic S.Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kĩ thuật.
Peter Rose (2002), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính.
Lê Văn Tư (2005), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính.
Báo cáo thường niên của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 2006, 2007, 2008.
Nguyễn Văn Giàu (2008), Tổng kết hoạt động Ngân hàng Việt Nam năm 2008.
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997/QH10 ngày 12/12/1997.
Quyết định 1160/2004/QĐ – NHNN về điều chỉnh hoạt động nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm đối với các tổ chức nhận tiền gửi được pháp luật cho phép.
Quyết định 47/2006/QĐ – NHNN về việc điều chỉnh, sửa đổi bổ sung quy chế bảo hiểm tiền gửi.
Quyết định 2003/QĐ – NHNN quyết định của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.
Một số quyết định NHNN ban hành liên quan đến việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời kì như: Quyết định 1141/2007/QĐ – NHNN, Quyết định 187/2008/QĐ – NHNN.
Một số trang web:
www.saga.vn
Tình hình ngân hàng năm 2008 và dự báo 2009.
Ngân hàng thương mại và vai trò của NHTM.
Huy động vốn Ngân hàng – Vấn đề tâm lý.
www.cafeF.vn
Chính sách tiền tệ: một năm chưa có tiền lệ.
Gửi tiền, căn thêm tính thanh khoản
Đua lãi suất: cân nhắc hậu quả và hiệu quả
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
NH
NHTM
NHNN
TMCP
Ngân hàng
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nước
Thương mại cổ phần
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
2.1
Tình hình nhân sự trong 5 năm vừa qua của HABUBANK
35
2.2
Tình hình huy động vốn của HABUBANK
36
2.3
Cơ cấu nguồn vốn của HABUBANK
36
2.4
Tình hình cho vay của HABUBANK
38
2.5
Doanh thu và lợi nhuận của HABUBANK
41
2.6
Tình hình huy động và sử dụng vốn của HABUBANK
50
3.1
Một số chỉ tiêu kế hoạch trong năm 2009
60
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên biểu đồ
Trang
2.1
Tăng trưởng tiền gửi khách hàng
43
2.2
Cơ cấu nguồn tiền gửi khách hàng theo đối tượng huy động
45
2.3
Cơ cấu nguồn tiền gửi khách hàng theo kỳ hạn
47
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu
Tên sơ đồ
Trang
1.1
Luân chuyển vốn trong nền kinh tế
5
1.2
Các hình thức huy động tiền gửi khách hàng của NHTM
18
2.1
Cơ cấu tổ chức của NH TMCP Nhà Hà Nội
34
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22160.doc