Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng cũng như Ngân hàng Công thương Việt Nam có truyền thống hoạt động nhiều năm, đã đạt được nhiều thành quả. Đối với khách hàng, Chi nhánh cũng đã tạo dựng được những ấn tượng tốt đẹp nhất định.
Trong điều kiện kinh tế hội nhập, như các NHTM khác, Chi nhánh phải đối mặt với một môi trường cạnh tranh quyết liệt. Những bất cập đã tồn tại trước đây trong nội bộ Chi nhánh càng trở nên trầm trọng hơn trong những biến động bất lợi từ môi trường khách quan. Một trong những biếu hiện của điều này là sự yếu kém trong huy động vốn của Chi nhánh. Sự thay đổi là rất cần thiết nhằm tăng cường huy động vốn cũng như phát triển các hoạt động khác, giúp củng cố và nâng cao năng lực tài chính của Chi nhánh.
77 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được chỉ bằng 31,8% so với số vốn huy động năm 2006. Trong đó, vốn huy động bằng kỳ phiếu chỉ chiếm xấp xỉ 8%. Chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn 12 – 24 tháng có tỷ trọng cao nhất, trên 80%. Sự thu hẹp quy mô vốn huy động thông qua phát hành công cụ nợ do hình thức huy động này của Chi nhánh không hấp dẫn được khách hàng. Chi nhánh chỉ thực hiện các đợt phát hành vào thời điểm khan hiếm vốn theo chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam nên tính chủ động không cao, hình thức huy động này cũng không nhận được sự quan tâm, không được tăng cường.
2.2.3. Huy động vốn nợ thông qua các hình thức khác
Ngoài nhận tiền gửi và phát hành công cụ nợ, Chi nhánh huy động được lượng vốn không nhỏ từ hình thức nhận tài trợ, uỷ thác đầu tư. Hoạt động này có sự phát triển mạnh trong những năm gần đây.
Bảng 2.10. Tình hình nhận tài trợ, uỷ thác đầu tư thời kỳ 2005 – 2007
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Quy mô
± (%)
Quy mô
± (%)
Quy mô
± (%)
Vốn nhận
Tài trợ, UTĐT
180.000
-
245.000
+36,11
470.000
+91,84
(Nguồn: Phòng Kế toán tổng hợp)
Dù quy mô vốn nhận tài trợ, uỷ thác tăng nhanh nhưng trong điều kiện các hình thức huy động vốn khác như nhận tiền gửi tiết kiệm của dân cư và đi vay đang có xu hướng suy giảm thì điều này có thể gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu vốn của Chi nhánh. Năm 2005, bộ phận vốn này chỉ chiếm 6,89% tổng vốn nợ thì năm 2007, tỷ trọng của nó đã là 14,1%. Dù khi nhận vốn tài trợ, uỷ thác, Chi nhánh không phải trả lãi nhưng đây không phải là loại vốn ổn định, thường xuyên của một NHTM. Trong trường hợp tỷ trọng vốn nhận tài trợ, uỷ thác quá cao thì khi hoạt động này chấm dứt hay vốn đã được giải ngân hết, quy mô vốn nợ của Ngân hàng sẽ bị biến động mạnh. Điều này là tiềm ẩn rủi ro hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của Ngân hàng. Sự mở rộng quá nhanh của loại vốn trong khi các hình thức huy động vốn khác không được tăng cường sẽ gây tác động xấu đến cơ cấu vốn của Chi nhánh.
2.2.4. Cơ cấu vốn
Trong tổng vốn nợ của Chi nhánh, tỷ trọng tiền gửi có xu hướng giảm, từ 87,1% năm 2005 xuống còn 81,8% năm 2007. Tuy nhiên, nhận tiền gửi vẫn là hình thức huy động vốn quan trọng nhất và cần được chú trọng để mở rộng quy mô tiền gửi của các tổ chức kinh tế cũng như các cá nhân. Việc vốn nhận tài trợ, uỷ thác lấn át vốn từ phát hành công cụ nợ là vấn đề Chi nhánh cần lưu tâm điều chỉnh lại.
Biểu đồ 2.11. Cơ cấu vốn nợ thời kỳ 2005 – 2007
(Nguồn: Phòng Kế toán tổng hợp)
Xét về đối tượng khách hàng, hoạt động huy động vốn của Chi nhánh bao gồm: huy động vốn từ các cá nhân và huy động vốn từ các tổ chức kinh tế. Dù tổng số vốn huy động được có gia tăng qua các năm nhưng tốc độ tăng trưởng không cao, không ổn định. Trong năm 2007, khi vốn từ các Tổ chức kinh tế có sự gia tăng mạnh thì vốn huy động từ dân cư lại bị thu hẹp rất nhiều, thậm chí về quy mô còn nhỏ hơn ở năm 2005.
Bảng 2.12. Tình hình huy động vốn* theo đối tượng khách hàng
thời kỳ 2005 – 2007
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Quy mô
± (%)
Quy mô
± (%)
Quy mô
± (%)
Vốn huy động
2.417.483
+5,6
2.700.815
+11,7
2.868.931
+6,2
Vốn từ TCKT
932.165
+9,6
1.036.902
+11,2
1.402.144
+35,2
Vốn từ dân cư
1.485.318
+3,2
1.663.913
+12,0
1.466.787
- 11,8
*: không bao gồm VCSH
(Nguồn: Báo cáo KQHĐKD của Chi nhánh từ 2005 đến 2007)
Vốn từ khách hàng cá nhân thường chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng vốn. Tuy nhiên, sự chênh lệch đang có xu hướng thu hẹp lại. Năm 2005, các Tổ chức kinh tế chỉ đóng góp 38,6% số vốn Chi nhánh huy động được nhưng con số này năm 2007 đã là 48,9%.
Một đối tượng khách hàng tổ chức có vai trò ngày càng quan trọng của Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng là các Doanh nghiệp Bảo hiểm. Năm 2007, trong số hơn 932 tỷ đồng tiền gửi của các Tổ chức thì có tới 470 tỷ đồng huy động từ Doanh nghiệp bảo hiểm. Số vốn này là tiền gửi có kỳ hạn và đạt mức tăng trưởng khá cao trong hai năm 2006 – 2007, tăng từ 54,5% lên 59,4% tổng tiền gửi của các Tổ chức.
Vốn huy động từ các cá nhân có tính ổn định cao vì 90% trong số đó là tiền gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, sự suy giảm loại vốn này là vấn đề Chi nhánh đang phải đối mặt và cần sớm có biện pháp khắc phục.
Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng huy động được, thường ở mức xấp xỉ 70%. Trong khi đó, tỷ trọng vốn dài hạn lại rất thấp. Nguyên nhân của điều này chính là vì các hình thức huy động vốn trung và dài hạn của Chi nhánh như: nhận tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng và phát hành công cụ nợ trung, dài hạn chưa được triển khai có hiệu quả. Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường chứng khoán trong năm 2007 và xu hướng tăng nhanh của tỷ lệ lạm phát khiến lượng tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn suy giảm mạnh.
Biểu đồ 2.13. Cơ cấu vốn theo kỳ hạn năm 2007
(Nguồn: Phòng Kế toán tổng hợp)
Chi nhánh huy động vốn cả dưới hình thức ngoại tệ, chủ yếu là USD và VND. Tuy có sự biến động giữa các năm nhưng lượng vốn bằng VND luôn chiếm ưu thế. Huy động vốn bằng ngoại tệ phụ thuộc chặt chẽ vào tỷ giá VND/USD, lãi suất huy động ngoại tệ cũng như tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có quan hệ với Chi nhánh.
Năm 2006, lãi suất huy động ngoại tệ của Chi nhánh tăng khá mạnh kéo theo sự mở rộng quy mô của loại vốn này. Tuy nhiên, trong năm 2007, do nhu cầu ngoại tệ tăng mạnh, các NHTM cổ phần đã liên tục duy trì lãi suất huy động ngoại tệ ở mức cao và đã huy động được lượng ngoại tệ rất lớn. Kết quả là hoạt động huy động ngoại tệ của Chi nhánh gặp nhiều khó khăn và quy mô vốn ngoại tệ bị giảm sút.
Bảng 2.14. Tình hình huy động vốn VND và ngoại tệ thời kì 2005 – 2007
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Quy mô
± (%)
Quy mô
± (%)
Quy mô
± (%)
Vốn bằng ngoại tệ*
433.325
-
544.096
+25,6
448.916
-17,5
Vốn bằng VND
1.984.158
-
2.156.719
+8,7
2.420.015
+12,2
Tỷ trọng vốn bằng VND (%)
82,1
79,9
84,4
* : đã quy đổi ra VND
(Nguồn: Báo cáo KQHĐKD của Chi nhánh từ 2005 đến 2007)
Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng phải tiêu tốn chi phí không nhỏ để huy động vốn. Một bộ phận lớn trong đó là chi phí trả lãi, chiếm tới 79% tổng chi phí trong năm 2007. Bộ phận còn lại trong chi phí vốn chưa được phân bổ một cách hợp lý. Trong khi chi phí trả lương cho cán bộ, nhân viên, chi phí kho quỹ và các chi phí quản lý rất lớn thì chi phí cho hoạt động marketing lại quá nhỏ bé. Năm 2007, Chi nhánh dành tới gần 44 tỷ đồng trang trải cho các hoạt động kể trên nhưng chỉ có trên 90 triệu đồng cho hoạt động truyền thông, quảng cáo và hơn 110 triệu đồng cho hoạt động khuyến mại. Việc phân bổ chi phí không hợp lý là một trong những vấn đề yếu kém tác động xấu tới hoạt động huy động vốn của Chi nhánh.
Vốn nợ là bộ phận vốn chủ yếu, quan trọng nhất của Chi nhánh. Số vốn này dễ bị biến động mạnh khi có sự thay đổi của các điều kiện chủ quan và điều kiện khách quan. Điều đó tác động tới tổng thể các hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Do đó, duy trì sự tăng trưởng vững chắc của bộ phận vốn này là cơ sở để Chi nhánh ổn định và gia tăng thu nhập.
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH NHCT HAI BÀ TRƯNG
2.3.1. Những thành công
Trong những năm vừa qua, quy mô vốn của Chi nhánh không ngừng được mở rộng giúp cho tốc độ tăng trưởng vốn duy trì ở mức tương đối khá. Huy động vốn từ các TCKT được tăng cường thể hiện ở sự gia tăng mạnh trong tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức. Đây có thể được xem là hướng phát triển có lợi vì tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức mang tính ổn định cao hơn tiền gửi thanh toán. Việc mở rộng được loại vốn này giúp Chi nhánh chủ động hơn trong hoạt động cho vay cũng như các hoạt động sử dụng vốn khác.
Huy động vốn là hoạt động đặc biệt quan trọng đối với Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. Hoạt động này mang lại vốn kinh doanh cho Chi nhánh, tạo điều kiện để các hoạt động khác được thực hiện. Một phần rất lớn vốn huy động còn được Chi nhánh điều chuyển lên Hội sở chính và mang lại cho Chi nhánh khoản doanh thu điều hoà vốn chiếm tới 60 – 70% tổng doanh thu.
Chi nhánh đạt được một số thành quả như đã nêu trên là nhờ vào những nỗ lực của bản thân Chi nhánh cũng như các điều kiện thuận lợi bên ngoài.
Thứ nhất, lãnh đạo Chi nhánh bước đầu nhận thức được vai trò của huy động vốn cũng như những khó khăn Chi nhánh phải đối mặt. Do đó, họ đã đưa ra một số biện pháp giúp duy trì và mở rộng quy mô vốn. Đối với cán bộ, nhân viên Chi nhánh, việc áp dụng các quy định tiền lương, tiền thưởng là động lực thúc đẩy họ làm việc có trách nhiệm hơn. Chi nhánh cũng đã triển khai các loại hình huy động dự thưởng, ưu đãi, nâng cao chất lượng thanh toán nhằm củng cố lòng tin và thu hút sự quan tâm của khách hàng. Những cố gắng đó đã giúp cho hoạt động huy động vốn của Chi nhánh giữ được mức tăng trưởng trong những năm gần đây.
Thứ hai, những điều kiện khách quan đưa đến một số thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của Chi nhánh. Nền kinh tế giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước là 8,48%, của riêng Thành phố Hà Nội là 12,63%. Mặt bằng thu nhập của người dân tăng, đời sống được nâng cao, khả năng tích luỹ của dân cư cũng cao hơn. Một lượng vốn rất lớn Chi nhánh huy động được là từ người dân gửi tiết kiệm và các Doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư bằng hình thức gửi tiền có kỳ hạn.
Những thành quả Chi nhánh đạt được là đáng khích lệ nhưng chưa thực sự vững chắc và thấp hơn nhiều so với các Ngân hàng khác .
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Dù quy mô vốn của Chi nhánh được mở rộng qua các năm nhưng hoạt động này vẫn gặp phải hạn chế rất lớn. Lượng vốn Chi nhánh huy động được không lớn. Tốc độ tăng trưởng vốn còn thấp và không ổn định.
Hà Nội và các tỉnh miền Bắc nói chung được đánh giá là thị trường có nhiều thuận lợi để các NHTM huy động vốn do tâm lý và tập quán dân cư có xu hướng thiên về tích luỹ hơn tiêu dùng. Thêm nữa, Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng kinh doanh trên địa bàn rộng, đông dân cư, có lợi thế để mở rộng tiền gửi. Tuy nhiên, xét về cả quy mô và tốc độ tăng trưởng, số vốn Chi nhánh huy động được đều chưa tương xứng với tiềm năng của thị trường cũng như rất thấp so với các NHTM trên địa bàn Thành phố Hà Nội, dù ở trong hay ngoài hệ thống Ngân hàng Công thương.
Năm 2007 được đánh giá là năm các NHTM có sự tăng trưởng vốn lớn nhất từ trước tới nay. Tốc độ tăng trưởng vốn của hệ thống NHTM trong cả nước là 39,6%. Các NHTM trên địa bàn Hà Nôi cũng có được sự tăng trưởng vốn rất cao. Trái lại, tốc độ tăng trưởng vốn của Chi nhánh trong năm này lại sụt giảm mạnh. Vốn huy động từ khách hàng tổ chức tăng trưởng khá nhưng quy mô vốn huy động từ dân cư thu hẹp đáng kể. Bên cạnh đó, hình thức huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá không hiệu quả. Dù vốn nhận tài trợ, uỷ thác đầu tư tăng mạnh nhưng vốn từ kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi giảm gần 70%.
Bảng 2.15. Tốc độ tăng trưởng vốn* của các NHTM trên địa bàn Hà Nội thời kỳ 2005 – 2007
Đơn vị: %
2005
2006
2007
CN NHCT Hai Bà Trưng
5,5
11,7
6,2
Bình quân các CN NHCT
11,4
13,5
8,4
Hệ thống NHTM
19,2
32,3
36,1
*: không bao gồm VCSH
(Nguồn: Báo cáo KQHĐKD của Chi nhánh 2005-2007, www.vnn.vn)
2.3.2.2. Nguyên nhân
Hạn chế trong huy động vốn của Chi nhánh xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Các nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, lãnh đạo Chi nhánh chưa quan tâm đúng mức và chưa đưa ra được những biện pháp cụ thể, kiên quyết nhằm tăng cường huy động vốn. Dù về mặt quan điểm, họ thừa nhận vai trò của hoạt động này nhưng những giải pháp để thay đổi thực trạng huy động vốn của Chi nhánh lại chưa được đưa ra, hoặc được đưa ra nhưng chưa được nghiêm túc triển khai. Sự chậm trễ về chính sách và phương hướng hoạt động kéo theo sự trì trệ trong hoạt động nghiệp vụ của các cán bộ, nhân viên Chi nhánh. Bản thân cán bộ, nhân viên thực hiện công tác huy động vốn chưa ý thức hết được tầm quan trọng của huy động này cũng không có động lực nào thúc đẩy họ nỗ lực thực hiện nhiệm vụ. Sự không quyết tâm của ban lãnh đạo cũng kéo theo nhiều vấn đề khác như: không triệt để thực hiện thay đổi tác phong làm việc hay sự phân bổ chi phí huy động vốn bất hợp lý, không quan tâm phát triển hoạt động hỗ trợ huy động vốn.
Thứ hai, chi phí vốn của Chi nhánh khá cao và không được phân bổ hợp lý trong khi mặt bằng lãi suất huy động lại thấp hơn các Ngân hàng khác. Để huy động vốn, Chi nhánh phải trang trải những khoản chi phí lớn nhưng một bộ phận trong đó, như chi phí trả lương cho cán bộ, nhân viên, chi phí kho quỹ, chi phí quản lý, lại không mang lại hiệu quả. Vấn đề này cũng xuất phát từ bộ máy nhân sự cồng kềnh, chưa năng động của Chi nhánh. Trong khi đó, chi phí cho công tác marketing cần được đặc biệt chú trọng lại không nhận được sự quan tâm. Hoạt động marketing rất ít được Chi nhánh tiến hành và khi được thực hiện thì các hình thức cũng đơn điệu, thường chỉ là những băng rôn, áp phích trưng bày tại Chi nhánh. Bên cạnh đó, dù chi phí trả lãi chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng chi phí song chính sách lãi suất của Chi nhánh không linh hoạt. Thu nhập của đa số người dân còn thấp, lãi suất cao ở mức độ nhất định sẽ đủ sức hấp dẫn người gửi tiền. Tuy vậy, hầu hết các lần điều chỉnh lãi suất của Chi nhánh đều thụ động chịu sự chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam và thường đi sau các Ngân hàng khác. Sự chậm trễ thay đổi lãi suất cũng như sự kém đa dạng các khung lãi suất khác nhau ứng với các hình thức huy động vốn khiến cho Chi nhánh không thu hút được vốn từ khách hàng cá nhân cũng như các tổ chức kinh tế.
Thứ ba, văn hoá giao tiếp và trình độ nghiệp vụ của nhân viên huy động vốn cũng như đội ngũ cán bộ, nhân viên trong toàn Chi nhánh chưa cao. Giao dịch viên là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, kể cả các cá nhân và doanh nghiệp. Tinh thần phục vụ và sự chuyên nghiệp trong xử lý giao dịch của những người này tác động nhiều đến tâm trạng cũng như ý muốn quay lại Chi nhánh của khách hàng. Dù nhiều khoá đào tạo, tập huấn cho giao dịch viên đã được tổ chức nhưng đây vẫn là vấn đề Chi nhánh chưa giải quyết được. Sự thiếu niềm nở và không tích cực trong giao dịch của nhiều nhân viên khiến khách hàng không hài lòng. Ngoài ra, một số nhân viên không vững vàng về chuyên môn làm giảm tốc độ giao dịch với khách hàng và gây ra những nhầm lẫn đáng tiếc. Ngân hàng Công thương Việt Nam là Ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước. Chi nhánh Hai Bà Trưng có lợi thế là truyền thống và uy tín hoạt động trong nhiều năm nhưng bên cạnh đó, cán bộ, nhân viên Chi nhánh cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi phong cách làm việc không năng động, thiếu tính tự chủ trước đây. Huy động vốn, cũng như các hoạt động khác, được thực hiện theo các mục tiêu, kế hoạch do Ngân hàng Công thương Việt Nam chuyển xuống. Sự lệ thuộc quá mức dẫn đến tâm lý ỷ lại của cán bộ, nhân viên vì dù kế hoạch không được hoàn thành hay Chi nhánh lâm vào tình trạng tổn thất thì Ngân hàng Công thương Việt Nam, với tư cách là Ngân hàng mẹ, phải thực hiện bù đắp. Hoạt động huy động vốn được triển khai trong sự bị động và phụ thuộc đó đã không mang lại hiệu quả cao.
Thứ tư, hệ thống cơ sở vật chất của Chi nhánh chưa đủ hiện đại và rộng khắp để đáp ứng được yêu cầu của hoạt động huy động vốn. Dù trụ sở của Chi nhánh đã được nâng cấp, lắp đặt một số trang thiết bị hiện đại nhưng không gian của các quỹ tiết kiệm vẫn còn nhỏ hẹp, chưa thuận tiện cho khách hàng gửi tiền. Hệ thống máy rút tiền tự động thưa thớt là một trong những điểm yếu của Chi nhánh cũng như của toàn hệ thống Ngân hàng Công thương. Điều này gây khó khăn cho người gửi tiền nên cản trở việc Chi nhánh tăng số lượng cũng như số dư trên các tài khoản ATM.
Thứ năm, các hình thức huy động vốn của Chi nhánh còn đơn giản, khả năng tích hợp các tiện ích kém nên không hấp dẫn được khách hàng. Hoạt động huy động vốn ở Chi nhánh chỉ được triển khai thông qua các hình thức truyền thống như nhận tiền gửi với những kỳ hạn khác nhau, phát hành các công cụ nợ, khó có khả năng thu hút khách hàng. Mặt khác, việc triển khai đó chỉ phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của Chi nhánh theo sự chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam, theo xu thế chung của các NHTM khác, không căn cứ vào kết quả nghiên cứu thị trường ở địa bàn kinh doanh. Khả năng tích hợp các tiện ích ở Chi nhánh gần như không có. Biện pháp duy nhất Chi nhánh thực hiện để mở rộng huy động là áp dụng hình thức dự thưởng theo các chương trình được thống nhất triển khai bởi Ngân hàng Công thương Trung ương.
Thứ sáu, hiệu quả sử dụng vốn của Chi nhánh không cao. Hiện nay, hoạt động sử dụng vốn chủ yếu Chi nhánh thực hiện là cho vay đang bị thu hẹp. Nguyên nhân là do tình trạng nợ xấu kéo dài trong nhiều năm, Chi nhánh đang tìm các biện pháp để xử lý. Vì vậy, chỉ một bộ phận nhỏ vốn huy động được trực tiếp sử dụng tại Chi nhánh, phần lớn còn lại được điều chuyển về Hội sở chính để chuyển xuống cho vay ở các Chi nhánh khác. Với số vốn được cho vay, một số vấn đề cũng nảy sinh như: tiến độ giải ngân chậm, tỷ lệ cho vay các DNNN khá cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro do hoạt động kinh doanh của những doanh nghiệp này tốt,… Thậm chí, có trường hợp, Chi nhánh cho vay mở L/C nhưng doanh nghiệp vẫn chưa nhận nợ. Tất cả những yếu kém đó trong hoạt động sử dụng vốn tác động xấu đến huy động vốn của Chi nhánh.
Các nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, điều kiện kinh tế - xã hội gây ra những tác động bất lợi với hoạt động huy động vốn của NHTM. Đây là nguyên nhân khách quan mà không chỉ Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng phải đối mặt. Trước hết, sự biến động của giá vàng và tỷ lệ lạm phát cao khiến người dân không muốn gửi tiền ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, người dân có thể tự do mua vàng nên sự tăng giảm của giá loại hàng hoá đặc biệt này dẫn đến sự dịch chuyển của những dòng vốn rất lớn. Dân cư chuyển từ tiền gửi tiết kiệm sang mua vàng để dự trữ và đầu cơ. Việc giá vàng và tỷ lệ lạm phát đều tăng cao góp phần làm giảm lượng vốn Chi nhánh huy động được. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam cũng đang phải đối mặt với tình trạng hệ thống thanh toán chưa hoàn thiện. Nguyên nhân này làm cho việc thay đổi thói quen giao dịch của các cá nhân, tổ chức trở nên đặc biệt khó khăn. Bản thân việc thực hiện thanh toán giữa các NHTM đã không đơn giản, việc Ngân hàng thực hiện thanh toán cho các hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ hộ khách hàng càng gặp trở ngại nhiều hơn. Minh chứng rõ ràng nhất là việc chủ thẻ ATM không thể rút tiền tại các máy không cùng hệ thống thẻ hay không thể dùng thẻ để thanh toán cho các giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ. Hình thức huy động tiền gửi thông qua các tài khoản thẻ và tài khoản thanh toán của Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng không đạt được hiệu quả cũng một phần xuất phát từ nguyên nhân này.
Thứ hai, một bộ phận lớn dân cư và cả doanh nghiệp có tâm lý ngại giao dịch với Ngân hàng. Nhìn chung, người dân Việt Nam có thói quen dùng tiền mặt và không muốn thực hiện giao dịch qua Ngân hàng. Số giao dịch của những doanh nghiệp vừa và nhỏ với NHTM cũng không nhiều. Điều này hạn chế Chi nhánh huy động được vốn dưới hình thức tiền gửi.
Thứ ba, Chi nhánh phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM khác, các Doanh nghiệp Bảo hiểm và Thị trường chứng khoán. Các NHTM cổ phần đang phát triển rất mạnh và dần chiếm lĩnh nhiều thị phần hơn. Lợi thế của những Ngân hàng này là sự năng động, nhạy bén với các biến động của thị trường và nhanh chóng nắm bắt tâm lý khách hàng. Các NHTM cổ phần đã thu hút được lượng vốn lớn từ các khách hàng cá nhân cũng như từ các tổ chức kinh tế. Khi đời sống người dân được nâng cao, nhu cầu bảo hiểm cũng lớn hơn. Họ không chỉ dùng khoản tích luỹ gửi tiết kiệm mà còn mua các hợp đồng bảo hiểm, đôi khi có giá trị rất lớn. Ngoài ra, đã có những giai đoạn, thị trường chứng khoán có sự tăng trưởng vượt bậc. Điều này khiến không ít khách hàng cá nhân rút tiền gửi, thậm chí vay Ngân hàng, để đầu tư chứng khoán. Một lượng lớn vốn được rút khỏi hệ thống Ngân hàng. Khi phải cạnh tranh với những đối thủ mạnh và năng động như vậy, Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng chưa tìm ra được những giải pháp kịp thời và hợp lý. Hoạt động huy động vốn của Chi nhánh, vì thế, đã tăng trưởng chậm lại, có bộ phận vốn còn bị thu hẹp quy mô.
Những nguyên nhân trên khiến hoạt động huy động vốn của Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng không có được sự tăng trưởng nhanh và ổn định. Nó đặt Chi nhánh trước nguy cơ gặp phải những tổn thất lớn hơn trong tương lai khi hệ thống tài chính Việt Nam phải mở cửa rộng hơn theo cam kết gia nhập WTO. Vì vậy, những biện pháp đẩy mạnh huy động vốn là vô cùng cần thiết với Chi nhánh, không chỉ để tăng trưởng vốn mà còn củng cố năng lực tài chính của Chi nhánh.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH NHCT HAI BÀ TRƯNG
Hạn chế trong hoạt động huy động vốn của Chi nhánh bắt nguồn từ cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Trong đó, nguyên nhân chủ quan giữ vai trò chính yếu. Để cải thiện tình hình và đạt được những mục tiêu kinh doanh đã đặt ra, Chi nhánh cần có những giải pháp tăng cường huy động vốn.
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CN NHCT HAI BÀ TRƯNG
Được đánh giá là một trong bốn NHTM Nhà nước lớn nhất, Ngân hàng Công thương Việt Nam vạch ra cho mình nhiều chiến lược. Mục tiêu đến năm 2010 của Ngân hàng là trở thành “một NHTM chủ lực và hiện đại, hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, an toàn, bền vững, tài chính lành mạnh, có kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa năng, mở rộng và phát triển mạnh các dịch vụ, nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, chất lượng nguồn nhân lực và quản trị ngân hàng đạt mức tiên tiến, có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ tại Việt nam”.
Là Chi nhánh cấp một của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Chi nhánh Hai Bà Trưng có nhiệm vụ đóng góp vào sự phát triển chung của toàn hệ thống. Theo đó, Chi nhánh đặt ra một số chỉ tiêu về các mặt: huy động vốn, tín dụng, thanh toán,dịch vụ thẻ và nhiều hoạt động khác trong năm 2008. Cụ thể như sau:
Tổng vốn huy động tăng 10%, đạt 3.150 tỷ đồng vào cuối năm 2008;
Tổng dư nợ và đầu tư tăng 38%, đạt 950 tỷ đồng vào 31/12/2008;
Dư nợ nhóm 2 dưới 40 tỷ đồng;
Tỷ lệ nợ xấu dưới 0,5% tổng dư nợ;
Thu nợ xử lý rủi ro: 50 tỷ đồng trở lên;
Thu dịch vụ tăng 20%, đạt 6,4 tỷ đồng;
Trích dự phòng rủi ro dưới 12 tỷ đồng;
Lợi nhuận (đã trích dự phòng rủi ro): 65 tỷ đồng trở lên;
Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng đang hướng tới mục tiêu dần cải thiện kết quả kinh doanh trên cơ sở tăng cường đồng đều tất cả các mảng hoạt động, trong đó có huy động vốn. Trong năm 2008, các mục tiêu cụ thể liên quan đến hoạt động huy động vốn được đặt ra gồm:
Nâng cao trình độ tác nghiệp, ý thức trách nhiệm và tận tuỵ phục vụ khách hàng của các nhân viên;
Phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ đặc biệt là thanh toán, chuyển tiền, dịch vụ thẻ tới tất cả các quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch;
Mở rộng mạng lưới huy động (có thêm ít nhất 2 điểm giao dịch mẫu), cung cấp sản phẩm đa dạng theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam, nâng cấp quỹ tiết kiệm đủ điều kiện thành điểm giao dịch;
Tăng cường công tác tiếp thị khuyến mại;
Nhiệm vụ huy động vốn vẫn luôn được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chi nhánh. Yêu cầu được đặt ra là Chi nhánh phải quan tâm và chủ động hơn để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng vốn huy động được. Mục tiêu Chi nhánh hướng tới huy động vốn có lãi suất đầu vào thấp, tập trung vào tiền gửi của dân cư cũng như vay đối tượng này bằng các công cụ nợ với hình thức đa dạng hơn.
3.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH NHCT HAI BÀ TRƯNG
Trước hết, lãnh đạo Chi nhánh cần xem xét, đánh giá lại mức độ quan tâm cũng như sự tập trung nguồn lực của Chi nhánh cho huy động vốn. Những chính sách về huy động vốn cũng cần được cân nhắc, sắp xếp lại và có biện pháp cụ thể để áp dụng vào thực tiễn.
Thứ hai, chính sách lãi suất và vấn đề phân bổ chi phí cho hoạt động huy động vốn cần có sự điều chỉnh. Bản thân Chi nhánh không thể tuỳ tiện quy định lãi suất vì còn chịu sự kiểm soát của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tuy nhiên, trên cơ sở đánh giá thực tế tình hình huy động và sử dụng vốn, kết hợp với việc tham khảo lãi suất của các NHTM khác trên địa bàn Hà Nội, Chi nhánh cần linh hoạt điều chỉnh lãi suất và thống nhất với các Chi nhánh Ngân hàng Công thương cùng thành phố. Điều này một mặt đảm bảo mức lãi suất của Chi nhánh đủ hấp dẫn khách hàng, không thụ động thay đổi lãi suất theo Ngân hàng khác, một mặt tránh được tình trạng cạnh tranh lãi suất giữa các Ngân hàng trong cùng hệ thống. Lãnh đạo Chi nhánh cần cắt giảm những chi phí không cần thiết hay không mang lại hiệu quả, có kế hoạch cụ thể về các hoạt động marketing và chi phí thực hiện các hoạt động này.
Thứ ba, thái độ tiếp xúc khách hàng và trình độ nghiệp vụ của nhân viên huy động vốn cũng như các nhân viên khác của Chi nhánh phải được nâng cao. Về mặt chuyên môn nghiệp vụ, các lớp tập huấn nâng cao kiến thức sẽ giúp nhân viên được rèn luyện và hoàn thiện kỹ năng làm việc. Mặt khác, bản thân mỗi nhân viên cần có ý thức tự học tập, nghiên cứu để không ngừng bổ sung kiến thức nghiệp vụ mới. Điều này chỉ được thực hiện nếu người lao động có tinh thần trách nhiệm, vì công việc, tự hào về Chi nhánh và nỗ lực cho sự phát triển của nó. Vấn đề lựa chọn nhân viên vào làm việc tại Chi nhánh cũng cần có sự kiểm tra, giám sát khách quan và nghiêm túc vì công tác này giúp đảm bảo Chi nhánh có được sự phục vụ của đội ngũ nhân viên có chất lượng.
Nghiệp vụ của nhân viên có thể được nâng cao nhanh chóng nhưng ý thức của họ không dễ thay đổi. Thái độ phục vụ khách hàng của nhân viên Chi nhánh nói chung và các giao dịch viên nói riêng phụ thuộc vào quan điểm của họ về các khách hàng. Một mặt, Chi nhánh thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo phong cách giao tiếp, nhấn mạng vào vai trò của khách hàng với Chi nhánh. Mặt khác, những quy định về thưởng và phạt với những nhân viên có thái độ tốt và kém với khách hàng cần được xây dựng và áp dụng nghiêm túc vào thực tế. Hình thức nhận đánh giá, góp ý từ phía khách hàng thông qua các bảng câu hỏi về chất lượng dịch vụ của Chi nhánh sẽ giúp các nhà lãnh đạo có những xử lý kịp thời và chính xác hơn. Nó không chỉ phản ánh tình trạng chất lượng nhân viên Chi nhánh mà còn là thước đo sự hợp lý của những chính sách huy động vốn được đưa ra. Qua đó, lãnh đạo Chi nhánh có căn cứ để kịp thời điều chỉnh.
Cũng về vấn đề này, Chi nhánh cần tạo được động lực làm việc cho các nhân viên, tránh tình trạng làm việc nửa vời, thiếu tập trung. Thay đổi chế độ lương thưởng là một giải pháp. Cùng với đó, sự kiểm tra, giám sát của nhà quản lý là rất cần thiết để dần tạo lập môi trường làm việc năng động và có ý thức trách nhiệm. Một môi trường làm việc tốt thúc đẩy mọi hoạt động của Chi nhánh được tiến hành có hiệu quả hơn. Huy động vốn không phải là hoạt động có thể được tiến hành riêng lẻ. Nó cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận có liên quan. Mỗi phòng cần có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng cho các nhân viên, tránh sự chồng chéo hay mất cân đối trong khối lượng công việc. Mức lương được đánh giá theo khối lượng công việc cũng như mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao. Việc khen thưởng tuỳ thuộc vào sự đóng góp có giá trị của nhân viên vào sự phát triển của Chi nhánh. Tình trạng khen thưởng dựa trên thành tích danh nghĩa cần được giảm bớt.
Thứ tư, cơ sở vật chất của Chi nhánh cần được mở rộng, nâng cấp cùng với việc hình thành một văn hoá kinh doanh. Chi nhánh có lợi thế về truyền thống hoạt động lâu dài, phục vụ nhiều lớp khách hàng cùng với những ưu thế về toà nhà trụ sở bề thế, vị trí giao thông thuận lợi. Ngân hàng Công thương Việt Nam là một Ngân hàng có danh tiếng. Vấn đề là làm sao phát huy được những lợi thế đó và nâng cao được hình ảnh của Chi nhánh. Trách nhiệm từ phía Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng có nhưng điều quyết định vẫn nằm ở bản thân Chi nhánh. Việc đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng các quỹ tiết kiệm, quầy giao dịch có trang thiết bị hiện đại chỉ là một khía cạnh. Chất lượng phục vụ khách hàng cần được cải thiện: thời gian giao dịch được rút ngắn; khách hàng được nhân viên hướng dẫn cụ thể, nhiệt tình; giảm bớt và đơn giản hoá các thủ tục khách hàng cần thực hiện trong quá trình giao dịch, ... Kết quả cuối cùng là sự hài lòng của khách hàng. Một trong số những đặc điểm giao dịch đó có thể được Chi nhánh chọn ra làm đặc trưng cho chất lượng dịch vụ, làm nên điểm đặc trưng của Chi nhánh.
Thứ năm, Chi nhánh cần đa dạng hoá các hình thức huy động và kết hợp một số tiện ích để cung cấp tới khách hàng. Thực tế, việc áp dụng các hình thức huy động của Chi nhánh như hiện nay hầu hết căn cứ vào nhận định chủ quan, phần còn lại là áp dụng theo số đông Ngân hàng khác. Hoạt động nghiên cứu thị trường chưa được thực hiện nghiêm túc. Chi nhánh cần có sự phối hợp với Ngân hàng Công thương tiến hành lựa chọn khách hàng mục tiêu thông qua điều tra thị trường. Đối với bộ phận khách hàng cá nhân, một số đánh giá được rút ra như sau:
Đối tượng khách hàng này được chia thành hai nhóm:
- Những người có thu nhập thấp, ổn định, chưa có tích luỹ. Đây thường là những người trẻ, chủ yếu làm việc trong những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Những người có thu nhập cao, có tích luỹ. Những người này hoặc làm việc nhiều năm hoặc làm việc trong những công ty nổi tiếng, kinh doanh có hiệu quả.
Cách tiếp cận và hình thức huy động áp dụng với từng nhóm khách hàng được quyết định bởi đặc điểm của nhóm khách hàng đó.
Để tiếp cận đối tượng khách hàng thứ nhất, Chi nhánh có thể thông qua bộ phận quản lý tiền lương của các doanh nghiệp có tương đối đông người lao động. Một cách có hiệu quả để lựa chọn những doanh nghiệp loại này là sàng lọc những khách hàng doanh nghiệp của Chi nhánh – những đối tượng Chi nhánh nắm được nhiều thông tin trong quá trình giao dịch. Những cá nhân có thu nhập không cao nhưng ổn định, chưa có tích luỹ có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu bảo toàn, sinh lời và sử dụng các tiện ích của Ngân hàng. Chi nhánh có thể khai thác đối tượng này theo hai hướng:
- Kết hợp quan hệ giao dịch với cả doanh nghiệp và người lao động. Hình thức huy động được đưa ra là một sản phẩm chỉ dành riêng cho doanh nghiệp và người lao động của doanh nghiệp đó. Mức lãi suất có thể cao hơn hoặc sử dụng chương trình ưu đãi như tặng phiếu mua hàng. Tài khoản được sử dụng là tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và ngắn hạn, bổ sung một số tiện ích như: sử dụng ATM, thanh toán tiền điện, nước, điện thoại, nhận lương, ... Khách hàng có thể chuyển kỳ hạn khi có nhu cầu. Hình thức tiết kiệm bậc thang cũng được áp dụng.
- Tiếp cận các doanh nghiệp để cung cấp dịch vụ trả lương qua tài khoản. Để làm được điều này, Chi nhánh cần đảm bảo hệ thống thanh toán của mình với các công ty cung cấp điện, nước, dịch vụ điện thoại cũng như một số điểm bán hàng là an toàn và thông suốt. Một số ưu đãi với những doanh nghiệp tham gia sử dụng dịch vụ này của Chi nhánh có thể là: xếp loại doanh nghiệp là khách hàng quan trọng và truyền thống, được hưởng các ưu tiên trong giao dịch, thời gian ngắn, thủ tục đơn giản hơn; tăng hạn mức cho vay; tăng lãi suất tiền gửi có kỳ hạn; giảm phí hoạt động thanh toán; ... Chi nhánh cần giám sát chặt chẽ để tình hình hoạt động của Doanh nghiệp để có sự hỗ trợ kịp thời khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, nhằm ổn định thu nhập cho người lao động. Tất cả những hình thức ưu đãi với cá nhân và doanh nghiệp đều phải được tính toán cẩn trọng trên cơ sở cân đối lợi ích và chi phí.
Cách tiếp cận đối tượng khách hàng thứ hai là làm việc với các cơ quan thuế. Nhu cầu của những khách hàng này là bảo toàn vốn và được hưởng những dịch vụ thanh toán. Mục tiêu sinh lời với đối tượng khách hàng này khá phức tạp. Mức lãi suất không nhất thiết cao nhưng vẫn phải giữ ở mức hợp lý và có tính đầu tư lâu dài. Chi nhánh có thể áp dụng hình thức tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn, các công cụ nợ: kỳ phiếu, trái phiếu, dịch vụ thẻ, nhất là thẻ quốc tế. Điều cốt lõi trong giao dịch với đối tượng khách hàng này là sự tôn trọng khách hàng, thậm chí là sự đối xử ưu đãi hơn những khách hàng khác. Chi nhánh có thể thực hiện xếp loại khách hàng truyền thống và cần ưu tiên.
Trên cơ sở quan hệ hiện có của Chi nhánh với các doanh nghiệp, trong đó có các Doanh nghiệp Bảo hiểm, Chi nhánh cần định hướng phát triển các loại hình huy động khác nhau: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, công cụ nợ. Nền tài chính Việt Nam hiện còn rất non trẻ và đang có nhiều biến động bất lợi. Các Doanh nghiệp Bảo hiểm không có nhiều hình thức đầu tư nên lựa chọn loại hình đơn giản nhất là gửi tiền ngân hàng. Khi hình thức đầu tư của Doanh nghiệp Bảo hiểm đa dạng và chuyên nghiệp hơn, họ sẽ giảm bớt tỷ trọng tiền gửi. Đó là nguy cơ Chi nhánh cần lường trước. Do vậy, việc xây dựng mối quan hệ khách hàng truyền thống với các Doanh nghiệp này cần được ưu tiên. Những hình thức hợp tác như: đại lý bán bảo hiểm, thu phí bảo hiểm qua tài khoản tiền gửi của khách hàng, quản lý quỹ,… sẽ mang lại cho cả Chi nhánh và Doanh nghiệp những lợi ích rất lớn.
Dù Chi nhánh đã xây dựng được những hình thức huy động và các tiện ích đi kèm nhưng điều này cần được quảng bá rộng rãi tới các khách hàng. Khi đó, hoạt động Marketing trở nên rất quan trọng. Quảng cáo qua các phương tiện truyền thông là vấn đề khó khăn với Chi nhánh cũng như cả hệ thống NHTM nói chung do tính trừu tượng của dịch vụ Ngân hàng. Do đó, Chi nhánh có thể hướng việc quảng bá vào các hình thức như tài trợ sự kiện, tổ chức hội nghị khách hàng. Đó không nhất thiết phải là những sự kiện quy mô lớn, rầm rộ. Nhưng trong mỗi sự kiện, Chi nhánh cần xác định cho được mục tiêu và đối tượng khách hàng mình hướng tới để có sự tập trung cần thiết, tránh dàn trải, mất chi phí lớn. Hoạt động quảng bá hiệu quả nhất với đặc điểm và quy mô của Chi nhánh là tiếp thị qua chính đội ngũ cán bộ, nhân viên. Để làm được điều này, Chi nhánh cần tạo cho người lao động ý thức tự hào về công việc và về Chi nhánh.
Tất nhiên, Chi nhánh không thể tự quyết định được chiến lược quảng bá cho riêng mình mà phụ thuộc rất nhiều vào Ngân hàng Công thương Việt Nam. Song Chi nhánh có thể lựa chọn cho mình cách tiếp thị phù hợp nhất trong tổng thể các hoạt động quảng bá của Ngân hàng Công thương trung ương.
Giải pháp sau cùng được đề cập tới là Chi nhánh cần phát triển đồng bộ tất cả các hoạt động kinh doanh. Sự lớn mạnh của tổng thể các hoạt động từ huy động vốn, tín dụng đến thanh toán, kinh doanh ngoại tệ và dịch vụ thẻ có tác dụng giúp các hoạt động đó có khả năng bổ trợ lẫn nhau và tạo ra một hình ảnh tốt về Chi nhánh: tiềm năng tài chính vững chắc, chất lượng dịch vụ cao. Vấn đề này còn được xem xét theo một hướng khác. Tỷ lệ sử dụng vốn – tỷ trọng vốn dùng để cho vay trực tiếp tại Chi nhánh trong tổng vốn huy động được – ở mức rất thấp. Điều này xuất phát từ chất lượng tín dụng xấu của Chi nhánh dẫn đến kết quả phải thu hẹp cho vay để tập trung xử lý nợ xấu. Doanh thu của Chi nhánh phần lớn đến từ hoạt động điều chuyển vốn lên Ngân hàng Công thương Trung ương, có thời kỳ lên tới gần 70% tổng doanh thu. Tất nhiên, điều này có thể được lý giải do địa bàn kinh doanh của Chi nhánh xuất hiện nhu cầu tiết kiệm hơn là đầu tư. Vốn được điều chuyển lên được cho vay ở những địa bàn có nhu cầu đầu tư lớn hơn. Vấn đề là bản thân công tác huy động vốn của Chi nhánh cũng không hiệu quả thể hiện ở tốc độ tăng trưởng vốn rất thấp, tốc độ tăng trưởng vốn từ dân cư thậm chí chỉ xếp thứ 10/12 Chi nhánh NHCT trên địa bàn Hà Nội. Sự mất cân đối quá lớn giữa vốn huy động và vốn cho vay cũng gây tâm lý ỷ lại cho nhân viên Chi nhánh, nhất là nhân viên thực hiện nghiệp vụ huy động vốn. Trong điều kiện cụ thể của Chi nhánh, tác động tiêu cực của việc sử dụng vốn không có hiệu quả đến khả năng huy động vốn đã được thể hiện rất rõ. Vì vậy, một giải pháp quan trọng để đẩy mạnh huy động vốn là Chi nhánh phải khẩn trương xử lý nợ xấu để phục hồi lại quy mô cho vay.
Những giải pháp được đề xuất không chỉ đòi hỏi chi phí lớn mà còn cần sự kết hợp nỗ lực của Chi nhánh với những cơ quan cấp cao hơn. Chúng chỉ mang lại hiệu quả nếu được triển khai một cách thống nhất với sự quyết tâm của lãnh đạo cũng như cán bộ, nhân viên Chi nhánh.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Chi nhánh Hai Bà Trưng hoạt động chịu sự kiểm soát của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Để đẩy mạnh huy động vốn, không chỉ cần sự nỗ lực của bản thân Chi nhánh mà các cơ quan có liên quan cũng cần có sự phối hợp hành động.
3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam
Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng là Chi nhánh cấp một của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Những nỗ lực của bản thân Chi nhánh trong việc đẩy mạnh huy động vốn không thể mang lại hiệu quả nếu thiếu sự phối hợp và hỗ trợ từ Ngân hàng Công thương Trung ương.
Thứ nhất, với tư cách là Ngân hàng mẹ, Ngân hàng Công thương Việt Nam nên tạo cho các Chi nhánh trực thuộc sự tự chủ nhất định trong quá trình kinh doanh. Sự kiểm soát về mặt tổ chức nhân sự, kiểm tra, thanh tra các mặt: tình hình kinh doanh, các tỷ lệ an toàn vốn và tài sản, khả năng đảm bảo an ninh kho quỹ, ... là hết sức cần thiết và cần được thực hiện chặt chẽ hơn. Ngân hàng cần thực hiện giám sát từ xa với các Chi nhánh và kịp thời can thiệp khi những vấn đề nảy sinh. Tuy nhiên, việc đưa ra các chỉ tiêu và kế hoạch kinh doanh cho các Chi nhánh cấp dưới cần có sự cân nhắc. Đối với huy động vốn, chỉ tiêu về quy mô vốn cũng như tốc độ tăng trưởng phải được tính toán cẩn trọng trên cơ sở phân tích tiềm năng thị trường, thế mạnh và bất lợi của Chi nhánh. Những chỉ tiêu đó cần đủ cao để các Chi nhánh phải có sự chủ động tìm biện pháp và nỗ lực thực hiện các biện pháp đó. Vấn đề quan trọng nhất nằm ở những biện pháp xử lý mà Ngân hàng áp dụng trong trường hợp các Chi nhánh không hoàn thành được kế hoạch được giao.
Thứ hai, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần khẳng định được vị thế trên thị trường. Sự phụ thuộc của Chi nhánh vào Ngân hàng Công thương Trung ương là không ít. Một trong số đó là sự phụ thuộc về danh tiếng. Tiềm lực tài chính của Ngân hàng là không nhỏ so với các NHTM trong nước nhưng so với các Ngân hàng trong khu vực Đông Nam Á, quy mô của Ngân hàng chưa lớn. Những hoạt động khẳng định tên tuổi của Ngân hàng cần được tiến hành tích cực hơn nữa. Mặt khác, chiến lược quảng bá của Ngân hàng không phải chỉ được triền khai tại Hội sở chính. Tất cả các Chi nhánh trong hệ thống Ngân hàng Công thương, trong đó có Chi nhánh Hai Bà Trưng, đều có trách nhiệm tham gia thực hiện chiến lược đó. Vì vậy, Ngân hàng Công thương cần sớm đưa ra những kế hoạch cụ thể và phân công tới các Chi nhánh. Chi nhánh Hai Bà Trưng, cũng như các Chi nhánh khác, sẽ chủ động hơn trong việc sắp xếp các kế hoạch tiếp thị riêng lẻ phù hợp với chiến lược chung của toàn hệ thống. Điều này cũng đảm bảo hình ảnh của hệ thống Ngân hàng Công thương sẽ đến với khách hàng với tính thống nhất cao thông qua những hình thức có hiệu quả nhất.
Thứ ba, Ngân hàng nên có sự xem xét về chính sách điều chuyển vốn giữa các Chi nhánh. Về mặt nghiệp vụ, Ngân hàng thực hiện công tác điều hoà vốn giữa các Chi nhánh và trả lãi tính trên số vốn được điều chuyển lên. Điều này, xét về phương diện tích cực, đã khuyến khích các Chi nhánh đẩy mạnh huy động để có thêm nguồn thu. Tuy nhiên, trên khía cạnh khác, nếu các Chi nhánh không thực hiện cho vay được hoặc cho vay với tỷ lệ rất nhỏ, phần vốn còn lại được điều chuyển lên để hưởng lãi điều hoà vốn thì chính sách đó lại gây phản tác dụng. Rõ ràng, Chi nhánh thực hiện cho vay sẽ phải trải qua quá trình thẩm định tín dụng rất vất vả nhưng vẫn phải đối mặt với rủi ro không thu hồi được vốn. Trong khi đó, việc điều chuyển vốn quá dễ dàng, gần như không có rủi ro dù cũng cần có sự cân đối với quy mô tín dụng để tránh rơi vào tình trạng thiếu hụt vốn khi khách hàng có nhu cầu vay.
Có thể thấy, việc áp dụng đơn lẻ một chính sách như vậy không có tác dụng tích cực. Ngân hàng Công thương Trung ương nên có sự điều chỉnh trong vấn đề này. Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng nên giảm lãi suất điều hoà vốn. Nó sẽ khiến doanh thu của những Chi nhánh lệ thuộc quá nhiều vào nguồn thu này giảm mạnh, gây áp lực họ phải mở rộng tín dụng. Việc giám sát hoạt động tín dụng với các Chi nhánh phải được tăng cường hơn, đặc biệt là giám sát tỷ lệ nợ xấu và khả năng thu hồi vốn cho vay. Ngân hàng có thể quy định tỷ lệ sử dụng vốn với các Chi nhánh. Biện pháp xử phạt nghiêm khắc với những Chi nhánh vi phạm hay không đạt được kết quả như kế hoạch sẽ góp phần hoàn thiện những giải pháp nêu trên.
Thứ tư, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống thanh toán, nhất là hệ thống thẻ. Sự thông suốt và tính liên kết của hệ thống thẻ là vấn đề nan giải với tất cả các NHTM của Việt Nam. Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng không đủ khả năng để thay đổi mạng lưới thẻ của hệ thống NHCT. Do đó, nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống ATM hay triển khai liên kết với các điểm bán hàng là không khả thi với Chi nhánh. Vấn đề này cần có sự tham gia của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Việc phát triển mạng lưới thẻ có khả năng kết nối giữa tất cả các NHTM hay ít nhất giữa những NHTM lớn nhất Việt Nam là không thể thực hiện trong tương lai gần. Mỗi Ngân hàng muốn giữ cho mình một vị thế riêng trên thị trường thẻ. Giải pháp Ngân hàng Công thương có thể thực hiện được để giải quyết vấn đề này chỉ là nâng cấp hệ thống thẻ do Ngân hàng triển khai. Loại thẻ mới cần được phát triển là thẻ chip, thay thế thẻ từ hiện nay. Một tiện ích khác Ngân hàng Công thương có thể mở rộng là liên kết thẻ này với hệ thống thanh toán trong các siêu thị và đặt quan hệ làm người thu phí hộ các Doanh nghiệp bảo hiểm, các công ty cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Hình thức thương mại điện tử đang dần lớn mạnh. Dù chưa thực sự phát triển ở quy mô lớn nhưng đây là lĩnh vực nhiều tiềm năng vì thói quen mua bán trực tuyến dần hình thành trong thế hệ trẻ. Ngân hàng cần thực hiện việc hợp tác với các công ty kinh doanh dịch vụ này, vừa phát triển hệ thống thanh toán, vừa đưa dịch vụ Internetbanking đến gần công chúng hơn. Sự hoàn thiện của hệ thống thanh toán sẽ tạo tiện ích cho khách hàng và tạo cho họ nhu cầu giữ tiền trên tài khoản. Đó là cơ sở để số vốn Ngân hàng huy động được gia tăng mạnh hơn.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các Ngân hàng và tổ chức tín dụng phi Ngân hàng. NHNN, với sự hỗ trợ thông qua các chính sách góp phần tác động nhiều tới sự phát triển của các NHTM.
Thứ nhất, NHNN cần có sự chỉ đạo hệ thống NHTM về chiến lược phát triển hệ thống thanh toán cũng như hệ thống thẻ. Khả năng liên kết rất kém giữa các hệ thống thẻ cùng với những sự cố về an ninh mạng đang khiến những người sở hữu tài khoản thẻ bất an. Điều này dẫn đến hậu quả là người dân mất lòng tin vào dịch vụ thẻ, nghiêm trọng hơn là lo ngại các giao dịch không dùng tiền mặt với các Ngân hàng. Mục tiêu giảm tỷ trọng thanh toán dùng tiền mặt sẽ trở nên đặc biệt khó khăn. Khả năng huy động vốn của NHTM, vì thế, sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Mặt khác, sự bất đồng giữa các Ngân hàng gây kìm hãm sự phát triển của hệ thống tài chính. Tình hình đó rất cần có sự chỉ đạo từ phía NHNN đối với hệ thống Ngân hàng.
Lý do được các NHTM đưa ra để giải thích cho tình trạng không thể kết nối hệ thống thẻ của họ luôn là công nghệ không tương thích. NHNN cần đưa ra được quan điểm về vấn đề này, thống nhất chiến lược của các NHTM hoặc ít nhất cũng là của những NHTM lớn, có tầm ảnh hưởng rộng. Những Ngân hàng có nền tảng công nghệ thấp hơn cần nhận được sự hỗ trợ nâng cấp. Sự can thiệp của NHNN – với tư cách là người quản lý, giữ vai trò trung gian tập hợp ý kiến các Ngân hàng thành viên – dù không giải quyết được vấn đề trong thời gian trước mắt cũng có tác dụng định hướng cho hệ thống NHTM. Cùng với đó, NHNN cần tham gia công tác hỗ trợ công nghệ kỹ thuật thông qua hình thức học tập kinh nghiệm từ những nền tài chính phát triển và thực hiện chuyển giao công nghệ. Đây không phải là sự can thiệp mệnh lệnh hành chính vào quyền tự chủ kinh doanh của NHTM mà là hoạch định chiến lược phát triển chung cho hệ thống tài chính Việt Nam. Điều đó giúp giảm thiểu tình trạng phân tán, mất cân đối giữa các NHTM Việt Nam.
Thứ hai, NHNN cần trình Chính phủ thông qua các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế. Để NHTM mở rộng được quy mô vốn huy động, nền kinh tế cần giữ được sự bình ổn nhất định. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát đang ở mức đáng lo ngại và giá vàng biến động thất thường. NHNN – cơ quan vận hành chính sách tiền tệ – có trách nhiệm ổn định giá trị đồng tiền và giá của hàng hoá đặc biệt: vàng. Do NHNN trực thuộc Chính phủ, cơ quan này cần có các giải pháp trình Chính phủ để ổn định kinh tế vĩ mô.
Để giải quyết vấn đề lạm phát, trước mắt, chính sách thắt chặt tiền tệ cần được thực hiện. Theo đó, NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các NHTM, giảm hạn mức cho vay tái cấp vốn và bán trái phiếu trên thị trưởng mở. Những nhược điểm của nền kinh tế nếu không được khắc phục sẽ luôn là nguyên nhân tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao. Trong dài hạn, NHNN cần xác định lại tốc độ tăng cung tiền kết hợp với các biện pháp dẫn các dòng tiền chảy qua hệ thống Ngân hàng thay vì lưu chuyển bên ngoài hệ thống như hiện nay. Công cụ thị trường mở cần được sử dụng thường xuyên và tăng cường hiệu quả hơn.
Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, các công cụ của Chính sách tiền tệ do NHNN vận hành không thực sự có hiệu lực. Để giúp tái lập trạng thái cân đối trong nền kinh tế, sự phối hợp hành động giữa NHNN và Chính phủ là vô cùng quan trọng.
3.3.3. Kiến nghị với Chính phủ
Thứ nhất, Chính phủ cần chỉ đạo NHNN và các Bộ có liên quan thực hiện các giải pháp giảm tỷ lệ lạm phát. Khi NHNN thực hiện các biện pháp giảm cung tiền thì Chính phủ cần thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu một số doanh nghiệp cung cấp các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu cam kết không tăng giá sản phẩm.
Về lâu dài, Chính phủ cần có sự đánh giá lại các mặt của nền kinh tế và yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ có sự tổng kết đánh giá những thành công và hạn chế trong hoạt động đã được triển khai. Chính phủ, thông qua Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, cần có sự kiểm soát chặt hơn thị trường chứng khoán. Sự mới mẻ của thị trường này kết hợp với tâm lý không ổn định, tính không chuyên nghiệp của nhà đầu tư khiến nó có những biến động mạnh ngoài dự kiến, tác động xấu đến nền kinh tế. Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan có liên quan xem xét lại, điều chỉnh chiến lược phát triển thị trường, hoàn thiện dần hệ thống văn bản pháp quy làm cơ sở cho các hoạt động của các chủ thể kinh tế.
Thứ hai, Chính phủ cần có những hành động cụ thể hơn để phát triển hệ thống thanh toán. Quyết định trả lương cho cán bộ công chức hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước thông qua thẻ ATM cho thấy nỗ lực của Chính phủ nhằm hạn chế tiền mặt trong lưu thông. Điều này có thể cũng là một biện pháp từ phía Chính phủ giúp NHTM huy động được số vốn có quy mô lớn hơn. Tuy nhiên, khi hệ thống thanh toán trong nền kinh tế yếu kém như hiện nay thì quyết định này chưa mang lại hiệu quả rõ ràng. Người dân có nhu cầu vẫn phải rút tiền mặt để thực hiện thanh toán. Điều này thậm chí còn mang đến nhiều phiền phức và nền kinh tế tốn nhiều chi phí hơn vì một bộ phận không nhỏ người sở hữu thẻ phải trực tiếp đến Ngân hàng để rút tiền do không thành thạo thao tác trên máy ATM hay gặp các sự cố không rút được tiền, không tìm được máy. Chính phủ cần yêu cầu các Ngân hàng cung cấp thẻ tổ chức các buổi hướng dẫn và thực hành tập các thao tác sử dụng thẻ cho các khách hàng. Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ, thông qua NHNN, có thể phải hỗ trợ các NHTM phát triển hệ thống thanh toán qua thẻ: tìm kiếm sự tư vấn của chuyên gia nước ngoài ở những thị trường thẻ phát triển, chuyển giao công nghệ từ những quốc gia này hay lắp đặt các thiết bị đơn giản phục vụ dân cư mua hàng tự động hoặc có thể được thanh toán bằng các loại thẻ, ...
Ở thời điểm hiện tại, hệ thống máy ATM quá tải vì lượng tiền mặt rút ra quá lớn. Lỗi kỹ thuật và tình trạng mất an toàn xảy ra không ít. Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo triển khai các hoạt động hỗ trợ: tăng khả năng kết nối các hệ thống thẻ, thiết lập dần hệ thống thanh toán với các điểm bán hàng, cung cấp dịch vụ, ...
Tóm lại, các biện pháp được đề xuất không thể mang lại hiệu quả nếu không được triển khai đồng bộ, không có sự phối hợp hành động giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới. Dù vậy, những nỗ lực của bản thân Chi nhánh vẫn có ý nghĩa quyết định trong việc đẩy mạnh huy động vốn. Sự hỗ trợ từ Ngân hàng Công thương Việt Nam, NHNN và Chính phủ là nhằm tạo ra môi trường thuận lợi hơn để nâng cao hiệu quả các giải pháp với Chi nhánh.
Kết luận
Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng cũng như Ngân hàng Công thương Việt Nam có truyền thống hoạt động nhiều năm, đã đạt được nhiều thành quả. Đối với khách hàng, Chi nhánh cũng đã tạo dựng được những ấn tượng tốt đẹp nhất định.
Trong điều kiện kinh tế hội nhập, như các NHTM khác, Chi nhánh phải đối mặt với một môi trường cạnh tranh quyết liệt. Những bất cập đã tồn tại trước đây trong nội bộ Chi nhánh càng trở nên trầm trọng hơn trong những biến động bất lợi từ môi trường khách quan. Một trong những biếu hiện của điều này là sự yếu kém trong huy động vốn của Chi nhánh. Sự thay đổi là rất cần thiết nhằm tăng cường huy động vốn cũng như phát triển các hoạt động khác, giúp củng cố và nâng cao năng lực tài chính của Chi nhánh.
Với đề tài “Tăng cường huy động vốn của Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng”, Chuyên đề đã giải quyết được một số điểm như sau:
Thứ nhất, Chuyên đề đã trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản nhất về Ngân hàng Thương mại, trong đó tập trung vào hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại.
Thứ hai, những nét chính về thực trạng huy động vốn của Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng đã được đưa ra cũng với một số phân tích, đánh giá.
Thứ ba, trên cơ sở đó, một số giải pháp với Chi nhánh và kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ đã được đề xuất trong Chuyên đề.
Trong xu thế đổi mới chung của cả hệ thống NHTM, Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng đặt ra phương châm kinh doanh “Hiện đại - Văn minh - Hiệu quả”. Những giải pháp và kiến nghị được đề xuất trong Chuyên đề cũng nhằm góp phần hiện thực hoá phương châm đó của Chi nhánh.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33160.doc