Chuyên đề Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hà Tây

Ngân hàng nhà nước với chức năng quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng thương mại là ngân hàng của các ngân hàn, NHNN đóng vai trò định hướng cho các NHTM trong các hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là chính sách tiền tệ có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của các ngân hàng, vì vậy NHNN cần có những chính sách tiền tệ hợp lý như: - Điều hành khung lãi suất hợp lý và linh hoạt - Xóa bỏ hạn mức tín dụng: nhằm giải quyết tình trạng nợ tồn đọng và hạn chế luồng chu chuyển vốn đối với các ngành và các doanh nghiệp - Tăng cường nghiệp vụ thị trường mở - Thực hiện chính sách ngoại hối linh hoạt có sự điều tiết của nhà nước nhằm ngăn chặn tích trữ ngoại tệ, quản lý nhu cầu ngoại tệ. Ngoài ra cần hoàn thiện khung pháp lý, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật một cách rõ ràng chính xác, tránh tình trạng sửa đổi thường xuyên gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc áp dụng.

doc69 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng. Đã được các địa phương giao thêm việc thu hộ tiền đặt cọc bảo lãnh trách nhiệm đấu giá quyền sử dụng đất. Công tác dịch vụ không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng, đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu của khách hàng về thanh toán trong và ngoài nước. Đa dạng hóa các hình thức dịch vụ, hoạt động giao dịch mua bán ngoại tệ năm 2005 là 4.198 trđ, năm 2006 đạt 1.266 trđ, năm 2007 là 1.602 trđ. Thu dịch vụ ròng là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn của ngân hàng: năm 2005 thu dịch vụ ròng đạt 3.692,3 trđ, sang 2006 thu dịch vụ tăng lên 125,7 trđ tương đương 3.818 trđ, năm 2007 đạt 3.865 trđ. 2.1.3.4. Hoạt động khác * Hoạt động thanh toán quốc tế Với công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ có trình độ và khả năng tư vấn tốt, có chính sách tiếp thị tốt nên chi nhánh đã thu hút nhiều khách hàng mới tin tưởng và sử dụng các dịch vụ thanh toán quốc tế của chi nhánh. Tính đến 31/12/2007 đã mở 156 L/C trị giá 9,563 triệu qui USD tăng 24 món. Thanh toán 229 món trị giá 998 ngàn USD, thanh toán 28 món L/C xuất khẩu trị giá 764.294 USD, tăng 1 món trị giá 61 ngàn USD, thanh toán 10 món nhờ thu đi trị giá 35.000 USD, thanh toán 198 món nhờ thu đến trị giá 6,160 triệu qui USD. Thục hiện chuyển tiền đi nước ngoài 238 món trị giá 6,481 triệu qui USD, chuyển tiền đến 294 món trị giá 6,160 triệu qui USD. Thực hiện dịch vụ chi trả kiều hối với chất lượng cao, năm 2007 nhận và chi trả trên 1768 món kiều hối trị giá trên 2,9 triệu qui USD, đảm bảo an toàn, thuận tiện, nhanh chóng cho khách hàng. Hoạt động bảo lãnh: đã phát hành 278 món trị giá 143.923 trđ. Trong năm 2007, chi nhánh đã thực hiện tốt chương trình thanh toán bù trừ điện tử, công tác thanh toán phát triển tương đối tốt có uy tín với khách hàng. Kết quả đạt được: tổng thanh toán không dùng tiền mặt trị giá 4.451 trđ, trong đó thanh toán nội bộ trị giá 3.615 trđ, thanh toán bù trừ 216 tỷ đồng, thanh toán qua tiền gửi tại NHNN 620 tỷ đồng. Với điểm nổi bật trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào chuyển tiền thanh toán, đảm bảo luân chuyển vốn cho khách hàng nhanh chóng, thuận lợi, hiệu quả góp phần giảm tối đa thời gian luân chuyển vốn của doanh nghiệp. Dịch vụ thẻ incombank Trong những năm qua, đặc biệt năm 2007 chi nhánh đã đẩy mạnh việc tiếp thị phát hành thẻ ATM. Đến 2007 tổng số thẻ phát hành đạt 11.249 thẻ ATM bằng 103,86% tổng số thẻ phát hành từ 2002 – 2006. Thẻ Visacard và Master card phát hành 20 thẻ. Ngoài ra ngân hàng còn có những dịch vụ khác như giữ hộ tài sản có giá trị gồm: cổ phiếu, trái phiếu, tài liệu quan trọng, giấy tờ có giá, chứng thư sở hữu nhà đất,.. Năm 2007, hợp đồng gửi giữ tài sản VND có trị giá 27.710 trđ, hợp đồng gửi giữ tài sản USD trị giá 31 USD, hợp đồng gửi giữ tài sản NDT trị giá 5150 NDT. NHCT Hà Tây sẽ tiếp tục hoàn thiện dịch vụ này để phù hợp hơn nữa với nhu cầu của mọi đối tượng trên thị trường. Tóm lại, trong những năm qua chi nhánh NHCT Hà Tây đã thực sự cố gắng nỗ lực và có nhiều chuyển biến tích cực trong họat động kinh doanh nhất là công tác huy động vốn, dịch vụ thẻ, tài trợ thương mại. Nhưng do một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh nên chưa trả được nợ, lãi cho ngân hàng. 2.2. Thực trạng huy động vốn của NHCT Hà Tây giai đoạn (2005 – 2007) 2.2.1. Tổng vốn huy động Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh ngày càng cấp thiết. Nhận thức được vấn đề đó trong những năm qua, NHCT Hà Tây luôn chú trọng công tác huy động vốn và đã đạt được kết quả khá cao, cụ thể: Bảng 2.2: Cơ cấu tổng vốn của NHCT Hà Tây(2005 – 2007) Đon vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) Tổng vốn 775397 100 652793 100 778087 100 1. Vốn và quỹ 0 48 0.01 163.0 0.02 2. Vốn tự huy động 422057 54.4 532745 81.61 717924.0 92.27 3. Vốn vay 353340 45.6 120000 18.38 60000.0 7.71 (Nguồn: báo cáo tổng kết cuối năm) Việc huy động vốn phải dựa trên kết quả xác định nhu cầu vốn và thực hiện đáp ứng nhu cầu đó. Nhìn vào kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT Hà Tây, chúng ta có thể nhận thấy tổng lượng vốn hàng năm tăng, song chủ yếu là tăng nguồn ngắn hạn, nguồn đi vay vẫn chiếm tỷ lệ cao. Nhu cầu hiện nay của nền kinh tế nói chung và của Hà tây nói riêng là cần nhiều nguồn dài hạn để quay vòng sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, NHCT Hà Tây cần có những biện pháp nhằm làm tăng nguồn huy động dài hạn bên cạnh nguồn ngắn hạn như hiện nay. Cụ thể: Năm 2005, tổng nguồn là 775397 trđ, trong đó nguồn đi vay từ NHNN chiếm tỷ trọng tương đối lớn 45,6% , nguồn tự huy động chiếm 54,4% trong đó chủ yếu là nguồn huy động ngắn hạn chiếm 64,85% tổng vốn tự huy động tương đương 265.888 trđ, nguồn trung dài hạn 144.077 trđ. Năm 2006, do sự tách ra của các chi nhánh cấp hai trước đây trực thuộc chi nhánh NHCT Hà Tây như Sông nhuệ, Quang trung, Nguyễn trãi thành ngân hàng cấp một ngang tầm phụ thuộc NHCT VN nên tổng vốn của ngân hàng giảm còn 652.793 trđ tương đương 15,8%. Tuy nhiên vốn tự huy động tăng lên 532745trđ trong đó nguồn ngắn hạn tăng 31,8%, trung và dài hạn tăng không nhiều đạt 3,9%. Sự tăng lên của nguồn tự huy động giúp cho ngân hàng chủ động hơn khi sử dụng đồng vốn của mình và giảm việc sử dụng vốn vay xuống còn 120000 trđ. Nguồn tự huy động tăng lên nhưng hầu hết là tăng nguồn ngắn hạn trong khi nhu cầu sử dụng nguồn dài hạn tăng nhiều hơn so với nguồn ngắn hạn. Nguồn huy động trung dài hạn chỉ đạt 149.661 trđ trong khi cho vay trung và dài hạn của chi nhánh là 353.186 tr đ. Như vậy ngân hàng phải sử dụng nguồn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, điều này là rất mạo hiểm đối với kinh doanh ngân hàng. Bước sang 2007, mặc dù phòng giao dịch Xuân mai thuộc NHCT Hà Tây tiếp tục được nâng cấp thành chi nhánh cấp một nhưng kết quả huy động vốn của chi nhánh vẫn có sự tăng trưởng đáng kể, vốn tự huy động chiếm 92,27% tổng vốn huy động, nguồn đi vay đã giảm 50% tương đương 60000 trđ so với 2006. Nguồn trung và dài hạn chiếm 22.15% tổng vốn tụ huy động, tăng 5,6% so với 2006, tuy nhiên vẫn là con số khiêm tốn so với nhu cầu vay cùng kỳ hạn. Sự tăng nhanh nguồn tự huy động không cho thấy được chất lượng mà chỉ phản ánh về qui mô. Bởi vậy, cần xem xét cụ thể cơ cấu nguồn tự huy động. 2.2.2. Cơ cấu vốn huy động Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn huy động qua các năm Đơn vị: triệu đồng chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Tổng vốn huy động 422057 100 532745 100 717924 100 1. Tiền gửi tổ chức kinh tế 192409 45.6 203418 38.2 335183 46.7 2. Tiền gửi tiết kiệm 217556 51.5 296725 55.7 378482 52.7 3. Phát hành công cụ nợ 12092 2.9 32602 6.1 4259 0.6 (Nguồn: báo cáo tổng kết năm của NHCT Hà Tây) Nhìn vào bảng số liệu và biểu đồ có thể thấy lượng vốn tự huy động năm 2005 mới chỉ là 422057 trđ thì đến năm 2006, đã tăng lên 532745 trđ, tăng 26% so với năm 2005. năm 2007 đạt 717924 trđ, tăng 34% so với 2006 và tăng 70% so với 2005. Chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là nguồn tiết kiệm dân cư: tiền gửi tiết kiệm tăng dần qua các năm với tốc độ tăng ổn định, tạo điều kiện cho ngân hang có thể sử dụng vốn một cách chủ động và mang lại hiệu quả cao. Nhưng đây cũng là nguồn rất nhạy cảm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: lãi suất, sự biến động của nền kinh tế,.. nên chi nhánh cần có kế hoạch sử dụng hợp lý để không làm ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh. Tiền gửi tổ chức kinh tế cũng tăng lên nhanh chóng, nếu năm 2005 nguồn tiền gửi tổ chức kinh tế đạt 192409 trđ chiếm 45,6% tổng nguồn tự huy động thì đến năm 2007, sau 2năm con số đã lên đến335.183 triệu đồng tăng 74,2% so với 2005, chiếm tỷ trọng 46,7% nguồn tự huy động. Xuất phát từ nhu cầu tín dụng, NHCT Hà tây đã cho phát hành các công cụ nợ là các loại kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, CCTG trong cả 3 năm, kết quả thu được : năm 2005 là 12092 trđ, năm 2006 tăng lên 32602 trđ tăng xấp xỉ 3 lần so với 2005, chiếm 6,11% tổng vốn tự huy động, sang đến 2007 đã giảm xuống xhỉ còn 4.259 triệu giảm 86,9% so với 2006. Điều này không thể hiện được chất lượng hay hiệu quả có khả quan hay không mà phụ thuộc vào thời gian và nhu cầu sử dụng vốn của chi nhánh. Xét về dài hạn, đây là nguồn trung và dài hạn cần thiết để cân đối tỷ trọng giữa nguồn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tuy nhiên, chi phí cho việc huy động vốn bằng phát hành các loại giấy nợ này cao hơn nhiều so với các hình thức khác nên sẽ làm cho chi phí đầu ra cao hơn tương ứng. Như vậy sẽ gây khó khăn cho ngân hang trong việc sử dụng và quay vòng vốn. Để hiểu rõ hơn về sự biến động các loại tiền gửi, ta sẽ xem xét sự biến động của từng loại tiền gửi qua các năm Đối với tiền gửi tổ chức kinh tế Bảng 2.4: Cơ cấu nguồn tiền gửi tổ chức kinh tế Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Tổng tiền gửi tổ chức kinh tế 192409 100 203418 100 335183 100 1. Không kỳ hạn 148708 77.29 158372 77.9 280037 83.5 2. Dưới 12 tháng 3951 2.05 905 0.4 4650 1.4 3. Từ 12 - 24 tháng 31986 16.62 9309 4.6 0 4. Trên 24 tháng 0 0 0 5. Tiền gửi quản lý và giữ hộ 50 0.03 26858 13.2 42729 12.7 6. Tiền gửi đảm bảo thanh toán 7714 4.01 7974 3.9 7767 2.4 (Nguồn:báo cáo tổng kết năm) Do đặc trưng riêng của loại tiền gửi tổ chức kinh tế, đây là nguồn mà tổ chức kinh tế gửi vào ngân hàng với mục đích chủ yếu là nhờ ngân hàng thu hộ, chi hộ và biến động thường xuyên nên kết cấu nguồn này cũng có sự khác biệt so với nguồn tiền gửi dân cư, cụ thể: Chủ yếu tiền gửi tổ chức kinh tế là nguồn không kỳ hạn, chiếm 80% - 90% tổng tiền gửi của tổ chức kinh tế. Đây là nguồn đem lại lợi nhận lớn cho ngân hàng vì với loại tiền gửi không kỳ hạn, chi phí trả lãi là rất thấp (hoặc bằng 0) và có tính chất ổn định vì các doanh nghiệp thường có quan hệ làm ăn lâu dài với ngân hàng. Năm 2005, tiền gửi không kỳ hạn là 148708 trđ tương đương 77.28% nhưng sang đến 2007 tăng vọt lên 280037 trđ tương đương 83.5% tăng gấp gần 2 lần so với 2005. Đây là xu hướng chung của các doanh nghiệp là tận dụng tối đa vốn tự có để kinh doanh không để vốn nhàn rỗi, khi tạm thời chưa dùng đến họ đều tập trung gửi ngân hàng vừa đảm bảo an toàn, tiện lợi trong thanh toán lại có thể thu được một phần lợi nhuận. Nguồn ngắn hạn (dưới 12 tháng) cũng là nguồn có sự biến động lớn: Năm 2005 là 3951 trđ, thì đến 2006 giảm xuống chỉ còn 905 trđ tương đương 77,1% và đến 2007 lại tăng lên 4650 trđ gấp 4lần so với 2006. Như đã nói ở trên, các tổ chức kinh tế thường tận dụng tối đa nguồn vốn vào kinh doanh, không để vốn nhàn rỗi và do đặc thù kinh doanh nên một doanh nghiệp khó có thể tính toán một cách chính xác sẽ có bao nhiêu vốn tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định để gửi vào ngân hàng với kỳ hạn tương đương vì vậy tỷ trọng của nguồn này trong tổng nguồn thấp là điều dễ hiểu, đặc biệt năm 2007 tiền gửi tổ chức kinh tế không có loại hình gửi trung hạn (từ 1 - 2 năm) trong khi năm 2005 tiền gửi trung hạn chiếm 16,6% tổng nguồn tương đương 31986 trđ. Một số loại hình tiền gửi khác chỉ áp dụng đối với tổ chức kinh tế như: tiền gửi quản lý và giữ hộ, tiền gửi đảm bảo khả năng thanh toán cũng chiếm tỷ lệ tương đối cao. Đối với tiền gửi quản lý và giữ hộ, ngân hàng vừa được sử dụng để kinh doanh vừa nhận được một khoản phí dựa trên tổng số tiền khách hàng gửi. Khi thực hiện chức năng thanh toán hộ khách hàng, đặc biệt là thanh toán xuất nhập khẩu, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có một tài khoản tiền gửi đảm bảo khả năng thanh toán với số dư nhất định, tài khoản này như là một sự đảm bảo của khách hàng về khả năng tài chính của mình. Đây là nguồn đem lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng vì ngân hàng có thể sử dụng khoản tiền này với chi phí thấp hoặc bằng 0. Việc nguồn tiền gửi tổ chức kinh tế tăng cao qua các năm và thu hút được số lượng lớn khách hàng mở tài khoản tiền gửi đã tăng cường thêm mối quan hệ và sự hiểu biết về khách hàng, tạo điều kiện cho việc thẩm định tín dụng do khách hàng là những người gửi tiền hiện tại sẽ là những người vay vốn tiềm năng vì tính không tương thích về thời gian và qui mô giữa lượng tiền thu về và nhu cầu chi tiêu trong sản xuất kinh doanh. Do đó, việc tăng lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. * Đối với tiền gửi tiết kiệm Bảng 2.5: Cơ cấu tiền gửi dân cư Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Tổng tiền gửi tiết kiệm 217556 100 296725 100 378482 100 1. Không kỳ hạn 338 0.16 345 0.12 6 0.00 2. Dưới 12 tháng 105127 48.32 156028 52.58 220411 58.24 3.Từ 12-24 tháng 104858 48.20 133298 44.92 154116 40.72 4. Trên 24 tháng 7233 3.32 7054 2.38 3949 1.04 (Nguồn: báo cáo tổng kết năm) Nguồn tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng công thương Hà tây chiếm trên 50% tổng vốn của ngân hàng, đây là nguồn huy động chủ yếu để đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn của ngân hàng. Vì đây là nguồn nhạy cảm với lãi suất và người gửi tiền mong muốn có được một khoản thu nhập từ tiền lãi nên họ thường lựa chọn loại hình gửi tiết kiệm có kỳ hạn trong khi các tổ chức kinh tế thường chỉ gửi nhằm mục đích thanh toán thuận tiện, thanh khoản dễ dàng nên chỉ lựa chọn gửi không kỳ hạn. Trong những năm qua, chi nhánh thường xuyên cải tạo, sửa chữa, nâng cấp và bổ sung máy móc trang thiết bị phục vụ khách hàng kịp thời, triển khai các đợt tiết kiệm dự thưởng, phát hành kỳ phiếu trái phiếu, tích cực khai thác nguồn vốn từ các dự án đền bù giải phóng mặt bằng, tiếp thị quảng bá sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng nên đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, cụ thể: Năm 2005, nguồn không kỳ hạn của tổ chức kinh tế chiếm 77,28% tổng nguồn tiền gửi tổ chức kinh tế thì nguồn không kỳ hạn của loại hình tiền gửi tiết kiệm dân cư chỉ chiếm 1,5% tổng nguồn tiền gửi tiết kiệm tương đương 338 trđ. Khác với tổ chức kinh tế, loại tiền này tăng nhanh hàng năm thì đối với tiền gửi tiết kiệm loại không kỳ hạn lại giảm mạnh : năm 2007 tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn chỉ còn 6 trđ trong tổng số 378482 trđ tiền gửi tiết kiệm dân cư, giảm 98,2% so với 2005. Sự sụt giảm nhanh chóng của nguồn này là do lãi suất của loại hình này rất thấp và người dân không có nhu cầu chi tiêu thường xuyên, thêm vào đó là việc các ngân hàng đưa ra rất nhiều kỳ hạn gửi tiền khác nhau cho khách hàng lựa chọn như: 1 tháng, 2tháng, 3 tháng,… với mức lãi suất hấp dẫn hơn so với không kỳ hạn. Nguồn có kỳ hạn tăng dần qua các năm, mạnh nhất vẫn là loại hình tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn, đối với loại hình này người gửi tiền có thể chủ động hơn trong chi tiêu mà vẫn có được một khoản lãi đáng kể, nếu cùng một số tiền người gửi đem gửi tiết kiệm với kỳ hạn dài, mặc dù lãi suất cao hơn nhưng khi có nhu cầu sử dụng tiền khách hàng phải đến ngân hàng rút tiền và phải chịu mức lãi phạt tương đương với lãi của tiền gửi không kỳ hạn, như vậy lựa chọn tối ưu cho người gửi tiền là gửi với kỳ hạn ngắn hơn như 3 tháng, 6 tháng.. khi đến hạn nếu khách hàng không đến rút, lãi vẫn được nhập gốc và tính lãi cho kỳ hạn tiếp theo. Như vậy người gửi sẽ có thêm một khoản lãi của lãi. Sự biến động của loại tiền gửi này thể hiện năm 2005 nguồn dưới 12 tháng đạt 105127 trđ chiếm 48,32% tổng tiền gửi tiết kiệm và tăng lên 156028 trđ năm 2006 tương đương 48.4% so với 2005 và đến 2007 đạt 220411 trđ tương đương 58,23% tổng tiền gửi tiết kiệm. Do nhu cầu chi tiêu, ảnh hưởng của lãi suất.. nên tỷ trọng nguồn tiền gửi trung và dài hạn cũng có sự thay đổi đáng kể, thể hiện: năm 2005, nguồn tiền gửi trung và dài hạn đạt 112091 trđ tương đương 51,5% tổng nguồn huy động thì đến năm 2006, con số tuyệt đối đã lên đến 140352 trđ nhưng tỷ trọng trong tổng nguồn lại giảm chỉ còn 47,3%. Sang 2007 nguồn trung và dài hạn đạt 158065 trđ trong đó 154116 trđ là nguồn trung hạn từ 12 – 24 tháng và nguồn trên 24 tháng chỉ đạt 3949 trđ trong khi nguồn này năm 2005 và 2006 đều đạt trên 7000 trđ. Thông thường thì nguồn huy động của ngân hàng chủ yếu vẫn là nguồn huy động nội tệ, nhưng do điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu thanh toán của các doanh nghiệp đòi hỏi phải dùng đồng ngoại tệ mạnh đặc biệt là USD nên trong những năm gần đây hầu hết các ngân hàng đều muốn thu hút nguồn tiền gửi ngoại tệ bằng cách nâng mức lãi suất huy động ngoại tệ và NHCT Hà Tây cũng không nằm ngoài xu hướng đó Bảng 2.6: Cơ cấu vốn huy động giữa VNĐ và USD Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị % Giá trị % Giá trị % VNĐ 310737 75,8 375990.0 75,2 589466.0 82,6 USD 99228 24,2 124153.0 24,8 124199.0 17,4 Nhìn vào bảng số liệu ta thấy huy động vốn chủ yếu của NHCT Hà Tây chủ yếu là đồng nội tệ, ngoại tệ chỉ chiếm một phần nhỏ, thể hiện: tỷ trọng đồng VNĐ và USD năm 2005 là 75,8% VND và 24,2% USD tương đương 99228 trđ được huy động bằng đồng ngoại tệ và chủ yếu là huy động từ tiền gửi tiết kiệm dân cư. Trong 2006, do nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu cũng như chính sách đối với đồng ngoại tệ được nới lỏng nên huy động ngoại tệ tăng vọt từ 99228 trđ năm 2005 lên 124560 trđ năm 2006 tăng 25%, trong đó 108592 trđ huy động từ tiết kiệm dân cư 15560 trđ từ tổ chức kinh tế nhưng cơ cấu giữa đồng nội tệ và ngoại tệ không có sự thay đổi đáng kể: 75,2% VND và 24,8% USD. Từ tháng 3 năm 2007, NHNN cho phép NHTM tự thoả thuận tiền gửi lãi suất có kỳ hạn bằng đồng ngoại tệ nhưng sự thay đổi cơ cấu giữa đồng nội tệ và ngoại tệ lại có xu hướng giảm xuống, ngoại tệ đạt 124199 trđ tương đương 17,4% tổng nguồn huy động trong khi đồng nội tệ chiếm 82,6%. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng đồng ngoại tệ để thanh toán xuất nhập khẩu thường là với số lượng ít do qui mô nhỏ làm cho hiệu quả sử dụng đồng vốn của ngân hàng chưa cao. Hơn nữa còn do tâm lý lo ngại sự biến động về tỷ giá nên các doanh nghiệp đều muốn vay bằng đồng nội tệ. Còn đối với người gửi tiền khi các ngân hàng TMCP đều đồng loạt tăng lãi suất huy động đối với đồng ngoại tệ cao hơn các NHTM Quốc doanh thì tất yếu người gửi tiền sẽ không mặn mà khi đến gửi đồng ngoại tệ tại NHTM Nhà nước đã làm cho lượng vốn huy động bằng ngoại tệ tăng chậm trong năm 2007,cụ thể: nguồn huy động VND tăng 85,1%; nguồn ngoại tệ tăng 9,7% trong năm 2007. 2.3. Đánh giá huy động vốn của NHCT Hà Tây giai đoạn 2005 – 2007 2.3.1. Kết qủa đạt được Trong năm qua, nguồn vốn huy động của NHCT Hà Tây đã có sự tăng trưởng vượt bậc cả về qui mô lẫn chất lượng nguồn vốn. Tốc độ tăng trưởng đạt 19,17%, chất lượng nguồn vốn cũng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng nguồn tự huy động giảm nguồn đi vay, tăng nguồn dài hạn phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn. Đa dạng hoá hình thức huy động cũng là một trong những yếu tố thu hút khách hàng của chi nhánh như: tiền gửi và tiền tiết kiệm các kỳ hạn từ 1 tháng đến 5 năm với nhiều hình thức trả lãi: trả lãi trước, trả sau, trả nhiều lần. Ngoài ra ngân hàng còn áp dụng hình thức trả lãi bậc thang áp dụng cho cả tiền gửi bằng nội tệ và ngoại tệ. Đồng thời huy động bằng phát hành công cụ nợ với thời gian và thời hạn tương đối dài cùng với các hình thức khác như tiết kiệm dự thưởng ..đã thu hút sự tò mò của khách hàng và cũng tạo được ấn tượng tốt đối với khách hàng khi đến với ngân hàng. Điểm đáng lưu ý là sự tự chủ về vốn của ngân hang, trong 2năm 2006 và 2007, không những không phải nhận vốn NHCT VN mà chi nhánh còn có lượng vốn nhất định điều chuyển lên NHCT Việt Nam thúc đẩy sự phát triển chung của toàn hệ thống, đạt được những kết quả khả quan như vậy là nhờ: Một là: Chi nhánh NHCT Hà tây đã nhận thức được những huận lợi và khó khăn của mình từ đó đưa ra chiến lược khách hàng đúng đắn, tạo được quan hệ tốt với khách hàng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng, có chính sách đãi ngộ đặc biệt với khách hàng truyền thống, mở rộng cho vay đối với khách hàng ngoài quốc doanh và các tầng lớp dân cư.. nên số lượng khách hàng đến giao dịch ngày càng tăng. Hai là: Sắp xếp luân chuyển cán bộ hợp lý, khai thác tối đa trình độ năng lực của cán bộ nhân viên, không ngừng chú trọng khuyến khích cán bộ nhân viên trau dồi kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ, phong thái khi tiếp xúc với khách hàng nên tạo được uy tín và lòng tin của khách hàng. Ba là: Có chính sách lãi suất linh hoạt, phù hợp với từng thời điểm và qui định chung trên địa bàn, áp dụng nhiều hình thức thanh toán lãi theo hướng có lợi cho khách hàng. Bốn là: Không ngừng hiện đại hoá trang thiết bị ngân hàng, thực hiện giao dịch một cửa tạo điều kiện thuận tiện cho khách hàng khi đến giao dịch. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ, trong quá trình hoạt động của mình NHCT hà tây vẫn bộc lộ những mặt còn hạn chế trong hoạt động huy động vốn như: Về cơ cấu vốn: Nguồn vốn huy động dài hạn chưa đáp ứng được với nhu cầu của các doanh nghiệp và nền kinh tế, cơ cấu vốn tự huy động giữa đồng nội tệ và ngoại tệ chưa hợp lý trong khi vốn là động nội tệ luôn trong tình trạng khan hiếm thì nguồn ngoại tệ lại chưa được sử dụng triệt để và hầu hết được sử dụng điều chuyển vốn Trung ương. Mạng lưới ngân hàng còn mỏng: Hà Tây là tỉnh lớn gồm 14 huyện thị nhưng hệ thống NHCT mới chỉ đặt địa điểm giao dịch tại TP Hà đông, TP Sơn Tây, Chương mỹ, Hoài Đức. Riêng đối với chi nhánh NHCT hà tây mới chỉ có 2 điểm giao dịch tại 269 Quang trung Hà Đông và tại La Phù Hoài Đức. Như vậy nếu người dân các huyện khác muốn sử dụng dịch vụ của NHCT thì sẽ phải đi đoạn đường rất xa, gây ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của chi nhánh. Về chất lượng dịch vụ: dịch vụ ngân hàng tuy đã mở rộng và thường xuyên nâng cấp nhưng vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu của khách hàng như: hệ thống thẻ tự động thường xuyên xảy ra sự cố gây phiền hà cho khách hàng sử dụng, cung cách phục vụ chưa thật sự chuyên nghiệp và hiệu quả nên khi khách hàng đến giao dịch thường xuyên phải đợi rất lâu. 2.3.2.2. Nguyên nhân * Nguyên nhân chủ quan - Lãi suất cạnh tranh của ngân hàng: NHCT Hà Tây là một ngân hàng quốc doanh nên chịu sự chi phối về chính sách lãi suất của NHCTVN nên trong thời điểm hiện nay khi ngày càng có thêm nhiều ngân hàng TMCP mới được thành lập, họ có chính sách lãi suất linh hoạt hơn và thực tế là lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn của các NHTMCP nhìn chung cao hơn so với các ngân hàng quốc doanh vì vậy gây khó khăn cho NHCT Hà tây nói riêng và các NH quốc doanh nói chung trong việc thu hút khách hàng. - Trình độ nguồn nhân lực: trình độ năng lực cán bộ luôn ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM. Họ chính là những người hoạch định chính sách phát triển kinh doanh của ngân hàng. Đồng thời họ chính là người trực tiếp gặp gỡ, giao dịch với khách hàng. Các cán bộ, nhân viên ngân hàng cần nâng cao trình độ nghiệp vụ, phong cách, thái độ phục vụ văn minh lịch sự tạo nên văn hóa riêng của ngân hàng. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường với mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng gia tăng. Cán bộ ngân hàng không những thực thi nghiệp vụ nhanh chóng, chính xác, linh hoạt mà còn phải có kiến thức sâu rộng, có thể tư vấn cho khách hàng trong các lĩnh vực kinh doanh: mua bán ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán…Các ngân hàng không những cần phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên của mình mà còn phải xây dựng mối quan hệ, kết hợp các phòng ban, các chính sách khuyến khích… tạo nên động lực lao động, khơi dậy trí sang tạo, niềm tự hào phát huy tốt nhất nội lực của ngân hàng nhằm xây dựng hình ảnh tốt trong tâm trí khách hàng. - Mạng lưới chi nhánh còn mỏng: gồm một trụ sở và hai điểm giao dịch, cơ sở vật chất đưa vào phục vụ còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. - Chiến lược marketing: hiện nay chi nhánh chưa xây dựng được một chính sách tiếp thị cụ thể đến từng đối tượng khách hàng. Việc thông tin quảng cáo về ngân hàng đã được thực hiện nhưng vẫn ở mức độ đơn giản, chưa thường xuyên: các băng rôn, áp phích sử dụng chưa hợp lý, chỉ được treo tại nơi đặt điểm giao dịch của ngân hàng. Việc thông tin quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng được sử dụng rất hạn chế vì vậy hoạt động của ngân hàng chưa đến được với từng người dân trên địa bàn. - Hoạt động sử dụng vốn: tuy đã có những cải thiện đáng kể, dư nợ hàng năm tăng song tỷ lệ nợ xấu vẫn không giảm, việc xử lý nợ xấu nợ tồn đọng chưa hiệu quả do đó làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng trong huy động vốn, thu hẹp phạm vi huy động của ngân hàng đồng thời làm giảm nguồn lợi nhuận đáng kể của ngân hàng. * Nguyên nhân khách quan - Thu nhập nhìn chung của người dân trong tỉnh chưa cao, trình độ nhận thức, khả năng tiếp cận với ngân hàng còn hạn chế, người dân vẫn có tâm lý muốn cất giữ tiền mặt hoặc vàng trong nhà. - Tình hình lạm phát đẩy giá cả thị trường leo thang dẫn đến tâm lý người dân lo sợ đồng nội tệ mất giá, họ có xu hướng rút tiền gửi bằng nội tệ để đổi sang vàng hoặc ngoại tệ mạnh cất giữ tại nhà làm cho các ngân hàng nói chung rơi vào tình trạng dư thừa ngoại tệ không sử dụng được trong khi đồng nội tệ khan hiếm. - Hệ thống pháp luật, chính sách tín dụng ngân hàng còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chồng chéo, thường xuyên có sự sửa đổi bổ sung gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc áp dụng. - Hiện nay, mặc dù các ngân hàng đã áp dụng hệ thống thanh toán tự động liên ngân hàng, áp dụng các hình thức trả lương qua thẻ nhưng do tâm lý cũng như thực tế hệ thống thanh toán sử dụng thẻ của hệ thống cửa hàng bán lẻ ở nước ta chưa phát triển nên họ hầu hết chỉ dùng thẻ để rút tiền mặt chi tiêu làm dòng vốn không được lưu thông trong nội bộ ngân hàng. - Có quá nhiều NHTMCP mới thành lập và hoạt động vì vậy phải chịu sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng. Nhìn chung, nhiệm vụ tạo vốn phục vụ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đang là một thách thức lớn đối với tất cả các ngành các cấp đặc biệt là các ngân hàng. Khó khăn lớn nhất của nước ta là ngân sách còn thâm hụt lớn, thị trường vốn phát triển chưa cao một bộ phận vốn nhàn rỗi vẫn nằm trong lưu thông mà ngân hàng chưa tiếp cận được, mức độ đảm bảo an toàn trong kinh doanh tiền tệ còn thấp đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHCT HÀ TÂY 3.1. Định hướng hoạt động của NHCT Hà Tây trong thời gian tới Với những khó khăn và thách thức đòi hỏi sự phấn đấu nỗ lực của các ngân hàng thương mại trong nước nói chung và chi nhánh NHCT Hà tây nói riêng cần phải tiếp tuc nâng cao chất lượng và mở rộng vốn đầu tư, đẩy mạnh huy động vốn và phát triển dịch vụ ngân hàng, chất lượng nguồn nhân lực có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ với các chi nhánh ngân hàng khác trên địa bàn. Một số trọng tâm công tác và nhiệm vụ năm 2008: Các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản: Nguồn vốn huy động và nguồn khác đến 31/12/2008 đạt 800 tỷ đồng. Trong đó vốn huy động VND đạt 665 tỷ Dư nợ cho vay đến 31/12/2008 đạt 700 tỷ đồng, tăng 34% so với 2007. Trong đó: Đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước tối đa 32% tổng dư nợ cho vay Đầu tư không có bảo đảm tối đa 26,1% tổng dư nợ cho vay Nhóm nợ 2: phấn đấu thấp hơn kế hoạch NHCTVN giao (1,57 tỷ đồng) Nợ xấu phấn đấu thấp hơn kế hoạch NHCTVN giao (4 tỷ đồng) Thu hồi nợ xử lý rủi ro ngoại bảng đạt kế hoạch NHCTVN giao Đẩy mạnh phát triển dịch vụ thẻ và các dịch vụ khác phấn đấu thu dịch vụ tăng 20% so với 2007 Thực hiện lợi nhuận hạch toán vượt kế hoạch được giao Thu nhập cán bộ công nhân viên tăng 15% so với 2007 Để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu như trên, NHCT Hà tây đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện như sau: - Tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh công tác huy động vốn theo hướng: giữ vững và tăng cường thế ổn định của nguồn vốn huy động từ dân cư, nghiên cứu mở rộng mạng lưới thành lập thêm ít nhất 1 điểm giao dịch. Đẩy mạnh khai thác tiền gửi pháp nhân đặc biệt là nguồn vốn VND, tăng cường công tác chăm sóc khách hàng đặc biệt là các tổ chức cá nhân có tiền gửi lớn lãi suất hợp lý. Đẩy mạnh khai thác, tăng trưởng nguồn vốn theo hướng đa dạng hóa nguồn vốn, cơ cấu kỳ hạn và lãi suất hợp lý, linh hoạt; tăng tỷ trọng các nguồn vốn có tính ổn định cao nhằm đáp ứng yêu cầu cho vay, đầu tư và thanh toán. Thực hiện cung cấp sản phẩm trọn gói, đảm bảo tính hiệu quả đối với khách hàng và ngân hàng, không nhất thiết phải xác định hiệu quả ở từng sản phẩm đối với một khách hàng. Đối với khách hàng chiến lược, truyền thống có chính sách mở tài khoản, áp dụng lãi suất tiền gửi, thực hiện phí dịch vụ thanh toán và dịch vụ ngân hàng hợp lý. - Tăng trưởng tín dụng đảm bảo chất lượng an toàn, hiệu quả, bền vững làm chủ địa bàn, tiếp thị thu hút khách hàng. Thực hiện chính sách khách hàng có chọn lọc, thường xuyên phân tích đánh giá, chấm điểm tín dụng, xếp hạng xác định những khách hàng tiềm năng, khách hàng chiến lược có năng lực tài chính lành mạnh, sản xuất kinh doanh hiệu quả, có tín nhiệm cao trong quan hệ với ngân hàng để xác lập, duy trì và mở rộng quan hệ tín dụng; ngược lại với những khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả, công nợ lớn kéo dài, giảm dần dư nợ và chấm dứt quan hệ tín dụng. Tập trung xây dựng bạn hàng chiến lược, trên cơ sở đó có chính sách cung cấp sản phẩm trọn gói và phù hợp (ví dụ: áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, xác lập lãi suất đầu tư trong mối quan hệ với các sản phẩm dịch vụ khác) nhằm củng cố mối quan hệ bền vững hiệu quả. Mở rộng cho vay các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Bám sát thu nợ các doanh nghiệp có tình hình tài chính không lành mạnh. Kiên quyết dung mọi biện pháp để thu nợ, chấm dứt quan hệ tín dụng Bổ sung tài sản đảm bảo đủ điều kiện pháp lý Phát triển kinh doanh đa năng, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh doanh theo thị trường, khai thác tốt nhất những lợi thế của NHCTVN. Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng bán lẻ, dịch vụ phi tín dụng. Xây dựng chính sách chọn lọc, phân loại khách hàng để áp dụng phí dịch vụ linh hoạt, mềm dẻo trên cơ sở đảm bảo lợi ích của ngân hàng và khách hàng Mở rộng dịch vụ kiều hối, đẩy mạnh công tác phát hành thẻ ATM thẻ thanh toán quốc tế, tìm điểm đặt máy ATM các cơ sở chấp nhận thẻ mới. Đảm bảo cung ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu tiền mặt và ngoại tệ của khách hàng, mở rộng dịch vụ thu chi lưu động, áp dụng chính sách tỷ giá mềm dẻo, hợp lý. Mở rộng dịch vụ chi lương trực tiếp bằng tiền mặt, qua thẻ ATM đến từng người lao động theo yêu cầu của khách hàng. Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ, xây dựng phong cách văn hóa kinh doanh và chuẩn hóa từng qui trình nghiệp vụ cụ thể. Khai thác tối đa trang thiết bị công nghệ hiện có đáp ứng nhu cầu giao dịch cho khách hàng Tiết kiệm triệt để các khoản chi phí, tăng cường quản lý, bảo vệ tài sản nhằm sử dụng có hiệu quả nhất tài sản trong kinh doanh. 3.2. Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh NHCT Hà tây 3.2.1. Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý Lãi suất là công cụ quan trọng để ngân hàng huy động hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Do đó một sự biến động nhỏ về lãi suất cũng có thể thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm hay nhà đầu tư chuyển vốn sang hình thức tiết kiệm hoặc đầu tư cho một tổ chức hay công ty khác, đặc biệt là trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt trên lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Vì vậy để thu hút vốn hiệu quả NHCT hà tây phải có những chính sách lãi suất cạnh tranh hợp lý như: Chính sách lãi suất nhằm đạt được chi phí hợp lý Ngân hàng muốn nâng cao nguồn vốn có thời gian dài nhưng lại muốn giảm thiểu chi phí huy động, để làm được điều đó ngân hàng cần nâng mức lãi suất huy động đối với tiền gửi trung và dài hạn, tiết kiệm những chi phí không cần thiết (thuê địa điểm, quảng cáo, in ấn,.. cần sử dụng cơ sở vật chất và cán bộ sẵn có). Cần có sự chuẩn bị từ trước nhằm tiết kiệm chi phí không nên để đến khi có đợt huy động thì mới quảng cáo rầm rộ tốn kém. Mặt khác cũng có thể hạ lãi suất tiền gửi không kỳ hạn hoặc lãi suất bằng 0 để đảm bảo chi phí huy động không tăng lên và chi phí đầu ra cũng không bị đẩy lên quá cao gây khó khăn cho cả ngân hàng lẫn khách hàng. Hiện nay ở một số nước đã áp dụng lãi suất bằng 0 đối với tiền gửi không kỳ hạn, thay vào đó những người gửi tiền sẽ được sử dụng những dịch vụ tốt nhất của ngân hàng mà không mất phí hoặc mức phí ưu đãi. Điều này cũng đảm bảo nguyên tắc lãi suất tiền gửi kỳ hạn dài cao hơn kỳ hạn ngắn, tạo được độ chênh về lãi suất nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời gian dài. Chính sách thưởng lãi suất đối với khách hàng duy trì số dư tiền gửi trên tài khoản với thời hạn dài hơn so với thời hạn ban đầu Đối với khách hàng rút tiền trước hạn thì ngân hàng thường áp dụng mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn. Vậy thì trong trường hợp ngược lại ngân hàng có thể khuyến khích người gửi tiền với thời hạn dài hơn thời hạn ban đầu bằng một mức lãi suất thưởng hợp lý. Đây là một việc nên làm vì người dân thường gửi với kỳ hạn ngắn 3 tháng, 6 tháng,.. vì lo sẽ có việc đột xuất cần sử dụng nhưng thực tế nhiều khi không xảy ra việc đột xuất và họ có thể không rút ra trong vòng 2 năm, 3 năm. Vậy ngân hàng nên thưởng thêm một tỷ lệ nào đó cho những trường hợp này. Điều đó sẽ thu hút thêm khách hàng có tiền nhàn rỗi nhưng chưa xác định thời gian dùng đến, khách hàng sẽ ít bị thiệt thòi hơn, mặt khác ngân hàng cũng có thêm khoản vốn để kinh doanh với thời gian dài và chi phí thấp hơn. Chính sách hợp lý với khoản tiền rút trước hạn Bản thân khách hàng không muốn rút tiền trước hạn, nhất là trong trường hợp gửi tiền với kỳ hạn dài. Song do những việc không tính trước xảy ra họ buộc phải rút tiền trước hạn. Về nguyên tắc thì khoản tiền này được áp dụng lãi suất không kỳ hạn, nhưng để khuyến khích khách hàng thì ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất với kỳ hạn ngắn hơn so với kỳ hạn ban đầu. Thực ra việc rút tiền trước hạn sẽ gây khó khăn về vốn cho ngân hàng đặc biệt là nếu khách hàng rút khoản tiền lớn trong khi ngân hàng đã dùng để đầu tư vào những dự án có thời gian thu hồi vốn dài và không thể rút lại được. Nếu khách hàng hiểu được điều đó thì sẽ không cảm thấy mình bị “bắt chẹt” trong lúc khó khăn. Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần cố gắng tối đa để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng mặc dù trong thỏa thuận không hề có như: khách hàng gửi tiền với thời hạn 3 năm nhưng được 1 năm khách hàng đã phải tút tiền thì ngân hàng có thể áp dụng mức lãi của kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng cho khách hàng thay vì khách hàng phải chịu mức lãi không kỳ hạn. Điều này sẽ tác động tốt tới tâm lý khách hàng và cũng thể hiện chính sách lãi suất linh hoạt hợp lý của ngân hàng. 3.2.2. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực hiện có Như chúng ta đã biết, không có khách hàng thì không có sự tồn tại của ngân hàng, vì thế một ngân hàng càng thu hút được nhiều khách hàng thì chứng tỏ hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng hiện đại, hiệu quả thì có thể cạnh tranh với các ngân hàng khác. Cũng cùng một sản phẩm dịch vụ như nhau, có tiện ích như nhau thì rõ rang việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ đó sẽ phụ thuộc vào các giá trị khác đi kèm, trong đó văn hóa giao tiếp ứng xử của đội ngũ nhân viên ngân hàng khi cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng là hết sức quan trọng. Đội ngũ nhân viên giao dịch là người đại diện cho ngân hàng làm cầu nối với khách hàng, hình ảnh người cán bộ ngân hàng phản ánh hình ảnh của ngân hàng đó. Một sự thỏa mãn của khách hàng cho dù nhỏ cũng ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của ngân hàng, ngược lại hình ảnh đẹp của một ngân hàng sẽ được thừa nhận và quảng bá nếu nhân viên giao dịch gây được thiện cảm với khách hàng. Đó là hình ảnh những cán bộ kiểm ngân trung thực, liêm khiết trả lại tiền thừa cho khách hàng, những cán bộ kế toán mẫu mực, tận tụy vì công việc, những nhân viên bảo vệ không quản ngại ngày đêm bảo vệ an toàn tài sản của ngân hàng và khách hàng. Trong xã hội càng văn minh hiện đại thì những qui tắc, phong cách giao tiếp lịch sự, văn minh càng cần được thể hiện. Khách hàng sẽ cảm thấy gần gũi hơn nếu được nhân viên đón tiếp tận tình với nụ cười thân thiện, luôn trong tư thế sẵn sàng phục vụ và ấn tượng đó sẽ đọng lại lâu dài trong lòng khách hàng. Ngược lại có thể hình dung tác động xấu như thế nào khi khách hàng phải chờ đợi, nhân viên đón tiếp với thái độ thờ ơ, trả lời qua loa thiếu nhiệt tình. Nếu biết sử dụng nụ cười đúng cách đúng chỗ thì giá tị của nó mang lại là rất lớn và là một trong những nhân tố mang lại thành công. Bên cạnh đó, người cán bộ ngân hàng phải biết cách lắng nghe nhu cầu của khách hàng vì có lắng nghe thì mới đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và không làm mất lòng khách hàng. Nên coi khách hàng như người thân của mình, khi ấy sẽ tạo được cảm giác gần gũi, tin tưởng và dễ thông cảm với khách hàng. Để đạt được điều đó, nhân viên ngân hàng phải có: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp làm việc khoa học, xử lý nghệp vụ kịp thời, chính xác trong thời gian ngắn, tạo được niềm tin với khách hàng Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao, không cửa quyền, phiền hà, tránh các biểu hiện tiêu cực như lợi dụng chức năng quyền hạn để mưu cầu lợi ích riêng, làm mất danh dự, phẩm chất đạo đức của người làm cán bộ và làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Trang phục gọn gàng, lịch sự, có tác phong giao dịch niềm nở, thân thiện, nhiệt tình, hiểu biết xã hội sâu rộng. Có chính sách thu hút và giữ chân nhân tài “Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn, sức sang tạo của nguồn nhân lực là vô hạn”. Một ngân hàng muốn phát triển bền vững cần có đội ngũ cán bộ nhân viên giàu kinh nghiệm, nhiệt tình, sáng tạo. Để có thể thu hút và giữ chân nhân tài, cần phân tích những yếu tố liên quan đến nhu cầu người lao động. nhu cầu đó được chia làm hai nhóm: Nhóm có thể diễn tả, đo lường được Nhóm không thể diễn tả, đo lường được Công việc ổn định, việc làm phù hợp Cân bằng giữa công việc và gia đình Thu nhập hấp dẫn Được nhận biết Cơ hội nghề nghiệp (công việc và cơ hội thăng tiến) Môi trường làm việc tốt Được đào tạo liên tục Được tôn trọng và đối xử công bằng Chính sách cụ thể, rõ ràng Tự hào về NHCTVN Cụ thể, đối với từng đối tượng, NHCT cần tập trung vào một số các nhu cầu khác nhau, việc khảo sát thực tế là cần thiết. Về phía người lao động: người lao động mới ra trường mong làm việc ở các công ty lớn với môi trường làm việc chuyên nghiệp để được học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Người lao động cấp cao mong được đào tạo và có cơ hội thăng tiến, sự tự chủ và quyền ra quyết định trong công việc Trong các yếu tố trên NHCTVN nói riêng và chi nhánh NHCT Hà tây nói riêng mới đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu. NHCT cần xây dựng một hệ thống lương, thưởng và phúc lợi công bằng và rõ ràng. Phải xây dựng hệ thống đánh giá hiệu quả công việc cho nhân viên để nâng cao ý thức, vai trò của họ và sự cố gắng để đạt được những mục tiêu công ty đề ra, để có được chế độ đãi ngộ phù hợp. Phải đánh giá được người làm tốt và ngườ làm không tốt từ đó đưa ra các chính sách tăng lương thăng chức và thưởng cho nhân viên một cách công bằng và hợp lý. Về môi trường làm việc: bao gồm trang thiết bị hỗ trợ làm việc, cách công nhận thành tích và ý kiến đóng góp của nhân viên, sự cam kết làm việc và hợp tác của nhân viên, tính chất chuyên nghiệp và sự rõ ràng minh bạch Phát triển nghề nghiệp và cơ hội thăng tiến, bao gồm: mức độ hấp dẫn và thử thách của công việc, con đường thăng tiến, cơ hội được đào tạo và phát triển. Yếu tố phát triển nghề nghiệp và cơ hội thăng tiến là một trong những yếu tố quan trọng quyết định việc nhân viên có gắn bó lâu dài hay không Một số biện pháp cụ thể trong giai đoạn hiện nay: Tận dụng lợi thế của NHCT Một là: NHCT là một trong bốn ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam hiện nay. Dưới con mắt của người lao động, những ứng viên đang có nhu cầu tìm việc, NHCT là một nơi làm việc lý tưởng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Hai là: tiềm năng từ nguồn nhân lưc nữ.với gần 70% lao động nữ, NHCT đang có thế manh tuyệt đối trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực đàm phán thu hút khách hàng. Mặt khác với việc sử dụng lao động nữ, đây là việc thực hiện bình đẳng giới, nâng cao khả năng cạnh tranh. Để thực hiện được điều này, ngoài vấn đề bình đẳng trong công việc, tiền lương và cơ hội nghề nghiệp, ngân hàng cần tạo cho nữ giới những cơ hội cân bằng giữa nghề nghiệp và gia đình. Tiến trình cổ phần hóa và hiện đại hóa giúp NHCT có được những thế mạnh từ bên trong để giữ được nhân tài. Đó là môi trường làm việc chuyên nghiệp. Để tận dụng được cơ hội, công tác thông tin truyền thông là hết sức cần thiết, cần giúp người “tài” thấy được định hướng phát triển, những cơ hội mà họ có thể nắm được trong tương li khi NHCT tiến hành cổ phần hóa. 3.2.3. Mở rộng mạng lưới huy động Như đã nói ở phần trên, mạng lưới huy động của chi nhánh còn mỏng, chủ yếu tập trung ở nơi trung tâm buôn bán, làng nghề truyền thống, điều này sẽ làm hạn chế rất nhiều đến việc thu hút vốn nhàn rỗi của chi nhánh tại những huyện xa trung tâm. Vì vậy, ngân hàng cần xem xét và đẩy mạnh việc mở rộng các bàn, quầy giao dịch đến các huyện khác trong tỉnh như: Thạch thất, Quốc Oai... sẽ đảm bảo cho việc phục vụ khách hàng nhanh chóng và thuận tiện, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. 3.2.4. Đa dạng hóa hình thức huy động Hiện nay ngoài các hình thúc huy động đã có, chi nhánh có thể nghiên cứu phát triển thêm một số sản phẩm mới như: Áp dụng hình thức huy động tiết kiệm dài hạn có mục đích: Ngoài việc mở rộng các hình thức gửi tiền truyền thống, ngân hàng có thể nghiên cứu áp dụng một số hình thức huy động mới như huy động tiết kiệm dài hạn có mục đích, cụ thể: Áp dụng hình thức tiết kiệm xây nhà ở: hình thức này tạo cho ngân hàng có nguồn vốn thời hạn dài, đồng thời người gửi tiền được quyền vay tiền tối đa bằng với số tiền tiết kiệm đã gửi với mục đích cải tạo và xây dựng nhà. Hiện nay, nhu cầu chi tiêu cho việc xây dựng nhà ở của dân chúng ngày càng cao nên hình thức này sẽ có thể áp dụng được một cách hiệu quả. Hoặc có thể tiết kiệm để mua các loại hàng hóa giá trị khác như: ô tô, xe máy... Hình thức tiết kiệm hưu trí bảo thọ: hình thức này dành cho những người có thu nhập ổn định, cán bộ viên chức nhà nước, muốn tiết kiệm một khoản tiền nhất định để khi về hưu có thể sử dụng hàng tháng như một khoản lương hưu. Với hình thức này hàng tháng họăc quý,.. tùy theo khả năng và thu nhập của người gửi có thể gửi một số tiền nhất định trong một thời hạn nhất định như 10, 15, 20 năm,.. Hình thức tiết kiệm học đường: hình thức này giành cho những gia đình có con nhỏ muốn tiết kiệm tiền cho con sau này lớn lên đi học thành tài, thành nghề. Đây cũng là các hình thức đã được các công ty bảo hiểm thực hiện như: công ty bảo hiểm nhân thọ PRUDENTIAL, bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh… điều này chứng tỏ đây là một hình thức có thể chấp nhận được và phù hợp với tâm lý, mong muốn của hầu hết các gia đình Hình thức tiết kiệm bảo đảm bằng vàng hay USD hoặc huy động tiết kiệm bằng vàng: hình thức này tránh được tâm lý lo sợ mất giá như gửi bằng VND. Với hình thức này, người gửi tiền không những an tâm vì giá trị tài sản của mình được bảo đảm theo thời gian mà còn nhận được một khoản tiền lãi nhất định. Tuy nhiên đây là những hình thức có thể chưa được áp dụng tại Việt Nam hoặc đã được một số công ty áp dụng. Do đó, NHCT Hà tây muốn áp dụng sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức và cần có sự chuẩn bị chu đáo. Hy vọng trong tương lai không xa các hình thức trên sẽ được áp dụng tại NHCT Hà Tây để bổ sung cho nguồn vốn trung dài hạn của mình. 3.2.5. Tăng cường marketing ngân hàng Để nâng cao uy tín của ngân hàng, tạo dựng hình ảnh của ngân hàng trên thị trường, chi nhánh NHCT Hà Tây cần tiếp tục thực hiện công tác thông tin quảng cáo rộng khắp để cho mọi khách hàng đều thấy được sự thuận tiện và đáng tin cậy khi thực hiện giao dịch với ngân hàng. Tuy nhiên không nên thực hiện quảng cáo tràn lan mà nên tập trung vào quảng cáo một số điểm nổi bật nhất định trong khâu cung ứng dịch vụ như: mức lãi suất hấp dẫn, lợi ích của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng, tiện ích của các dịch vụ thanh toán không dung tiền mặt… kèm theo đó là các hình thức khuyến mại hấp dẫn. Ngoài ra trong mối quan hệ với khách hàng, thái độ giao tiếp nhã nhặn của nhân viên với khách hàng sẽ tạo được lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng, bảo vệ lợi ích cho ngân hàng. Đây chính là hình thức quảng cáo tốt nhất cho ngân hàng với chi phí thấp nhất. Việc chú trọng quảng cáo tuyên truyền, tiếp thị nhất là các dịch vụ mới, các tính ưu việt so với các ngân hàng khác qua đó nâng cao uy tín, chất lượng của ngân hàng trong mắt khách hàng. Mở rộng quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, vô tuyến… các hình thức quảng cáo trực tiếp bằng các tờ rơi, các quyển cẩm nang sử dụng dịch vụ ngân hàng, băng rôn áp phích tại những nơi công cộng tập trung đông người như các siêu thị, khách sạn. Bên cạnh đó việc tài trợ cho các hoạt động văn hóa thể thao cũng là cách quảng bá thương hiệu ngân hàng để khách hàng biết đến nhiều hơn. Tích cực nghiên cứu thị trường để có thể đưa ra những chính sách khách hàng phù hợp với từng giai đoạn, tập trung nguồn lực vào những giai đoạn thị trường có khả năng đem lại hiệu quả cao. Tìm kiếm những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng khách hàng. 3.2.6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Về cơ bản, định hướng và nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng sẽ quyết định đến chiến lược huy động của ngân hàng đó. Sự cân đối giữa nguồn huy động và sử dụng vốn là một trong những tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy, ngân hàng luôn tiến hành cân đối vốn kinh doanh cho từng thời kỳ cụ thể cả về qui mô và cơ cấu nguồn vốn, chủ động điều hành và áp dụng chính sách huy động để đáp ứng nhu cầu vốn một cách chủ động. Mặt khác, ngân hàng phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bởi nếu vốn tín dụng của ngân hàng được sử dụng có hiệu quả thì mới góp phần đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, tăng thu nhập cho các cá nhân và doanh nghiệp, điều này đồng nghĩa với việc gia tăng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, là đối tượng huy động của ngân hàng. 3.3. Một số kiến nghị Trên đây mới chỉ là một số biện pháp để chi nhánh tham khảo thực hiện nhằm nâng cao khả năng huy động của mình. Tuy nhiên, để những biện pháp này thực hiện được và để cho hoạt động ngân hàng ngày càng hiệu quả thì đòi hỏi phải có sự phối hợp giúp đỡ của NHCTVN, NHNN và các ban ngành liên quan 3.3.1. Kiến nghị với NHCT Việt Nam NHCTVN cần có những cơ chế chính sách khuyến khích các chi nhánh NHCT hoạt động có hiệu quả, cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể hoạt động huy động vốn cho các chi nhánh trong toàn hệ thống. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ huy động vốn cho cán bộ nhân viên để có thể nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ của từng cán bộ. Đầu tư mở rộng qui mô, cơ sở vật chất nguồn nhân lực cho chi nhánh Hà tây. 3.3.2. Kiến nghị với NHNN Ngân hàng nhà nước với chức năng quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng thương mại là ngân hàng của các ngân hàn, NHNN đóng vai trò định hướng cho các NHTM trong các hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là chính sách tiền tệ có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của các ngân hàng, vì vậy NHNN cần có những chính sách tiền tệ hợp lý như: Điều hành khung lãi suất hợp lý và linh hoạt Xóa bỏ hạn mức tín dụng: nhằm giải quyết tình trạng nợ tồn đọng và hạn chế luồng chu chuyển vốn đối với các ngành và các doanh nghiệp Tăng cường nghiệp vụ thị trường mở Thực hiện chính sách ngoại hối linh hoạt có sự điều tiết của nhà nước nhằm ngăn chặn tích trữ ngoại tệ, quản lý nhu cầu ngoại tệ. Ngoài ra cần hoàn thiện khung pháp lý, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật một cách rõ ràng chính xác, tránh tình trạng sửa đổi thường xuyên gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc áp dụng. 3.3.3. Kiến nghị với nhà nước - Cần hoàn thiện môi trường pháp lý, đặc biệt là các bộ luật liên quan đến hoạt động của các ngân hàng thương mại, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các NHTM trong quá trình hội nhập. - Ổn định nền kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị VND không để tình trạng giá cả leo thang như hiện nay. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế. KẾT LUẬN Cùng với tài sản, nguồn vốn thực sự là một phần không thể thiếu trong bảng cân đối tài sản của ngân hàng thương mại nào, nó quyết định đầu vào của mọi hoạt động kinh doanh của một ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường dù là ở quốc gia nào, vai trò của vốn không chỉ dừng lại tong phạm vi ngân hàng mà nó hiện hữu trong toàn bộ các thành phần của nền kinh tế. Chính vì vậy, ở nước ta khi mà chặng đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước chưa hoàn tất thì việc huy động vốn từ mọi tiềm lực của nền kinh tế là điều tất yếu. Song song với huy động vốn từ nước ngoài, huy động vốn trong nước chính là nguồn lực chủ chốt để phát triển đất nước. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể tăng thêm tính tự chủ và độc lập trong quan hệ với bên ngoài. Song làm thế nào để huy động được lượng vốn lớn cả về số lượng và chất lượng thì không thể giải quyết một sớm một chiều. Thực tế những khó khăn hiện nay đòi hỏi mọi ngành, mọi lĩnh vực phải nỗ lực phấn đấu. Với vai trò là đầu mối của nền kinh tế trong việc điều phối vốn, các NHTM trong nước đã đang tự hoàn thiện mình, từng bước tăng khả năng cung cấp và giải ngân vốn cho nền kinh tế phát triển. Sự kết hợp có hiệu quả giữa tập trung thu hút vốn và sử dụng vốn, cùng với mở rộng hợp tác quốc tế, các NHTM thực sự góp phần quan trọng trong mục tiêu chiến lược đưa đất nước sớm trở thành một trong những con Rồng Châu á, khẳng định vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn kinh tế thế giới. Đó không chỉ là mong muốn mà còn là quyết tâm của người dân Việt Nam trên con đường xây dựng và phát triển đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Frederics mishkin Ngân hàng thương mại, Đại học kinh tế quốc dân Tạp chí ngân hàng các số năm 2005 - 2007 Báo cáo tổng kết năm của NHCT Hà tây Tạp chí thông tin Ngân hàng công thương việt nam số tháng 12/2007 và tháng 3/2008. Một số trang web và tạp chí khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36885.doc
Tài liệu liên quan