MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: HUY ĐỘNG VỐN TỪ TIỀN GỬI DÂN CƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2
1.1.1. Khái niệm: 2
1.1.2.Vai trò, các hình thức huy động vốn của NHTM 3
1.1.2.1 Các hình thức huy động vốn của NHTM 3
1.2.1.2. Vai trò của hoạt động huy động vốn của các NHTM 7
1.2. HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI DÂN CƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 9
1.2.1. Dân cư - đối tượng huy động vốn của NHTM 9
1.2.2. Đặc điểm, vai trò của nguồn vốn huy động tiền gửi dân cư 9
1.2.2.1. Đặc điểm vốn tiền gửi dân cư 9
1.1.2.2. Vai trò của huy động vốn tiền gửi dân cư 10
1.2.3. Các hình thức huy động tiền gửi dân cư của NHTM 11
1.2.4. Chi phí huy động tiền gửi dân cư của NHTM 13
a. Xác định lãi suất tiền gửi dân cư: 14
b. Nguyên tắc xác định lãi suất: 15
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI DÂN CƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 15
1.3.1. Nhân tố khách quan: 16
1.3.1.1. Hành lang pháp lý: 16
1.3.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước: 17
1.3.1.3. Tâm lý thói quen tiêu dùng của người gửi tiền: 17
1.3.2. Nhân tố chủ quan 18
1.3.2.1. Đội ngũ cán bộ công nhân viên làm công tác huy động vốn của NHTM 18
1.3.2.2. Cách thức huy động vốn tiền gửi dân cư của NHTM và các yếu tố khác 20
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI DÂN CƯ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
2.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐỐNG ĐA ẢNH HƯỚNG TỚI CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI DÂN CƯ 24
2.1.1. Một số nét khái quát về NHCT CN Đống Đa 24
2.1.1.1. NHCT CN Đống Đa 24
2.1.1.2. Vài nét sơ lược quá trình hình thành và phát triển của NHCT CN Đống Đa. 25
2.1.1.3. Vị trí, nhiệm vụ của NHCT CN Đống Đa 26
2.1.2. Những đặc điểm chính chi phối đến công tác huy động vốn tại NHCT CN Đống Đa 28
2.1.2.1. Xuất phát từ cơ chế thị trường: 28
2.1.2.2. Xuất phát từ phía dân cư: 28
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA. 29
2.2.1. Tình hình công tác huy động vốn 30
2.2.2. Về tình hình sử dụng vốn và các mặt hoạt động khác 34
2.2.2.1. Hoạt động tín dụng 34
2.2.2.2. Các mặt hoạt động khác 38
2.2.3. Thực trạng công tác huy động vốn tiền gửi dân cư tại NHCT CN Đống Đa 42
a. Huy dộng tiền gửi tiết kiệm dân cư: 48
b. Huy động tiền gửi dân cư thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu 63
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI DÂN CƯ TẠI NHCT CN ĐỐNG ĐA THỜI GIAN QUA 65
2.3.1. Một số thành công đã đạt được 65
2.3.2. Những mặt chưa được và nguyên nhân 66
2.3.2.1. Những mặt hạn chế 66
2.3.2.2. Một số nguyên nhân 68
a. Nhóm nguyên nhân thuộc về phía NHCT CN Đống Đa: 68
b. Nhóm nguyên nhân từ bên ngoài: 69
Chương 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI DÂN CƯ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
3.1. ĐỊNH HUỚNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA. 72
3.1.1. Sự cần thiết phải tiếp tục tăng cường huy động vốn tiền gửi dân cư trong giai đoạn tới 72
3.1.2. Định hướng công tác huy động vốn tiền gửi dân cư tại NHCT CN Đống Đa trong giai đoạn tới 73
3.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI DÂN CƯ TẠI NHCT CN ĐỐNG ĐA 74
3.2.1. Tăng cường công tác quảng cáo và tiếp thị 74
3.2.2. Xây dựng thương hiệu và uy tín của NHCT CN Đống Đa 76
3.2.3. Đa dạng hoá các sản phẩm của chi nhánh 80
3.2.4. Phát triển các dịch vụ liên quan: 83
3.2.5. Xây dựng những gói sản phẩm dịch vụ - sản phẩm với những sản phẩm lõi (core products) và sản phẩm bao quanh (surround products) 83
3.2.6. Sử dụng lợi nhuận hợp lý: 84
3.3. KIẾN NGHỊ VỚI CHÍNH PHỦ VÀ NHCT TW: 84
KẾT LUẬN
92 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1694 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường huy động vốn tiền gửi dân cư tại Ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khiến cho dân chúng “nảy sinh” nhu cầu săn lùng những đồng ngoại tệ mạnh như USD khiến cho việc huy đồng tiền gửi ngoại tệ nói riêng cũng như tiền gửi dân cư nói chung gặp nhiều khó khăn. Năm 2005 nền kinh tế tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức như dịch cúm gia cầm, giá xăng dầu tăng cao, đặc biệt là sau đợt tết Nguyên đán 2005 xu hướng tăng lên của hàng hoá tiêu dùng không hề giảm do đó dẫn đến việc người dân phải nắm giữ nhiều tiền hơn để phục vụ cho trao đổi mua bán. Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho doanh số HĐV của CN tuy có tăng về tuyệt đổi song tốc độ tăng không cao so với giai đoạn trước là mấy. Hơn nữa sự tăng giá của một số mặt hàng nhập khẩu quan trọng đã tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm chậm tiến độ thực hiện nhiều dự án, khiến cho cung của vốn huy động giảm, lãi suất huy động tăng, ảnh hưởng đến chi phí huy động.
Bên cạnh đó, CP phải thường xuyên phát hành công trái tổ quốc, kho bạc nhà nước liên tục phát hành trái phiếu, kỳ phiếu để bù đắp cân đối thu chi dẫn đến hạn chế, phân tán tiền gửi dân cư vào NH. Cụ thể, như các đợt phát hành liên tục trái phiếu xây dựng tổ quốc, trái phiếu thủ đô... vừa qua
Hiệu quả quản lý và sử dụng vốn tiền gửi dân cư của NHCT CN Đống Đa chưa cao: NHCT CN Đống Đa luôn đứng đầu về khả năng HĐV song công tác cho vay đầu tư chưa thực sự sử dụng hết khả năng nguồn vốn của mình. Hầu như nguồn vốn huy động được chủ yếu chuyển về quỹ điều hoà của NHTW. Sự tách biệt giữa huy động và cho vay theo em sẽ là một nhân tố rất bất lợi ảnh hưởng đến chi nhánh trong thời gian tới. Vì rằng, như đã trình bày ở phần chương 1, chiến lược HĐV là chiến lược lâu dài, nó phải dựa trên “yếu tố thị trường” là chủ yếu. Việc NHCT CN Đống Đa thực hiện huy động cũng như sử dụng vốn hiện nay là theo sự chỉ đạo của NHCT TW là một điều khá bất hợp lý, dù hàng năm chi nhánh vẫn hoàn thành chỉ tiêu được giao-đó là kết quả đáng ghi nhận. Song về lâu dài thì như thế là “không ổn”, NH nếu coi như một thực thể sống thì nó phải tỏ rõ sự thích nghi với môi trường sống xung quanh. Không thể có một khuôn mẫu hoàn hảo cho các NH cứ thế áp dụng và thành công được. Nghề ngân hàng là một nghề đòi hỏi sự nhanh nhậy trong nắm bắt tình hình song cũng đòi hỏi sự cẩn trọng và dĩ nhiên cả sự sáng tạo vì thế nếu ở thê “bị động” CN sẽ khó mà có thể phát huy hết khả năng của mình. Với xu thế hội nhập, mở cửa kinh tế như hiện nay chỉ e rằng một thời gian không lâu nữa các NHTM CP, các NHLD, Các NH nước ngoài sẽ là những đối thủ đáng gờm nhất đối với các NHTM NN ta. Do đó mà thay vì xem xem kế hoạch năm nay “cấp trên” giao cho “ta” là bao nhiêu, mà hơn hết Những người “thuộc” về CN nên tự đặt câu hỏi cho mình rằng: KH của NH mình là ai? Họ muốn gì? Trong gia đình họ, ai là người quyết định mua các sản phẩm của NH? Làm thế nào để phục vụ họ tốt nhất? Đồng thời thay vì Cho vay theo chỉ định, CN cũng cần phải biết từ chối những KH không phù hợp. NH cần phải thường xuyên phân tích lợi nhuận và rủi ro. Các đối tượng KH tránh là các đối tượng KH không mang lại lợi nhuận do chi phí quá cao (NHCTCN Đống Đa trong năm 2003 đã lỗ 1 tỷ đồng) hoặc những KH không tốt, tiềm ẩn rủi ro.
Như vậy, trong những năm qua, những thành quả đạt được của NHCT CN Đống Đa là rất đáng ghi nhận và cần được phát huy tốt hơn nữa. Ngược lại, những mặt hạn chế thì NHCT CN Đống Đa cần chú trọng tìm cách khắc phục, để đẩy mạnh công tác HĐV trong dân cư, thu hút tối đa nguồn vốn còn nhàn rỗi trong dân cư, góp phần tạo thêm sự dồi dào hơn nữa nguồn vốn huy động phục vụ phát triển hoạt động kinh doanh của NHCT CN Đống Đa.
Chương 3
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI DÂN CƯ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
3.1. ĐỊNH HUỚNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA.
3.1.1. Sự cần thiết phải tiếp tục tăng cường huy động vốn tiền gửi dân cư trong giai đoạn tới
Công cuộc CNH-HĐH đất nước từ nay đến năm 2010 đòi hỏi nỗ lực vươn lên của từng phần tử trong nền kinh tế. Đất nước ta còn nghèo, mức thu nhập bình quân đầu người mới chỉ đạt 400 - 410 USD/năm, tuy không cao song cũng đã có sự tăng trưởng khá trong thời gian gần đây. Ngay từ ĐH Đảng lần thứ VII đã khẳng định: “Nguồn vốn nước ngoài là chủ yếu, vốn trong nước quyết định”. Một số các nhà kinh tế nước ngoài đang khuyến cáo rằng Việt Nam nên dựa vào nguồn vốn trong nước để đầu tư phát triển kinh tế cho chính mình là chủ yếu, chớ nên quá coi trọng nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Bởi vì nguồn vốn đầu tư của nước ngoài có thể “đội nón ra đi” bất cứ lúc nào, nếu tại Việt Nam việc đầu tư không mang lại lợi nhuận cao so với các nước khác. Rút kinh nghiệm của các nước đi trước trong công cuộc CNH-HĐH đất nước đã dựa vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài dẫn đến cuối cùng bị thất bại thảm hại, ví dụ như Mêhicô…Chỉ vì dựa chủ yếu vào nguồn vốn nước ngoài là ODA, WB, IMF… thì cũng là nguồn đi vay, dầu lãi suất có thấp hay cao cũng phải trả lãi, mặt khác sẽ hoàn toàn bị động trong nguồn vốn này, nhất là khi đến hạn trả nếu không có nguồn bù đắp vào khoản này sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế thậm chí còn trở thành con nợ khổng lồ mà khoản nợ đó đến đời con cháu vẫn không trả được, đó chính là bài học xương máu của đất nước ÁcHenTiNa. Hiện nay, trong dân cư lượng vốn không chỉ bằng tiền mà bao gồm: Đất đai, sức lao động, chất xám… Ngoài ra hàng năm lượng tiền thân nhân từ nước ngoài gửi về Việt Nam khoảng từ 30-40 tỷ (ngoại tệ các loại) nhưng chúng ta chưa kiểm soát chặt chẽ nguồn ngoại tệ này. Chính vì vậy, hiện nay các NHTM phải thực sự thấy rõ trọng trách lớn lao của mình trong công tác HĐV trung và dài hạn từ dân cư để đáp ứng yêu cầu cấp bách đối với nền kinh tế. Trong thời gian qua mặc dù HĐV từ các NHTM đã đạt được coi trọng song doanh số thu hút được so với lượng tiền trong dân cư thì chưa phải là một con số lớn mới chỉ chiếm 9-10% mà thôi. Chúng ta không chỉ xây dựng một đất nước mà chỉ trông chờ vào một lượng vốn từ nước ngoài, trong lúc đó số của cải vật chất sẵn có của mình lại không phát huy hết hiệu quả, phải xác định rằng muốn xây dựng một gia đình nói riêng, một nền kinh tế nói chung phải dựa vào nguồn lực của mình là chính. Bởi vì nguồn vốn tiết kiệm và tích luỹ trong nước là gốc rễ bền vững vô tận, nó vừa là điều kiện để huy động, sử dụng tại chỗ, vừa tạo khả năng tiếp nhận, hấp thụ tốt mọi nguồn vốn khác từ ngoài vào. Đồng thời với biện pháp HĐV tối đa, cần có chính sách khuyến khích tạo nguồn, bồi dưỡng cho nguồn này ngày càng tăng. Vậy chúng ta khẳng định rằng hiện tại và lâu dài việc “tăng cuờng khai thác triệt để nguồn vốn trong dân cư”, là sự cần thiết và có tính cấp thiết đối với các NHTM.
3.1.2. Định hướng công tác huy động vốn tiền gửi dân cư tại NHCT CN Đống Đa trong giai đoạn tới
Nền kinh tế nước ta ngày càng khởi sắc, điều này thể hiện ở mức sống ngày càng tăng của người dân, đặc biệt là người dân trên địa bàn Hà Nội, trong đó bao gồm cả khu vực Đống Đa, thu nhập và tích luỹ ngày càng tăng lên nhưng do tích luỹ thu nhập của mỗi người dân là hoàn toàn khác nhau, do vậy mục đích của mỗi người không giống nhau. Người có thời gian dài, người có đồng tiền nhàn rỗi ngắn và nhiều hay ít cũng khác nhau. Hơn nữa, trong tương lai cũng vậy, họ sẽ chi tiêu sắp tới cũng muôn hình muôn vẻ. Xuất phát từ thực tiễn đó bắt buộc các NHTM phải tiếp tục đa dạng hoá hình thức HĐV của mình để nhằm đáp ứng yêu cầu của mọi cá nhân trong xã hội.
Nhận thức được vấn đề này, NHCT CN Đống Đa đã sớm xây dựng các kế hoạch, chiến lược hoạt động của mình nhằm hoàn thành nhiệm vụ NHCT VN giao cho đồng thời góp phần chủ động tham gia vào tiến trình phát triển, hội nhập kinh tế của đất nước. Mục tiêu của NHCT CN Đống Đa là tiếp tục giữ vững vị thế là một CN loại một trong hệ thống Incombank VN. Tiếp tục thực hiện đề án tái cơ cấu lại NHCT VN năm 2001-2010 giai đoạn 2 (từ 2005-2010). Theo đề án này, công tác HĐV rất được coi trọng, đặc biệt đối với các nguồn vốn huy động từ dân cư, các nguồn vốn trung và dài hạn nhằm tạo sự ổn định về nguồn cho các hoạt động kinh doanh khác. Nguồn vốn uỷ thác cũng được chủ trương mở rộng. Là một đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của NHCT VN, lại là CN cấp 1 của NHCT VN, là một CN NHTM lớn trên địa bàn Hà Nội có nhiều lợi thế trong công tác HĐV, NHCT CN Đống Đa đã định hướng tăng cường HĐV dân cư trong thời gian tới nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của bản thân, góp phần cung cấp vốn cho các CN khác trong hệ thống, cùng các CN thực hiện thành công kế hoạch về nguồn vốn của NHCT VN.
Tuy nhiên, việc mở rộng khai thác vốn trong dân cư tại CN còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế do ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan và khách quan. Để nâng cao vốn huy động từ tiền gửi dân cư việc làm cần thiết của CN là tìm những giải pháp có thể khắc phục những khó khăn và vướng mắc, từ đó đưa ra chiến lược HĐV thích hợp. Việc tăng cường HĐV cho NHCT CN Đống Đa cần phải hướng tới:
Tạo tính chủ động cho NH trong việc điều chỉnh khối lượng và cơ cấu vốn từ đó chủ động trong đầu tư cho vay và thu nợ. Đồng thời phát triển quan hệ hợp tác với các CN NHCT khác trong cùng hệ thống cũng như các NH bạn khác theo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh hợp tác vì lợi ích cuả toàn hệ thống cũng như học hỏi kinh nghiệm của các bên tham gia hợp tác.
Phát triển nguồn vốn huy động. Đặc biệt là huy động nguồn tiền từ dân cư, đồng thời tiết kiệm chi phí.
Phát huy khả năng và hiệu quả của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của NH.
Trên cơ sở các yêu cầu đó và căn cứ vào những chỉ tiêu phát triển nguồn vốn của NHCT VN, kế hoạch kinh doanh và khả năng thực tế trong công tác HĐV của bản thân NH, những dự báo về thị trường; NHCT CN Đống Đa đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hợp tác chặt chẽ, phối hợp với các CN khác thực hiện mục tiêu, chủ trương chính sách như: Chính sách KH, chính sách lãi suất ... do NHCT VN giao cho để đảm bảo tạo nên một sự thống nhất trong toàn CN. Không ngừng phát huy thế mạnh sẵn có trên địa bàn hoạt động, uy tín đối với KH, trình độ công nhân viên... cùng với sự giúp đỡ của NHCT VN và cấp chính quyền địa phương đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu KHCN tiên tiến vào hoạt động thanh toán, qua đó rút ngắn thời gian, giảm chi phí cho KH và NH tạo đà cho công tác HĐV bám sát được nguồn.
3.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI DÂN CƯ TẠI NHCT CN ĐỐNG ĐA
Là một CN trực thuộc của Incombank VN, do đó hoạt động của CN vừa phải tuân thủ nguyên tắc chung của toàn hệ thống đồng thời cũng có tính độc lập tương đối. Qua phân tích thực trạng công tác huy động vốn tiền gửi dân cư tại NHCT CN Đống Đa ở trên đã chỉ ra những mặt hạn chế trong công tác huy động vốn tiền gửi dân cư tại chi nhánh hầu hết những hạn chế này là xuất phát từ nội tại của bản thân CN. Cụ thể đó là ở xây dựng chính sách huy động nguồn tại CN (bao gồm Chính sách lãi suất và Chính sách KH). Hiện nay, CN tiến hành HĐV rất thụ động, căn cứ vào những chỉ tiêu được NHCT TW giao cho. Do đó, hiệu quả của công tác HĐV được đánh giá thông qua việc có hoàn thành chỉ tiêu đã đề ra hay không, mà chưa dựa vào tình hình cung - cầu vốn trên toàn địa bàn, mặt khác công tác HĐV tại CN còn tách biệt so với công tác sử dụng vốn... Do đó, phần sau đây em xin đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế đang tồn tại đồng thời để tiếp tục tăng cường hơn nữa hoạt động huy động vốn tiền gửi dân cư đối với NHCT CN Đống Đa
3.2.1. Tăng cường công tác quảng cáo và tiếp thị
Công tác quảng cáo và tiếp thị được thực hiện tốt sẽ góp phần tạo dựng một hình ảnh quen thuộc, tin cậy về NH đối với thị trường, kể cả thị trường tiềm năng. Điều này cho phép NH “lọt” vào danh sách lựa chọn của KH khi họ có nhu cầu sử dụng các dịch vụ của nghành này, đặc biệt là đối với những KH mới sử dụng hoặc sử dụng không thường xuyên các dịch vụ NH.
NHCT CN Đống Đa được kế thừa uy tín, tên tuổi mà toàn hệ thống đã nỗ lực xây dựng trong 15 năm qua. Thời gian hoạt động vừa qua, NHCT CN Đống Đa đã tích cực tạo dựng hình ảnh của mình trên thương trường bằng chất lượng các dịch vụ, bằng các biện pháp quảng bá, tuyên truyền trên các tờ báo lớn (Thời báo ngân hàng; Tạp chí ngân hàng; Tạp chí kinh tế... Mặc dù vậy, tên tuổi của các đơn vị thuộc các NHTM NN khác vẫn có phần quen thuộc hơn đối với KH trên địa bàn. Vì thế NHCT CN Đống Đa nên dành một phần chi phí thích đáng để đẩy mạnh công tác quảng cáo trong thời gian tới. Đặc biệt chính sách khuyếch trương cần phải linh hoạt và phù hợp với đối tượng là cá nhân và hộ gia đình. Chính sách khuyếch trương gồm có chính sách khuyến mại (tiết kiệm dự thưởng; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ưu đãi... ) Chính sách quảng cáo (qua tivi, báo.... ) Chiến dịch PR - Public Relation (phát hành tờ rơi đến từng KH hoặc bán hàng trực tiếp...):
Về phương diện quảng cáo: Bên cạnh việc sử dụng các công cụ báo chí, NHCT CN Đống Đa nên sử dụng các hình thức khác nhằm đảm bảo sự đa dạng của các kênh quảng cáo như phát hành các tờ rơi, lắp đặt các bảng thông tin, cung cấp thông tin qua điện thoại, quảng cáo trên mạng máy tính, mở Website riêng...
Phát hành tờ rơi quảng cáo có ưu điểm là tiết kiệm chi phí, thông tin đăng tải khá đầy đủ và chi tiết, dễ dàng đến được với nhiều người kể cả những người chưa có nhu cầu sử dụng dịch vụ NH... NHCT CN Đống Đa nếu có điều kiện nên áp dụng biện pháp trực tiếp gửi tờ rơi quảng cáo đến từng nhà, từng tổ chức kinh tế xã hội trên địa bàn qua đường bưu điện, nên chủ động cử cán bộ trực tiếp đến các tổ chức kinh tế, xã hội để thiết lập mối quan hệ.
Bảng thông tin là một phương tiện quảng cáo khá cần thiết, cung cấp cho KH những thông tin cơ bản về các dịch vụ đang được cung cấp. Ngoài loại bảng viết hoặc dán chữ, NHCT CN Đống Đa cũng đã lắp đặt một số bảng điện tử hiện đại thuận lợi cho việc niêm yết các thông tin thường xuyên thay đổi như lãi suất, tỷ giá. Trong thời gian tới, NHCT CN Đống Đa có thể tham gia đăng ký quảng cáo trên các bảng điện tử được lắp đặt tại những nơi công cộng như: ngã tư sở, ngã tư Kim Liên, ngã tư Đại cồ việt....
Quảng cáo trên internet nên được tăng cường hơn nữa, vì việc tìm kiếm thông tin trên mạng đã trở thành một thói quen của hầu hết dân cư thủ đô Hà Nội. Quan trọng hơn nữa là thông tin trên mạng có tính cập nhật nhất, bất kỳ một biến động nào cũng đều được truyền tải đi một cách nhanh nhất và đây là cách quảng cáo có tính hiện đại nhất hiện nay, tất cả các NH đều đang áp dụng hình thức quảng cáo này. Song song với việc quảng cáo trên internet, thì NHCT CN Đống Đa cũng nên triển khai một số các dịch vụ thực hiện qua mạng nếu có điều kiện
Về nội dung cần truyền tải của CN đối với người dân trên địa bàn Đống Đa phải được tập trung vào những thông tin mà KH quan tâm và nó cần được cung cấp một cách cập nhật, chính xác, dễ hiểu, nêu bật được ưu nhược điểm hay sự khác biệt về sản phẩm mà NHCT CN Đống Đa đang cung cấp. Một bảng thông báo các hình thức HĐV được trình bày đầy đủ, dễ hiểu, lãi suất được niêm yết sẽ giúp cho KH dễ dàng hơn trong việc so sánh và lựa chọn một sản phẩm phù hợp với mình. Tờ rơi quảng cáo được in ấn đẹp mắt, những lợi ích của KH hoặc những nét độc đáo của sản phẩm được làm nổi bật... sẽ thu hút sự quan tâm của KH.
3.2.2. Xây dựng thương hiệu và uy tín của NHCT CN Đống Đa
Là đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của một NHTM QD lớn nhất Việt Nam, NHCT CN Đống Đa có được sự tin tưởng lớn của KH. Tuy nhiên, NHCT CN Đống Đa cần tiếp tục thực hiện tốt các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn cho tài sản của KH, đảm bảo các hoạt động diễn ra trôi chảy, đặc biệt là không để xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán dù là trong thời gian ngắn. Chỉ có như vậy, hình ảnh CN mới được người dân tiếp tục biết đến và tin tưởng, ăn sâu vào tâm trí họ. Để khi chưa có quyết định sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của mình đầu tư vào đâu thì “người” đầu tiên họ nghĩ đến là NHCT CN Đống Đa. Để giúp tạo dựng thương hiệu cũng như uy tín cho NHCT CN Đống Đa trong thời gian tới: CN cần chú ý một số hoạt động như nhằm “Tăng cường các lợi ích về mặt kinh tế cho KH” sau:
CN phải luôn luôn cân nhắc trước những quyết định của mình về việc tăng cường lợi kinh tế cho các KH vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của NH, mặc dù những sự gia tăng chi phí trước mắt này có thể tạo nên cho ngân hàng những lợi ích kinh tế tron tương lai. Căn cứ vào tình hình cạnh tranh trên địa bàn Hà Nội hiện nay cùng với những điều kiện thực tế của mình, NHCT CN Đống Đa nên thực hiện các biện pháp cụ thể như:
Hướng vào chính sách KH
Để đứng vững trong cạnh tranh, CN cần tổ chức tốt việc nghiên cứu KH. Đó là việc CN cần tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu về đặc điểm, sở thích, thói quen của người dân trên điạ bàn. Xem xét xu hướng tiêu dùng và tích luỹ trong giai đoạn tới để trên cơ sở đó đưa ra các chiến lược, chính sách, chương trình HĐV thích ứng. NH nên tổ chức thường xuyên các hoạt động như: tặng quà, thăm hỏi, tặng sổ xố, tặng sổ tiết kiệm cho một số tài khoản cá nhân của KH theo hình thức quay số.
Chính sách “Marketing hưóng vào KH” trong NHCT CN Đống Đa đang là một vấn đề mới mẻ cho nên phải có nhiều biện pháp đẩy mạnh hơn nữa. Ngày nay văn minh nhân loại trong lưu thông tiền tệ là hướng tới sự thanh toán không dùng tiền mặt, NH phải đoán trước được tính quy luât này để có được những cơ chế thích hợp nhằm kích thích do dân chúng có thói quen sử dụng các tiện lợi do NH mang đến như khuyến khích và hướng dẫn mọi người mở tài khoản cá nhân và phổ cập việc sử dụng séc trong đông đảo các tầng lớp dân cư, trước hết là dùng séc trong các quan hệ thanh toán có tính ổn định và thường xuyên như trả dịch vụ điện, nước, điện thoại, bảo hiểm.
Ngoài ra NH cũng phải biết rằng “sức mạnh vật chất” của phương pháp thông tin trong hoạt động HĐV, Có thể dùng một hình ảnh sau: Một đứa trẻ con ở ngoài xã hội khi nói đến thuốc nhức đầu thì nó bật ngay chữ “panadol”, nhưng khi đột nhiên có một số tiền lớn như tiền thưởng, tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tiền bồi hoàn... Hoặc tiền do thân nhân từ nước ngoài gửi cho thì không phải bất cứ người lớn nào cũng bật ra được chữ “Hãy gửi tiết kiệm” mà thường nghĩ trước tiên là đi sắm một cái gì đó... Do vậy NHCT CN Đống Đa nên sử dụng triệt để hệ thống thông tin với tư cách là để triển khai một chính sách lớn của NHCT VN về HĐV từ nay đến 2010.
Trong thời gian gửi tiền tại NH, theo em được biết trên thực tế bây giờ quy định sau 10-15 ngày tính từ lúc người gửi tiền bị đột tử thì người thân, người thừa kế mới được hưởng và rút số tiền đó theo nguyện vọng. Chính vì lẽ đó trong cuộc sống thực tế có nhiều gia đình, cá nhân khi xảy ra bất trắc đã không được NH tạo điều kiện cho họ rút ngay trong lúc khó khăn. Điều này cũng là một nhân tố làm tăng tâm lý giữ tiền mặt của người dân Việt Nam nhằm phòng ngừa những bất trắc có thể xảy ra. Nhất là những gia đình có mức thu nhập vừa phải, họ sẽ có xu hướng giữ tiền ở nhà hơn là gửi vào NH. Đặc biệt là số hộ dân như vậy trên địa bàn Đống Đa lại tương đối lớn. Do đó mà NHCT CN Đống Đa nên xem xét đến đối tượng huy động của mình một cách kỹ lưỡng hơn nữa thông qua chính sách KH. Cụ thể:
Chính sách KH: CN cần phải hiểu rõ được lợi ích mà CN thu được phụ thuộc vào lợi ích mà KH của CN thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh, lợi ích của người gửi tiền. Trong khi đó, trong tiềm thức của dân cư và các tổ chức sản xuất kinh doanh thì NHCT Đống Đa vẫn là CN trực thuộc NHCT VN và lượng KH mà NHCT CN Đống Đa có được dựa vào uy tín của NHCT VN khá lớn. Vì vậy, NH cần phải có chính sách KH đúng đắn đó là duy trì KH truyền thống, khuyến khích các KH cũ quay lại giao dịch với ngân hàng, thu hút mở rộng KH mới, đảm bảo lợi ích cho cả NH và KH. NH cần phải chủ động phân loại KH để có cách đối xử phù hợp. Những KH lâu năm, có số dư tiền gửi thì CN cần có chính sách ưu tiên về lãi suất, về kỳ hạn món vay, hạn mức tín dụng hay tài sản thế chấp... Bên cạnh đó, trong cuộc cạnh tranh quyết liệt để thu hút và giữ chân KH, thì lãi suất cao hay việc nâng cao chất lượng giao dịch là chưa đủ. NHCT CN Đống Đa nên có chiến lược KH hiệu quả để có thể thu thập được những thông tin KH cần thiết; lưu trữ thông tin KH theo một hệ thống tập trung và khoa học để có thể sủ dụng những thông tin đó xây dựng một bức tranh đầy đủ về nhu cầu hiện tại cũng như tương lai của KH. Trên cơ sở đó, NHCT CN Đống Đa cũng có thể xây dựng các chiến lược marketing hiệu quả; tăng cường mối quan hệ lâu dài với những KH mục tiêu. Một cơ sở dữ liệu KH đầy đủ và liên tục cập nhật là cơ sở để CN nhanh chóng phát hiện những cơ hội kinh doanh; tìm kiếm những giải pháp phát triển sản phẩm mới hay đổi mới phương thức phục vụ nhằm cung cấp các dịch vụ với chất lượng cao với mức chi phí hợp lý.
Để làm được điều đó, ngày nay, một hệ thống giải pháp đang được đề cập đến rất nhiều không chỉ trong giới NH mà còn trong rất nhiều các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ khác. Đó là hệ thống giải pháp quản trị quan hệ KH vẫn thường được gọi là CRM (customer relation management). Hệ thống CRM là một hệ thống được xây dựng trên cơ sở các ứng dụng thông tin KH một cách hệ thống và hiệu quả. Do đặc thù của nghành NH là có một hệ thống KH rất phong phú và đa dạng với số lượng lớn nên việc quản trị quan hệ KH đối với các NH là rất khó khăn, phức tạp. Vì thế, CRM nhận được sự quan tâm đặc biệt của nghành NH. Hệ thống này được trung tâm năng suất Việt Nam giới thiệu cho các doanh nghiệp Việt Nam và hiện nay trong giới NH, đã có Techcombank đang triển khai áp dụng hệ thống này và đã thu được bước đầu hiệu quả. NHCT CN Đống Đa có thể nghiên cứu áp dụng hệ thống này như một giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ KH nói riêng và công tác quản trị KH nói chung.
Đó là một số nội dung cơ bản mà chính sách KH cần hướng vào trong thời gian tới. Song trong việc hoạch định những chính sách riêng của bản thân CN cũng cần xem xét đến chính sách mà NHCTTW đang áp dụng để đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống. Nên tổ chức gặp gỡ thường xuyên với ban lãnh đạo của các CN khác trong cùng hệ thống để học hỏi thêm kinh nghiệm của họ trong hoạt động nói chung và công tác huy động tiền gửi dân cư nói riêng
Chính sách lãi suất:
Lãi suất huy động luôn là mối quan tâm hàng đầu đối với người gửi tiền và là yếu tố quyết định việc có gửi tiền hay không đối với phần lớn trong số họ. Một người có món tiền định gửi tiết kiệm thường có quyết định lựa chọn NH có lãi suất huy động cao hơn nếu họ cho rằng có sự tương đương giữa các NH về mặt an toàn, tiện lợi. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận chịu sự tác động mạnh của lãi suât.
Hiện nay lãi suất đã được tự do hoá, hình thành trên cơ sở cung cầu về vốn của thị trường. Đây là một thuận lợi cơ bản đảm bảo sự tự chủ trong kinh doanh của các NH. Các NHTM tuỳ vào mục đích, khả năng của mình có thể áp dụng chiến lược cạnh tranh bằng giá cả mà không bị khống chế bởi NHNN như trong thời gian trước. Tuy nhiên, các NHTM cũng luôn biết rằng cạnh tranh bằng giá là một chiến lược tốn kém và sẽ đẩy giá cả thị trường lên cao. Do đó, cạnh tranh về chất lượng trên cơ sở một chính sách lãi suất hợp lý là xu thế cạnh tranh về lâu dài.
Song một điều có thể nhận thấy là hiện nay công cụ cạnh tranh chủ yếu hiện nay giữa các đơn vị NH trên địa bàn thành phố Hà nội là lãi suất. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của hầu hết các NH trên địa bàn. Với định hướng phát triển bền vững, NHCT CN Đống Đa nên tập trung nâng cao sức cạnh tranh thông qua nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ bên cạnh việc áp dụng một chính sách lãi suất mềm dẻo, bám sát các diễn biến của thị trường và có tính chất cạnh tranh ở mức hợp lý. Để khuyến khích KH gửi nhiều tiền, NHCT CN Đống Đa nên phân quy mô các món tiền gửi ra một số mức và áp dụng lãi suất cao hơn đối với món tiền gửi lớn hơn. NHCT CN Đống Đa cũng cần xem xét triển khai một số hình thức tiết kiệm chung cho phép một số KH đồng sở hữu một tài khoản tiết kiệm để họ được hưởng những lợi ích tù chính sách này.
Muốn thu hút được tiền gửi dân cư theo yêu cầu trung hạn thì trước hết các NH phải chấp nhận tiếp nhận tiền tiết kiệm theo thời hạn trung và dài hạn, thậm chí NH còn có thể đề ra mức thời gian là 20 năm. Điều này không phải là không thực tế vì hiện nay xuất hiện dần những tầng lớp gia đình trẻ có khả năng làm ra tiền sớm nhưng họ chưa có con cái hoặc con còn nhỏ vậy họ có ý định đầu tư cho con cái ngay từ bây giờ hoặc đầu tư cho chính tuổi già của mình. Dù số người này không chiếm tỷ lệ cao trong xã hội nhưng không phải là không có và với một xã hội có tính ổn định cao lại không cho phép người dân làm như vậy. Và khi mà NHCT CN Đống Đa đưa ra được những thời hạn như vậy cho việc gửi tiền tiết kiệm thì trước hết sẽ tăng thêm niềm tin cho người dân.
Ngân hàng cần có phương pháp khuyến khích người dân gửi tiền Trong quý I/2006 này, giá cả tương đối ổn định vàng đang đứng giá và có chiều hướng giảm thì lãi suất huy động hiện nay thực sự không còn hấp dẫn người dân gửi tiền nữa. Do vậy, việc khuyến khích người dân gửi tiền vào CN không còn đơn thuần chỉ là việc nâng lãi suất lên, nhưng nếu nâng lên thì phải cân đối tính toán đầu ra sao cho phù hợp và có lãi, NH cần phải có một số biện pháp thiết thực nhưng hữu hiệu để khuyến khích người dân gửi tiền phải trên cơ sở hiểu người dân muốn gì, được gì.
Khuyến khích bằng lợi ích vật chất.
Khắc phục tình trạng gửi tiền để tham dự xổ số có thưởng, hinh thức này chỉ đem lại may mắn cho vài người như trước đây. Chúng ta nên thực hiện hình thức gửi tiền dù nhiều hay ít (từ 1 triệu trở lên) cũng đều được nhận một món quà lưu niệm, tuỳ theo số tiền gửi mà có sự khuyến khích bằng giá trị vật chất tương ứng với tỷ lệ được tính trên số tiền gửi. Đây là việc làm mang tính thiết thực mà ai cũng có thể nhận được hơn là một sự may mắn cho vài người.
Cho KH được hưởng một số quyền lợi nhất định:
Khi gửi tiền vào NH, KH có thể được hưởng một số quyền lợi như được NH tư vấn miễn phí trong thực tiễn tín dụng thuê mua, thực hiện dịch vụ mua hàng miễn phí giúp cho KH được mua hàng trả góp với giá ưu đãi... (tất nhiên là phải quy định một số tiền gửi trở lên)
Thực hiện các nhiệm vụ này là trong tay của NH có khả năng thực hiện được thông qua các hợp đồng giữa NH với các doanh nghiệp bán hàng sinh hoạt như NH cung cấp vốn tín dụng cho các doanh nghiệp này, ngược lại các doanh nghiệp này bán hàng thông qua việc NH mua hàng giúp cho KH, cả đôi bên cùng có lợi. Đối với những người dân là cán bộ công nhân viên có thu nhập thấp nhưng lại có nhu cầu mua nhà ở, trong điều kiện tiền để dành của họ không thể có một lúc để mua ngay căn nhà được, tất nhiên họ cần được giúp đỡ từ phía NH. Đây là điều kiện thuận lợi cho NH, NH khuyến khích họ gửi tiền vào NH sau đó hướng dẫn cho họ mua được căn nhà trả góp. NH cho vay số tiền còn thiếu tuỳ theo số tiền gửi ban đầu, NH có thể quyết định mức cho vay thời gian và lãi suất phù hợp.
Đối với Việt kiều cư trú ở nước ngoài:
NH có thể phát hành trái phiếu ngoại tệ để HĐV. Khuyến khích họ gửi tiền và khi họ gửi tiền, họ cũng được hưởng những ưu đãi như phí chuyển tiền thấp, lúc đó chúng ta sẽ chuyển đổi từ ngoại tệ ra VNĐ để chuyển cho thân nhân họ (thực hiện đúng quy chế quản lý và nhu cầu thanh toán, sử dụng tiền trên lãnh thổ Việt Nam đều phải dùng VNĐ), hoặc NH sẽ phối hợp với ngành du lịch tổ chức ưu tiên cho những Việt kiều có mua trái phiếu hoặc có tiền gửi vào NHVN được về thăm quê hương với chi phí thấp hơn so với nơi khác. Lúc đó, ta sẽ thu hút được một lượng ngoại tệ lớn từ những dịch vụ du lịch này.
Tổ chức các kênh phân phối tiện lợi và hiệu quả
NHCT CN Đống Đa nên tiếp tục mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch trên địa bàn thành phố Hà Nội, đặc biệt là các khu vực đông dân cư, giao thông thuận tiện.
NHCT CN Đống Đa cũng nên tiến hành dịch vụ NH tại nhà (home-banking), thực hiện mở một số dịch vụ NH qua mạng điện thoại(phone-banking), qua mạng máy tính (e-banking)nếu có thể thực hiện được một cách an toàn.
NHCT CN Đống Đa nên thành lập phòng Marketing để có thể chuyển môn các công tác về thị trường, KH và xúc tiến các hoạt động kinh doanh.
3.2.3. Đa dạng hoá các sản phẩm của chi nhánh
Nhu cầu của người gửi tiền rất đa dạng. Chúng khác nhau về mục đich, kỳ hạn, phương thức gửi tiền; Cách thức lấy lãi, lấy gốc... Nắm bắt và thoả mãn được các nhu cầu của KH là biện pháp hữu hiệu giúp NH thực hiện tốt hoạt động HĐV.
Huy động tiền gửi có kỳ hạn:
Huy động tiền gửi có kỳ hạn cần phải định ra nhiều loại kỳ hạn dài 3 năm; 5 năm; 10 năm. Về nguyên tắc, loại kỳ hạn dài có lãi suất cao hơn kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên, lãi suất kỳ hạn dài không thể quá cao vượt mức chịu đựng của nền kinh tế. Thông thường người gửi tiền có kỳ hạn dài thường lo âu là khi các NH phá sản họ sẽ không thu hồi được các khoản tiền gửi. Vì vậy, theo em đối với những khoản tiền gửi dài hạn cần phát hành các trái phiếu dài hạn có thể chuyển nhượng một cách dễ dàng, trên thị trường các trái phiếu này có thể bán lại cho các cá nhân khác, cho các doanh nghiệp, cho các NH, cho bất cứ tổ chức, cơ quan nào có khả năng tài chính và họ muốn mua nó. Một vấn đề khác cần quan tâm hiện nay là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền dài hạn. Tức nhiên, trước hết là lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn. Các khoản lãi phải được trả đúng hạn hoặc nhập vốn đúng theo ý muốn của người gửi tiền. Trong trường hợp có lạm phát mạnh về giá trị tiền gửi cần phải được đảm bảo. Những quy định trên cần phải được công bố cho mọi người được biết và phải được pháp luật bảo hộ.
Hiện tượng cất trữ vàng, đá quý như một loại tài sản để dành cho con cháu mai sau còn phổ biến trong dân cư. Làm thế nào để vận động mọi người chuyển các hình thức cất giữ tài sản này trở thành tiền gửi dài hạn là một vấn đề có ý nghĩa cao đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. HĐV tiền gửi bằng vàng là một hình thức được các NHTM áp dụng. Song cũng chỉ huy động ngắn hạn chưa có huy động dài hạn, có thể thực hiện việc bán vàng và gửi vàng vào NH hay không. Theo em, có thể thực hiện hình thức này như: Khi một cá nhân nào đó muốn mua vàng để cất trữ có thể để một NH nộp vào số tiền cần mua theo giá trị thị trường để mua số vàng mà mình muốn mua, người mua để số vàng đó NH cất giữ, NH cấp cho người mua một giấy chứng nhận người đó có gửi vàng vào NH nhờ cất trữ hộ, số lượng vàng cụ thể nào đó mà người mua đã mua. Khi người có vàng muốn lấy vàng ra để sử dụng thì cần phải báo cho NH biết trước một ngày và NH phải mua đủ số vàng đó để trả cho người gửi vàng. Trường hợp người gửi muốn bán vàng cho NH thì theo giá thị trường để thanh toán cho người gửi vàng.
Thực chất việc mua bán này chỉ thực hiện trên sổ sách của NH mà vàng không xuất hiện, vàng chỉ xuất hiện khi người gửi muốn nhận lại vàng thật sự. Em cho rằng phương pháp này rất an toán cho người mua vàng để cất trữ vì không phải mang vác vàng về nhà. Hình thức này có thể thực hiện thanh toán khi người gửi vàng dùng vàng đó để thanh toán hay chuyển nhượng cho người khác họ sẽ yêu cầu NH chuyển quyền sở hữu số vàng đã gửi qua người được thanh toán. Về phía NH cũng có thể giảm được việc nhập vàng để thoả mãn yêu cầu mua vàng của dân chúng và giảm bớt việc mua bán vàng trên thị trường. Tuy nhiên, đây là hình thức huy động mới mẻ cần phải được luật pháp chế định các quan hệ mua bán phải được tuyên truyền giải thích cụ thể trong dân cư. Các NH cần phải dự trữ một số lượng vàng nhất định để đảm bảo thanh toán bằng vàng cho KH.
Huy động tiền gửi tiết kiệm:
Việc huy động tiền gửi tiết kiệm thường đuợc người dân quan tâm hơn cả nhưng theo em: Tiền gửi tiết kiệm thường nhằm vào mục đích nhất định như mua nhà, mua ôtô. Để huy động tiền gửi tiết kiệm theo loại này cần phải tạo ra một sự hấp dẫn, nhất là phải chú trọng đến yếu tố giá rẻ, thủ tục mua bán dễ dàng đơn giản, vị trí, chất lượng hấp dẫn của các loại hàng hoá mà người gửi tiền muốn đạt đến. Muốn đạt được điều đó CN phải phối hợp với các tổ chức cung cấp như: tổ chức kinh doanh địa ốc, kinh doanh xe máy... Để đặt hàng rẻ hơn giá bán lẻ trên thị trường một vài điểm để kích thích người gửi tiền tiêt kiệm. NH cần phải thực hiện hộ KH và thủ tục chuyển giao quyền sử dụng (mua bán) tạo ra sự thoải mái cho KH... VD: Loại hình tiết kiệm để mua nhà ở: NH ký kết hợp đồng với ngưòi gửi tiền giá trị căn nhà mà họ được xây dựng có thiết kế mẫu, khi số tiền tiết kiệm hội đủ số tiền cần thiết NH sẽ yêu cầu công ty xây dựng thực hiện hợp đồng xây nhà cho KH. Em cho rằng hình thức tiết kiệm để mua nhà ở hoặc xây nhà là một hình thức hấp dẫn mà các NH có thể thực hiện với sự giứp đỡ của nhà nước về mặt quy hoạch các khu dân cư và thủ tục chuyển giao quyền sở hữu.
Đa dạng hoá về đồng tiền huy động
Mỗi người luôn để tài sản của mình dưới dạng các tài sản sinh lời hoặc ít nhất là bảo toàn được giá trị. Sự ổn định về giá trị là căn cứ quan trọng để KH lựa chọn nắm giữ một đồng tiền nào đó, đặc biệt là đối với những KH có kế hoạch gửi tiền dài hạn. Mặt khác, những chi phí hoặc sự phức tạp khi thực hiện chuyển đổi một đồng tiền này sang một đồng tiền khác là những lý do khiến KH muốn sử dụng ngay đồng tiền mình đang nắm giữ khi gửi NH. Sẵn sàng nhận các đồng tiền như VNĐ, USD, EUR, vàng và một số ngoại tệ mạnh khác ở tất cả các hình thức HĐV; Nhận gửi bằng đồng tiền này nhưng đảm bảo giá trị của nó theo những đồng tiền có uy tín cao hoặc vàng, bù đắp sự hao mòn do lạm phát đối với tiền gửi của KH, NHCT CN Đống Đa chắc chắn sẽ mở rộng được khả năng HĐV của mình.
Cung cấp các sản phẩm mới
Các sản phẩm mới được cung cấp nhìn chung đều cần có những sự hấp dẫn đặc biệt và nên hướng tới phục vụ một nhóm KH nhất định, nhờ đó đem lại độ thoả dụng cao cho KH. NHCT CN Đống Đa có thể xem xét phát triển một số sản phẩm sau:
Loại tiết kiệm cho tương lai gồm một danh sách các sản phẩm dành riêng cho các nhóm KH khác nhau. Đây là hình thức tiết gửi góp dài hạn và có tính ổn định cao nên cần được ưu đãi về lãi suất và có các hình thức chăm sóc KH.
Tiết kiệm hưu trí là sản phẩm dành cho những người đang công tác, có tích luỹ và muốn tiết kiệm để khi hết tuổi lao động, họ có được một nguồn tài chính phục vụ cho nhu cầu chi tiêu. Sản phẩm này thường được cung cấp dưới hình thức gửi theo niêm kim cố định, bắt đầu trả lãi khi KH nghỉ việc.
Đối với những người già có thu nhập, sản phẩm tiết kiệm tuổi già sẽ giúp họ tích luỹ và sinh lợi những khoản tiền dư dôi. Phát triển sản phẩm này cần quan tâm đến các tiện ích như giao dịch tại nhà, cung cấp định kỳ thông tin về tài khoản của KH cho họ một cách rõ ràng và dễ hiểu.
Tiết kiệm giáo dục được cung cấp cho những gia đình có thu nhập khá, có con em sắp hoặc đang trong độ tuổi đến trường. Hiện nay, phong trào du học tự túc của học sinh, sinh viên trên địa bàn thủ đô khá sôi động. Nhiều gia đình thực hiện các kế hoạch tiết kiệm từ khi con em mình còn nhỏ để sau này có điều kiện cho chúng các cơ hội học tập tốt. Cung cấp dịch vụ này, NH giúp KH thực hiện tốt hơn kế hoạch của họ, đồng thời còn đảm bảo sự sinh lời của tài sản KH. NHCT CN Đống Đa nếu phát triển đuợc sản phẩm này nên tổ chức mọt bộ phận tư vấn giáo dục chuyên nghiệp nhằm tư vấn cho KH. NHCT CN Đống Đa nếu phát triển được sản phẩm này nên tổ chức một bộ phận tư vấn giáo dục chuyên nghiệp nhằm tư vấn cho KH về lĩnh vực này.
Ngoài ra còn nhiều các sản phẩm tiết kiệm đặc thù khác như tiết kiệm mua nhà, tiết kiệm mua ôtô... ; kinh tế thủ đô liên tục đạt mức tăng trưởng cao trong nhưng sản phẩm có sức hấp dẫn lớn hiện nay và nên được cung cấp thường xuyên. Sản phẩm HĐV hiện đại như thẻ tiết kiệm chẳng hạn được phát triển bởi sự tiện lợi trong giao dịch và phù hợp với những KH trẻ.
Kỳ phiếu, trái phiếu có mệnh giá tối thiểu thích hợp được cung cấp theo yêu cầu của KH, dao động trong một phạm vi quy định của NH cũng là những sản phẩm độc đáo đem lại thuận lợi nhất định cho KH.
3.2.4. Phát triển các dịch vụ liên quan:
Các hoạt động của NH có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Để tăng cường HĐV từ dân cư, các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chưa tiện lợi và chi phí cao, vốn đầu tư để phát triển một số dịch vụ thanh toán hiện đại tốn kém... ; Để có thể khai thác tôt hơn nguồn vốn này, NHCT CN Đống Đa nên thực hiện các biện pháp sau:
Thực hiện mở tài khoản thanh toán cá nhân miễn phí. Chủ động tiếp cận với các KH là cán bộ, công nhân viên của các cơ quan, tổ chức. Đây là những cá nhân có thu nhập tương đối ổn định, không cần nắm giữ thường xuyên nhiều tiền mặt trong tay và chi chủ yếu cho tiêu dùng
Tăng cường kích thích dịch vụ bảo hiểm, đặc biệt là Bảo hiểm nhân thọ. Đây cũng là một dịch vụ đem lại cho NH nguồn vốn lớn từ phí bảo hiểm. Bảo hiểm là một lĩnh vực khá phức tạp và nhiều rủi ro, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao. Sở giao dịch nên tiếp cận thận trọng và có sự đầu tư thích đáng về con người cũng như cơ sở vật chất làm việc cho hoạt động này.
3.2.5. Xây dựng những gói sản phẩm dịch vụ - sản phẩm với những sản phẩm lõi (core products) và sản phẩm bao quanh (surround products)
Đối với KH là những cá nhân có thu nhập cao, CN nên đưa ra một gói sản phẩm bao gồm Sản phẩm lõi là tiền gửi tiết kiệm với mức lãi suất ưu đãi và sản phẩm bao quanh: thẻ tín dụng hạn mức cao; thẻ vàng; thẻ ATM bổ sung tiện ích uỷ nhiệm chi tự động với các tài khoản chi trả tiền điện nước, điện thoại... Quản lý đầu tư tự động (tài khoản quýett); BH nhân thọ; Tiết kiệm bảo đảm bằng vàng, ngoại tệ, chuyển tiền, dịch vụ uỷ thác, cho thuê két sắt, dịch vụ môi giới và tư vấn chứng khoán, cho vay du học. Có thể mường tượng như sơ đồ sau:
Đối với những KH cá nhân có thu nhập trung bình khá, gói sản phẩm nên bao gồm: sản phẩm lõi: cho vay mua trả góp lãi suất thấp và sản phẩm bao quanh gồm: tài khoản gửi góp, UNC tự động, chuyển tiền, bảo hiểm nhân thọ, thẻ ATM...
Đối với những KH cá nhân có thu nhập thấp thì Sản phẩm lõi là cho vay mua sắm tài sản trả góp lãi suất thấp; Sản phẩm bao quanh sử dụng thẻ ATM, thẻ tiền mặt cash card (với thẻ này, KH không cần tài khoản tại NH và thẻ có nhiều hạn mức 1tr, 2tr... KH chỉ cần mua thẻ tại NH khi sử dụng hết hạn mức).
Để thực hiện được giải pháp này thì một nguyên tắc cần được tuân thủ đó là “Nguyên tắc xây dựng gói sản phẩm”:
Tổng số phí dịch vụ của gói sản phẩm phải thấp hơn nếu KH sử dụng từng sản phẩm - dịch vụ Ngân hàng đơn lẻ; phí dịch vụ hoặc lãi suất của sản phẩm lõi phải thật hấp dẫn trên cơ sở có sự bù đắp nguồn thu từ các sản phẩm bao quanh.
3.2.6. Sử dụng lợi nhuận hợp lý:
Ngoài các giải pháp nên trên thì giải pháp sử dụng nguồn lợi nhuận hợp lý đối với các CN cũng góp phần quan trọng trong công tác HĐV. Từ bấy lâu nay các NHTM đã có nhiều biện pháp để tạo sức hấp dẫn người gửi tiền, để nhằm nâng cao hơn nữa nguồn vốn huy động. Đặc biệt khi mà nguồn hoạt động chủ yếu của CN là vốn huy động. Song, một thực tế là lợi nhuận từ hoạt động hàng năm của CN hiện nay chưa được phân bổ một cách hợp lý. Hầu như lợi nhuận mà CN thu được chỉ để chi trả lương, lập các quỹ... Trong khi đó, sự đầu tư cho các chương trình quảng cáo, đổi mới trang thiết bị công nghệ.. còn hạn chế, chưa có sự quan tâm đúng mức vấn đề này. Theo ý kiến cá nhân em nếu nguồn lợi nhuận đã có nhưng CN cần sử dụng hợp lý trong công tác xây dựng kiến thiết cơ bản, trích lập các quỹ phù hợp, phân phối tiền lương cho cán bộ công nhân viên hợp lý thì CN sẽ tạo nguồn vốn rất lớn sẵn có mà không phải chi phí đầu vào, vậy số tiền này sẽ có điều kiện đầu tư vào cho vay trung và dài hạn. Như vậy vừa khai thác triệt để vốn của mình vừa tiết kiệm, chống được lãng phí trong mọi lĩnh vực.
Ngoài việc sử dụng lợi nhuận hợp lý thì CN phải không ngừng mở rộng và nâng cao lợi nhuận. Đó chính là điều kiện để góp phần vốn huy động ngày càng được nâng lên. Về mặt chiến lược lâu dài thì đó là cơ sở để tăng khả năng tài chính cho CN. Đồng thời đó cũng chính là nguồn bù đắp rủi ro cho CN nếu có xảy ra tổn thất, do đó nguồn vốn sẽ được an toàn và ổn định hơn.
3.3. KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kiến nghị với Chính Phủ và NHCT TW:
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 Đảng ta đã chỉ rõ “Cải tổ hệ thống Ngân hàng để hoạt động có hiệu quả, thực sự trở thành trung tâm tiền tệ, tín dụng thanh toán, đóng vai trò nòng cốt trên thị trường vốn và tiền tệ...” Sự phát triển của hệ thống NH đòi hỏi có sự phát triển đồng bộ của TTTC, trong đó cần đặc biệt chú trọng đến sự phát triển của thị trường giao dịch nội tệ, ngoại tệ liên NH và TTCK. Sự phát triển đồng bộ của HTTC một mặt tạo ra sự cạnh tranh đối với các NH trong thu hút và phân bổ các nguồn vốn xã hội từ đó tạo động lực thúc đẩy sự đổi mới của NH. Mặt khác nó cũng tạo cho các NH những cơ hội để đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ, cung cấp các công cụ đa dạng cho phép các NH linh hoạt trong việc điều tiết các nguồn vốn, tăng cường khả năng HĐV cho các NHTM. phát triển thị trường tiền tệ ngắn hạn nhằm gián tiếp hỗ trợ việc triển khai chiến lược vốn vì ổn định nhu cầu vốn ngắn hạn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình tích luỹ, tích tụ, tập trung vốn tự nhiên. Nhờ đó NH phát triển thuận lợi, có thêm nhiều cơ hội mở mang nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn. Đương nhiên để phát triển thị trường tiền tệ ngắn hạn, NH cần chú ý tạo nhanh các công cụ tiền tệ ngắn hạn (Kỳ phiếu NHTM, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, các loại séc, thẻ thanh toán, các hợp đồng giao nhận, các dạng hình thanh toán điện tử...). Đó là sự “tập dượt” cần thiết đối với các NH, tạo động lực “bên trong” tạo vốn cho CNH-HĐH cho những năm sau này.
Chính sách lãi suất
Muốn huy động nguồn vốn trong nước được nhiều, phải có một chính sách lãi suất hấp dẫn để các tổ chức kinh tế, đặc biệt là tầng lớp dân cư gửi tiền tiết kiệm và các khoản tiền nhàn rỗi vào NH.
Lãi suất huy động hấp dẫn bao giờ cũng là lãi suất thực dương, có nghĩa là nó phải cao hơn chỉ số lạm phát, thực ra kể từ tháng 8/2002 trở lại đây, với chính sách thả nổi lãi suất thì lãi suất đã không còn mang tính cưỡng chế như trước đây nữa, NHNN đã cho phép các NHTM được quyền tự do xây dựng mức lãi xuất cho NH mình. Song về cơ bản đây vẫn chỉ là hình thức “thả nổi có kiểm soát”, so với giai đoạn trước đây thì lãi suất huy động của các NHTM luôn cao hơn chỉ số lạm phát, nhưng xuyên thay đổi do chỉ số lạm phát trồi sụt bất thường từ năm này sang năm khác:
Bảng 15: Tỷ lệ lạm phát Việt Nam giai đoạn 1991-2005
Đơn vị: %
Năm 1991
Năm 1992
Năm 1993
Năm 1994
Năm 1995
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
67.7
17.6
5.2
14.4
12.7
4.5
3.6
9.2
0.1
-0.6
0.8
4.5
3.5
9.5
8.4
(Nguồn: Niên giám thống kê)
Nhưng xét về điều kiện cụ thể cần thiết tại Việt Nam hiện nay, đang cần nguồn vốn huy động trong nước hơn là vay vốn nước ngoài. Dựa trên quan điểm này nên theo em, không thể áp dụng lãi suất thấp, bởi vì nếu áp dụng lãi suất thấp sẽ rất khó huy động được nguồn vốn hiện có trong nước. Mặt khác, lãi suất là một trong những công cụ chủ yếu trong việc điều tiết nền kinh tế.
Công cụ lãi suất có hai mặt công phạt và rất nhạy cảm. Tăng lãi tiền gửi có lợi cho tiết kiệm, bất lợi cho đầu tư và ngược lại. Vả lại công cuộc CNH-HĐH không tránh khỏi việc tập trung nguồn lực vào những nghành mũi nhọn, đầu kéo cho nền kinh tế và những khu vực phát triển chiến lược, do vậy trong tình hình nguồn vốn trong nền kinh tế còn rất hạn hẹp thì việc sử dụng công cụ lãi suất một cách có chủ đích là một điều cần thiết. Lãi suất cao trong một nền kinh tế đang khan hiếm nguồn vốn không nhất thiết dẫn đến giảm đầu tư. Thực tiễn của một số các nước trong khu vực đã cho ta thấy rõ điều này. Ngoài ra, có một hiệu ứng tích cực của lãi suất cao đối với đầu tư không dễ thấy là nó làm cho vốn được “chảy” vào các nghành cần ít vốn nhiều lao động những nghành cần ít vốn nhiều lao động này đồng vốn mang lại hiệu quả cao.
Lãi suất tiền gửi cao còn chứa một thành tố tích cực là trong một chứng mực nhất định nó giúp phân phối lại thu nhập cho quảng đại quần chúng, vì được hưởng lợi ích từ chính sách này là số đông dân cư, những người không có khả năng kinh doanh làm giàu coi lãi suất tiền gửi là một trong những nguồn thu nhập cho cuộc sống, tuy nhiên việc kìm chế lạm phát bao giờ cũng là vấn đề tối quan trọng. Nếu chỉ số lạm phát là 2.5%/năm thì lãi suất huy động 5% /năm và lãi suất cho vay là 9%/năm. Nếu chỉ số lạm phát là 4%/năm thì lãi suất huy động là 8%/năm và như vậy lãi suất cho vay là 12%/năm là mức lãi suất cho vay đủ thấp phù hợp với tình hình hiện nay.
Cũng cần nhắc lại rằng sự tin tưởng của người gửi tiền vào NH hiện nay tại Việt Nam chưa được cao lắm so với các nước khác. Một khi lòng tin này được nâng cao hơn thì việc HĐV có thể sẽ được cải thiện nhiêu hơn dù cho tỷ lệ lãi suất thực không còn bằng chỉ số lạm phát. Và lúc đó chúng ta có thể áp dụng quan điểm lãi suất thực dương thấp vừa đủ để những người đầu tư gián tiếp nhận được một khoản lợi tức nhỏ bé mà họ vẫn hài lòng, do họ ý thức được rằng việc phát triển kinh tế quốc gia là quan trọng hơn quyền lợi cá nhân của họ. Chính vì lý do đó mà chúng ta cần có biện pháp giải thích cho dân chúng hiểu được rằng: Sẽ không có rủi ro nào khi gửi tiền vào NH và họ sẽ nhận được một khoản lợi tức cao hơn chỉ số lạm phát – là phần thưởng thích đáng cho việc hy sinh tiêu dùng hiện tại để được hưởng thụ nhiều hơn trong tương lai.
Vậy làm thế nào để huy động tiền gửi trung và dài hạn từ dân cư đó là câu hỏi đặt ra không chỉ riêng nghành ngân hàng mà đối với tất cả chúng ta và chính là đối với nhà nước.
Để tạo dựng trở lại “niềm tin kinh doanh” cho đông đảo các tầng lớp dân cư, thì điều tối quan trọng đòi hỏi ở một nhà nước pháp quyền “của dân, do dân, vì dân” là đảm bảo sự duy trì quản lý vĩ mô theo hiến pháp và pháp luật, tránh can thiệp vào nền kinh tế bằng những quyết định mang tính hành chính, vô đoan gây ra nên những khó khăn, những xáo trộn hoặc “trói buộc” không cần thiết đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngân hàng, làm ảnh hưởng đến đời sống thu nhập dân cư. Cần nhanh chóng đổi mới, cải thiện môi trường hành chính, thuế khoá và pháp lý, tháo gỡ những quy định thiếu tính khách quan khoa học, tính khả thi trong thực tiễn, lại vừa trái thông lệ quốc tế để các NHTM, đặc biệt là NHTMNN được chủ động điều chỉnh các loại lãi suất huy động của mình tuỳ theo nhu cầu vốn cho vay, đầu tư, cũng như khả năng “chịu đựng” của mỗi NH đối với mức “giá cả” của đồng tiền.
Thông qua việc tạo dựng những yếu tố pháp lý và đòn bẩy kinh tế nhằm khuyến khích người dân gửi tiền hoặc đầu tư dài hạn vào các sản phẩm tài chính NH như: Ban hành một số văn bản luật hoặc nghị định cho phép giảm thuế thu nhập cá nhân đối với phần thu nhập từ các sản phẩm tài chính – NH trung và dài hạn theo tỷ lệ luỹ tiến với thời gian đầu tư và miễn thuế hoàn toàn nếu các sản phẩm đó được người đầu tư nắm dữ liên tục trong một khoảng thời gian nhất định (ít nhất từ 5 đến 7 năm) đồng thời cho phép đưa thêm đặc tính “chuyển nhượng được” (giữa các cá nhân vào một số công cụ huy động trung và dài hạn của chính phủ như trái phiếu, tín phiếu kho bạc, trái phiếu các công trình trọng điểm do nhà nước đầu tư... ) và của các tổ chức tài chính, tín dụng khác, tạo dần cho người dân mua, bán, cất giữ chuyển đổi các sản phẩm TC-NH trung và dài hạn, từ đó hình thành dần dần các hoạt động sơ khai của TTCK thứ cấp.
Chính sách tiết kiệm
Phong trào khuyến khích tiết kiệm là một biện pháp không thể bỏ qua. Rút kinh nghiệm ở các nước đi trước để xây dựng kinh tế đất nước thì mọi người, mọi ngành đều phải thực hành tiết kiệm, chống tiêu xài lãng phí dẫn đến thất thoát một nguồn vốn tương đối lớn mà chúng ta dường như “đã lãng quên” không quan tâm đến nó. Bởi vì từ từng hộ gia đình với số vốn nhỏ nhưng ghép lại các số vốn đó thì sẽ trở thành một khối lượng vốn khổng lồ chính nhờ phong trào khuyến khích tiết kiệm toàn quốc. Đặc biệt là trong giai đoạn ngày nay, khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển, người dân có mức sống ngày càng cao hơn, xu hướng nghiêng về tiêu dùng của người dân có chiều hướng gia tăng mạnh. Theo các nhà kinh tế phân tích thì đó là xu hướng tất yếu, việc người dân tăng cường tiêu dùng là một điều tốt đối với nền kinh tế vì nó kích thích các ngành sản xuất hàng tiêu dùng trong nước phát triển song chỉ nếu đó là tiêu dùng chính đáng. Hiện nay, giới trẻ Việt Nam vẫn có xu hướng chuộng đồ ngoại nhập nhiều hơn hàng trong nước, thích hưởng thụ đây là những yếu tố rất bất lợi đối với nền kinh tế nói chung và với công tác HĐV của các NHTM nước ta hiện nay. Do vậy mà càng trong giai đoạn này thì việc nhà nước thực thi chính sách kêu gọi tiết kiệm là một điều rất cần thiết.
KẾT LUẬN
Đến đây em xin kết thúc chuyên đề của mình về đề tài “Tăng cường huy động vốn tiền gửi dân cư tại Ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa”. Có thể thấy rằng, trong những năm tới, khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu đầu tư cũng ngày càng tăng. Và dù rằng nguồn vốn cho đầu tư có thể hình thành từ nhiều kênh khác nhau. Song với thực tế TTTC chưa thực sự phát triển như hiện nay thì chủ yếu NHTM vẫn đóng vai trò “kênh huy động” hiệu quả nhât. Vấn đề đặt là là làm thế nào để NHTM có thể huy động triệt để được nguồn vốn trong nước để phục vụ cho nhu cầu đầu tư? Khi mà tâm lý, thói quen ưa dùng đã gần như trở thành thói quen của người dân, dẫn đến một thực trạng là dù tỷ lệ tiết kiệm của người dân Việt Nam được đánh giá là khá cao. Song doanh số huy động qua hệ thống NH lại rất thấp.
Phát huy vai trò là một CN cấp 1 thuộc hệ thống Incombank VN-một trong 4 NHTM NN lớn nhất Việt Nam, có uy tín lớn, bề dày kinh nghiệp trong hoạt động NH. NHCT CN Đống Đa tiếp tục ra sức tăng cường hoàn thiện công tác huy động vốn tiền gửi từ dân cư để đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như của toàn hệ thống trong những năm tiếp theo.
Vì thời gian thực tập tại NHCT CN Đống Đa không đáng là bao, hơn nữa kiến thức cũng hạn chế. Song em xin đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình để công tác huy động vốn tại NHCT CN Đống Đa ngày càng tốt hơn. Em rất mong nhận được sự đóng góp từ phía bạn bè, sự chỉ bảo của Thầy, của các cô chú, anh chị trong NHCT CN Đống Đa để đề tài “Tăng cường huy động vốn tiền gửi dân cư tại NHCT CN Đống Đa” hoàn thiện và phát triển thành Luận Văn trong thời gian tới. Em xin chân thành cảm ơn!./.
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V6088.DOC