Cùng với khó khăn của nền kinh tế và khủng hoảng tài chính đang nổ ra trên phạm vi toàn cầu chất lượng tín dụng của chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội đang có dấu hiệu giảm sút. Do đó, công tác quản lý rủi ro tín dụng đang là nhiệm vụ hàng đầu của chi nhánh trong thời điểm hiện tại.Vì vậy, dựa trên kiến thức còn hạn chế, trên cơ sở thực tế qua quá trình thực tập tại chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội, chuyên đề đã tập trung giải quyết 3 vấn đề cơ bản sau
- Hệ thống hóa những vấn đề mang tính lý luận về quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại.
- Phân tích tình hình hoạt động tín dụng của chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội. Trên cơ sở đó đánh giá những thành tựu đạt được, những mặt còn tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó.
73 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ởng, công trình xây dựng trên đất), một số tài sản khác là quyền đòi nợ mà khả năng kiểm soát nguồn thu rất khó khăn. Do đó, khi xử lý tài sản bảo đảm trên thực tế rất phức tạp, cả về mặt pháp lý cũng như khả năng chuyển nhượng tài sản, mất rất nhiều thời gian và công sức.
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Hà Nội
2.3.1. Thành tựu đạt được
Chi nhánh đã chủ động và tích cực tiếp thị khách hàng hàng tín dụng về hoạt động tại chi nhánh, đặc biệt khách hàng có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Chi nhánh đã thực hiện tốt và có hiệu quả Chính sách khách hàng đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng dẫn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhằm chia sẻ những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh với khách hàng.
Dư nợ tín dụng tại chi nhánh tăng trưởng nhanh, hoàn thành mức kế hoạch giao. Ngay từ đầu năm 2008, ban lãnh đạo chi nhánh đã kiểm điểm nghiêm túc, xác định mục tiêu tăng trưởng tín dụng làm đòn bẩy thúc đẩy các hoạt động khác. Tổ tiếp thị tại chi nhánh đã tích cực tiếp thị các doanh nghiệp tiền gửi, tiền vay và kết quả hoạt động của tổ đã góp phần quan trọng vào kết quả tăng trưởng của chi nhánh, đặc biệt trong tăng trưởng tín dụng và dịch vụ. Ngoài ra, Ban lãnh đạo chi nhánh luôn quan tâm đến chất lượng tín dụng: yêu cầu khách hàng đối chiếu công nợ, định giá lại tài sản đảm bảo, kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay.
Dư nợ đối với các doanh ngiệp quốc doanh tăng dần so với dư nợ của các doanh nghiệp nhà nước
Dư nợ có tài sản đảm bảo tăng dần cùng với việc thực hiện đề án xử lý nợ tồn đọng của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam và việc ban hành quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Điều này chứng tỏ hoạt động tín dụng của chi nhánh ngày càng hướng tới sự an toàn.
Chi nhánh đã từng bước ứng dụng mô hình quản trị rủi ro theo hướng hiện đại và hướng đến các chuẩn mực quốc tế với việc phân tách các Phòng chức năng theo hướng chuyên môn hóa cao hơn. Đây là mô hình tổ chức khá phổ biến của các ngân hàng trên thế giới, tuy nhiên khi áp dụng vào Việt Nam còn có nhiều lung túng do những đặc thù của nên kinh tế, tập quán thói quan và văn hóa…
Hệ thống thông tin tín dụng ngày càng được hoàn thiện, đã thực hiện cung cấp các thông tin, chuyên đề phân tích về ngành thường xuyên cho các Chi nhánh để tăng khả năng nắm bắt thông tin, sử dụng hiệu quả trong công tác thẩm định tín dụng.
Chi nhánh đang kiên quyết thực hiện các giải pháp đồng bộ để giảm nợ xấu, thực hiện kiểm soát tín dụng chặt chẽ, chú trọng đến chất lượng hơn là tăng trưởng dư nợ.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Những hạn chế trong quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Hà Nội
Về nợ quá hạn và nợ xấu : Tỷ lệ nợ quá hạn vẫn còn ở mức cao so với các ngân hàng thương mại trên thế giới(<1%). Trong nợ quá hạn thì nợ khó đòi vẫn chiếm một tỷ lệ rất cao, điều này cho thấy ngân hàng có khả năng mất vốn lớn nhất là khi các khoản nợ đã quá hạn.
Định giá khoản vay chưa hợp lý: Lãi suất của khoản vay chưa được xác định một cách khoa học dựa trên chi phí vốn, mức độ rủi ro và mức lợi nhuận hợp lý của ngân hàng. Ngân hàng không định giá khoản vay trên cơ sở đảm bảo lãi cho vay đủ bù đắp chi phí biên của vốn, chi phí quản lý của khoản vay, phần bù rủi ro và lợi nhuận hợp lý cho ngân hàng. Việc định giá khoản vay được thực hiện một cách cảm tính hoặc cứng nhắc không linh hoạt dựa vào mức lãi suất thông báo áp dụng cho mọi khách hàng. Việc lượng hóa rủi ro của khách hàng, dự án vẫn còn khó khăn ở Việt Nam khi các ngân hàng không có phần mềm và đầy đủ thông tin chính xác để định giá. Các thông số thị trường dùng trong đo lường như : hệ số beta, xếp hạng tín… chưa có cơ quan chuyên nghiệp để xác định hoặc không đủ mức độ tin cậy cần thiết. Ngoài ra, việc ngân hàng đổ vốn vào cùng một doanh nghiệp, một dự án không có phần bù rủi ro, ngoài kết quả thu hẹp lợi nhuận của ngân hàng đồng thời cũng làm cho rủi ro tín dụng tăng cao.
Tập trung vốn vay cho Doanh nghiệp Nhà nước: Mặc dù tín dụng cho khồi doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng dần qua các năm nhưng tìn dụng của ngân hàng vẫn tập trung chủ yếu cho khồi doanh nghiệp quốc doanh. Những khách hàng quen thuộc của ngân hàng vẫn chủ yếu là các tổng công ty lớn thuộc sỡ hữu Nhà nước, đây là tình trạng chung của các ngân hàng lớn tại Việt Nam và là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc các doanh nghiệp này phải vay vốn với lăi suất cao hơn so với các doanh nghiệp Nhà nước.
Lạm dụng tài sản thế chấp: Kinh tế phát triển mạnh trong thời gian gần đây kéo theo giá bất động sản tăng vọt nhất là ở các thành phố lớn như Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã làm nảy sinh tư tưởng dựa dẫm thái quá vào tài sản thế chấp Số lượng các khoản vay để mua bất động sản cũng ngày càng tăng. Tuy nhiên, nguồn tiền trả nợ ngân hàng cần được trả bằng dòng tiền tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền từ tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp chỉ là sự đảm bảo cuối cùng nghĩa vụ thanh toán của khách hàng khi dự án kinh doanh gặp rủi ro ngoài dự kiến.
Quy định về chính sách khách hàng: Các chính sách phí, lãi suất của chi nhánh áp dụng đối với khách hàng chưa có sự rõ ràng và chưa có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro với lợi ích đòi hỏi của ngân hàng tương ứng với mức độ rủi ro đó. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chưa ban hành một chính sách khách hàng và cơ sở phân loại khách hàng để thực thi chính sách đó. Các chính sách phí, lãi suất được đưa ra là phí, lãi suất ưu đãi áp dụng đối với những khách hàng tốt nhất nhưng “chuẩn” về khách hàng tốt nhất vẫn chưa rõ ràng, thống nhất mà chỉ định tính, chưa lượng hóa để việc áp dụng được hợp lý và khách quan. Vì vậy chính sách khách hàng thiếu đi tính hợp lý và khoa học.
Về định hướng khách hàng: Để thực hiện cấp tín dụng một cách chủ động, có sự nghiên cứu kỹ càng, lựa chọn những thị trường mục tiêu phù hợp với đặc thù của ngân hàng và ít rủi ro, cần phải xây dựng chiến lược, kế hoạch tín dụng và định hướng thị trường, khách hàng mục tiêu. Tuy nhiên hiện nay chi nhánh vẫn chưa xây dựng được một chiến lược rõ ràng cũng như định hình sự lựa chọn về phân khúc thị trường nhất định cho từng khu vực , từng chi nhánh. Chính vì vậy hoạt động đầu tư tín dụng của chi nhánh còn mang tính thụ động, đầu tư tín dụng theo phong trào nên khả năng phòng ngừa và hạn chế rủi ro không đảm bảo.
Về đào tạo cán bộ: Trong thời gian gần đây, đặc biệt là trong năm 2007 và năm 2008 chi nhánh đã chú trọng đến việc phát triển mở rộng mạng lưới các chi nhánh và hệ thống các phòng giao dịch. Tuy nhiên, công tác đào tạo nguồn nhân lực chưa được chuẩn bị kịp thời, số lượng cán bộ chủ chốt để đáp ứng cho hoạt động kinh doanh thiếu khá nhiều. Sau khi các Chi nhánh cấp 2 được nâng cấp thành Chi nhánh cấp 1, hoặc thành lập mới các Phòng giao dịch một số cán bộ cũ đi nắm giữ các chức vụ chủ chốt tại các Chi nhánh và các phòng giao dịch, một số khác chuyển sang làm lãnh đạo tại các ngân hàng cổ phần nên lực lượng cán bộ nắm giữ các vị trí chủ chốt, đặc biệt cán bộ làm công tác tín dụng càng thiếu trầm trọng. Thêm vào đó, hầu hết cán bộ làm công tác tín dụng tuổi đời còn trẻ, dưới 30 tuổi, phần lớn công tác trong lĩnh vực tín dụng từ 1 – 3 năm nên kinh nghiệm còn hạn chế. Khác với các nghiệp vụ khác tại Ngân hàng, cán bộ làm công tác tín dụng ngoài yêu cầu về trình độ chuyên môn còn đòi hỏi phải có kinh nghiệm thực tiễn và bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng.Điều này cho thấy với lực lượng cán bộ còn ít kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn cũng như công tác đào tạo, quy hoạch nguồn nhân lực chưa được quan tâm đúng mức, khả năng hạn chế rủi ro tín dụng sẽ rất khó khăn.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
a. Nhóm nguyên nhân chủ quan
Những nguyên nhân xuất phát từ cán bộ tín dụng : chưa được phân công theo hướng chuyên môn hóa, đạo đức và trình độ yếu kém của cán bộ tín dụng.
Thực tế hiện nay, chưa có sự phân công rõ ràng theo hướng chuyên môn hóa cán bộ tín dụng đối với từng ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp hoặc mỗi bước trong quá trình thẩm định tín dụng. Cán bộ tín dụng phải thực hiện phần lớn quy trình cho vay đối với mọi doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng của chi nhánh rất đa dạng về tuổi đời, kinh nghiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhưng không có sự phân công phù hợp, bất kỳ cán bộ tín dụng nào cũng có thể làm việc với loại hình doanh nghiệp ngành nghề kinh doanh mà không có sự cân nhắc lựa chọn. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới thời gian và hiệu quả công việc. Cán bộ tín dụng mất thời gian để tìm hiểu, cập nhật thông tin để hiểu thêm về đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do đội ngũ cán bộ còn rất trẻ, chưa va chạm với thương trường và thực tế nghiệp vụ. Bên cạnh đó vì cán bộ trẻ mới về nên ban lãnh đạo chưa nắm hết khả năng cũng như năng lực của mỗi cán bộ tín dụng để có sự phân công phù hợp. Thêm vào đó, việc cán bộ tín dụng thực hiện hầu hết quy trình cho vay nên khối lượng công việc của mỗi cán bộ tín dụng là rất lớn. Mặt khác, họ phải quản lý nhiều khoản vay, đồng thời lại phải thẩm định và theo dõi món vay mới nên cán bộ tín dụng có thể không nắm được tình hình thực hiện phương án hoặc dự án kinh doanh của doanh nghiệp sau khi đã nhận tiền vay về mục đích, tiến độ và những vướng mắc thực tế có thể xảy ra.Ngoài ra, một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ ngân hàng đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra ngân hàng nhà nước ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của chi nhánh hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Chi nhánh thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua chi nhánh chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà ngân hàng yêu cầu.
b. Nhóm nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân xuất phát từ khách hàng vay vốn
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay: Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
Khả năng quản lý kinh doanh kém:Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước.
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đựơc đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn.
Hạn chế về chất lượng nguồn thông tin bên ngoài
Hiện nay, ở VIệt Nam chưa có một cơ chế cung cấp thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà nước(CIC) đã hoạt động được quá một thập niên và đã có những thành tựu bước đầu đáng kể trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và có hiệu quả, thông tin của CIC cung cấp có độ tin cậy chưa cao và chỉ mang tính tham khảo. Thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web – CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin tại TP.HCM. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.
Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới: Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành thủy sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua. Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế: Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
Sự tấn công của hàng nhập lậu: Với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển cùng địa hình địa lý phức tạp và tình hình đời sống nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm,… là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng lậu ở nước ta.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN NAM HÀ NỘI
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng của ngân hàng trong thời gian tới
3.1.1. Mục tiêu chung:
3.1.1.1. Mục tiêu chung 02 năm 2009-2010
Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như của Thủ đô Hà Nội cùng với mục tiêu phát triển chung của toàn hệ thống và phương châm hoạt động an toàn - chất lượng - hiệu quả - tăng trưởng bền vững, chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội xác định mục tiêu kinh doanh 02 năm 2009 - 2010 là tối ưu hóa lợi nhuận, đảm bảo hiệu quả kinh doanh tốt nhất với rủi ro thấp nhất, thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng.
Tăng trưởng huy động vốn, tín dụng và dịch vụ nhanh chóng, vững chắc, đảm bảo an toàn và có hiệu quả trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng
Đào tạo bài bản về kỹ năng quản lý, quản trị điều hành cho cấp cán bộ quản lý; đào tạo cơ bản và đào tạo nâng cao về kỹ năng tác nghiệp, marketing đối với cán bộ nghiệp vụ. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng chuyên nghiệp cả về nghiệp vụ và phong cách phục vụ.
Không ngừng nâng cao vị thế và uy tín của Ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội trên địa bàn; tạo niềm tin đối với khách hàng để từng bước tăng thị phần hoạt động trên địa bàn đối với tất cả các mảng nghiệp vụ.
3.1.1.2. Mục tiêu chung cho kế hoạch kinh doanh năm 2009
Kiểm soát tăng trưởng hoạt động tín dụng, tăng trưởng phải an toàn - hiệu quả; đảm bảo cơ cấu – tỷ trọng tín dụng hợp lý theo hướng tăng dần tỷ trọng cho vay ngoài quốc doanh, tăng tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo; quyết liệt xử lý nợ xấu để đưa tỷ lệ nợ xấu xuống mức dưới 3%.
Tiếp tục đẩy mạnh và phát triển các hoạt động dịch vụ cả dịch vụ gắn với tín dụng và dịch vụ phi tín dụng, chú trọng chất lượng dịch vụ - phục vụ. Tích cực quảng bá, giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ tới mọi đối tượng khách hàng cả dân cư và doanh nghiệp; chú trọng phân loại khách hàng để có chính sách tiếp cận phù hợp với từng nhóm khách hàng cụ thể.
Xây dựng cơ cấu nguồn vốn hợp lý, giảm chi phí huy động vốn, tìm kiếm những nguồn vốn ổn định chi phí thấp; đảm bảo mức chênh lệch lãi suất đầu ra – đầu vào của chi nhánh. Chủ động cân đối nguồn vốn, tính toán lãi suất hợp lý để nâng cao thu nhập từ vốn.
Củng cố và phát triển mạng lưới hoạt động, không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của các phòng giao dịch, điểm giao dịch của chi nhánh.
3.1.2. Chỉ tiêu cụ thể
Bảng 6: Các chỉ tiêu cụ thể cho năm 2009-2010
Đơn vị : tỷ đồng
STT
Chỉ tiêu
KHKD 2009
KHKD 2010
A
Các chỉ tiêu cơ bản
1
Tổng tài sản:
2.400
2.850
2
Huy động vốn BQ
1.880
2.350
3
Huy động vốn cuối kỳ
2.300
2.800
4
Dư nợ tín dụng BQ
1.382
1.655
5
Dư nợ tín dụng cuối kỳ
1.732
2.080
6
Thu dịch vụ ròng
19
30
7
Tỷ lệ nợ xấu
2,7%
2,7%
8
Thu nợ HTNB
3,5
4,7
9
Chênh lệch thu chi (ko gồm TN HTNB)
62
100
10
Trích DPRR
15
15
11
Lợi nhuận trước thuế
47
57
B
Các chỉ tiêu khác
1
Chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra:
3%
3%
2
Tỷ trọng dư nợ TDH/tổng dư nợ
54,4%
50%
3
Tỷ trọng dư nợ NQD/tổng dư nợ
76,8%
75%
4
Tỷ trọng dư nợ có TSĐB/tổng dư nợ
58,1%
60%
5
Tỷ trọng dư nợ nhóm 2/ tổng dư nợ
26%
20%
6
Định biên lao động
110
120
7
Doanh thu khai thác phí bảo hiểm
1,0
1,0
8
Tỷ lệ giảm dư lãi treo của dư nợ nội bảng so với năm trước (31/12)
51%
0%
9
Lợi nhuận sau thuế bình quân đầu người
0,31
0,42
10
Giới hạn dư nợ TD cao nhất trong năm
1732
2080
Nguồn: Báo cáo tổng kết chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà nội 2008
3.1.3. Về công tác tín dụng
Thực hiện mục tiêu phương châm kinh doanh “Tăng trưởng bền vững - Chất lượng - Hiệu quả - An toàn” trên nguyên tắc đảm bảo công tác tín dụng an toàn và hiệu quả, chủ động gắn tăng trưởng tín dụng với kiểm soát chất lượng tín dụng; tăng tỷ trọng tín dụng bán lẻ, cho vay ngắn hạn, tài trợ thương mại kinh doanh xuất nhập khẩu, nâng tỷ trọng cho vay có bảo đảm bằng tài sản, đảm bảo giải ngân đúng tiến độ các dự án đồng tài trợ đã ký với các chi nhánh thành viên BIDV;
Thực hiện phân loại nợ xấu, phân loại khách hàng, ngành nghề tín dụng, định hạng xếp loại khách hàng - doanh nghiệp để lựa chọn khách hàng, cơ cấu cấu trúc lại khách hàng; kiên quyết không cho vay đối với những khách hàng làm ăn kém hiệu quả - chây ì nợ, năng lực tài chính yếu kém, hoạt động thiếu minh bạch, không tuân thủ pháp luật v.v...
Chủ động tiếp cận các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ tư nhân cá thể có đủ điều kiện vay vốn để góp phần tăng dần tỷ trọng vay ngoài quốc doanh trong toàn Chi nhánh. Trên cơ sở đó tăng tỷ trọng bảo lãnh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bên cạnh hoạt động cấp bảo lãnh cho các doanh nghiệp thi công xây lắp đã được thực hiện rất hiệu quả tại chi nhánh.
Thực hiện đúng quy chế, quy trình nghiệp vụ, quy chế ủy quyền phán quyết và các giới hạn, cơ cấu tín dụng đã đề ra. Đảm bảo thực hiện các nguyên tắc, tiêu chuẩn điều kiện tín dụng khi cho vay.
Tăng cường công tác kiểm tra tín dụng ở tất cả các khâu trước, trong và sau khi cho vay nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất. Thường xuyên đánh giá, phân tích thực trạng các khoản vay, đặc biệt là các khoản NQH, các khoản vay có tiềm ẩn rủi ro.
Phân loại nợ theo Điều 7 QĐ 493 và xác định chính xác nợ quá hạn để có cơ sở trích dự phòng rủi ro đúng quy định, đảm bảo hiệu quả kinh doanh; đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu nhằm góp phần lành mạnh hóa, nâng cao năng lực tài chính;
Chủ động phối hợp với các chi nhánh thành viên của BIDV để đẩy mạnh hoạt động cho vay đồng tài trợ, phân tán rủi ro tín dụng;
Chủ động tiếp cận với các ngành, các tổng công ty, chính quyền địa phương cấp quận huyện và thành phố để nắm kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương, nắm được các dự án đầu tư phát triển cũng như các chủ đầu tư để lựa chọn các dự án đầu tư có đủ điều kiện, có hiệu quả để đầu tư.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án, các khoản vay
Tăng cường các sản phẩm cho vay tiêu dùng như mua nhà, mua ô tô, cho vay du học, cho vay cán bộ công nhân viên,… và bằng các biện pháp linh hoạt kết hợp với các mối quan hệ để tiếp cận các khách hàng tiềm năng có nhu cầu sử dụng những sản phẩm tín dụng trên để khai thác nhu cầu tín dụng của họ.
Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động đảm bảo tính tuân thủ và cẩn trọng, đặc biệt đối với hoạt động tín dụng.
Xử lý triệt để nợ xấu xuống dưới mức 3%.
Phân tích đánh giá lại từng khoản nợ gắn với các hình thức tài sản bảo đảm, phân tích đánh giá lại các rủi ro tín dụng, quản lý tốt các rủi ro để tiếp tục quan hệ tín dụng trong các giới hạn an toàn cho phép để nâng cao chất lượng tín dụng.
Tận thu nợ xấu, nợ quá để tăng thu nhập nhằm nâng cao năng lực tài chính tín dụng, kiểm soát chặt các cơ cấu tín dụng, các giới hạn tỷ lệ an toàn theo các chuẩn mực và cam kết, chỉ tăng trưởng khi kiểm soát tốt được các doanh nghiệp - khách hàng với các điều kiện tín dụng được bảo đảm.
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Hà Nội.
3.2.1. Thực hiện quy trình tín dụng chặt chẽ
Việc quyết định cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng dựa vào quyết địng của cán bộ tín dụng. Tuân thủ quy trình cho vay là một việc quan trọng, nhưng để thực hiện tốt quy trình cho vay nhằm cắt giảm những thủ tục rườm rà không cần thiết lại, lại vừa đảm bảo đúng và đầy đủ, chặt chẽ về quy trình không phải là đơn giản.
Thứ nhất: Nâng cao chất lượng thẩm định và phân tích tín dụng Rủi ro tín dụng bắt đầu từ những phân tích và thẩm định tín dụng không cẩn trọng và thiếu chính xác dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm. Đây là bước cực kỳ quan trọng và đảm bảo hạn chế rủi ro tín dụng với hiệu quả cao nhất, ít tổn thất nhất. Quá trình thẩm định cần đáp ứng được yêu cầu về chất lượng phân tích và thời gian ra các quyết định, đảm bảo sự cẩn trọng hợp lý trên cơ sở phân tích lợi nhuận và rủi ro cũng như đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng phục vụ khách hàng.
Thứ hai: quản lý giám sát chặt chẽ quá trình giải ngân và sau khi cho vay Những rủi ro tín dụng xuất hiện sau khi cho vay không chỉ do bản thân phương án kinh doanh kém hiệu quả, khách hàng vay sử dụng vốn sai mục đích mà còn do ngân hàng không kiểm soát được dòng tiền sau khi kết thúc phương án kinh doanh, dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng nguồn tiền này vào các mục đích kém hiệu quả hay không minh bạch.Do vậy, chi nhánh phải nghiêm túc kiểm tra quá trình sử dụng vốn của khách hàng định kỳ hàng tháng trên thực tế tránh trường hợp kiểm tra qua loa trên giấy tờ mang tính đối phó; thường xuyên đánh giá về tình hình kinh doanh của khách hàng như sự thay đổi của môi trường kinh doanh, tình hình thị trường tiêu thụ bất lợi, xuất hiện quá nhiều đối thủ cạnh tranh, có dấu hiệu vi phạm pháp luật; định kỳ xếp hạng lại tín dụng đối với khách hàng, đối với khách hàng có xếp hạng tín dụng cao thì mật độ kiểm tra ít hơn so với các khách hàng có xếp hạng tín dụng thấp; thường xuyên xem xét đánh giá lại giá trị tài sản đảm bảo và kiểm soát chặt chẽ tính chất sỡ hữu tài sản đảm bảo của khách hàng.
3.2.3. Các giải pháp về nhân sự
Con người là yếu tố trung tâm, vừa là nền tảng để phát hiện, đánh giá và hạn chế kịp thời những rủi ro tín dụng nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra tổn thất tín dụng từ những rủi ro xuất phát từ yếu tố đạo đức, năng lực yếu kém. Khả năng kiểm soát và phòng ngừa các rủi ro từ thiên tai, địch họa, những rủi ro hệ thống không thể đa dạng hóa được thuộc về bản chất gắn liền với mỗi ngành nghề kinh doanh nhất định là rất hạn chế, vì vậy chỉ có thể nâng cao hiệu quả của quản trị rủi ro tín dụng bằng cách sử dụng con người là yếu tố tiên quyết trong vận hành cơ chế quản trị rủi ro tín dụng một cách hiệu quả. Một mô hình quản trị rủi ro tín dụng có hoàn hảo, một quy trình cấp tín dụng có chặt chẽ đến mấy nhưng những con người cụ thể để vận hành mô hình đó bị hạn chế về năng lực hoặc không đáp ứng được các yêu cầu về đạo đức thì sự thiệt hại, tổn thất tín dụng vẫn xảy ra, thậm chí là rất nặng nề. Do đó các giải pháp về nhân sự giữ một vai trò cốt yếu trong xây dựng các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. Một số nội dung trong giải pháp này là:
Chuyên môn hóa cán bộ tín dụng: Chi nhánh cần phân loại cán bộ tín dụng để từ đó giao phụ trách từng nhóm khách hàng cho phù hợp với trình độ quản lý của cán bộ tín dụng nhằm đạt hiệu quả cao và quản lý chặt chẽ khách hàng. Như vậy, cán bộ tín dụng sẽ chuyên môn hóa với từng nhóm khách hàng, nắm bắt thông tin, am hiểu sâu sắc về một lĩnh vực nên rủi ro tín dụng cũng sẽ giảm bớt.
Lựa chọn những cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn và đạo đức tốt để bố trí vào bộ phận tín dụng. Trong các công việc ngân hàng, tín dụng là một nghề đòi hỏi phải có năng lực về phân tích, đánh giá, tính chịu trách nhiệm rất cao và luôn có những cạm bẫy nên cần có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp. Do đó cần tiêu chuẩn hóa cán bộ hoạt động tín dụng theo các tiêu chí chuyên môn, đạo đức rõ ràng, làm cơ sở để chuẩn hóa và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm việc trong một môi trường đầy rủi ro. Đồng thời cần có kế hoạch tuyển dụng phù hợp, đáp ứng các yêu cầu về mở rộng mạng lưới, quy mô kinh doanh của chi nhánh trong tương lai. Tình trạng kế hoạch tuyển dụng cán bộ công tác tín dụng không hợp lý trong thời gian qua, trên thực tế đã dẫn đến tình trạng thiếu trầm trọng cán bộ trước yêu cầu mở rộng mạng lưới để nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh.
Tăng cường công tác đào tạo, tái đào đạo, thực hiện đào tạo định kỳ và thường xuyên để nâng cao trình độ kiến thức cũng như khả năng vận dụng những kinh nghiệm, kỹ thuật mới trong thẩm định tín dụng, quản trị rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng. Đào tạo phải theo đúng định hướng, chú trọng đào tạo ngắn hạn theo các chuyên đề bổ trợ cho công việc trực tiếp hàng ngày, đào tạo nâng cao cho các cán bộ chủ chốt và đã được quy hoạch để xây dựng bộ khung cho sự phát triển ổn định và vững chắc sau này.
Xây dựng chế độ đánh giá, khen thưởng và kỷ luật dựa trên chất lượng tín dụng và hiệu quả công việc mà cán bộ đó thực hiện. Một điều khá tế nhị trong công tác nhân sự, đặc biệt là trong bố trí, bổ nhiệm cán bộ trong nghiệp vụ tín dụng là những cán bộ không thể hiện rõ chính kiến của mình trong thẩm định tín dụng mà theo chỉ đạo của cấp trên, cho dù trên thực tế những khoản vay đó đã bị quá hạn, mất vốn rất cao nhưng những cán bộ này vẫn được đề bạt vào những vị trí lãnh đạo. Do đó không thể tạo lập được sự phân định rõ ràng và có trách nhiệm tách bạch giữa thẩm định và quyết định cho vay, không có khả năng đưa ra các kết quả thẩm định khách quan và trung thực. Các quy định về khen thưởng và kỷ luật phải được sự thống nhất trong toàn hệ thống và phải được thực hiện nghiêm túc triệt để. Nhờ vậy mới nâng cao tính chịu trách nhiệm trong các quyết định tín dụng của các cán bộ có liên quan.
3.2.4. Đa dạng hóa danh mục cho vay
Cũng như trong đầu tư chứng khoán đa dạng hóa sẽ giúp ngân hàng triệt để hạn chế rủi ro tín dụng vì các khoản vay thường có mức độ rủi ro khác nhau theo năng lực, quy mô, ngành nghề, tính chất sở hữu. Theo đó một số giải pháp đưa ra để chi nhánh đa dạng hóa danh mục cho vay như sau:
Mở rộng ngành nghề cho vay không nên tập trung vào ngành xây dựng và cơ khí như hiện nay bởi vì hoạt động này thường có thời gian hoàn vốn lâu, kỹ thuật công nghệ phức tạp, thị trường không ổn định. Nếu xảy ra rủi ro, tổn thất của ngân hàng sẽ rất lớn.
Chú trọng đầu tư tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khối doanh nghiệp đang được sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức nước ngoài. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, coi phát triển DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thủ tướng Chính phủ cũng đã có Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg ngày 23/10/2006 phê duyệt kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm (2006 – 2010). Nhiều giải pháp hỗ trợ cho DNNVV như thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa…Các định chế tài chính quốc tế đang chú ý tập trung đầu tư cho khu vực kinh tế tư nhân mà chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ như IFC (Công ty tài chính quốc tế thuộc WB), SMEDF (Quỹ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa do Liên minh châu Âu tài trợ và được quản lý bởi Quỹ hỗ trợ phát triển), JBIC (Chương trình tài trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa do JBIC tài trợ vốn vào năm 2002), JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại của Nhật Bản hỗ trợ cho các SMEs trong hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế)…Do đó các DNNVV sẽ có khả năng phát triển mạnh mẽ về chất và lượng trong tương lai, là điều kiện thuận lợi cho đầu tư tín dụng. mặt khác kinh tế Việt Nam có sự phát triển khá trong thời gian gần đây nhưng đầu tư tín dụng cho các doanh nghiệp quy mô lớn gặp khá nhiều rủi ro do những lợi thế trong cạnh tranh của các doanh nghiệp không lớn, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được các yêu cầu cho sự phát triển, do đó tính bền vững trong hoạt động kinh doanh không cao. Đồng thời, sự xuất hiện của các ngân hàng trong các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam như Tập đoàn dầu khí, Tập đoàn điện lực, …thì khả năng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp lớn như hiện nay của chi nhánh sẽ rất hạn chế. Do đó lựa chọn phát triển phân khúc thị trường DNNVV là một lựa chọn hợp lý và phù hợp với điều kiện kinh tế ở Việt Nam, phù hợp với năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ, đặc biệt càng có ý nghĩa khi các quy định về trích lập dự phòng rủi ro của NHNN càng nghiêm ngặt làm gia tăng chi phí nên phân tán rủi ro vào DNNVV trở nên quan trọng do đối tượng này thường có tài sản bảo đảm đủ, đồng thời khoản cấp tín dụng giá trị nhỏ, rủi ro xảy ra sẽ có ảnh hưởng không lớn.
Cho vay đồng tài trợ: Đây là hình thức cho vay trong trường hợp nhu cầu về vốn của khách hàng quá lớn mà một mình chi nhánh không thể đảm đương được hoặc do chi nhánh chủ động phân tán rủi ro tín dụng. Theo đó, mọi vấn đề mức góp vốn, quyền hạn, trách nhiệm, lợi nhuận, tổn thất đều được chia sẻ cho nhiều bên tham gia đồng tài trợ. Như vậy gánh nặng khi cho vay của chi nhánh sẽ được giảm bớt do việc giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng sẽ dược các bên đồng tài trợ chịu trách nhiệm.
3.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra nội bộ
Đồng thời với việc thiết lập cơ chế “giám sát song song” thông qua chức năng của Phòng Quản lý nợ, cần chú trọng công tác “hậu kiểm” của kiểm tra nội bộ để tăng cường khả năng kiểm soát tính tuân thủ trong hoạt động cấp tín dụng, giảm thiểu những rủi ro tín dụng. Trước mắt, khi chưa thực hiện lập Phòng Kiểm tra nội bộ khu vực để đảm bảo đủ thẩm quyền và độc lập trong kiểm tra kiểm soát, nên tạo ra sự không phụ thuộc và độc lập nhất định của Phòng Kiểm tra nội bộ của Chi nhánh bằng cách quy định lương của cán bộ kiểm tra nội bộ sẽ do Hội sở chính trả và nhân sự của Phòng này do Hội sở chính chỉ định, bổ miễn và miễn nhiệm. Có như vậy thì Phòng kiểm tra nội bộ mới đủ thẩm quyền để thực thi các nhiệm vụ của mình. Trong công tác kiểm tra nội bộ, ngoài thực hiện kiểm tra theo định kỳ, cần tập trung và tăng tần suất kiểm tra các khách hàng có nợ xấu, đánh giá việc thực thi các biện pháp quản lý nợ có vấn đề và khả năng thu hồi nợ. Công tác kiểm tra nội bộ cần thực hiện có trọng điểm, theo các ngành nghề, lĩnh vực đang tiềm ẩn nguy cơ rủi ro để kịp thời chấn chỉnh và đề xuất các giải pháp để tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng.
3.2.6. Các giải pháp hạn chế bù đắp khi rủi ro tín dụng xảy ra
3.2.6.1. Tích cực tìm mọi biện pháp giảm nợ quá hạn, nợ xấu
Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn so với dư nợ của chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng dù sao để xảy ra tình trạng nợ quá hạn là một biểu hiện không thuận lợi, sẽ gây ra những đánh giá sai về chất lượng hoạt động của Ngân hàng.
Để giảm nợ quá hạn, trước hết phải hạn chế việc phát sinh nợ quá hạn mới, đồng thời tích cực tiến hành rà soát những khoản nợ quá hạn cũ và dựa trên những thông tin thu được về tình hình tài chính của khách hàng, mối quan hệ vốn có giữa chi nhánh với khách hàng để đề ra những biện pháp xử lý thích hợp, tích cực thu để giảm bớt nợ quá hạn của chi nhánh.
3.2.6.2. Nghiêm chỉnh thực hiện quy chế bảo đảm tiền vay
Thông thường trước khi ra quyết định cho vay thì Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có bảo đảm: bảo đảm bằng thế chấp tài sản của người vay, bảo đảm bằng tài sản và bảo lãnh của bên thứ ba, bảo đảm bằng cầm cố, bằng uy tín của người vay. Nhưng trong các hình thức bảo đảm trên thì tài sản thế chấp được coi là công cụ đắc lực nhất để Ngân hàng có khả năng thu hồi nợ khi khách hàng không có khả năng trả nợ. Các thành phần kinh tế quốc doanh khi vay vẫn được ưu tiên hơn hẳn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó một số khách hàng được vay theo chỉ định của chính phủ và không cần tài sản bảo đảm, một số dù đang kinh doanh thua lỗ nhưng vẫn tiếp tục được vay, do đó nợ quá hạn vẫn tiếp tục phát sinh. Vì vậy để khắc phục tình trạng này, chi nhánh cần phải có quy định chặt chẽ hơn về tài sản bảo đảm cũng như tính chính xác của các giấy tờ sở hữu của khách hàng để tránh khách hàng dùng một tài sản để thế chấp vay nhiều chỗ.
3.2..6.3. Thực hiện nghiêm túc chế độ phân loại nơ và trích lập dự phòng
Thực hiện nghiêm túc phân loại nợvà trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định 493, tránh tình trạng vì kết quả kinh doanh mà không tuân thủ tính chính xác trong phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.Chủ động phân loại nợ theo tính chất, khả năng thu hồi nợ của khoản vay, kiên quyết chuyển nợ quá hạn đối với các trường hợp vi phạm hợp đồng tín dụng có nguy cơ gây ra rủi ro và hạ bậc nợ, thực hiện trích lập dự phòng nhằm bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra.
3.2.7. Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng
Trong thời đại ngày nay không phải trong riêng lĩnh vực ngân hàng mà ở tất cả các lĩnh vực muốn thành công trong kinh doanh thì phải thu thập được những thông tin hữu ích. Khi mà tính kém minh bạch trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam còn khá phổ biến, chưa có một cơ chế cung cấp thông tin chính xác và hữu hiệu của thị trường thì việc thu thập những thông tin chính xác của chi nhánh là điều tối quan trọng. Không thể chỉ đánh giá một dự án chỉ dựa trên những thông tin do doanh nghiệp cung cấp, chi nhánh cần thu thập thông tin từ rất nhiêu nguồn khác nhau để có thể tổng hợp đánh giá chính xác tình trạng tài chính của khách hàng. Do đó cần xây dựng hệ thống thông tin tín dụng theo hướng:
Dựa trên cơ sở hợp tác, ngân hàng nhà nước thực hiện kết nối kho thông tin dữ liệu giữa các ngân hàng để bổ sung, tăng tính đầy đủ và sự chính xác của kho dữ liệu, không chỉ là các dữ liệu về khách hàng mà còn các đánh giá và dự báo về ngành, làm nền tảngtrong phân tích và thẩm định tín dụng.
Dựa trên thông tin về các doanh nghiệp, ngành hàng, dự án đã cấp tín dụng, Trung tâm thông tin tín dụng chi nhánh cần tổng hợp và đưa ra các đánh giá, phân tích và cung cấp các thông tin hữu ích cho toàn bộ hệ thống để sử dụng trong thẩm định tín dụng. Kho dữ liệu này cần có tính mở để có khả năng tích hợp với kho dữ liệu của các ngân hàng khác nhằm đáp ứng nhu cầu hợp tác trong cạnh tranh được đặt ra trong môi trường hội nhập.
Chi nhánh cần thiết lập các mối liên hệ với các tổ chức, dịch vụ cung cấp thông tin trên thế giới để có thể khai thác, mua tin khi cần thiết để đáp ứng yêu cầu thông tin từ các Chi nhánh, đặc biệt là các thông tin về tình hình tài chính, hoạt động của các công ty mẹ - đối tác ở nước ngoài của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở mô hình tổ chức hướng đến khách hàng đã được triển khai, hệ thống thông tin khách hàng cần được tổ chức một cách hợp lý, tránh trùng lặp trong thu thập dữ liệu, đảm bảo có những thông tin toàn diện và đầy đủ theo đúng tính chất và đặc thù khách hàng. Đồng thời với việc thu thập thông tin, cần sử dụng các công cụ phân tích thông tin hiện đại để tăng độ chính xác của các kết quả đánh giá nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị đến Chính phủ và các ngành các cấp liên quan hoàn thiện môi trường pháp lý đảm bảo an toàn tín dụng
Cần có những quy định cụ thể liên quan đến công bố thông tin tài chính doanh nghiệp có xác minh của kiểm toán, quy định chặt chẽ hơn về những điều kiện để được thành lập công ty kiểm toán và quy định rõ trách nhiệm của công ty kiểm toán cũng như các kiểm toán viên có liên quan khi cho ra đời những báo cáo kiểm toán sơ sài, hoặc thiếu trung thực. Vì thực tế hiện này cho thấy chất lượng của rất nhiều công ty kiểm toán là chưa đảm bảo (có những báo cáo tài chính đã được kiểm toán nhưng thậm chí sai ở tiêu chí cơ bản nhất là đơn vị tiền tệ USD thành VND).
Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quyền chủ nợ của ngân hàng và bảo đảm tiền vay nhằm giúp cho các ngân hàng thuận lợi khi phải thực hiện các biện pháp xử lý tài sản để thu hồi nợ, tránh tình trạng dây dưa, kéo dài, ảnh hưởng đến sự lành mạnh tài chính của các ngân hàng. “Đánh giá tình hình quản trị doanh nghiệp” của Ngân hàng thế giới năm 2006 đã nhận định rằng quyền pháp định của chủ nợ ở Việt Nam yếu hơn so với trung bình các nước trong khu vực và các nước OECD dựa trên một loạt các thước đo chuẩn mực do Ngân hàng thế giới xây dựng cho 130 quốc gia, trong đó có Việt Nam. Do đó cần xây dựng hệ thống định chế đảm bảo quyền chủ nợ của ngân hàng trong xử lý tài sản bảo đảm, chỉ đạo các bộ ngành có liên quan quy định về thủ tục, trình tự xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng, hiệu quả.
Hoàn chỉnh các quy định pháp luật có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng như quy định về giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, quy định về cấp các giấy tờ sở hữu tài sản, quy định về các ngành kinh doanh … vốn là những vấn đề liên quan đến nhiều bộ, ngành khác nhau, có ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng. Chính phủ cần điều phối sự kết hợp với các bộ ngành có liên quan, cùng với ngân hàng Nhà nước để thống nhất, chia sẻ quan điểm về phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, cùng nhau phối kết hợp để giải quyết những vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng.
3.3.2. Kiến nghị đến Ngân hàng Nhà nước
Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng của Trung tâm CIC Ngân hàng Nhà nước: Để nâng cao tính hiệu quả và thúc đẩy động lực làm việc, có thể nghiên cứu chuyển đổi Trung tâm này sang hình thức một công ty cổ phần có sự góp vốn của các ngân hàng thương mại. Nghiên cứu và cho áp dụng mô hình công ty xếp hạng tín nhiệm độc lập ở Việt Nam để hỗ trợ cho các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh, có thể thu hút sự chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm của các Công ty xếp hạng tín dụng trên thế giới.
Nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra ngân hàng: Khi nền kinh tế trong quá trình phát triển mạnh hoạt động tài chính ngân hàng luôn là hoạt động chủ đạo của nền kinh tế. Khi hoạt động này không phát triển một cách bền vững thì sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Chính vì vậy, đã đến lúc ngân hàng Nhà nước phải thiết lập một hệ thống cảnh báo sớm về rủi ro tín dụng trong toàn hệ thống ngân hàng, đổi mới hoạt động thanh tra từ mô hình phân tán sang mô hình tập trng như hầu hết các cơ quan giám sát ngân hàng của các quốc gia phát triển trên thế giới, đặc biệt ngân hàng Nhà nước cần ứng dụng 25 nguyên tắc về giám sát ngân hàng của ủy ban Basel trong thực thi như một cơ quan giám sát ngân hàng và giám sát thị trường, hoàn thiện các phương pháp kiểm toán nội bộ trong ngân hàng và hướng tới các chuẩn mực quốc tế.
Chống sự cạnh tranh kém lành mạnh: với sự mở rộng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng thương mại, ngân hàng Nhà nước đã giải phóng tính sáng tạo và chủ động của các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên đã xuất hiện tình trạng cạnh tranh kém lành mạnh, tranh giành khách hàng vay vốn giữa các ngân hàng như cho vay để hoàn trả các khoản vay của các ngân hàng khác, hạ thấp các tiêu chuẩn, điều kiện vay vốn dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng tăng cao. Do đó ngân hàng nhà nước cần có sự kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả những hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, đảm bảo sự phát triển bền vững và an toàn.
3.3.3. Kiến nghị đến chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Hà Nội
Cải tiến quy trình tín dụng cho phù hợp hơn nữa với mô hình TA2: Trước đây chi nhánh áp dụng mô hình cũ là Cán bộ tín dụng lo từ khâu tiếp nhận hồ sơ đến khi giải ngân và tất tóan món vay. Bây giờ mô hình TA 2 là Cán bộ quan hệ khách hàng tiếp nhận hồ sơ, làm hồ sơ (nếu đủ điều kiện), sau khi hòan tất về giấy tờ, gửi phòng Quản trị tín dụng nhập máy tính,sau đó chuyển lại hồ sơ tài sản thế chấp cho bộ phận quan hệ khách hàng nhập kho quỹ. Đối với những món vay vượt quyền của phòng quan hệ khách hàng phải trình phòng Quản trị rủi ro. Nhưng mô hình này phát sinh nhiều lọai giấy tờ con, qua nhiều khâu nên khách hàng phải đợi thời gian lâu hơn.Chi nhánh cần có biện pháp để tinh giảm các khâu cùng các loại giấy tờ cần thiết để có thể phục vụ khách hàng tốt hơn tiến tới chuẩn mực quốc tế.
Phát triển hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo thông lệ quốc tế: Hiện nay, ở chi nhánh, cán bộ tín dụng thường trực tiếp thẩm định các thông tin liên quan về khách hàng. Các thông tin này được điền vào một biểu mẫu theo các chỉ tiêu định trước. Theo đó, cán bộ tín dụng sẽ cho điểm từng chỉ tiêu. Tổng số điểm của khách hàng được đối chiếu với thang điểm có sẵn của ngân hàng để xác định nhóm tín dụng… Quy trình xử lý như vậy mất rất nhiều thời gian. Đó là chưa kể việc xếp hạng tín dụng đôi khi còn thiếu chính xác, phụ thuộc vào năng lực và cảm tính của nhân viên tín dụng, nên dễ dẫn đến rủi ro.
Trong khi đó, ở nhiều nơi trên thế giới, các ngân hàng đã vận dụng công nghệ, tự động hóa việc phân loại tín dụng. Ưu điểm nổi bật của phương thức này là nhanh chóng, chi phí thấp và giảm rủi ro. Rủi ro phát sinh từ sai sót và thiên vị cá nhân được loại bỏ tối đa trong hệ thống xếp hạng tự động. Theo đó, khi khách hàng cần sử dụng dịch vụ chỉ cần cung cấp thông tin theo mẫu định sẵn cho nhân viên tín dụng. Căn cứ vào những thông tin này, chương trình phần mềm sẽ tự động phân loại khách hàng vào nhóm tín dụng phù hợp nhất. Sau đó kết quả xếp hạng được trả lại trực tiếp tới khách hàng. Thông thường, đi kèm với kết quả này là thông báo của ngân hàng về việc chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu của khách hàng, các điều kiện về hạn mức và lãi suất… Áp dụng công nghệ như thế ngoài việc giúp ngân hàng rút ngắn thời gian, tăng độ tin cậy tín dụng, nó còn giúp ngân hàng tạo cảm giác thỏa mãn cho khách hàng.
Cần tăng cường nhận thức về kiểm soát nội bộ trong ngân hàng với tư cách là một tâp đoàn tài chính: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cũng các ngân hàng lớn khác đang trong quá trình thực hiện dự án hiện đại hóa, mức độ phân cấp, phân quyền ngày càng cao, kể cả phân quyền đến từng nhân viên giao dịch. Vai trò kiểm soát quản lý trở nên cực kỳ quan trọng để có thể ngăn chặn và phát hiện những sai sót và tiêu cực, đảm bảo an toàn tín dụng. Trong thời gian trước mắt chi nhánh cần chú trọng hơn nữa tới việc hoàn thiện các yếu tố của hệ thống kế toán như: hệ thống các chính sách, tài khoản kế toán áp dụng chung trong phạm vi toàn hệ thống; quy trình chuẩn mực cho hoạt động ghi chép, lập và sử dụng báo cáo tài chính; xây dựng hệ thống báo cáo bộ phận và báo cáo kế toán hợp nhất cho chi nhánh. Thành lập ban kiểm tra nội bộ như một bộ phận riêng biệt độc lập với tất cả các bộ phận khác để đảm bảo tính khách quan và hiệu quả của hoạt động kiểm soát nội bộ.
KẾT LUẬN
Cùng với khó khăn của nền kinh tế và khủng hoảng tài chính đang nổ ra trên phạm vi toàn cầu chất lượng tín dụng của chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội đang có dấu hiệu giảm sút. Do đó, công tác quản lý rủi ro tín dụng đang là nhiệm vụ hàng đầu của chi nhánh trong thời điểm hiện tại.Vì vậy, dựa trên kiến thức còn hạn chế, trên cơ sở thực tế qua quá trình thực tập tại chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội, chuyên đề đã tập trung giải quyết 3 vấn đề cơ bản sau
Hệ thống hóa những vấn đề mang tính lý luận về quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại.
Phân tích tình hình hoạt động tín dụng của chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội. Trên cơ sở đó đánh giá những thành tựu đạt được, những mặt còn tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó.
Từ kết quả của quá trình phân tích thực trạng, chuyên đề mạnh dạn đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện khả năng quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội.
Em hy vọng những giải pháp và kiến nghị trong chuyên đề có thể đóng góp một phần nhỏ bé để tăng cường công tác quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung. Tuy nhiên đây là một đề tài nghiên cứu rộng và phức tạp, mặc dù bản thân em đã hết sức cố gắng nhưng do thời gian có hạn, kiến thức của bản thân chưa nhiều nên chắc chắn bài viết còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Ngân hàng thương mại – TS. Phan Thị Thu Hà. NXB Thống kê
Quản trị ngân hàng thương mại – Peter Rose. NXB Tài chính
Sổ tay tín dụng BIDV
Các văn bản Luật, Nghị Định, Quyết định
Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng – Nguyễn Văn Tiến(2005). NXB Thống kê
Báo cáo tổng kết 2006,2007,2008 chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội
Báo cáo thường niên BIDV 2006,2007,2008
website của ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn
website của ngân hàng ĐT&PT VIệt Nam www.bidv.com.vn
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐT&PT : đầu tư và phát triển
TW: trung ương
DNVVN: doanh nghiệp vừa và nhỏ
UTĐT: ủy thác đầu tư
KHKD : kế hoạch kinh doanh
DPRR: dự phòng rủi ro
NHTM: ngân hàng thương mại
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1 : Phân bổ phần bù rủi ro
Bảng 2 : Khái quát về sự tổn thất tương ứng với mức độ của rủi ro tín dụng
Bảng 3: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu KHKD chủ yếu năm 2008 và 3 năm 2006-2008
Bảng 4 : Tình hình nợ xấu và nợ quá hạn tại chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội
Bảng 5 : Tình hình nợ quá hạn theo tín dụng và theo thành phần kinh tế
Bảng 6: Các chỉ tiêu cụ thể cho năm 2009-2010
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32855.doc