PHẦN MỞ ĐẦU
Trong vòng năm năm qua, kể từ ngày đề án thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tiên được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam đã nhanh chóng cho ra đời được 12 tập đoàn. Các doanh nghiệp này đang nắm lượng tài sản khổng lồ của quốc gia và đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện một số chính sách lớn về phát triển. Do vậy, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của cả nền kinh tế nói chung. Thế mà mô hình tổ chức, cơ cấu quản lý và quản trị các tập đoàn lại đang là vấn đề lớn cần nghiên cứu hoàn thiện.
Việc tập đoàn Vinashin mất khả năng trả nợ và đứng bên bờ vực phá sản, buộc Chính phủ phải cơ cấu lại, là tiếng chuông cảnh báo về những bất cập trong tổ chức, quản lý hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Sự thiếu hoàn thiện có thể được nhận diện trên nhiều khía cạnh, từ mục tiêu thành lập, ngành nghề kinh doanh, cho đến cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành trong tập đoàn, vấn đề quản lý cũng như các quy định về quản lý đầu tư trong tập đoàn kinh tế nhà nước.
Trong bối cảnh lạm phát và khủng hoảng toàn cầu như hiện nay, chúng ta nhận thấy rằng tái cấu trúc kinh tế là một biện pháp, một quá trình và hiện đang là vấn đề nóng của nhiều nền kinh tế trên thế giới và của cả VN. Bài tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân tích tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước, tái cấu trúc khu vực kinh tế như thế nào. Từ đó, đưa ra những kiến nghị, giải pháp phát triển các Tập đoàn kinh tế Nhà nước và tái cấu trúc Khu vực kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề cơ bản liên quan đến TĐKTNN và tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước.
Phân tích thực trạng hoạt động của các TĐKTNN và tình hình tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp và kiến nghị phát triển các TĐKTNN và tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn liên quan đến TĐKTNN và tình hình tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình hoạt động chung của tất cả các TĐKTNN và các TCT thuộc khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Nghiên cứu sâu vào một số TĐKTNN tiêu biểu.
Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận cơ bản, chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu là phép biện chứng duy vật. Vận dụng phương pháp luận chung; phương pháp cụ thể là logic lịch sử, phân tích và tổng hợp so sánh, theo dõi, thống kê, mô hình hóa.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1749 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tập đoàn kinh tế nhà nước và Tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế nhà nước ở Việt Nam. Nghiên cứu sâu vào một số TĐKTNN tiêu biểu.
Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận cơ bản, chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu là phép biện chứng duy vật. Vận dụng phương pháp luận chung; phương pháp cụ thể là logic lịch sử, phân tích và tổng hợp so sánh, theo dõi, thống kê, mô hình hóa.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
Lược sử hình thành các TĐKTNN ở Việt Nam
Ý tưởng thành lập các TCT lớn để từ đó phát triển thành các TĐKT được đánh dấu bởi Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Trên cơ sở Quyết định này, 18 TCT - thường được gọi là TCT 91 - được thành lập.
Gần 10 năm sau, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) của Đảng về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN nêu rõ chủ trương “hình thành một số TĐKT mạnh dựa trên cơ sở các TCT nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế.”
Cho đến nay, Chính phủ đã thành lập 12 TĐKTNN, đó là: Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam, Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam.
Khái niệm TĐKTNN
Tập đoàn kinh tế Nhà nước – Theo Nghị định 101/2009/NĐ-CP v/v Thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý TĐKTNN quy định: TĐKTNN là nhóm công ty có quy mô lớn liên kết dưới hình thức công ty mẹ - công ty con và các hình thức khác, tạo thành tổ hợp các doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ và lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.
Theo đó, TĐKTNN bao gồm: Công ty mẹ ( gọi tắt là DN cấp I), Công ty con của DN cấp I (gọi tắt là DN cấp II); Công ty con của DN cấp II và các cấp tiếp theo; và các DN liên kết của tập đoàn. Trong đó, công ty mẹ là DN do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ nguyên chi phối theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Công ty con của DN cấp I do DN cấp I giữa quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn 1 hoặc hơn 2 thành viên trở lên, công ty con ở nước ngoài…
Đặc trưng cơ bản của TĐKTNN ở Việt Nam
Được hình thành chủ yếu từ việc chuyển đổi và tổ chức lại các TCT nhà nước theo quyết định của Chính phủ.
Hoạt động trong những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế theo mục tiêu chiến lược phát triển của từng tập đoàn mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác khó có thể thực hiện được do hạn chế về năng lực tài chính hoặc kinh nghiệm quản lý; là một trong những công cụ điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con.
Hợp tác và liên kết kinh doanh giữa các đơn vị trong TĐKT được nâng cao; quan hệ chặt chẽ giữa các đơn vị thành viên về đầu tư vốn và tài chính, thị trường, phân công chuyên môn hóa, nghiên cứu và phát triển, thể hiện rõ nét đặc trưng quan hệ giữa các doanh nghiệp thành viên trong TĐKT.
Về việc thực hiện quyền sở hữu: Việc phân công, phân cấp thực hiện quyền chủ sở hữu được quy định cụ thể nhưng không thành lập một cơ quan riêng để quản lý, giám sát hoạt động của các tập đoàn mà vẫn sử dụng bộ máy quản lý hành chính của các bộ. Quan hệ giữa tập đoàn với bộ, ngành và Chính phủ: Nhà nước là chủ sở hữu của TĐKTNN ở Việt Nam. Chính phủ thống nhất thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ và đối với phần vốn nhà nước tại TĐKTNN.
Quản lý, giám sát đối với TĐKTNN được thực hiện theo các phương thức: Thông qua chế độ báo cáo của hội đồng quản trị công ty mẹ; thông qua thực hiện kiểm toán tại công ty mẹ và các đơn vị thành viên; thông qua thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất của công ty mẹ; thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá của các cơ quan theo quy định của pháp luật.
Vai trò của TĐKTNN
Góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước, tạo nguồn ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, hạn chế nhập siêu, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện vai trò chi phối, bảo đảm việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, bảo đảm cân đối cung – cầu và giữ ổn định giá các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế (xăng dầu, điện, đạm, khí hóa lỏng, than…) để bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát, chống giảm phát.
Là đầu tàu đi trước, mở đầu, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế phát triển.
Nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở huy động, tập trung các nguồn lực, tăng nhanh năng lực sản xuất, đầu tư trong các ngành đòi hỏi công nghệ cao và nhu cầu vốn lớn, lĩnh vực then chốt.
Thực hiện sự gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học – công nghệ, đào tạo và sản xuất, kinh doanh.
Cùng với việc tập trung mở rộng phát triển ở trong nước, các TĐKT đã vươn ra đầu tư mạnh ở nước ngoài, thương hiệu ngày càng được khẳng định, góp phần tạo dựng được hình ảnh và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Là lực lượng quan trọng của Nhà nước trong việc bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và khẳng định chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, bảo vệ môi trường.Là lực lượng chủ lực cùng Chính phủ và xã hội thực hiện các chương trình an sinh xã hội vì cộng đồng.
Mô hình của TĐKTNN:
Hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con
Công ty mẹ (Parent company) là một thực thể pháp lý có ít nhất một đơn vị trực thuộc. Công ty mẹ (gọi tắt là doanh nghiệp cấp I) là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Công ty con của doanh nghiệp cấp I (gọi tắt là doanh nghiệp cấp II) là các doanh nghiệp do doanh nghiệp cấp I giữ quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên trở lên, tổng công ty theo hình thức công ty mẹ – công ty con, công ty liên doanh (trong trường hợp chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp), công ty con ở nước ngoài
Đặc trưng của quan hệ công ty mẹ - công ty con
Công ty mẹ và công ty con là hai thực thể pháp lý độc lập, có sản nghiệp riêng (pháp nhân kinh tế đầy đủ).
Công ty mẹ có lợi ích kinh tế nhất định liên quan đến hoạt động của công ty con.
Công ty mẹ chi phối đối với các quyết định liên quan đến hoạt động của công ty con thông qua một số hình thức như quyền bỏ phiếu chi phối đối với các quyết định của công ty con, quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm HĐQT, ban lãnh đạo hoặc quyền tham gia quản lý, điều hành.
Vị trí công ty mẹ và công ty con chỉ trong mối quan hệ giữa hai công ty với nhau và mang tính tương đối, tức công ty con này có thể là công ty mẹ của một công ty khác.
Trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con nói chung là trách nhiệm hữu hạn.
Về mặt lý thuyết, mô hình quan hệ này sẽ tạo cho cơ cấu tổ chức của các công ty trong nhóm có chiều sâu không hạn chế; tức công ty mẹ, công ty con, công ty cháu...
Ưu điểm của mô hình công ty mẹ - công ty con
Thứ nhất, với mối quan hệ theo mô hình công ty mẹ – công ty con, công ty mẹ còn có thể thực hiện được chiến lược chuyển giá (price transferring), nhất là trong những trường hợp các doanh nghiệp lập cơ sở kinh doanh ở nước ngoài.
Thứ hai, với mô hình này, các doanh nghiệp có thể thực hiện được sự liên kết với các doanh nghiệp khác nhằm giảm cạnh tranh, tăng độc quyền của thiểu số, cùng phối hợp hay chia sẻ các nguồn lực, tận dụng các thế mạnh của các cổ đông... bằng cách cùng nhau đầu tư lập các công ty con.
Thứ ba, mô hình công ty mẹ – công ty con cho phép các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc bố trí và tái bố trí lại cơ cấu đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau theo chiến lược phát triển của doanh nghiệp bằng việc mua hoặc bán cổ phần của mình trong các công ty con.
Cuối cùng, mô hình công ty mẹ – công ty con cho phép một doanh nghiệp huy động vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh bằng cách thành lập công ty con mới trong điều kiện vừa có thể kiểm soát được doanh nghiệp mới thành lập một cách hữu hiệu thông qua cổ phần khống chế, vừa không bị các nhà đầu tư chi phối đối với doanh nghiệp cũ.
Nhược điểm của mô hình công ty mẹ - công ty con
Công ty mẹ hầu hết vẫn là công ty 100 % vốn nhà nước, chưa dám cổ phần hóa nên nguồn lực tài chính của công ty mẹ còn yếu nên chưa thực sự làm được vai trò của công ty mẹ. Một số công ty mẹ - công ty con vẫn chưa thông thạo cách điều hành theo cơ chế mới, có khi vẫn lặp lại cách chỉ huy hành chính mệnh lệnh.
Chưa tạo được cơ chế thay đổi đội ngũ cán bộ điều hành, nhất là cán bộ chủ chốt, khi chuyển sang hoạt động yếu kém, sử dụng quá nhiều nguồn lực, được quá nhiều ưu ái, ưu đãi kể cả lúc kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, cạnh tranh không bình đẳng, không làm tròn vai trò nòng cốt của nền kinh tế thậm chí đã trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, lũng đoạn thông qua quan hệ, coi trọng lợi ích nhóm, các tập đoàn kinh tế được xem là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát vào năm 2008.
Mô hình công ty mẹ - công ty con
Công ty mẹ có chức năng trực tiếp sản xuất kinh doanh và đầu tư tài chính vào doanh nghiệp khác hoặc chỉ thực hiện việc đầu tư tài chính vào doanh nghiệp khác. Công ty mẹ có các quyền, nghĩa vụ của công ty nhà nước quy định tại Chương III của Luật Doanh nghiệp nhà nước; thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với phần vốn đầu tư vào các công ty con và công ty liên kết.
Công ty mẹ có cơ cấu quản lý gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy giúp việc. Bộ máy quản lý của công ty mẹ là bộ máy của Tổng công ty.
TÁI CẤU TRÚC KHU VỰC KINH TẾ NHÀ NƯỚC
Khái niệm :
Tái cấu trúc được hiểu là quá trình thực hiện những thay đổi căn bản trong doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, là quá trình tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhằm tạo ra “trạng thái ” tốt hơn cho doanh nghiệp để thực hiện những mục tiêu đề ra.
Tái cấu trúc hiểu theo nghĩa rộng là một quá trình làm thay đổi căn bản trong doanh nghiệp thông qua việc thay đổi cấu trúc các bộ phận một cách thuần túy, thay đổi căn bản về sở hữu, cơ cấu vốn, HĐQT hay nhân sự quản lý cấp cao của doanh nghiệp hoặc thay đổi cả quy trình kinh doanh trên nền tảng và triết lý kinh doanh cũ. Tóm lại, tái cấu trúc nghĩa là thay đổi cấu trúc và những gì thuộc về cấu trúc bên trong của doanh nghiệp.
Tái cấu trúc hiểu theo nghĩa hẹp là thay đổi cơ cấu doanh nghiệp (thay đổi phòng, ban chức năng), thay đổi hệ thống doanh nghiệp (thay đổi công ty thành viên, chi nhánh, đại lý phân phối).
Các loại hình tái cấu trúc
Cổ phần hóa
Cổ phần hoá (CPH) là việc chuyển đổi hình thức đơn sở hữu sang đa sở hữu nhằm huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Ở nước ta nói đến CPH tức là nói đến CPH các doanh nghiệp nhà nước. Theo điều 1 ở nghị định 109,CPH là sự chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Ưu điểm
Chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao;
Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề;
Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty.
Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần.
Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
Nhược điểm
Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích.
Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán.
Việc cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong các lĩnh vực.
Hình thức thực hiện cổ phần hóa ở VN
Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốnnhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Tái cấu trúc tài chính
Cấu trúc tài chính bao gồm nợ ngắn hạn, nợ trung và dài hạn, vốn chủ sở hữu được sử dụng để tài trợ cho quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Cấu trúc tài chính trừ đi nợ ngắn hạn sẽ cho ta cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Một cấu trúc vốn hợp lý phải đảm bảo sự hài hòa giữa vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả, có chi phí sử dụng vốn thấp và rủi ro chấp nhận được, phù hợp với điều kiện kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp. Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp hoạt động, tùy thuộc vào quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp.
Tái cấu trúc vốn là thật sự quan trọng và cần thiết cho mọi doanh nghiệp. Hiểu theo nghĩa hẹp, đây là quá trình tổ chức, sắp xếp lại các nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc lựa chọn và thực hiện các quyết định tài trợ của doanh nghiệp nhằm đạt được một cấu trúc vốn hợp lý, thích ứng với từng giai đoạn phát triển, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đề ra. Hiểu theo nghĩa rộng, quá trình này còn bao gồm cả việc lựa chọn và đa dạng hóa các kênh huy động vốn, tổ chức hoạt động kinh doanh hiệu quả, làm lành mạnh hóa tình hình tài chính...trong từng thời kỳ nhất định để từ đó gia tăng giá trị doanh nghiệp.
Đánh giá lại quy trình kinh doanh
Quy trình kinh doanh (gồm các chiến lược, các quy trình, công nghệ và con người) là yếu tố quan trọng cần tái cơ cấu. Doanh nghiệp cần xác lập lại mục tiêu để định ra chiến lược phát triển mới, có thể co hẹp lại, cũng có thể mở rộng ra ở một ngành hay lĩnh vực nhất định. Việc đánh giá lại tận gốc rễ quy trình hoạt động sản xuất kinh doanh có thể khiến doanh nghiệp phải thay đổi mạnh mẽ cơ cấu tổ chức và các quy trình thủ tục trong hoạt động, nhưng lại rất cần thiết.
Tái cấu trúc công tác quản trị
Quản trị doanh nghiệp yếu kém thì nhà đầu tư bên ngoài sẽ trả giá thấp cho giá trị doanh nghiệp. Ngân hàng, đối tác, khách hàng sẽ “tăng hệ số” cho doanh nghiệp nếu chất lượng quản trị tốt. Nói cách khác, vì người đi vay đạt điểm cao cho nhiều tiêu chí sẽ được vay dễ dàng hơn, lãi suất thấp hơn; người vay khong đủ tiêu chuẩn thì rủi ro cao hơn, lãi vay sẽ cao hơn. Do đó, để giảm thiểu chi phí vốn vay, việc nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp, kích thích sử dụng tối đa các nguồn lực, tạo môi trường cho sự sáng tạo ra đời cũng cần được chú trọng.
Tìm đối tác chiến lược và xây dựng văn hóa doanh nghiệp
Những đối tác ngắn hạn thường nhằm vào mục tiêu ngắn hạn. Trong giai đoạn khó khăn chỉ có đối tác chiến lược thực sự mới có thể tiếp tục chung vai sát cánh. Một đối tác chiến lược rất quan trọng mà do đặc thù lịch sử phát triển, nhiều doanh nghiệp thường bỏ qua, đó là đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp.
Văn hóa công ty là nhân tố quan trọng gắn liền với thương hiệu, là nhân tố gắn kết nhân sự với công ty. Doanh nghiệp cần sự đoàn kết để có sức mạnh của tập thể vượt qua những lúc khó khăn. Việc xây dựng, vun đắp văn hóa doanh nghiệp đòi hỏi một quá trình lâu dài. Khi doanh nghiệp đạt đến một nền tảng văn hóa riêng thì người lãnh đạo phải biết khơi dậy nó đúng lúc để sức mạnh của doanh nghiệp được nhân lên bội phần. Đây chính là lúc văn hóa doanh nghiệp cần được khơi dậy mạnh mẽ nhất.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC VÀ TÌNH HÌNH TÁI CẤU TRÚC KHU VỰC KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Trong báo cáo phát triển kinh tế xã hội có nói “Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP, chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế”. Còn trong Bản trình bày của Đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận các đại biểu đối với văn kiện Đại hội X của Đảng CSVN có giải thích về vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước như sau: “…vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước không phải thể hiện ở số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít, tỷ trọng đóng góp GDP cao hay thấp mà ở chỗ, đó là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”. Chúng ta hãy xem xét “vai trò chủ đạo” của khu vực kinh tế nhà nước qua vài số liệu cụ thể như sau :
Vốn đầu tư
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong vòng 16 năm qua (1995 – 2010) tăng gấp hơn 10 lần (từ 72,4 nghìn tỷ đồng tăng lên 830,3 nghìn tỷ đồng), trong đó vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Từ năm 1998 đến năm 2003, tỷ trọng này luôn chiếm trên 50%, cao nhất là năm 2000, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước chiếm 59,14%; sau đó có giảm trong những năm tiếp theo từ năm 2004 đến nay, cụ thể năm 2007 là 37,2%, năm 2008 là 33,9%, năm 2009 là 40,6%, năm 2010 là 38,1%, nhưng nhìn chung vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm một phần lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển của xã hội.
Hình 1. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo thành phần kinh tế (Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010 đạt 830,3 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn khu vực Nhà nước 316,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,1% tổng vốn; vốn khu vực ngoài Nhà nước 299,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 36,1% ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 214,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,8%. Mặc dù tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà có xu hướng giảm trong gần 10 năm qua, nhưng nhìn chung vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm một tỷ trọng lớn, chủ yếu trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Vốn kinh doanh
Tổng quy mô vốn kinh doanh của doanh nghiệp ở Việt Nam đã tăng nhanh trong thời gian qua: Tổng số vốn năm 2006 hơn 3 triệu tỷ đồng tăng gấp 3 lần so với năm 2000, và tổng số vốn năm 2008 hơn 6 triệu tỷ đồng tăng gấp 2 lần so với năm 2006; trong đó, số vốn của DNNN đã tăng 2,3 lần từ 2000 – 2006 (từ hơn 746 nghìn tỷ đồng lên hơn 1,7 triệu tỷ đồng), và tăng gần 1,5 lần từ 2006 – 2008, thể hiện qua Hình 2. Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy rằng tỷ trọng vốn kinh doanh của DNNN so với tổng quy mô vốn kinh doanh của tất cả doanh nghiệp ở Việt Nam giảm dần, thể hiện ở Hình 4; tỷ trọng vốn kinh doanh của DNNN đã giảm xuống từ khoảng 67,7% vào năm 2000 xuống còn khoảng 39,9% năm 2008, nếu như năm 2000 vốn kinh doanh của DNNN gấp hơn 2 lần so với tổng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài NN và doanh nghiệp FDI, thì đến 2008 tỷ lệ này chỉ là 0,66 lần. Điều này không chỉ thể hiện sự lớn mạnh dần của khu vực doanh nghiệp ngoài NN mà còn chứng tỏ chủ trương chính sách của Nhà nước về xây dựng và phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Hình 2 : Vốn kinh doanh của DN phân theo thành phần kinh tế (Nguồn: GSO - Điều tra doanh nghiệp & Niên giám Thống kê 2010)
Tài sản cố định
Về giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp, thì tổng giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp đã tăng lên 6,27 lần trong thời kỳ 2000-2008, trong đó DNNN tăng hơn 4,81 lần, doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng hơn 28,22 lần và doanh nghiệp FDI tăng gần 3,48 lần. Mặc dù tỷ trọng của DNNN trong thời gian vừa qua biến động và có giảm nhẹ (cụ thể năm 2000 là 55,8%, năm 2004 là 48,3%, năm 2008 là 42,9%) và tốc độ tăng tài sản cố định của khu vực DNNN chậm hơn nhiều so với của khu vực doanh nghiệp ngoài NN nhưng có thể nói giá trị tăng thêm về tài sản cố định của DNNN trong thời kỳ nói trên vẫn chiếm khoảng một nửa số giá trị tăng thêm về tài sản cố định của các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Hình 3: Tài sản cố định và đầu tư dài hạn tính đến 31-12 hàng năm (Nguồn: GSO - Điều tra doanh nghiệp & Niên giám Thống kê 2010)
Doanh thu – Lợi nhuận
Bảng 1: Số liệu về doanh thu của các thành phần kinh tế ở Việt Nam (Tỷ đồng) (Nguồn: Tổng cục thống kê)
Năm
2,000
2,001
2,002
2,003
2,004
2,005
2,006
2,007
2,008
Tổng số
809,786
897,856
1,194,902
1,436,151
1,720,339
2,157,785
2,684,341
3,459,800
5,133,073
DNNN
444,673
460,029
611,167
666,022
708,898
838,380
961,461
1,089,100
1,305,661
DN ngoài N.N
203,156
260,565
362,657
482,181
637,371
851,002
1,126,356
1,635,300
2,868,860
DN FDI
161,957
177,262
221,078
287,948
374,070
468,403
596,524
735,500
958,552
Theo số liệu, quy mô doanh thu của doanh nghiệp Việt Nam tăng gấp 6 lần trong khoảng 2000 – 2008, trong đó doanh thu của doanh nghiệp nhà nước tăng gấp 3 lần. Tuy nhiên, nếu nhìn tổng quát cơ cấu doanh thu của doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm từ 54.91 % năm 2000 xuống 25.44% năm 2008. Ngược lại, cơ cấu doanh thu doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng nhanh từ 25.09% năm 2000 lên 55.89% năm 2008.
So sánh với vốn đầu tư tài sản cố định, mức doanh thu của khu vực kinh tế nhà nước như trên là không tương xứng, cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản cố định của khu vực kinh tế nhà nước thấp.
Bảng 2: Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên doanh thu (Nguồn: Tổng cục thống kê)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
DNNN
3.95%
4.38%
4.25%
4.23%
5.40%
5.54%
6.33%
7.00%
5.35%
DN ngoài N.N
1.00%
1.41%
1.51%
1.50%
1.26%
1.23%
1.76%
2.87%
1.27%
DN FDI
13.30%
13.21%
13.93%
14.85%
15.66%
12.67%
14.44%
13.52%
10.95%
Từ năm 2000 đến năm 2008, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu của doanh nghiệp nhà nước luôn thấp hơn so với doanh nghiệp FDI, cụ thể năm 2008, lợi nhuận trước thuế trên doanh thu của doanh nghiệp nhà nước chỉ bằng 5,35% doanh thu, trong khi đó đối với doanh nghiệp FDI tỷ lệ này là 10,95%. Như vậy có thể thấy trong thời gian vừa qua khu vực kinh tế nhà nước chưa thực sự hoạt động có hiệu quả.
Đóng góp cho GDP
Bảng 3: Tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế (%) (Nguồn: Tổng cục thống kê)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Kinh tế Nhà nước
40.18
39.93
40.48
40.00
38.74
38.52
38.40
38.38
39.08
39.10
38.40
37.39
35.93
35.54
Kinh tế ngoài Nhà nước
53.52
52.68
50.45
49.98
49.03
48.20
47.84
47.86
46.45
45.77
45.61
45.63
46.11
46.03
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
6.30
7.39
9.07
10.03
12.24
13.28
13.76
13.76
14.47
15.13
15.99
16.98
17.96
18.43
Có thể thấy đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước không tương xứng với nguồn lực (vốn đầu tư, vốn kinh doanh, tài sản cố định) đã được sử dụng. Khu vực kinh tế nhà nước sử dụng nhiều nguồn lực song tạo ra giá trị thấp, chỉ hơn 1/3 giá trị GDP của cả nước, trong khi khu vực tư nhân nói chung (trong nước và FDI) tạo ra gần 2/3 của GDP.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng đóng góp của “kinh tế nhà nước” cho GDP, theo Tổng cục Thống kê, bao gồm cả đóng góp của nhà nước trong các lĩnh vực: quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng (đóng góp 3,28% năm 1998 và 2,77% năm 2008); giáo dục đào tạo (3,66% năm 1998 và 2,61% năm 2008); y tế cứu trợ, văn hoá thể thao, đảng và đoàn thể (2,11% năm 1998 và 1,8% năm 2008) [tổng cộng là 9,05% năm 1998 và 7,18% năm 2008]. Nếu trừ phần đóng góp này khỏi thành tích của khu vực nhà nước, chúng ta có một ước lượng cho sự đóng góp của khu vực DNNN vào GDP như sau:
Bảng 4: Ước lượng đóng góp của các DNNN vào GDP (Nguồn:www.toquoc.vn)
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
% GDP
30,95
30,32
30,35
30,31
30,42
30,74
31,29
31,33
29,46
28,15
27,17
Hình 4 : Cơ cấu % GDP theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế
Theo số liệu trên, tất cả các DNNN chỉ đóng góp khoảng 27%-31% cho GDP hàng năm, suy luận logic thì phần của các tập đoàn chắc chắn không thể vượt qua con số này. Theo Hình 4 thì đóng góp thực sự của khu vực kinh tế nhà nước chưa tới 1/3 GDP của cả nước.
Mặc dù vậy, Ban chỉ đạo đổi mới DNNN lại đánh giá bức tranh tài chính và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tập đoàn, TCT 91 trong năm 2010 lại khá sáng sủa. Cụ thể: Quy mô vốn chủ sở hữu của các DNNN đã đạt 540.701 tỷ đồng, tăng 11,75% so với năm 2009, trong đó một số đơn vị đã tăng mạnh tới mức 44-453% như Tập đoàn Than-Khoáng sản, Viettel, Tập đoàn phát triển nhà và đô thị; Nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp hầu hết nằm trong giới hạn cho phép; Tổng doanh thu của các đơn vị ước đạt 1.173.489 tỷ đồng, vượt 22% kế hoạch năm và tăng 36% so với năm 2009, đóng góp khoảng 59,24% GDP năm 2010, hầu hết các TCT làm ăn có lãi, tổng lợi nhuận trước thuế ước đạt 70.778 tỷ đồng.
Tuy nhiên, từ các con số trên chúng ta có thể tính toán được lợi nhuận trước thuế 2010 chỉ bằng 6,03% tổng doanh thu, bằng 13,1% tổng vốn chủ sở hữu, lạm phát 2010 ở mức 11,75% tức là mức lợi nhuận thực vẫn dương nhưng quá nhỏ (1,35%); Theo Tổng cục thống kê, GDP năm 2010 tính bằng giá thực tế là 1.980.914 tỷ đồng, như vậy đóng góp của DNNN vào GDP là 59,24%, tuy nhiên cũng theo Tổng cục thống kê đóng góp của Nhà nước năm 2010 trong các lĩnh vực khác như sau: quản lý nhà nước (2,79%), giáo dục đào tạo (2,55%), y tế, văn hóa, Đảng… (1,71%), như thế đóng góp thực vào GDP của các DNNN chỉ ở mức 27-28% GDP. Tổng nộp ngân sách ước đạt 173.549 tỷ đồng, tăng 31% so với thực hiện năm 2009, nhưng chủ yếu là từ dầu thô – tài nguyên vốn có của đất nước, và thuế từ các thành phần kinh tế khác nộp cho Nhà nước chứ không phải là thành tích của các DNNN. Như vậy trong thời gian vừa qua khu vực kinh tế nhà nước chưa thực sự hoàn thành tốt “vai trò chủ đạo” của mình trong công cụ xây dựng phát triển kinh tế đất nước.
NHỮNG HẠN CHẾ HIỆN NAY CỦA CÁC TĐKTNN
Được thành lập, liên kết bằng quyết định hành chính, một số tập đoàn là biến thể của mô hình tổng công ty cũ, nên chưa thực hiện được mục tiêu đề ra là trở thành tập đoàn kinh tế mạnh.
Quy mô và nguồn vốn quá nhỏ so với các tập đoàn kinh tế trong khu vực và trên thế giới; tổ chức và hoạt động chưa có đổi mới nhiều so với tổng công ty nhà nước trước đây, chưa tạo được sự đột phá mạnh mẽ cho mô hình tập đoàn kinh tế.
Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các tập đoàn kinh tế chưa được hoàn thiện, chưa tách bạch rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng của chủ sở hữu nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế; cơ chế quản lý tập đoàn còn nhiều bất cập.
Kết quả sản xuất, kinh doanh của một số tập đoàn chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước, hiệu quả hoạt động chưa cao, năng suất lao động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc thực hiện huy động vốn, nguồn lực của các thành phần kinh tế khác vào sản xuất, kinh doanh thông qua cổ phần hóa, tiếp nhận doanh nghiệp thành viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty cổ phần mới tạo ra cơ cấu đa sở hữu ở một số tập đoàn triển khai còn chậm; dẫn tới hạn chế về thu hút thêm vốn, kinh nghiệm quản lý, điều hành và sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của tập đoàn kinh tế.
Một số tập đoàn có tỷ lệ nợ trên vốn còn quá cao, dẫn đến độ rủi ro lớn, khả năng thanh toán nợ thấp. Việc xử lý các tồn tại về tài chính còn chậm do nhiều nguyên nhân nhưng chưa được khắc phục.
Một số tập đoàn chưa phát huy được vai trò chi phối trong lĩnh vực hoạt động. Các mô hình tổ chức quản lý mới triển khai còn chậm; ở một số tập đoàn vẫn duy trì biện pháp quản lý hành chính đối với các công ty con.
Công tác dự báo, giám sát, đánh giá đối với hoạt động của các tập đoàn kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của mô hình này.
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN TÁI CẤU TRÚC KHU VỰC KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Tình hình chung về tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Theo thống kê, số lượng doanh nghiệp khu vực nhà nước sau quá trình tổ chức lại đã giảm đi đáng kể, chỉ còn khoảng trên 11% so với thời điểm đầu năm 1990. Ngoài ra còn có sự sụt giảm mạnh số lượng DNNN ở Trung ương và địa phương quản lý, từ 2.908 xuống còn 1.256 doanh nghiệp, chiếm 38% tổng số doanh nghiệp khu vực này.
Nhìn chung, qua một thời gian tiến hành cải cách và đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã bước đầu ghi được dấu ấn bằng những bước phát triển khả quan, song mô hình này cũng dần bộc lộ những mặt yếu kém. Khu vực kinh tế nhà nước được ưu đãi nhiều song mang lại chẳng được bao nhiêu; khối doanh nghiệp tư nhân có tiềm lực lớn nhưng thiếu đi sự hỗ trợ từ phía Nhà nước nên vẫn phải tự mình bươn chải; nhóm đầu tư nước ngoài cũng không mang lại nhiều lợi ích như chúng ta mong đợi. Rõ ràng, môi trường đầu tư trong nước đang tồn tại những bất cập cần được tháo gỡ.
Những DNNN được hưởng vị thế độc quyền trên thị trường nội địa, được ưu tiên tiếp cận các nguồn tài nguyên khan hiếm như đất đai và tín dụng nhờ vào vai trò chủ đạo (có tính mặc nhiên) của chúng trong các ngành kinh tế trọng yếu. Khi không chịu áp lực cạnh tranh từ thị trường và giám sát chặt chẽ từ nhà nước, các DN này đầu tư ào ạt và dàn trải để mở rộng “đế chế” của mình mà không quan tâm đến hiệu quả vì họ biết rằng nếu có thua lỗ chăng nữa thì nhà nước sẽ cứu. Khi không chịu áp lực cạnh tranh từ thị trường và giám sát chặt chẽ từ nhà nước.
Để tái cơ cấu một cách hiệu quả thì phải nhận dạng được những “méo mó” quan trọng nhất của khu vực kinh tế nhà nước, mà đầu tiên là tình trạng phân bổ và sử dụng nguồn lực kém hiệu quả của các tập đoàn, TCT và các siêu dự án đầu tư công. Khắc phục được tình trạng “méo mó” này sẽ là tiền đề quan trọng để giải quyết các trục trặc có tính cơ cấu khác
Giám đốc chương trình giảng dạy kinh tế Fulbringt đánh giá việc phân bổ các nguồn lực giữa các khu vực kinh tế không hợp lý trong những năm qua đang khiến nền kinh tế mất cân đối. Điều này được thể hiện rõ khi khu vực kinh tế Nhà nước đóng góp 34% GDP, chiếm hơn 33% tổng vốn đầu tư xã hội nhưng chỉ sử dụng 9% số lượng lao động. Trong khi đó, khu vực ngoài Nhà nước đóng góp 47% GDP, 32% tổng vốn đầu tư xã hội lại sử dụng tới 87% lao động xã hội. Điều đáng bàn là trong khi khu vực kinh tế Nhà nước được hưởng rất nhiều ưu đãi về vốn và đất đai nhưng hiệu quả lại kém hơn hẳn khu vực kinh tế tư nhân. Vì thế, khu vực nào có hiệu quả nhất trong nền kinh tế thì phải được phân bổ nguồn lực một cách tương ứng, những khu vực nào kém cạnh tranh và không tạo được giá trị gia tăng thì việc phân bổ nguồn lực phải giảm đi.
Diễn biến CPH DNNN ở Việt Nam
Tính đến hết năm 2009, cả nước đã sắp xếp lại được 5.414 doanh nghiệp trong tổng số khoảng 6.200 DNNN. Trong đó, CPH 3.941 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp (chiếm 72,8% tổng số doanh nghiệp đã sắp xếp).
Theo phương án đã được Thủ tướng Chính phủ duyệt thì giai đoại 2007-2010 cả nước cần sắp xếp 1.553 DNNN, trong đó 950 doanh nghiệp sẽ CPH. Theo số liệu của Bộ Tài chính, cả nước còn 1.192 DNNN vào cuối năm 2008. Mục tiêu mà Chính phủ đặt ra là chỉ giữ lại 700-800 DNNN sau năm 2010.
Nhưng cả năm 2007 chỉ sắp xếp được 271 doanh nghiệp trong số 550 doanh nghiệp theo kế hoạch, trong đó CPH được 116 doanh nghiệp. Năm 2008 chỉ sắp xếp được 119 doanh nghiệp, trong đó CPH chỉ đạt một phần tư kế hoạch với 74/262 doanh nghiệp.
Tình hình sắp xếp, đổi mới DNNN tính đến 31/12/2009
(số doanh nghiệp CPH nằm trong số doanh nghiệp sắp xếp lại)
Tổng số DN đã sắp xếp lại
Số DN đã CPH
Cả nước
5.414
3.941
Các bộ, ngành
1.354
1.164
Các tổng công ty 90,91
554
440
Các địa phương
3.506
2.232
Nguồn: Bộ Công Thương
Tuy nhiên, Nhà nước chỉ tập trung tiến hành CPH ở một số ngành, lĩnh vực then chốt trong xã hội. Do đó, quá trình CPH chưa có được sự phân bố đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực. Theo số liệu tính đến hết năm 2009 thì cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực được CPH, như sau:
Hình 5 : Cơ cấu ngành nghề CPH
Phần lớn các doanh nghiệp được Cổ phần hoá có quy mô nhỏ, các doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn 5 tỷ chiếm trên 50%, trong khi đó số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ chỉ chiếm khoảng 12%. Đa số các doanh nghiệp thực hiện Cổ phần hoá theo hình thức bán một phần vốn của Nhà nước nắm giữ trong doanh nghiệp.
Tiến trình Cổ phần hoá được thực hiện chủ yếu 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nơi tập trung nhiều DNNN và sau đó lan sang các tỉnh thành phố khác như: Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Đà Nẵng…
Báo cáo của Bộ Tài chính cho biết, tính đến 15/12/2010, cả nước đã thực hiện sắp xếp được 5.846 doanh nghiệp và bộ phận DNNN.
Trong đó, đã CPH 3.944 doanh nghiệp, chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 261 doanh nghiệp và sáp nhập, hợp nhất, giao bán khoán 1.902 doanh nghiệp.Điều đó có nghĩa trong năm 2010 chỉ có thêm 144 DNNN được CPH (Năm 2009 được 67 đơn vị).
Theo báo cáo của các Bộ, ngành địa phương của 850 doanh nghiệp Cổ phần hoá đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23.6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76 %, trên 90% doanh nghiệp sau khi Cổ phần hoá hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%. Các DNNN CPH đã góp phần làm giảm gánh nặng của Nhà nước phải bao cấp, bù lỗ hằng năm. Hơn thế, trong quá trình CPH, nợ xấu của DNNN cũng được xử lý một cách cơ bản; đồng thời, chấm dứt xu hướng thành lập DNNN một cách tràn lan. Trong các DNNN được CPH, vai trò làm chủ của người lao động – cổ đông được nâng lên rõ rệt, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Hình 6 : Quá trình CPH từ 1992 – 2010
Ngoài những thành tựu đạt được kể trên thì vấn đề CPH DNNN ở Việt Nam còn tồn tại một số bất cập như:
Định giá Doanh nghiệp CPH:
Một thực tế đang tồn tại đó là việc định giá quá thấp đối với các doanh nghiệp được mang ra CPH và bất cập chủ yếu nằm ở phương pháp xác định giá trị tài sản.
Theo quy định, doanh nghiệp được quyền chọn một trong hai cách xác định giá trị là phương pháp định giá theo tài sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu. Việc chọn phương pháp lẽ ra phải tuân theo những nguyên tắc hết sức nghiêm ngặt vì có trường hợp chỉ có thể sử dụng được phương pháp này hoặc phương pháp kia thì ngược lại hầu hết các doanh nghiệp chỉ “thích” chọn phương pháp tài sản.Điều này đã tạo một kẽ hở lớn làm thất thoát tài sản của Nhà nước.
Tình trạng nợ vô chủ:
Việc thu hồi nợ sau khi doanh nghiệp CPH có thể gặp khó khăn vì không xác định được đối tượng cụ thể phải chịu trách nhiệm về pháp luật. Đó là những khoản nợ không được bàn giao cho công ty cổ phần tại thời điểm cổ phần hoá. Theo đó, khi ngân hàng thực hiện thu hồi nợ lại gặp khó khăn vì không xác định được đối tượng cụ thể phải chịu trách nhiệm về pháp lý. DNNN (đối tượng nợ) đến thời điểm đó không còn tồn tại, còn doanh nghiệp mới thì tránh trách nhiệm vì không được bàn giao, theo quy định là chuyển giao nghĩa vụ từ DNNN trước đó.
Nhà nước thu về phần lớn thặng dư từ đợt đấu giá gây bức xúc cho DN:
Nghị định 64 và nghị định 187 trước đây qui định toàn bộ số chênh lệch do bán đấu giá cổ phần (sau khi trừ chi phí CPH, trợ cấp mất việc, thôi việc...) phải nộp về cho Nhà nước. Sau đó DN muốn huy động vốn thì phải làm đơn vay từ khoản này của Nhà nước. Quy định này dẫn đến tâm lý chung của các doanh nghiệp là không muốn huy động vốn trong quá trình CPH. Họ thường chờ tới giai đoạn sau CPH, khi thặng dư được giữ lại cho công ty cổ phần. Nếu Nhà nước tiếp tục thực hiện hình thức này thì sẽ khuyến khích các công ty cổ phần làm tương tự cho rằng mình cũng có quyền làm vậy và dẫn tới việc các công ty niêm yết có thể huy động vốn, lấy thặng dư chia cho cổ đông cũ còn cổ đông mới hoàn toàn không được gì từ thặng dư vốn do chính mình góp vào.
Thông tin thiếu minh bạch:
Để đưa giá trị doanh nghiệp sát với giá thị trường, theo Nghị định 187, Chính phủ yêu cầu phải đưa cổ phần ra đấu giá công khai. Đây là biện pháp tốt, tuy nhiên, cách thức tổ chức vẫn còn nhiều điều chưa ổn và đang bị lạm dụng. Do đó thực tế đang xảy ra một tình trạng là quá bất cân xứng về thông tin. Một bên, chủ yếu gồm ban giám đốc công ty khống chế hoàn toàn thông tin về doanh nghiệp CPH. Còn bên khác là các nhà đầu tư bên ngoài lại có quá ít thông tin. Có rất nhiều công ty đã tìm mọi cách nhằm che giấu thông tin. Theo quy định, thông báo về đấu giá phải được đăng trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp. Để giấu thông tin, có công ty đã “lách” bằng cách đăng thông báo trên những tờ báo rất ít người đọc. Nhiều bản cáo bạch được làm rất sơ sài, thông tin vừa nghèo nàn vừa không chuẩn. Tệ hơn nữa, có công ty kiếm cớ thoái thác việc cung cấp bản cáo bạch cho nhà đầu tư.
Điển hình cho tình trạng bất cân xứng thông tin, thiếu minh bạch là vụ giấu các quyết định thuê đất trong cuộc đấu giá cổ phần của Công ty Intimex, chỉ khi đấu giá xong thì các nhà đầu tư mới vỡ lẽ công ty đang nắm giữ một khối bất động sản khổng lồ vừa được cơ quan có thẩm quyền cho thuê (trong cáo bạch trước đó, số tài sản này bằng 0).
Nhà nước vẫn muốn nắm giữ vị trí chủ đạo trong DN sau CPH:
Dù quyết tâm phải CPH nhưng Nhà nước vẫn chưa dám buông doanh nghiệp. Còn có ý nghĩ cho rằng CPH hết thì Nhà nước không nắm được gì nữa. Thực tế có một số giám đốc chỉ tồn tại được trong vị trí quản lý nhờ đại diện cho phần vốn của Nhà nước. Chính sự tập trung quá nhiều vào việc bảo vệ phần vốn nhà nước như: thu hồi phần thặng dư sau đấu giá, giải quyết thất thoát khi định giá... khiến việc CPH bị kéo dài mà không chắc việc tăng thu cho Nhà nước đã có hiệu quả (do việc Nhà nước thu được nhiều hay ít tiền phụ thuộc vào thời điểm bán cổ phần, chứ không phải việc định giá cao, thấp).
Tiến trình CPH còn diễn ra chậm chạp nhất là với những DN lớn. Các DNNN đã CPH chủ yếu mới chỉ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC VÀ TÁI CẤU TRÚC KHU VỰC KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Đối với các Tập đoàn kinh tế Nhà nước
Về phía Nhà nước
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách để các cơ quan nhà nước, các TCT, các doanh nghiệp tư nhân … có nhận thức đúng đắn và thống nhất về mục đích, yêu cầu của việc xây dựng TĐKT ở nước ta hiện nay.
Định vị lại các tập đoàn trong nền kinh tế để phân bổ nguồn lực hợp lý, tập trung hơn. Trên cơ sở đó đẩy mạnh sắp xếp đổi mới, nâng cao hiệu quả các tập đoàn; Nhà nước chỉ giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với một số ít tập đoàn hoạt động trong những ngành, lĩnh vực then chốt.
Thực hiện thường xuyên việc tái cấu trúc doanh nghiệp theo hướng tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chủ chốt; tránh cạnh tranh nội bộ, bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển tương ứng với mô hình phát triển của các tập đoàn.
Đẩy mạnh tập trung và tích tụ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư đan xen (trên cơ sở bảo đảm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ở những lĩnh vực, ngành nghề then chốt) thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hóa, cơ cấu lại nguồn vốn, tiếp nhận doanh nghiệp thành viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty mới… để tạo cơ cấu đa sở hữu nhằm phát huy thế mạnh và tăng cường khả năng cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với TĐKTNN, cụ thể nên hoàn thiện chính sách về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối lợi nhuận giữa Nhà nước và Tập đoàn, chẳng hạn như Luật sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh để quản lý, đầu tư vốn nhà nước tại các DN nhà nước thuộc các thành phần kinh tế; hoàn thiện hệ thống cơ chế quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại DN thông qua mô hình công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Sớm hoàn thiện hệ thống tiêu chí giám sát đánh giá, phân loại DN theo hướng đánh giá đúng, sát thực hiệu quả kinh tế của DN, tách bạch rõ các yếu tố xã hội để phản ánh trung thực hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại DN. Công tác giám sát phải được thực hiện một cách độc lập, tránh hiện tượng chính đơn vị chủ quản là người vừa ra quyết định đầu tư cho doanh nghiệp vừa là người đi giám sát.
Về phía các tập đoàn
Trong dài hạn:
Hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý TĐKT:
Phân công tổ chức lại chức năng sở hữu phần vốn nhà nước. Tránh việc kiêm nhiệm đối với các chức danh chủ chốt của tập đoàn do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. Thành viên Hội đồng quản trị Tập đoàn không kiêm nhiệm chức danh giám đốc ở các đơn vị thành viên.
Chú ý nâng cao năng lực của bộ máy tham mưu, giúp việc của Công ty mẹ về đầu tư, quản lý tài chính ở các doanh nghiệp có vốn góp của Công ty mẹ; Nghiên cứu áp dụng cơ chế Hội đồng quản trị ký hợp đồng thuê Tổng giám đốc, Giám đốc giỏi điều hành doanh nghiệp.
Rà soát lại toàn bộ các TCT nhà nước hiện có để sắp xếp lại theo ngành, lĩnh vực kinh doanh chính và phạm vi hoạt động của TCT và các đơn vị thành viên, không phụ thuộc vào cơ quan quản lý và địa bàn hoạt động; sau đó, tiến hành cổ phần hoá để tạo điều kiện hình thành những TĐKT đa sở hữu mạnh hơn.
Đẩy mạnh sắp xếp, cơ cấu lại các đơn vị thành viên theo ngành nghề kinh doanh, địa bàn hoạt động. Tiếp tục sơ kết, đánh giá rút kinh nghiệm về tổ chức, hoạt động để hoàn chỉnh mô hình, kiến nghị với Nhà nước trong việc ban hành quy định pháp luật về mô hình TĐKT.
Tăng cường năng lực cho các TĐKT:
Tạo điều kiện thuận lợi cho các TĐKT lớn mạnh thông qua cơ chế đầu tư; tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư để mở rộng thị trường, tìm kiếm các cơ hội đầu tư, kêu gọi mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển TĐKT.
Xác định rõ nhiệm vụ, ngành nghề kinh doanh chính của các tập đoàn, đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chủ chốt của tập đoàn không đầu tư dàn trải.
Có mức khống chế đối với tỷ lệ vốn đầu tư ra ngoài lĩnh vực chính. Quy định rõ tỷ lệ vốn huy động (vốn vay) trên vốn chủ sở hữu đối với các tập đoàn để tránh rủi ro theo kinh nghiệm của nhiều TĐKT quốc tế.
Trong ngắn hạn
Hướng các TĐKT hoạt động đúng quy định của pháp luật, không lợi dụng vị thế quy mô lớn, thị phần lớn làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, cạnh tranh.
TĐKT đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, đầu tư các công trình trọng điểm, các dự án đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội dài hạn để phát huy hiệu quả tối đa. Đánh giá lại hiệu quả sử dụng vốn vay để kịp thời có biện pháp chấn chỉnh đối với những trường hợp sử dụng không có hiệu quả. Rà soát lại các ngành nghề không phải là ngành kinh doanh chính mà các TĐKT đã và đang đầu tư để cơ cấu lại ngành nghề một cách phù hợp.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường nói chung và quản trị doanh nghiệp trong mô hình TĐKT nói riêng.
Tổ chức việc kiểm kê, đánh giá lại vốn, tài sản của các TĐKTNN để xác định rõ năng lực tài chính và quy mô vốn.
Đối với việc tái cấu trúc Khu vực kinh tế Nhà nước
Một số hướng giải quyết cho những bất cập còn tồn tại trong CPH DNNN
Về vấn đề giá trị đất thuê của DN:
Mặc dù không đưa giá trị đất thuê vào giá trị DN khi định giá nhưng với việc được hưởng giá thuê đất quá thấp so với giá thị trường trong một thời gian dài (30 đến 50 năm) thì Nhà nước đã thất thoát một lượng tài sản khổng lồ, còn giá trị DN sau đấu giá lại tăng vọt do nhà đầu tư thấy được khoản lợi kếch sù từ nguồn đất này. Để giải quyết vấn đề này, trong NĐ 109 Nhà nước đã quy định thêm rằng nếu DN thuê đất mà trả tiền thuê một lần cho toàn bộ thời gian thuê thì sẽ tính giá trị đất thuê đó vào giá trị DN. Nhưng thực tế không có DN nào lại chọn hình thức này do trả tiền thuê hàng năm có lợi hơn nhiều. Do vậy, nên chăng Nhà nước cần có giải pháp để nâng giá thuê đất lên tiệm cận với giá thị trường để tránh thất thoát khi cho DN sử dụng đất công.
Về bất cập trong cơ chế định giá:
Có thể thấy sự móc ngoặc và mâu thuẫn về quyền lợi khiến việc định giá của Hội Đồng định giá Nhà nước vẫn chưa bám sát thực tế. Bởi vậy Nhà nước nên quy tụ nhiều tổ chức tài chính chuyên nghiệp tham gia định giá tài sản, như thế sẽ có kết quả khách quan. Đồng thời có thể thuê các tổ chức chuyên về định giá của nước ngoài, với việc không có quyền lợi liên quan họ sẽ làm việc trung thực hơn và đương nhiên là chuyên nghiệp hơn nên có thể sẽ giải quyết được sự lúng túng của các DN trong việc định giá TSVH. Sau đó các nhà tư vấn sẽ đánh giá nhu cầu thị trường và tham mưu cho doanh nghiệp (DN) giá bán cổ phần. DN có thể chào bán cổ phần công khai thay vì phải đấu giá, điều này sẽ làm cho tiến độ CPH nhanh hơn. Bởi lẽ sẽ tránh được những bất cập trong đấu giá như: móc ngoặc đẩy giá lên cao, giá không phản ánh đúng giá trị thực tế, đầu cơ cổ phần...
Định giá bằng cách cộng tổng vốn đầu tư trong quá khứ không phải là một cơ chế định giá có giá trị. Điều cần thiết bây giờ là một cơ chế định giá theo thị trường một cách sòng phẳng (tức là định giá DN chứ không phải định giá tài sản). Hiện có rất nhiều ngân hàng đầu tư đang sẵn sàng làm tư vấn, các DN có thể tham khảo xem thị trường trả giá nó bao nhiêu. Để cho thị trường định giá tài sản và mở ra một hệ thống đấu giá mở sao cho ai cũng có thể cạnh tranh hiến giá. Không nên quyết định sẵn rằng công ty sắp CPH này sẽ dành 30% cổ phần cho công ty nhà nước kia, 30% khác cho công ty nhà nước nọ, 30% là sở hữu của nhà nước và 10% là cho nhân viên.
Cũng nên tham khảo cách mà các nước mà mới đây là Trung Quốc thực hiện với các doanh nghiệp tầm cỡ. Chính phủ các nước này thuê một công ty định giá. Việc định giá được xác định trên cơ sở giá thị trường của doanh nghiệp (market cap), chứ không phải giá thị trường của tài sản cố định. Mức giá này sẽ dao động trong mức trần và sàn, nhà đầu tư được đăng ký mua tự do trong khoảng giá nhất định. Sau đó, chính phủ sẽ đưa ra cơ cấu của cổ đông doanh nghiệp, chú trọng tới nhà đầu tư nhỏ lẻ và cán bộ công nhân viên. Đối tượng này luôn giành được ưu tiên mua cổ phần trước các tổ chức tài chính và nhà đầu tư nước ngoài, nhưng có thể bị hạn chế về thời gian chuyển nhượng. Dựa trên quy mô đăng ký của các nhà đầu tư, chính phủ sẽ quyết định tỷ lệ mua của từng đối tượng. Áp dụng giá trần và sàn sẽ tránh được việc đấu giá nhiều lần do nhà đầu tư bỏ cọc gây nên, kéo dài CPH doanh nghiệp.
Về vấn đề lựa chọn và ưu đãi các nhà đàu tư chiến lược:
Để giải quyết vấn đề thật sự khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác chiến lược mà nguyên nhân chính từ giá bán cổ phần thì cần có sự điều chỉnh, để dung hòa giữa lợi ích Nhà nước với lợi ích nhà đầu tư thì Nhà nước nên giảm 30% giá bán cổ phần cho đối tác chiến lược giỏi, cam kết đầu tư dài hạn. Nhiều khả năng giá trị DN lớn hơn rất nhiều, từ đó bù đắp lại những khoản chịu thiệt ban đầu.
Để đạt được các mục tiêu “có một giá trị phù hợp cho doanh nghiệp CPH và không muốn giá bán cho nhà đầu tư chiến lược thấp hơn giá bán cho công chúng”, các doanh nghiệp trước tiên cần chọn cho mình một nhà tư vấn. Công việc của tư vấn là đi tìm các nhà đầu tư chiến lược tiềm năng, tổ chức đấu giá cổ phần giữa họ để chọn ra một hoặc vài nhà đầu tư chiến lược, và giá trúng thầu cũng sẽ là giá bán cho công chúng nếu doanh nghiệp muốn IPO. Và các nhà đầu tư có tổ chức thực sự muốn có một tỷ lệ cố phiếu đủ lớn để có thể giúp xây dựng đội ngũ quản trị và giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
Về việc bán cổ phiếu ưu đãi cho NLĐ:
Muốn cải thiện đời sống công nhân thì không phải bằng cách bán ưu đãi cho một số cổ phiếu mà phải cải cách doanh nghiệp. Doanh nghiệp phát triển tốt sẽ trả lương cao cho công nhân. Nên chăng, tất cả cổ phiếu của doanh nghiệp đều cho đấu giá công khai, sòng phẳng hết. Lãi hoặc chênh lệch giá thu được qua đấu giá nên trích ra 20-30% chia cho công nhân và cán bộ theo những tiêu chí nhất định. Nếu muốn mua cổ phần, họ cũng phải mua bình thường như những nhà đầu tư khác. Làm như vậy có thể khắc phục được một số tiêu cực trong đấu giá, đấu thầu, bày đặt quân xanh, quân đỏ, hoặc tìm cách giảm giá doanh nghiệp khi CPH.
Và một vài đề xuất khác để đẩy nhanh tiến trình CPH cũng như tăng hiệu quả của công tác này:
Phát triển thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát triển là lực đẩy cho tiến trình cổ phần hoá. Chính thị trường tạo điều kiện cho cổ phần hoá chứ cổ phần hoá không tạo ra thị trường.
Hiện Việt Nam chưa có cam kết đối với kiểm toán. Trong tình hình phần lớn DNNN chưa cổ phần, phải có một ý kiến độc lập về tình hình tài chính của công ty, để có thể thấy chặng đường cổ phần hoá còn lại là bao nhiêu và như thế nào.
Tạo môi trường minh bạch thông tin.
KẾT LUẬN
Việc thành lập các TĐKTNN với vai trò chủ đạo góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế đã không còn phù hợp trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh khốc liệt hiện nay, cũng như vẫn còn một số tập đoàn với quy mô nhỏ, cơ cấu lỏng lẻo, hoạt động không hiệu quả. Vì vậy mà công tác thực hiện tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước là một vấn đề cấp thiết được đặt ra trong nhiều năm qua. Tái cấu trúc là điều kiện để tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Tuy nhiên cho đến nay, việc thực hiện tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế về tài chính, nguồn nhân lực… của doanh nghiệp, cũng như cơ chế, cơ sở pháp lý, tư duy quản lý của Nhà nước… Do đó, thực trạng này đặt ra một yêu cầu cấp thiết là cần phải có những chính sách, giải pháp cụ thể cho những bất cập đó để góp phần thúc đẩy tiến trình tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Thành công của công tác chuyển đổi này chắc chắn sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CD3_Tai cau truc khu vua kinh te nha nuoc.doc