Thông tin là căn cứ để thẩm định do đó nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin là nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Nguồn thông tin phong phú, chính xác thì kết quả thẩm định mới có độ chính xác cao. Do đó NASB một mặt phải gia tăng nguồn cung cấp thông tin, mặt khác phải tìm cách xử lý lưu trữ thông tin một cách hữu hiệu.
Về nguồn thông tin cần phải đa dạng hơn nữa. Ngoài việc yêu cầu doanh nghiệp phải nộp các tài liệu liên quan đến thẩm định dự án, các cán bộ thẩm định phải phỏng vấn trực tiếp người đại diện của doanh nghiệp để chất vấn các thông tin chưa chuẩn xác, làm sáng tỏ hơn một số vấn đề như tư cách trình độ chuyên môn, quản lý. của chủ đầu tư. Đồng thời kết hợp với việc thăm quan cơ sở sản xuất, văn phòng làm việc để điều tra năng lực sản xuất, quản lý. Để đảm bảo những thông tin sử dụng là chính xác, ngoài những thông tin có được do doanh nghiệp cung cấp, cán bộ thẩm định còn có thể thu thập các thông tin cần thiết từ nguồn bên ngoài như:
+ Thông tin từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc NHNN.
+ Thông tin từ các NHTM mà doanh nghiệp có quan hệ tín dụng.
+ Thông tin từ các bạn hàng của doanh nghiệp, từ sách, báo tài liệu cung cấp thông tin về doanh nghiệp và các lĩnh vực dự án đầu tư.
Tuy nhiên, vấn đề thu thập thông tin nói trên lại là một vấn đề hết sức khó khăn do phạm vi thu thập thông tin rộng, các kênh cung cấp thông tin không đầy đủ và khó tiếp cận trong khi cán bộ thẩm định bị giới hạn bởi thời gian. Do vậy, người thẩm định phải thường xuyên lưu ý vấn đề thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học những ngành nghề do mình phụ trách. Mặt khác để thông tin mà doanh nghiệp cung cấp đảm bảo tính khách quan và trung thực, NASB cần yêu cầu những thông tin đó phải có xác nhận của cơ quan kiểm toán độc lập
87 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1946 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thẩm định dự án vay vốn tại ngân hàng TMCP Bắc Á chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều có trình độ từ đại học trở lên, họ đều là những người trẻ có trình độ chuyên môn giỏi, nhiệt tình trong công tác, say mê với công việc và giàu tinh thần ham học hỏi. Đây chính là đội ngũ chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thẩm định dự án đầu tư về sau này. Bên cạnh đội ngũ cán bộ trẻ, ngân hàng còn có nhiều cán bộ làm việc lâu năm, có chuyên môn sâu về lĩnh vực dự án, dày dặn kinh nghiệm công tác, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng thẩm định các dự án, đặc biệt là những dự án lớn phức tạp
Mặt khác công tác bồi dưỡng cán bộ, nâng cao nghiệp vụ thẩm định cũng được NASB thường xuyên chú trọng, hiện nay ngân hàng đã có trung tâm đào tạo riêng. Ngân hàng luôn khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ của mình trau dồi, nâng cao nghiệp vụ thẩm định. Hơn nữa ngân hàng còn rất chú trọng vào công tác đào tạo lại cán bộ, tập huấn, giao lưu, tổ chức hội nghị hội thảo mời các chuyên gia giỏi giảng dạy về thẩm định dự án. Do đó hiện nay ngân hàng đã có trong tay một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn tương đối cao, đạo đức vững vàng, không chỉ được trang bị các kiến thức liên quan đến đầu tư mà còn cả những kiến thức liên ngành đa dạng khác như kiến thức phân tích tài chính doanh nghiệp, kiến thức kế toán… Điều này cũng một phần do chất lượng đội ngũ cán bộ được tuyển chọn đầu vào có trình độ sàn tương đối cao
Chính bằng những kiến thức và kinh nghiệm thực tế đã giúp cho cán bộ thẩm định không chỉ đảm nhiệm được công việc của mình trong một môi trường đầy thử thách với số lượng các dự án cần phải thẩm định ngày càng nhiều, giá trị ngày càng lớn và tính chất phức tạp cũng ngày càng một tăng mà vẫn đảm bảo đưa ra được những đánh giá, những quyết định chính xác, kịp thời. Điều này đã được minh chứng bằng những kết quả trong công tác thẩm định của ngân hàng thời gian qua
* Về công tác thu thập, quản lý, lưu trữ số liệu phục vụ cho quá trình thẩm định
Nguồn thông tin được thu thập trong quá trình thẩm định ngày càng phong phú và đa dạng. Nếu như trước đây các thông tin về dự án dùng để phân tích được cung cấp bởi chính chủ đầu tư, gây nên tình trạng là quá trình thẩm định hầu như chỉ xoay quanh việc thẩm định tính hợp lý, tính chính xác đại số của các số liệu, tiến hành phỏng vấn khảo sát thực địa thì đến nay thông tin đã có tính nhiều chiều hơn. Nguồn thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định không chỉ căn cứ vào các tài liệu do khách hàng cung cấp, mà còn còn căn cứ vào các tài liệu phân tích thị trường, tài liệu lưu trữ liên ngân hàng, các văn bản luật, thông tin từ bạn hàng, đối tác, từ các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia trong lĩnh vực có liên quan, từ trung tâm phòng ngừa rủi ro (CIC)… Như vậy tại NASB công tác thu thập quản lý, phân tích, lưu trữ các dữ liệu về dự án và các dữ liệu liên quan đã được quan tâm chú trọng một cách liên tục và có hệ thống, làm cơ sở cho việc ra các quyết định khách quan và chính xác
Mặt khác trong điều kiện hiện nay, các cán bộ thẩm định được trang bị và hỗ trợ khá tốt với những phương tiện làm việc cần thiết như máy tính nối mạng, điện thoại… giúp cho cán bộ thẩm định nhanh chóng thu thập được những thông tin cần thiết, rút ngắn thời gian thẩm định
Tất cả những điều đó đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định dự án tại ngân hàng, làm tăng tính chính xác và độ thuyết phục của các kết quả thẩm định, nhất là trong thời đại ngày nay khi mà mọi thứ đều liên tục biến đổi và đỏi hỏi phải được cập nhật thường xuyên
1.2.5.2.2 Một số tồn tại và nguyên nhân
Tồn tại
*Về tổ chức thẩm định
Có thể nói cho đến nay ngân hàng chưa có phòng thẩm định dự án riêng, Mặc dù trong thời gian qua phòng phục vụ khách hàng doanh nghiệp đã ra đời với nhiệm vụ chuyên trách thẩm định các dự án đầu tư trong và ngoài nước, tuy vậy trên thực tế công tác thẩm định dự án đầu tư ở phòng chưa có sự tách biệt, nghiệp vụ thẩm định vẫn được lồng ghép với nghiệp vụ tín dụng. Một cán bộ tín dụng phải kiêm rất nhiều việc từ tiếp nhận hồ sơ vay vốn, kiểm soát tính đầy đủ hợp lệ của các loại giấy tờ, thu thập thông tin để thẩm định khách hàng vay, thẩm định dự án đầu tư đến lập tờ trình rồi kiểm tra, giám sát theo dõi nợ vay… Khối lượng công việc lớn như vậy cộng thêm số các dự án thẩm định ngày càng tăng khiến cho các cán bộ không có đủ thời gian để thu thập các thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình thẩm định, từ đó làm giảm tính chính xác của các kết quả cuối cùng
Bên cạnh đó sự phối hợp giữa các bộ phận trong quá trình thẩm định còn hạn chế, cán bộ thẩm định thường làm việc khá độc lập, ít có sự chia sẻ hỗ trợ thông tin và kinh nghiệm cho nhau
* Về phương pháp thẩm định
Ngân hàng chưa có sự kết hợp các phương pháp trong quá trình thẩm định. Mặt khác trong việc sử dụng từng chỉ tiêu cũng còn nhiều hạn chế:
Phương pháp so sánh các chỉ tiêu là phương pháp phổ biến mà cán bộ thẩm định sử dụng nhiều nhất, tuy vậy việc so sánh đôi khi còn mang tính giản đơn. Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư hoặc các chỉ tiêu về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên vật liệu, nhân công… chưa có sự so sánh với các dự án tương tự, với các định mức kinh tế- kỹ thuật của Bộ ngành. Các chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc so sánh giữa các năm với nhau chứ chưa đối chiếu với các doanh nghiệp trong cùng ngành. Các tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị cũng chưa có chuẩn mực nào để kiểm tra, đối chứng. Điều này một lần nữa chứng tỏ nguồn thông tin của ngân hàng còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu thẩm định
Phương pháp dự báo vẫn chưa áp dụng một cách khoa học. Các thông tin về cung cầu sản phẩm, giá cả, chất lượng công nghệ, thiết bị… mới chỉ được thu thập dựa trên sự cố gắng cao nhất của cán bộ thẩm định thông qua sách báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày, các nguồn thông tin này nhiều khi không thực sự đầy đủ và cập nhật. Mặt khác ngân hàng cũng chưa áp dụng các phương pháp toán học hiện đại để phân tích và dự báo cung cầu thị trường. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng công tác dự báo, làm giảm độ chính xác của các chỉ tiêu hiệu quả
Các phương pháp phân tích rủi ro chưa được chú trọng một cách đúng mức. Một dự án đầu tư khi đi vào hoạt động có thể gặp rất nhiều các loại rủi ro khác nhau như: rủi ro về cung cấp các đầu vào, đầu ra, rủi ro do chậm tiến độ thi công; rủi ro về cung cấp dịch vụ công nghệ- kỹ thuật… Tuy nhiên cán bộ thẩm định ít khi dành nhiều thời gian và công sức đi sâu đánh giá từng loại để từ đó có hướng tư vấn, cùng chủ đầu tư tìm các biện pháp phòng ngừa.
Bên cạnh đó, phân tích rủi ro thông qua phân tích độ nhạy được coi là một trong những phương pháp phân tích hiện đại, tuy vậy vẫn chưa được ngân hàng sử dụng nhiều, nếu có cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích độ nhạy một chiều. Việc lựa chọn yếu tố dao động, khoảng dao động phụ thuộc nhiều vào sự đánh giá chủ quan của cán bộ thẩm định chứ không được ngân hàng quy định cụ thể trên cơ sở tổng kết các dự án đặc trưng ở các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau
*Về nội dung và quy trình thẩm định:
Mặc dù công tác thẩm định dự án tại NASB đã thực hiện đúng quy trình do NASB ban hành, tuy nhiên việc tuân thủ theo quy trình đó chỉ mang tính hình thức bên ngoài. Trên thực tế, các nội dung trong quy trình chỉ được thẩm định một cách sơ sài và chưa đầy đủ. Xuất phát từ đặc trưng của một ngân hàng thương mại giống như nhiều ngân hàng khác, điều mà NASB quan tâm nhất khi xem xét một khoản vay đó là khả năng trả nợ, nguồn trả nợ và thời gian trả nợ. Do đó quá trình thẩm định dự án hầu như chỉ tập trung đánh giá khía cạnh tài chính cũng như khả năng trả nợ của chủ đầu tư, các nội dung khác mới chỉ được đánh giá một cách chung chung, sơ sài, không được quan tâm một cách đúng mức. Cụ thể đó là
Khi đánh giá về khía cạnh kỹ thuật, cán bộ mới chỉ dựa trên luận chứng kỹ thuật của khách hàng mà ít đưa ra nhận xét chủ quan do bản thân chưa có nhiều kinh nghiệm.
Khi đánh giá về phương diện thị trường, các kết luận đưa ra còn thiếu cơ sở, mang nặng tính chất định tính. Hầu hết các thông số được đưa ra đều dựa trên kinh nghiệm và ý kiến chủ quan của cá nhân, chưa áp dụng các phương pháp phân tích toán học trong phân tích và dự đoán cung cầu thị trường…
Khi đánh giá về phương diện tài chính
Thứ nhất, trong thẩm định tổng vốn đầu tư cũng như cơ cấu, tốc độ bỏ vốn, NASB thường chấp nhận những dự toán mà chủ đầu tư đưa ra trong dự án mà không có sự cân nhắc đánh giá một cách toàn diện. Do đó trên thực tế có một số dự án khi đi vào hoạt động tổng vốn đầu tư không đủ, kế hoạch bỏ vốn không hợp lý, trong trường hợp này ngân hàng buộc phải cho vay phần thiếu hụt vì nếu không dự án không thể đảm bảo đúng tiến độ và xảy ra nguy cơ rủi ro với khoản vay trước đó
Thứ hai, các nội dung cơ bản quyết định đến tính chính xác của các kết quả tính toán như: doanh thu, chi phí…tuy được quan tâm thực hiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác thẩm định tài chính dự án. Cụ thể là:
+ Về xác định doanh thu: Doanh thu của mỗi dự án phụ thuộc vào công suất hoạt động thực tế, giá bán sản phẩm và số lượng sản phẩm tiêu thụ được. Giá bán và số sản phẩm bán được lại phụ thuộc vào thị trường, mà thị trường thì thường xuyên biến động. Tuy nhiên ngân hàng chỉ xem xét xem sản phẩm có được thị trường chấp nhận không rồi từ đó áp dụng mức công suất hoạt động tăng dần theo các năm. Bên cạnh đó cán bộ thẩm định cũng thường sử dụng luôn mức giá bán mà doanh nghiệp đưa ra, ít khi có sự tham khảo giá thị trường để xem xét tính hợp lý của giá bán và cũng không có sự điều chỉnh giá do ảnh hưởng của những yếu tố như lạm phát, trượt giá…Nhìn chung, việc dự tính doanh thu mới chỉ dựa trên những tính toán chủ quan của chủ đầu tư hoặc những tính toán có tính chất định tính của cán bộ thẩm định mà không áp dụng các phương pháp phân tích cụ thể để dự đoán nhu cầu, không tính đến những thay đổi của cơ chế chính sách, của thị hiếu tiêu dùng, …
+Về xác định chi phí: việc thẩm định chi phí dự án hầu như mới chỉ dừng lại ở việc xem xét tính đầy đủ của các khoản mục, chưa đi sâu tìm hiểu từng nội dung cụ thể nhằm khẳng định tính lợp lý và chính xác của các khoản mục đó. Trên thực tế đây là công việc khá phức tạp, nhất là đối với những dự án nằm trong lĩnh vực mới. Do đó khi thẩm định chỉ tiêu này, cán bộ thẩm định thường dựa vào số liệu do doanh nghiệp cung cấp và kinh nghiệm khi thẩm định các dự án cùng loại nên không tránh khỏi những sai sót
Thứ ba, việc thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính còn nhiều bất cập
Trong hầu hết các dự án được thẩm định, cán bộ thẩm định mới chỉ lựa chọn một số chỉ tiêu cơ bản để tính toán như: NPV, IRR, T, tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư, các chỉ tiêu khác như chỉ tiêu điểm hoà vốn, lợi ích- chi phí, năng lực hoà vốn… chưa được quan tâm và thông thường là bị bỏ qua
Các chỉ tiêu NPV, T được tính trên cơ sở áp dụng một mức lãi suất không đổi. Tuy nhiên về mặt lý thuyết, lãi suất là yếu tố thường xuyên biến đổi dưới tác động của nhiều nhân tố theo thời gian. Như vậy các chỉ tiêu trên sẽ ít nhiều không còn mang đầy đủ ý nghĩa, nhất là với những dự án trung- dài hạn, bởi lẽ việc tính toán chúng phụ thuộc khá nhiều vào việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu
Trong một số trường hợp, cán bộ thẩm định khi tính toán các chỉ tiêu trên đã không chú ý tới giá trị thời gian của tiền, không quy đổi các khoản thu chi về cùng một mặt bằng thời gian để tính toán, phân tích, từ đó dẫn đến làm giảm độ chính xác của các chỉ tiêu
Thứ tư, việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu còn thiếu cơ sở khoa học.
Về mặt lý thuyết có nhiều phương pháp lựa chọn lãi suất chiết khấu khác nhau, tuy nhiên cán bộ thẩm định thường chấp nhận mức lãi suất do khách hàng đưa ra, ở một số trường hợp thì sử dụng luôn lãi suất vay ngân hàng nếu nguồn vốn vay ngân hàng chiếm đa số trong tổng cơ cấu nguồn vốn. Lãi suất chưa phản ánh đầy đủ chi phí huy động vốn, như ở trong ví dụ trên, mức lãi suất chiết khấu đáng lẽ phải là chi phí quân của 3 loại vốn: lãi suất vay ngân hàng, lãi vay ưu đãi của nhà nước và chi phí cơ hội của vốn tự có. Lãi suất cũng chưa thực sự phản ánh những tác động của môi trường kinh tế tới hiệu quả của dự án, chẳng hạn như: lạm phát, trượt giá, mức độ rủi ro… ở đa số các dự án, như đã nói ở trên, các dòng tiền của dự án trong suốt thời kỳ phân tích được chiết khấu với một tỷ lệ không đổi
Khi đánh giá về khía cạnh kinh tế- xã hội cán bộ thẩm định rất ít khi tính toán các chỉ tiêu hiệu quả xã hội của dự án như : mức tăng thu nhập, khả năng tạo việc làm cho người lao động, mức thuế đóng góp cho ngân sách…
Đặc biệt nội dung đánh giá rủi ro rất ít khi được cán bộ thẩm định đề cập trong hầu hết các báo cáo thẩm định
*Về trang thiết bị phục vụ công tác thẩm định
Từ khi đi vào hoạt động ngân hàng đã luôn chú trọng áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ nói chung và công nghệ ngân hàng nói riêng. Hệ thống máy tính nối mạng được trang bị cho các phòng ban đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng cung cấp số liệu, nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Tuy nhiên việc áp dụng còn nhiều hạn chế, một phần do dữ liệu của Ngân hàng Trung ương không được cập nhật thường xuyên, mặt khác do NASB chưa thiết lập được ngân hàng dữ liệu riêng cho mình
Ngân hàng cũng chưa chú trọng áp dụng các phần mềm trong thẩm định, do vậy việc thẩm định nhiều khi còn mang tính thủ công cục bộ cá nhân. Điều này đi ngược lại với đặc trưng của hoạt động thẩm định là đòi hỏi phải có sự phối kết hợp về trí tụê của nhiều cá nhân và tập thể. Đó là chưa kể đến các tính năng ưu việt của hệ thống máy tính chưa được khai thác một cách triệt để và có hiệu quả. Dường như hệ thống máy tính mới chỉ dừng lại ở việc phục vụ cho công tác soạn thảo văn bản, lưu trữ số liệu chứ chưa có sự áp dụng các phần mềm tiện ích và các tính năng hiện đại của máy tính trong phân tích, dự báo.
Vì vậy, Trong nhiều trường hợp đã xảy ra tình trạng sai lệch do việc tính toán thủ công gây nên. Điều này một mặt làm giảm độ tin cậy, chính xác của các kết quả thẩm định, mặt khác làm hao tổn thời gian và công sức của cán bộ thẩm định cũng như của khách hàng, có thể làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng do phải chờ đợi quyết định có được vay vốn hay không và vô hình chung làm ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng .
* Về mạng lưới thông tin
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc thu thập mọi thông tin về khách hàng thông qua các biện pháp thu thập trực tiếp hay gián tiếp song cơ sở thông tin được dùng để phân tích thẩm định dự án chủ yếu vẫn dựa trên các tài liệu mà khách hàng gửi đến. Trong nhiều trường hợp các nguồn thông tin này không thực sự khách quan vì để được ngân hàng chấp nhận cho vay, chủ đầu tư đã cố tình làm sai lệch các số liệu nhằm làm khả quan tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như làm tăng tính khả thi của dự án
Hiện nay hầu hết các dự án gửi đến ngân hàng thẩm định đều là do chủ đầu tư tự lập, nguồn số liệu trong các báo cáo khả thi thường thiếu gây nhiều khó khăn cho cán bộ thẩm định. Hơn thế nữa, để tăng tính thuyết phục cho dự án, doanh nghiệp trong quá trình lập báo cáo khả thi có xu hướng tìm mọi cách làm giảm chi phí hoạt động của dự án xuống mức thấp nhất
Các báo cáo tài chính được sử dụng để phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn cũng không thực sự đủ độ tin cậy bởi có nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc. Thêm vào đó các báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh thường kỳ của doanh nghiệp nộp cho ngân hàng có nhiều loại khác nhau dẫn đến khó hệ thống chuẩn hoá thông tin
Sự phối hợp về mặt thông tin giữa các thành viên cũng chưa chặt chẽ, thường xuyên. Khối lượng công việc của phòng khá lớn nên các cá nhân làm việc một cách độc lập, dự án phân công cho ai thì người đó tự tìm kiếm thông tin, tự thẩm định dựa vào năng lực của bản thân, ít có sự hợp tác, hỗ trợ qua lại lẫn nhau về mặt thông tin trong quá trình thẩm định. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian cũng như chất lượng thẩm định
Trong quá trình thẩm định, tuy cán bộ thẩm định có tham khảo các thông tin từ hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng (CIC), tuy nhiên hệ thống này mới đi vào hoạt động, thông tin chưa có nhiều, các thông tin về khách hàng nếu có cũng chỉ mới được cập nhật trong vòng 2 đến 3 năm gần đây. Điều này chắc chắn sẽ gây khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc nắm bắt được một cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như độ lành mạnh của chính doanh nghiệp đó. Mặt khác các thông tin trên hệ thống này chủ yếu được cung cấp bởi các tổ chức tín dụng, do vậy nếu các tổ chức này chậm hoặc không gửi thông tin lên thì sẽ khiến cho các thông tin về doanh nghiệp bị phản ánh không đầy đủ, thiếu khách quan. Việc thu thập thông tin từ các đối tác, bạn hàng của doanh nghiệp, từ các tổ chức tín dụng khác là rất hạn chế. Trong khi đó, việc khai thác thông tin từ phía các cơ quan nhà nước (như toà án, thuế, uỷ ban nhân dân, kiểm toán, kế hoạch đầu tư…) còn khá khó khăn, lí do là bởi vì hiện nay chưa có một cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các tổ chức cho vay và cơ quan nhà nước
Hiện nay NASB đã yêu cầu khách hàng thanh toán qua ngân hàng để ngân hàng dễ dàng kiểm tra tình hình tài chính doanh nghiệp, phát hiện ra các vấn đề rủi ro tín dụng. Tuy nhiên điều này rất khó thực hiện bởi việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng chưa phổ biến, hơn nữa chẳng có doanh nghiệp nào muốn bị giám sát nguồn thu chi của mình
*Về cán bộ thẩm định:
Đa số cán bộ thẩm định cũng như đội ngũ nhân viên trong ngân hàng đều có trình độ từ đại học trở lên, tuy nhiên đa số họ là đội ngũ trẻ, thiếu kinh nghiệm thực tế về dự án, về thương trường. Số cán bộ có kỹ thuật còn hạn chế trong khi số cán bộ có chuyên môn về cả nghiệp vụ lẫn kỹ thuật lại càng ít. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác thẩm định
Đội ngũ cán bộ thẩm định chưa được phân công chuyên môn hoá trong công tác thẩm định, ở nhiều chi nhánh chưa có cán bộ chuyên trách về thẩm định dự án. Nhiều cán bộ không được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ thẩm định dự án mà chủ yếu tự nghiên cứu tài liệu thẩm định nên trình độ còn nhiều hạn chế
Mặt khác ngân hàng cũng chưa có chương trình đào tạo tổng thể về thẩm định dự án, việc đào tạo mới chỉ dựa vào những chương trình tập huấn và bồi dưỡng trong ngắn hạn hoặc tự đào tạo
* Các hạn chế khác
Việc thẩm định dự án đôi khi còn mang tính chủ quan, kết quả thẩm định còn ít nhiều phụ thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Thực tế chúng ta gặp nhiều trường hợp mà việc ngân hàng có quyết định cho vay hay không không chỉ phụ thuộc vào kết quả thẩm định mà còn phụ thuộc vào "tài sản vô hình đem ra thế chấp với ngân hàng"- đó là mối quan hệ giữa NASB và khách hàng, do đó việc thẩm định trên thực tế chỉ mang tính thủ tục, hình thức. Vì thế mà có những dự án kết quả thẩm định cho thấy có thể cho vay thì chưa chắc đã được chấp thuận cho vay, trong khi có dự án mà kết quả thẩm định cho thấy không thể cho vay hoặc còn nhiều điều bất ổn thì lại được ngân hàng sẵn sàng cấp vốn. Đây chính là nguy cơ chủ yếu dẫn đến những rủi ro tín dụng cho ngân hàng trong thời gian qua
Nguyên nhân
Những tồn tại trong công tác thẩm định của ngân hàng thời gian qua là do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan
- Nguyên nhân chủ quan
* Nội dung và quy trình thẩm định của ngân hàng đang trong quá trình hoàn thiện. Quy trình thẩm định đã được xây dựng là áp dụng chung cho mọi loại dự án, chưa có văn bản hướng dẫn riêng cho từng loại dự án thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Các nội dung trong quy trình chưa được quy định chi tiết, tỉ mỉ làm cơ sở cho cán bộ thẩm định có căn cứ tham chiếu, khiến họ lúng túng khi thẩm định, đặc biệt đối với những dự án thuộc các lĩnh vực kinh doanh mới. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ qua hoặc tuỳ tiện trong một số trường hợp.
Mặc dù quy trình tín dụng của ngân hàng có quy định khá đầy đủ các nội dung cần tiến hành trong quá trình thẩm định một dự án đầu tư, song trên thực tế việc thẩm định mới chỉ tập trung vào phương diện tài chính và phân tích thị trường. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu, bởi trên thực tế ngân hàng là một đơn vị kinh doanh và cũng không có đủ nguồn lực để thẩm định hết các yếu tố, dó đó các khía cạnh còn lại chưa được nghiên cứu quan tâm đầy đủ, nhất là khía cạnh kinh tế- xã hội của dự án. Đây cũng là một thực tế chung ở hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam
Trong thời gian qua mặc dù các trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định đã được ngân hàng chú trọng đầu tư, tuy nhiên do đặc thù của ngành ngân hàng đòi hỏi hệ thống trang thiết bị phải được thường xuyên đổi mới, cập nhật, nên sự đầu tư đó vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu. Bên cạnh đó, hệ thống trang thiết bị này chưa được khai thác một cách triệt để, mới chủ yếu dùng để soạn thảo văn bản và tính toán đơn thuần trên Excel. Ở đây cũng phải kể đến năng lực thành thạo máy tính của một bộ phận cán bộ thẩm định còn chưa ổn.
Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến hạn chế trên chính là do ngân hàng chưa nghiên cứu và áp dụng các phần mềm hiện đại trong thẩm định và quản lý dự án. Điều này trái ngược với xu hướng hiện nay, khi mà công tác thẩm định ngày càng đòi hỏi phải được chuẩn hoá thông qua việc áp dụng hệ thống các phần mềm trong phân tích chuyên ngành, quản lý và dự báo. Trong tương lai, ngân hàng nên chú ý áp dụng ứng dụng của khoa học công nghệ trong công tác thẩm định dự án hơn nữa
* Công tác thu thập, quản lý, lưu trữ thông tin của ngân hàng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu.
Việc thu thập thông tin của ngân hàng còn nhiều hạn chế như: ngân hàng vẫn chưa khai thác triệt để các nguồn thông tin đa dạng từ trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước, từ các Bộ ngành liên quan, từ đối tác, khách hàng, bạn hàng của NASB. Ngân hàng chưa có bộ phận chuyên trách phục vụ việc thu thập thông tin về các văn bản pháp quy mới, các thông số, quy chuẩn, tiêu chuẩn kinh tế- kỹ thuật được áp dụng trong từng lĩnh vực dự án khác nhau, về các đối tác đã, đang và sẽ có quan hệ tín dụng với mình. Phòng khách hàng mới chỉ làm nhiệm vụ tìm kiếm, duy trì và triển mối quan hệ khách hàng mà chưa có sự hỗ trợ thông tin về khách hàng cho công tác thẩm định. Mặt khác, ngân hàng cũng ít khi chủ động thu thập thông tin, đánh giá lại các dự án đã và đang thực hiện làm tài liệu tham khảo để thẩm định các dự án tương tự về sau, việc thu thập thông tin thường chỉ được phát sinh ở một dự án nào đó cần được thẩm định
Bên cạnh đó, các thông tin về dự án đã thực hiện được lưu trữ dưới dạng thô sơ, chưa có hệ thống, chưa tận dụng được hết hiệu quả của máy tính và mạng máy tính trong việc lưu trữ và tra cứu khi cần. Sự phối hợp trao đổi thông tin, tư vấn giữa NASB với các đơn vị khác trong ngành hầu như không có.
Tóm lại, ngân hàng chưa xây dựng cho mình một hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin hoàn chỉnh, cũng như chưa tận dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật trong việc xử lý và sử dụng những dữ liệu ấy
* Nguyên nhân khách quan
Chất lượng thẩmđịnh dự án không chỉ phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khách quan khác (như: môi trường luật pháp, kinh tế, xã hội… và phụ thuộc vào chính chủ đầu tư )
- Nguyên nhân từ môi trường vĩ mô
+ Pháp luật : hệ thống luật pháp của chúng ta chưa đồng bộ, còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Pháp lệnh về kế toán thống kê vẫn chưa được thực hiện một cách nghiêm minh. Hiện nay chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc, các số liệu về khả năng tiêu thụ, về thu nhập, chi phí hoạt động,… của doanh nghiệp chỉ mang tính ước tính mà chưa có sự kiểm chứng của bất kỳ một tổ chức kiểm toán nào. Do đó cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định rất khó xác định tình hình tài chính, tình tình thanh toán, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
+ Kinh tế : môi trường kinh tế trong và ngoài nước có nhiều biến động gây khó khăn cho công tác dự báo
Hệ thống các ngân hàng hiện nay chưa hoàn thiện, thị trường chứng khoán chưa phát triển mạnh mẽ dẫn đến khó xác định mức lãi suất chiết khấu. Tỷ giá không thống nhất cũng gây bất lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính
Sự cạnh tranh trên thương trường diễn ra ngày càng găy gắt khiến cho nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản
Phân cấp quản lý dự án của nhà nước không rõ ràng khiến cho ngân hàng nhiều khi không xác định được chính xác thẩm quyền quyết định các dự án. Quản lý dự án đầu tư đôi khi còn chồng chéo giữa địa phương và các Bộ ngành liên quan…
+ Môi trường xã hội : hệ thống các cơ quan tư vấn về thẩm định dự án, đặc biệt là phương diện kỹ thuật, thị trường chưa phát triển
- Nguyên nhân từ phía chủ đầu tư
Trước hết phải kể đến trình độ lập dự án của các doanh nghiệp còn yếu, các dự án được lập còn thiếu chính xác và thiếu căn cứ khoa học… Khi trình hồ sơ tài liệu lên ngân hàng, các chủ đầu tư không cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu cần thiết cho qua trình thẩm định, khiến cho công tác thẩm định thường bị kéo dài. Các chủ đầu tư thường cung cấp những thông tin thiếu chính xác về doanh nghiệp và dự án, làm ảnh hưởng tới chất lượng của công tác thẩm định
Mặt khác, Trình độ quản lý của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn thấp, dẫn đến hiệu quả của các dự án không cao. Trong quá trình dự án đi vào hoạt động, các cán bộ thẩm định cũng không thể kiểm soát được mọi hoạt động của doanh nghiệp, từ đó khiến cho nhiều dự án bị chậm tiến độ thi công do lựa chọn không đúng nhà thầu, triển khai vốn không đúng tiến độ hay sử dụng vốn sai mục đích… làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
Bên cạnh đó còn phải kể đến một số những nguyên nhân khác như: thị trường máy móc thiết bị cung cấp cho các doanh nghiệp hiện nay rất phong phú và đa dạng. Có nhiều loại máy móc hiện đại nên các cán bộ thẩm định rất khó đánh giá được khả năng sử dụng vận hành công nghệ, đội ngũ công nhân vận hành của doanh nghiệp…
Trước thực trạng công tác thẩm định của ngân hàng trong thời gian qua, có thể thấy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động thẩm định dự án đầu tư của NASB vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Chính vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng cần phát huy những thành tựu đã đạt được, mặt khác tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại để không ngừng nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động.
CHƯƠNG II:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP BẮC Á CHI NHÁNH HÀ NỘI
Định hướng & mục tiêu của chi nhánh:
Về công tác huy động vốn.
+ Đẩy mạnh công tác huy động vốn và nâng cao tỉ trọng vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu cho vay đầu tư
+ Duy trì quan hệ với khách hàng lớn, khách hàng truyền thống và không ngừng tiếp thị để mở rộng khách hàng mới đặc biệt khách hàng tiềm năng.
+ Đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng tối đa nhu cầu gửi tiền của khách hàng và đồng thời xây dựng và phát triển sản phẩm huy động mang đặc trưng riêng của Ngân hàng
+ Tăng dần tỉ trọng tiền gửi thanh toán, góp phần tăng thu dịch vụ và giảm lãi suất huy động bình quân
+ Chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn, đảm bảo tự chủ về nguồn vốn và tính thanh khoản, đáp ứng hoàn toàn nhu cầu cho vay đầu tư
+ Đánh giá và phân tích cơ cấu tài sản nợ.
+ Xây dựng và điều chỉnh chính sách huy động hợp lí đảm bảo thanh toán.
+ Thường xuyên theo dõi, nắm bắt thông tin, nghiên cứu và dự báo xu hướng biến động của lãi suất để đưa ra kế hoạch điều chỉnh kịp thời.
- Hoạt động tín dụng và thẩm định
Kế hoạch năm 2010 phấn đấu tổng dư nợ đạt 107,5 tỷ đồng trong đó:
Dư nợ trung và dài hạn đạt 15 tỷ đồng.
Dư nợ ngắn hạn đạt 92,5 tỷ dồng.
Để hoàn thành tốt kế hoạch đó thì Ngân hàng cần phải:
Nâng cao chất lượng công tác tín dụng, thẩm định DA và tư vấn cho khách hàng cho vay nhằm tăng trưởng dư nợ cho vay.
Đẩy mạnh xử lí dứt điểm dư nợ xấu, nợ tồn đọng và cơ cấu lại dư nợ cho vay.
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát sau giải ngân, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích nhằm hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra đối với khoản vay.
Tăng cường công tác tiếp thị, marketing để mở rộng, đa dạng hóa khách hàng chủ yếu tập trung vào đối tượng là các DN hoạt động có hiệu quả. Đồng thời tăng sản phẩm có sức cạnh tranh và đã có thương hiệu trên thị trường.
Trích lập dư phòng rủi ro tín dụng theo đúng quy định của Ngân hàng và Hội sở chính.
Tăng cường công tác thu hồi nợ đối với các khoản vay trung dài hạn, giảm bớt cho vay trung dài hạn đối với các DA mới, chỉ cho vay các DA hiệu quả cao, thời gian thu hồi vốn nhanh. Tăng cường cho vay bổ sung vốn lưu động bằng cách cho vay vốn lưu động đối với những khách hàng đang có quan hệ tín dụng tốt với Ngân hàng.
Thường xuyên tiến hành đối chiếu, phân loại kế hoạch theo định kì để có chính sách và kế hoạch hợp lí cho từng thời điểm.
Giữ vững và tăng trưởng tín dụng trung và dài hạn, tăng tỉ trọng cho vay ngắn hạn.
Tăng trưởng tín dụng trên cơ sở an toàn, vững chắc.Thường xuyên rà soát, theo dõi khoản vay đảm bảo sử dụng đúng mục đích, theo quy định
Nâng cao vai trò công tác thẩm định, đảm bảo an toàn trong công tác tín dụng và bảo lãnh.
Tăng cường theo dõi, bám sát các doanh nghiệp có nợ xấu, nợ tồn đọng, bám sát và tích cực xử lý, tận thu các khoản nợ khó đòi, nợ tốn đọng để tạo điều kiện cơ cấu lại nợ.
Tiến hành rà soát các hồ sơ tín dụng,đảm bảo thực hiện và tuân thủ đúng quy định của Ngân Hàng.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định dự án vay vốn tại ngân hàng TMCP Bắc Á
2.2.1 Đối với công tác thẩm định dự án vay vốn “Dự án đầu tư xây dựng công trình cải tạo - mở rộng nhà máy sản xuất Urê”
- Cán bộ thẩm định cần xuống cơ sở thực tế của công ty để có thể thu thập được thông tin chính xác và đầy đủ hơn
- Để tính chính xác và đảm bảo công tác thẩm định hơn nữa, cán bộ tín dụng cần phải tính toán thêm các chỉ tiêu điểm hòa vốn, thời gian hoàn vốn, lợi ích- chi phí
- Ngoài xuống cơ sở để đánh giá lại chính xác công tác thẩm định dự án thì cán bộ thẩm định còn phải tìm hiểu thông tin từ những nguồn thông tin từ đối tác kinh doanh,bạn hàng …
- Cán bộ thẩm định dự án cần phải xem xét các loại rủi ro của dự án như:
+ Tổng mức đầu tư: nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khách quan, chủ quan và có quyết định chính đến hiệu quả dự án.
+ Giá bán sản phẩm: quyết định chủ yếu đến dòng tiền vào của dự án và nó chịu ảnh hưởng lớn bởi yếu tố thị trường, đây là yếu tố khách quan nên cần phải đánh giá rủi ro.
+ Xem xét thêm giá mua than nguyên liệu (than cám 4a), than nhiên liệu than cám 5, cám 4b), trong khoản chi phí bỏ ra hàng năm khi dây chuyền đi vào hoạt động nó chiếm khoảng 40% trong tổng chi phí sản xuất.
Kết quả tính toán các rủi ro cho các yếu tố trên như sau
So sánh ảnh hưởng của Vốn đầu tư đến hiệu quả đầu tư của dự án.
Phạm vi thay đổi
Tổng mức đầu tư (1000 USD)
Tổng Vốn đầu tư XDCB (1000 USD)
IRR (%)
Thời gian hoàn vốn giản đơn (năm)
NPV (1000 USD)
Tỷ lệ lợi nhuận trên đầu tư
Hệ số trả nợ bình quân
-10%
353.086
307.181
11,44
11,49
82.799
14,15
1,68
-5%
372.757
324.927
10,71
11,05
61.548
13,05
1,58
0%
392.376
342.622
10,002
11,58
40.287
12
1,5
5%
411.944
360.314
9,35
12,11
19.015
11,16
1,42
10%
431.617
378.011
8,74
12,65
-2.272
10.34
1,35
Như vậy khi vốn đầu tư tăng thêm 10% thì dự án gặp khó khăn vì NPV < 0
So sánh ảnh hưởng của biến động giá Urê đến hiệu quả đầu tư của dự án
Phạm vi thay đổi
Giá Ure bao gồm cả VAT
Giá Urea không bao gồm VAT
IRR (%)
Thời gian hoàn vốn giản đơn (năm)
NPV (1000 USD)
Tỷ lệ lợi nhuận trên đầu tư
Hệ số trả nợ bình quân
-8%
255,99
243,8
8,09
13,25
-23.939
9,41
1,31
-5%
264,34
251,75
8,82
12,56
146
19,4
1,38
-3%
269,90
257,05
9,3
12,14
16.202
11,06
1,43
0%
278,25
265
10,002
11,58
40.287
12
1,5
5%
292,16
278,25
11,14
10,77
80.429
13,71
1,61
10%
306,08
291,5
12,24
10,09
120.570
15,36
1,73
Trong trường hợp giá Urê có sự biến động giảm nhiều hon 5% thì dự án sẽ không khả thi vì NPV < 0
So sánh ảnh hưởng của giá than nguyên liệu và nhiên liệu tới hiệu quả đầu tư của dự án.
Phạm vi thay đổi
Giá than nguyên liệu cám 4a
(không bao gồm VAT)
Giá than nhiên liệu cám 5 (không bao gồm VAT)
Giá than nhiên liệu cám 4b (không bao gồm VAT)
IRR (%)
Thời gian hoàn vốn giản đơn (năm)
NPV (1000 USD)
Tỷ lệ lợi nhuận trên đầu tư
Hệ số trả nợ bình quân
-15%
39,08
31,41
36,50
11,13
10,77
80.058
13,7
1,6
-10%
41,38
33,25
38,65
10,76
11,02
66.801
13,15
1,57
-5%
43,68
35,10
40,80
10,38
11,29
53.544
12,6
1,53
0%
45,98
36,95
42,95
10,002
11,58
40.287
12
1,5
5%
48,28
38,80
45,09
9,62
11,88
27.030
11,51
1,46
10%
50,58
40,64
47,24
9,23
12,2
13.774
10,96
1,42
15%
52,88
42,49
49,39
8,84
12,55
517
10,41
1,38
20%
55,18
44,34
51,54
8,44
12,92
-12.740
9,86
1,35
Khi giá than nguyên và nhiên liệu tăng trên 15% dự án sẽ gặp khó khăn.
Dự án sẽ gặp khó khăn khi xảy ra một trong các trường hợp hoặc tổng mức đầu tư tăng trên 10% hoặc giá nguyên nhiên liệu tăng trên 15% hoặc giá Urê giảm nhiều hơn 5% (NPV có thể âm).
2.2.2 Đối với công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng TMCP Bắc Á:
Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định.
Ngân hàng cần phát huy hơn nữa vai trò của phòng thẩm định. Đây là yêu cầu của Ban lãnh đạo đặt ra cho phòng thẩm định nhằm hạn chế tối đa các khoản nợ xấu hay các DA vay vốn không đạt yêu cầu.
Tuy nhiên hiện nay các món vay thường không lớn thì phân quyền như hiện nay chưa phát huy được tác dụng của phòng thẩm định. Phòng thẩm định ít có cơ hội để thẩm định khách hàng trong khi cán bộ tín dụng phải đảm nhận khối lượng công việc quá lớn, vừa thẩm định cho vay khách hàng vừa quản lý khách hàng thường xuyên mà mình phụ trách. Việc bố trí cán bộ phòng thẩm định với 2 người sẽ khó thực hiện được các DA có quy mô lớn. Vì vậy Ngân hàng nên xem xét việc bố trí thêm cán bộ thẩm định và chủ động hơn trong việc phân quyền phán quyết cho vay của chi nhánh đến mức nào đó là phải qua phòng thẩm định xem xét trước khi ban lãnh đạo quyết định cho vay.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Trong môi trường kinh doanh mang tính hội nhập toàn cầu và cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, một ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì vấn đề nhân sự là vấn đề được đặt lên hàng đầu.
Nhũng ngân hàng lớn đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng khác hiện nay đều là nơi có được lược lượng cán bộ quản lý cao cấp, những chuyên viên giỏi. Cán bộ thẩm định sử dụng những kiến thức đã được trang bị khi đang ngồi trên nghế nhà trường và những kiến thức tích lũy được trong thực tế để tiến hành phân tích, đánh giá các mặt, các nội dung của DA và cuối cùng đưa ra các kết luận, nhận xét phục vụ cho việc đưa ra quyết định cho ban lãnh đạo. Do vậy yêu cầu của công tác thẩm định thì một chuyên viên thẩm định phải hội tụ đầy đủ các yếu tố sau: trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức, anm hiểu luật pháp. Đồng thời phải có khả năng nắm bắt và phân tích diễn biến thị trường,…Để có được đội ngũ cán bộ thẩm định chuyên nghiệp thì cần phải có giải pháp ngay từ khâu tuyển dụng tới khâu phân công công việc,đào tạo về chuyên môn như:
Tuyển dụng những người có năng lực chuyên môn tốt. Tiêu biểu là ác trường trong khối nghành kinh tế như Đại Học Kinh Tế, Học Viện Tài Chính, Học Viện Ngân Hàng Đại Học Ngoại Thương,…là những nguồn cung cấp lao động không những đảm bảo về số lượng cũng như chất lượng cho các Ngân hàng.
Để tuyển chonj được những người có năng lực tốt thì việc tuyển chọn phải đảm bảo những tiêu chí sau:
Tuyển chọn những người được đào tạo ở các trường Đại học có uy tín và nhất là ưu tiên những sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Đầu Tư và Tài Chính Ngân Hàng.Vì những sinh viên này có nền tảng kiến thức về DA và về tài chính nên có ưu thế hơn các chuyên ngành khác.
Năng động và hay tìm hiểu những kiến thức về kinh tế xã hội, thường xuyên theo dõi những diễn biến của thị trường, có sự nhanh nhạy trong nắm bắt và đánh giá bối cảnh của DN vay vốn và Ngân hàng.
Có kiến thức về pháp luật: Hoạt động thẩm định liên quan đến rất nhiều nghành nghề, lĩnh vực vì vậy mà hiểu biết về pháp luật là một điều kiện bắt buộc.
Có phẩm chất đạo đức tốt
Thường xuyên tổ chức tập huấn và đào tạo về nghệp vụ: công tác thẩm định đòi hỏi cán bộ thẩm định ngoài nghiệp vụ về chuyên môn thì cần có thêm những kiến thức tổng hợp khác. Vì vậy việc đào tạo liên tục là rất cần thiết để các cán bộ thẩm định có thể nâng cao được kiến thức và thu thập được các thông tin mới. Và đồng thời Ngân hàng cũng nên bổ sung thêm cho cán bộ thẩm định những kiến thức về kĩ thuật và xây dựng vì hầu hết cán bộ thẩm định đều tốt nghiệp cử nhân kinh tế nên có phần hạn chế trong kiến thức về lĩnh vực này.
Đưa ra chính sách thưởng phạt công bằng và rõ ràng: Công tác tín dụng mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Trong đó thẩm định chiếm tỉ trọng khá lớn và cán bộ thẩm định chịu một áp lực rất lớn trong công việc. Vì thế ngân hàng nên có một chính sách đãi ngộ hợp lí đối với cán bộ thẩm định. Cuối các quỹ hay năm nên có chính sách khen thưởng đối với những cá nhân hoàn thành tôt công việc đồng thời cũng cần có hình thức kiểm điểm kỉ luật với những cá nhân chưa hoàn thành nhiệm vụ. Để từ đó nâng cao được trách nhiệm trong công việc của cán bộ thẩm định.
Hoàn thiện nội dung thẩm định.
- Thẩm định khách hàng:
Trong nội dung phân tích tài chính DN nên chú ý đến một số phương pháp sau:
Phương pháp so sánh theo ngành: các chỉ số này sẽ nói lên đặc trưng của DA, tuy nhiên không được phép kết luận là chỉ số đó tốt hay xấu mà cần so sánh với các hệ số cùng ngành hoặc tiêu chuẩn (trung bình ngành) để đưa ra kết luận đúng đắn.
Phân tích theo chiều ngang: Tiến hành tính toán và phân tích lượng tăng, giảm và tốc dộ tăng giảm doanh thu trong từng thời gian của DN.
Phân tích theo chiều dọc: Trong các báo cáo thu nhập tính các yếu tố thành các tỉ lệ % so với doanh số, trong bảng cân đối kế toán tính các loại tài sản thành thành tỉ lệ % trên tổng tài sản.
Phương pháp so sánh đồng bộ các hệ số: Việc phân tích tài chính chỉ đạt giá trị xác thực và có hiệu quả khi sử dụng nhiều hệ số phản ánh đầy đủ và toàn diện tình hình tài chính của DN.
Bên cạnh đó cần chú ý đến đặc thù của DN và mục tiêu của người phân tích.Tất cả các DN đều có những đặc điểm riêng về các khía cạnh như: cơ cấu ĐT, công nghệ, chất lượng sản phẩm, rủi ro ,…Do đó ngoài các tiêu chuẩn chung các DN cần co tiêu chuẩn riêng để đánh giá chứ không nhất thiết khi nào ta cũng áp dụng giá trị trung bình ngành để làm mốc so sánh. Đồng thời các hệ số tài chính có giá trị khách quan tuy nhiên giá trị đó còn tùy vào mục tiêu của nhà phân tích. Ví dụ như hệ số thanh toán ngắn hạn cao là tốt đối với nhà tài trợ nhưng lại có thể là xấu với DN vì nó thể hiện thực trạng luân chuyển vốn kém hiệu quả.
- Thẩm định tài chính:
Ngoài việc thẩm định khách hàng thì cán bộ thẩm định cũng nên chú trọng thẩm định về phương diện tài chính của DA. Các nội dung khác không nên đi quá sâu đỡ mất thời gian làm ảnh hưởng đến tiến độ và tính kịp thời của DA. Trong phần này nên chú trọng vào một số các vần đề sau:
Nhu cầu vốn và nguồn vốn: Ngoài số liệu về tổng vốn đầu tư mà dự án đưa ra thì ngân hàng nên tham khảo các dự án cùng loại để có sự ước lượng hợp lí. Mặt khác cần thẩm định tính khả thi của từng nguồn vốn. Như phần trên đã đề cập thì ngân hàng mới chỉ chú ý đến cơ cấu nguồn vốn còn tính khả thi và nguồn vốn huy động nhất là vốn tự có của chủ đầu tư vẫn chưa được thẩm định kĩ càng. Do đó Ngân hàng nên tiến hành thẩm định kĩ năng lực huy động vốn tự có và xem liệu nguồn vốn này có thật sự tin tưởng không, vì nếu trong quá trình triển khai mà một trong các nguồn vốn không đảm bảo thì ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ và hiệu quả của dự án
Cán bộ thẩm định không thể chỉ lấy các số liệu mà DN cung cấp để tính toán hiệu quả tài chính, mà từ số liệu đó cán bộ thẩm định cần tiến hành kiểm tra kỹ càng và điều chỉnh để tiến hành bổ sung các khoản mục còn thiếu.
Khi thẩmđịnh tài chính cần có thêm nội dung về tác động của lạm phát. Ở nước ta trong mấy năm gần đây tỉ lệ lạm phát khá cao. Lạm phát sẽ gây ảnh hưởng đến các yếu tố cấu thành dòng tiền của DA từ đó sẽ làm thay đổi các chỉ tiêu tài chính như: NPV,IRR,T,B/C,…Từ đó ta sẽ tiến hành xem xét ảnh hưởng của lạm phát đến lãi suất danh nghĩa và tài trợ đầu tư như thế nào
Hoàn thiện phương pháp thẩm định.
Hiện chưa có biểu mẫu báo cáo thẩm định thông nhất chung mà tùy từng loại hình DA, tùy từng đối tượng khách hàng mà cán bộ tín dụng, thẩm định sẽ tiến hành thẩm định và lập các báo cáo thẩm định với nội dung phù hợp cho từng loại.
Một giải pháp được đặt ra là bên cạnh phương pháp định tính như kĩ thuật thẩm định thì cán bộ thẩm định nên áp dụng phương pháp định lượng. Đây là phương pháp phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng và tài quan sát của cán bộ thẩm định. Để thực hiện phương pháp này thì trước tiên là quan quan sát, tiếp xúc, gặp gỡ phỏng vấn trực tiếp khách hàng để thu thập được các thông tin cần thiết không được đề cập trong hồ sơ xin vay vốn. Từ sự tiếp xúc của mình thì cán bộ thẩm định sẽ có những đánh giá tổng quan về khách hàng của mình mặc dù chưa dựa vào các tính toán các chỉ số cụ thể.Với phương pháp này thì đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có trình độ về chuyên môn và nhạy bén để có thể đưa ra quyết định chính xác.
Tăng cường thông tin phục vụ cho công tác thẩm định
Thông tin là căn cứ để thẩm định do đó nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin là nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Nguồn thông tin phong phú, chính xác thì kết quả thẩm định mới có độ chính xác cao. Do đó NASB một mặt phải gia tăng nguồn cung cấp thông tin, mặt khác phải tìm cách xử lý lưu trữ thông tin một cách hữu hiệu.
Về nguồn thông tin cần phải đa dạng hơn nữa. Ngoài việc yêu cầu doanh nghiệp phải nộp các tài liệu liên quan đến thẩm định dự án, các cán bộ thẩm định phải phỏng vấn trực tiếp người đại diện của doanh nghiệp để chất vấn các thông tin chưa chuẩn xác, làm sáng tỏ hơn một số vấn đề như tư cách trình độ chuyên môn, quản lý... của chủ đầu tư. Đồng thời kết hợp với việc thăm quan cơ sở sản xuất, văn phòng làm việc để điều tra năng lực sản xuất, quản lý. Để đảm bảo những thông tin sử dụng là chính xác, ngoài những thông tin có được do doanh nghiệp cung cấp, cán bộ thẩm định còn có thể thu thập các thông tin cần thiết từ nguồn bên ngoài như:
+ Thông tin từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc NHNN.
+ Thông tin từ các NHTM mà doanh nghiệp có quan hệ tín dụng.
+ Thông tin từ các bạn hàng của doanh nghiệp, từ sách, báo tài liệu cung cấp thông tin về doanh nghiệp và các lĩnh vực dự án đầu tư.
Tuy nhiên, vấn đề thu thập thông tin nói trên lại là một vấn đề hết sức khó khăn do phạm vi thu thập thông tin rộng, các kênh cung cấp thông tin không đầy đủ và khó tiếp cận trong khi cán bộ thẩm định bị giới hạn bởi thời gian. Do vậy, người thẩm định phải thường xuyên lưu ý vấn đề thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học những ngành nghề do mình phụ trách. Mặt khác để thông tin mà doanh nghiệp cung cấp đảm bảo tính khách quan và trung thực, NASB cần yêu cầu những thông tin đó phải có xác nhận của cơ quan kiểm toán độc lập
Ngân hàng tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào trong quy trình thẩm định bằng các máy mọc hiện đại và các phần mềm chuyên dụng khác
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các quy trình của ngân hàng là một yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng đến dự thành công của ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt trong nghiệp vụ thẩm định tài chính của dự án, mà ở đó việc tính toán rất khó khăn và phức tạp mà việc tính toán thủ công sẽ tốn nhiều thời gian cũng như công sức và nhiều khi cũng không mang lại kết quả như mong muốn, việc sử dụng các phần mềm sẽ khắc phục được những khó khăn trên. Để có thể nhanh chóng hiện đại áp dụng công nghệ thông tin vào ngân hàng, ngân hàng cần đầu tư công nghệ hơn nữa trong hệ thống thanh toán tại ngân hàng
Thẩm định tài chính cần chính xác hơn
Các nội dung của thẩm định tài chính dự án đã được hướng dẫn chi tiết trong quy trình thẩm đinh. Điều quan trọng là các cán bộ thẩm định xác định đứng các chỉ tiêu của từng dự án. Có thể nói các chỉ tiêu chính như sau
- Tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn và tiến đọ bỏ vốn: không dự tính đúng sẽ dẫn tới thiếu hụt vốn làm dự án không đúng tiến độ hoặc trì trệ. Số vốn chủ đầu tư đưa ra thường thấp hơn so với thực tế khi dự án đi vào hoạt động. Ngân hàng phải tìm hiểu kỹ để có thể đánh giá đúng về con số mà chủ đầu tư đưa ra nếu không sẽ lường hết những rủi ro của dự án. Việc này dựa trên kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng, những dự án đã đi vào hoạt động hoặc hỏi ý kiến các chuyên gia mà trong lĩnh vực mà các dự án hoạt đọng
- Dòng tiền của dự án phải chính xác vì dòng tiền mới là nguồn chính để đảm bảo việc trả nợ nên việc xác định chính xác là yếu tố cơ bản nhất đảm bảo việc trả nợ. Muốn tính đúng dòng tiền thì các yếu tố doanh thu, chi phí cũng phải đầy đủ và chính xác. Cán bộ thẩm định cần nghiên cứu giá cả thị trường các yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra, sự biến động của chúng cũng như các quy định của nhà nước ( trực tiếp là Bộ tài chính) có liên quan. Các bảng tính chi phí, doanh thu, khấu hao, lãi vay, thuế cần được lập và lập chính xác, đúng quy định để phục vụ tính toán bảng dòng tiền.
Các chỉ tiêu cần lưu ý khi tính toán:
+ Về doanh thu của dự án phải xác định rõ xu hướng biến động thị trường, sự đảm bảo từ nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ, các đối thủ cạnh tranh cũng như tiềm tang tương lai. Việc áp dụng mô hình kinh tế lượng để dự báo các yếu tố trên là một xu hướng nên được áp dụng cho ngân hàng và phải được áp dụng một cách có thực tế, hiệu quả
+ Về chi phí sản xuất kinh doanh không chỉ dựa vào con số mà chủ đầu tư đưa lên, cần phải có bảng chi tiết các chi phí sản xuất dựa trên việc tham khảo các quy định của Bộ tài chính cũng như các cơ quan chủ quản, từ tín hiệu trên thị trường
+ Các quy định của Bộ tài chính cũng như các cơ quan chủ quản, từ tín hiệu trên thị trường. Qua đây sẽ thấy rõ các chi phí kê khai có hợp lý không, có được công nhận trong chế độ kế toán của nhà nước hay không
+ Lựa chọn các chỉ tiêu tính toán phải hợp lý với từng dự án. Tất cả các chỉ tiêu trên đều có mặt mạnh và mặt hạn chế, không thể dùng một chỉ tiêu cho tất cả các dự án cũng như áp dụng một chỉ tiêu mà đánh giá cả dự án , phải phối hợp các chỉ tiêu để đánh giá chính xác. Một điểm quan trọng là chọn tỷ lệ chiết khấu cho dự án một cách chính xác thì mới có thể tính toán các chỉ tiêu khác chính xác được. Phương pháp tính “ r” cũng như các chỉ tiêu khác đã trình bày ở trên, việc tính toán chỉ cần chính xác và áp dụng đúng cho từng dự án
KẾT LUẬN
Ngày nay, khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế đã trở thành xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó, do vậy hoạt động của toàn ngành ngân hàng trong điều kiện hội nhập sẽ có rất nhiều thay đổi và khó khăn, đó là sự cạnh tranh trở lên gay gắt giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài
Trong điều kiện kinh doanh đó, buộc các ngân hàng phải tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình để có thể đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều yếu tố, một trong những yếu tố chủ quan thuộc về ngân hàng đó là công tác thẩm định dự án đầu tư tại mỗi ngân hàng. Có thể nói công tác thẩm định là yếu tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng hay nói một cách khác công tác thẩm định quyết định sự thành công của ngân hàng
Thẩm định dự án là một công việc hết sức phức tạp, nó đòi hỏi phải luôn hoàn thiện qua thực tế chứ không chỉ dừng lại ở lý thuyết vì trên thực tế hoạt động đầu tư luôn biến động. Việc sớm hoàn thiện một quy trình thẩm định hoàn chỉnh là một việc làm hết sức cần thiết cho hoạt động của ngân hàng
Trong chuyên đề này em đã khái quát hóa những vấn đề mang tính lý luận về thẩm định dự án, phân tích và làm rõ được thực trạng về công tác thẩm định dự án vay vốn tại ngân hàng TMCP BẮC Á chi nhánh HÀ NỘI. Đây là nội dung mang tính thực tế và đòi hỏi có kinh nghiệm nên do đó khó có thế tránh khỏi những sai sót.
Em mong nhận được sự góp ý của cô giáo và những ai quan tâm đến vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2001), Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam ngày 31/12/2001 về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2007), Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005.
Ngân hàng TMCP Bắc Á - Chi nhánh Hà Nội, báo cáo tổng kết các năm (2007-2009).
Ngân hàng TMCP Bắc Á (2004), Quyết định số 220/QĐ-NASB ngày 16/08/2004 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Bắc Á về việc ban hành Quy chế cho vay đối với khách hàng trong hệ thống Ngân hàng TMCP Bắc Á.
Ngân hàng TMCP Bắc Á (2005), Quyết định số 455/2005/QĐ-NASB ngày 30/06/2005 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Bắc Á về việc bổ sung, sửa đổi Quy chế cho vay đối với khách hàng trong hệ thống Ngân hàng TMCP Bắc Á tại Quyết định số 220/QĐ-NASB ngày 16/08/2004.
Trang web ngân hàng TMCP ngân hàng Bắc Á :www.nasb.com
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Nguồn vốn huy động tại NASB Hà Nội 8
Bảng 1.2: Hoạt động sử dụng vốn tại NASB Hà Nội 10
Bảng 1.3: Hoạt động cho vay tại NASB Hà Nội 11
Bảng 1.4 : Tình hình nợ quá hạn trung 14
Bảng 1.5: Bảng cân đối tài sản công ty Supe và hóa chất Lâm Thao 36
Bảng 1.6: Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty tính đến 31/12/2008 40
Bảng 1.7: Các chỉ tiêu đánh giá về khả năng thanh toán: 43
Bảng 1.8: Tổng tiền cần bỏ ra để hình thành nên tài sản cố định đối với dự án 53
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26525.doc