Chuyên đề Thẩm định dự án vay vốn tại Sở Giao dịch Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội

Cán bộ thẩm định cần xác định mô hình đầu vào, đầu ra phù hợp theo đặc điểm và quy mô của dự án, nhằm đảm bảo khi tính toán phải phản ánh trung thực, chính xác hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Đối với dự án xây dựng mới độc lập, các yếu tố đầu vào, đầu ra của dự án được tách biệt rõ ràng, dễ dàng trong việc xác định các yếu tố đầu vào, đầu ra để tính hiệu quả của dự án. Tuy nhiên, đối với các dự án đầu tư chiều sâu, mở rộng công suất, hoàn thiện quy trình sản xuất thì việc xác định mô hình đầu vào, đầu ra phù hợp là tương đối khó khăn. Đối với loại dự án này, các mô hình sau đây thường được sử dụng : - Dự án mở rộng nâng công suất: Hiệu quả dự án được tính toán trên cơ sở đầu ra là công suất tăng thêm, đầu vào là các tiện ích, bán thành phẩm được sử dụng từ dự án hiện hữu và đầu vào mới cho phần công suất tăng thêm. - Dự án đầu tư chiều sâu, hợp lý hoá quy trình sản xuất: Hiệu quả dự án được tính toán trên cơ sở đầu ra là chi phí tiết kiệm được hay doanh thu tăng thêm thu được từ việc đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm và đầu vào là các chi phí cần thiết để đạt được mục tiêu về đầu ra. - Dự án kết hợp đầu tư chiều sâu, hợp lý hoá quy trình sản xuất và mở rộng nâng công suất: Hiệu quả của việc đầu tư dự án được tính toán trên cơ sở chênh lệch giữa đầu ra, đầu vào lúc trước khi đầu tư và sau khi đầu tư. Để đơn giản trong tính toán, đối với các dự án mà giá trị trước khi đầu tư không chiếm tỷ lệ lớn trong tổng giá trị dự án sau khi đầu tư thì dự án trước khi đầu tư xem là đầu vào của dự án sau khi đầu tư theo giá trị thanh lý.  Bước 2 : Phân tích để tìm dữ liệu. Khi đã xác định được mô hình đầu vào, đầu ra của dự án, cần phải phân tích dự án để tìm ra các dữ liệu đầu vào, đầu ra cần thiết phục vụ cho việc tính toán hiệu quả dự án bằng các bước sau đây: - Đọc kỹ Báo cáo nghiên cứu khả thi, phân tích trên các phương diện khác nhau của dự án để tìm ra các dữ liệu phục vụ cho công tác tính toán hiệu quả dự án. Thông thường việc phân tích phương diện tài chính được thực hiện sau khi đã thực hiện các phương diện khác như phương diện thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý,.

doc78 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thẩm định dự án vay vốn tại Sở Giao dịch Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồn: vốn tự có là 303.000 triệu đồng chiếm 15%VCĐ và vốn vay NHTM là 1.717.000 triệu đồng chiếm 85%VĐT. Để xác định tỷ suất chiết khấu bình quân của dự án làm cơ sở tính toán hiệu quả tài chính, tỷ lệ các nguồn vốn tham gia đầu tư được xác định so với tổng vốn cố định (VCĐ) trực tiếp đầu tư dự án như sau (kể cả phần lãi vay được nhập gốc). Nguồn vốn tự có: 303.000 triệu đồng (chiếm ~15% VCĐ) để xác định lãi suất chiết khấu bình quân của dự án, giả định chi phí cơ hội của nguồn vốn tự có tham gia đầu tư sẽ là 10% bằng với lãi suất vay ngân hàng trong thời điểm hiện tại. Nguồn vốn vay NHTM: vay gốc là 1.569.112 triệu đồng và lãi vay trong TGXD là 148.099 triệu đồng, lãi trong TGXD được nhập gốc, như vậy số vốn vay NH khi DA đi vào hoạt động là 1.717.211 triệu đồng (chiếm 85%VCĐ), thời gian vay 11 năm, thời hạn trả nợ gốc 8 năm, thời gian ân hạn là 3 năm. Theo F/S lập với lãi suất là 13,5%/năm là cao hơn thực tế nên được điều chỉnh lại là 12%/năm cho phù hợp, thời hạn trả gốc và lãi hàng quí. Thông số về hoạt động của nhà máy Công suất thiết kế & cơ cấu sản phẩm: Theo Báo cáo đầu tư và QĐ phê duyệt dự án đầu tư của chủ tịch HĐTV Cty TNHH Hồng Hà, công suất thiết kế của Nhà máy là 5.000 tấn Clinker PC50/ngày (1,5 triệu tấn/năm), tương ứng với sản lượng sản xuất chủng loại xi măng hỗn hợp PCB40 là 1,8 triệu tấnXm/năm với cơ cấu sản phẩm là: 500.000 TClinker/năm chiếm33%CSTK và xi măng PCB40 là 1.206.255 tấn Xm/năm chiếm 67%CSTK (trong đó xi măng bao chiếm 80% là 965.000tấn/năm, xi măng rời chiếm 20% là 241.255 tấn/năm). Công suất huy động: Theo F/S lập công suất huy động năm đầu là 75%, năm 2 là 90% và năm 3 là 100%. Theo C/v số 1193/BXD- VLXD ngày 06.6.2007 ‘V/v góp ý dự án đầu tư dây chuyền II nhà máy xi măng Hồng Hà, tỉnh Ninh Bình’  thì công suất huy động là khá cao không phù hợp tình hình thực tế tại thời điểm nhà máy đi vào hoạt động. Đồng thời trên cơ sở tham khảo công suất các nhà máy xi măng đã xây dựng xong hoàn thành đi vào sản xuất, vì lý do nhà máy mới hoạt động chưa ổn định, dự án đi vào hoạt động đúng thời điểm dự báo dư thừa xi măng (từ 2009-2011) nên khả năng tiêu thụ sản phẩm chậm. Do đó tổ thẩm định thống nhất xác định công suất huy động năm đầu của dự án là 60%, các năm sau tăng 10%/năm. Hàng năm tạm tính sản lượng sản phẩm tồn kho gối đầu các năm là 5%/năm. Thời gian hoạt động của dự án: Theo FS lập vòng đời dự án được tính là 15 năm. Tuy nhiên, khả năng sử dụng thực tế của các nhà máy này thường dài hơn. Ví dụ, một số dây chuyền xi măng lò quay với công nghệ cũ đã hoạt động trên 20 năm như xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn hiện vẫn hoạt động cho chất lượng sản phẩm tốt với công suất lên tới 100%. Tổ thẩm định chung thống nhất xác định thời gian hoạt động của dự án là 15 năm theo FS lập. Dòng thu hồi giá trị tài sản cố định của phần xây lắp bằng giá trị còn lại chưa khấu hao. Nhóm thông số về chi phí hoạt động hàng năm: Chi phí biến đổi của dự án :  Chi phí biến đổi phụ thuộc vào định mức kinh tế kỹ thuật của dự án và giá thành nguyên vật liệu đầu vào. Qua tham khảo định mức nguyên vật liệu chính của các nhà máy đang hoạt động như xi măng Hoàng Mai, Tam Điệp, Bỉm Sơn... , Tổ thẩm định chung thống nhất với định mức của nguyên nhiên vật liệu đầu vào theo đơn vị tư vấn. Về đơn giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, căn cứ theo giá hiện hành tại Ninh Bình và tham khảo chi phí giá nguyên vật liệu đầu vào của một số nhà máy xi măng hiện nay, trên cơ sở đánh giá những thuận lợi và khó khăn về nguyên, nhiên liệu của dự án, Tổ thẩm định đã điều chỉnh lại đơn giá của một số nguyên liệu đầu vào như: giá Đá vôi, đất sét (do phải mua lại), than cám, dầu Diêzen, dầu bôi trơn.... cho phù hợp thực tế. Chi phí cố định của dự án (chưa tính khấu hao và lãi vay VCĐ) Các chi phí cố định của dự án, sau khi tham khảo các dự án cùng loại, Tổ thẩm định chung thấy tương đối hợp lý nên đã lấy theo FS lập như: Tiền lương + BHXH, chi phí quản lý chung, chi phí khác, chi phí bảo dưỡng, chi phí SCL trích trước và tiền thuê đất hàng năm. Ngoài ra bổ sung thêm và xác định lại một số chi phí cố định khác như: Bổ sung chi phí bảo hiểm máy móc thiết bị trong thời gian hoạt động của nhà máy để phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra, được lấy bằng 0,15% giá trị (TB + XL). Chi phí khấu hao cơ bản hàng năm Phương pháp khấu hao: theo đường thẳng. Thời gian khấu hao theo qui định hiện hành tại QĐ số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ Tài chính, cụ thể: + Xây lắp: 25 năm + Thiết bị: 8 năm + Các chi phí khác: chi phí đền bù GPMB, chi phí KTCB khác, chi phí dự phòng, lãi vay TGXD được phân bổ vào chi phí XL và chi phí thiết bị để tính khấu hao. Vốn lưu động và lãi vay vốn lưu động Nguồn vốn lưu động của dự án được xác định được huy động từ nguồn vay ngắn hạn. Để xác định được chính xác nhu cầu vốn lưu động thực tế của Dự án dựa trên cơ sở các nguồn phải thu, phải trả, tồn quĩ tiền mặt cần thiết trong quá trình hoạt động của một Doanh nghiệp. Do đó trong tính toán nhu cầu VLĐ hàng năm Tổ thẩm định căn cứ vào định mức của ngành xi măng và tham khảo các dự án đầu tư cùng loại để xác định tỷ lệ các khoản phải thu, phải trả và tồn quĩ tiền mặt hàng năm, để xác định được nhu cầu VLĐ hàng năm. Lãi vay vốn lưu động được xác định bằng mặt bằng chung của các ngân hàng trong thời gian 3 năm trở lại đây. Mức tính chung cho toàn bộ đời dự án là 1,1%/tháng (tương đương 13,2% năm). Nhóm thông số về đơn giá kinh doanh Qua theo dõi thị trường trong thời gian qua, mặc dù nhu cầu sử dụng xi măng tăng khá cao, bên cạnh đó chi phí đầu vào của các nhà máy xi măng hiện nay đều tăng (clinker vượt 20,8% so với cuối năm ngoái, thạch cao, giấy kraft, dầu DO, xăng nhớt… đều tăng từ 10% đến 20%. Tác động lớn nhất là mới đây Tổng công ty Than quyết định tăng giá bán than đối với các nhà máy xi măng lên ~20% so với năm 2004). Tuy nhiên giá xi măng trên thị trường chỉ giao động nhẹ. Giá bán sản phẩm của dự án xây dựng tương đương giá của các dự án cùng loại, do chưa có thương hiệu và sử dụng dây chuyền máy móc thiết bị của Trung Quốc nên chưa được kiểm định qua thực tế tại Việt nam về chất lượng sản phẩm sản xuất ra, do đó giá bán xi măng không thể cao hơn giá thị trường hiện tại của một số nhà máy được đầu tư với thiết bị tương tự. Để xem xét khả năng canh tranh về giá sản phẩm với các nhà mấy xi măng, trên cơ sở giá bán sản phẩm thực tế của một số nhà máy sử dụng thiết bị Trung Quốc, từ tham khảo giá bán XM PC 40 hiện có trên thị trường thì giá bán SP của NM ở mức thấp hơn 20.000 đ/tấn Tổ thẩm định thống nhất lấy giá bán trước thuế VAT tại nhà máy như sau: Clinker PC50 là 450.000 đ/tấn (F/S lập là 475.000đ/tấn); Xm PCB40 bao là 610.000đ/tấn (theo F/S) và Xm PCB40 rời là 549.000đ/tấn (bằng 90%Xm bao – F/S lập là 550.000đ/tấn). Thông số về ưu đãi đầu tư  Dự án được hưởng ưu đãi đầu tư theo Luật đầu tư, được miễn 01 năm thuế thu nhập Doanh nghiệp từ khi có thu nhập chịu thuế phải nộp, được giảm 50% thuế thu nhập Doanh nghiệp trong 04 năm kế tiếp và thuế suất thuế thu nhập DN là 28%. Tỷ giá áp dụng Theo FS lập dây chuyền thiết bị được nhập khẩu của Trung Quốc thanh toán bằng USD, tuy nhiên trong tính toán của FS đã được qui đổi ra VND theo tỷ giá là:1USD = 16.038 VND/1USD. Tổ thẩm định chung sẽ khảo sát mức độ trượt tỷ giá đối với dự án. Tính toán các chỉ tiêu về tỷ suất sinh lời và khả năng trả nợ của dự án Bảng 11. Các chỉ tiêu về tỷ suất sinh lời và khả năng trả nợ của dự án theo quan điểm tổng đầu tư và quan điểm chủ đầu tư STT Chỉ tiêu Theo quan điểm tổng đầu tư (Tip) Theo quan điểm chủ đầu tư (Epv) 1 NPV (15 năm) 55.211 trđ 274.745 trđ 2 IRR (15 năm) 12,26% 14,79% 3 L/suất ch/khấu B/quân 11,7% 10,0% 4 DSCR (8 năm) 1,01 5 Thời gian trả nợ vốn vay 7 năm 7 tháng Nhận xét: Qua kết quả thu được tại bảng trên cho thấy: xét tổng thể thì dự án vẫn có hiệu quả và đảm bảo thời gian trả nợ vốn vay trong 8 năm như dự kiến. Về tổng thể: với PA1 dự án bị lỗ trong 3 năm đầu và từ năm thứ 4 trở đi mới có lãi, đến năm thứ 5 mới khắc phục được lỗ luỹ kế. Xét trên quan điểm tổng thể dự án (Tip) thì các chỉ tiêu tài chính thu được: với PA1 có NPV (15 năm) = 55.211triệu đồng, tỷ suất sinh lời nội bộ IRR (15 năm): IRRPA1= 12,26%, cao hơn so với chi phí sử dụng vốn bình quân là 11,7% và khả năng trả nợ vốn vay DSCRPA1 = 1,01 cho thấy DA đảm bảo trả nợ vốn vay trong thời hạn 8 năm như dự kiến. Xét trên quan điểm của chủ đầu tư khi quyết định đầu tư DA (Epv)) thì các chỉ tiêu tài chính thu được: NPV (15 năm)PA1 = 274.745 triệu đồng, tỷ suất sinh lời nội bộ IRR (15 năm)PA1 = 14,79%> 10% (chi phí cơ hội mong muốn của nhà đầu tư). Như vậy đứng trên giác độ của nhà đầu tư thì ngay trong 15 năm đầu việc đầu tư DA sẽ đem lại hiệu quả tài chính cho chủ đầu tư. Qua kết quả tính toán và xác định thời gian hoàn trả các nguồn vốn vay cho thấy: Trong những năm đầu dự án thiếu nguồn trả nợ các khoản vay đến hạn theo kế hoạch dự kiến. Đối với nguồn vốn vay Ngân hàng TM với giả định thời hạn trả nợ gốc vay là 8 năm thì trong 2 năm đầu DA thiếu nguồn trả nợ gốc vay. Tuy nhiên đến năm thứ 8 DA vẫn đảm bảo nguồn trả nợ. Vì vậy kế hoạch trả nợ phải được điều chỉnh cho phù hợp với dòng tiền của DA (những năm đầu trả ít và tăng dần các năm sau). Phân tích độ nhạy của dự án Để xem xét đánh giá khả năng chịu đựng của dự án và ảnh hưởng của các chỉ tiêu tài chính DA, Tổ thẩm định chung đã tiến hành khảo sát độ nhậy của dự án (chỉ khảo sát đối với phương án cơ sở PA1) theo 02 phương thức sau: Tổ thẩm định cũng đã khảo sát sự thay đổi của tổng vốn đầu tư khi tăng, giảm từ -15% đến +15%. Với việc khảo sát khi thay đổi tổng vốn đầu tư kết quả cho thấy nếu tổng mức đầu tư tăng > 0,75% thì dự án khôngg hiệu quả với NPV 0 và khá cao. Với việc khảo sát dùng phần mềm CRYSTALBALL khi đồng thời cho 5 biến đầu vào cùng thay đổi tác động đến dự án đầu tư như: Tổng mức đầu tư thay đổi từ -10% đến +10% Tỷ giá qui đổi tăng đến 2%. Công suất thiết kế thay đổi giảm từ 0% đến -10%. Giá nguyên vật liệu đầu vào biến thiên tăng 5 %. Giá bán sản phẩm đầu ra biến thiên tăng 3%. Qua việc khảo sát chạy với 10.000 kịch bản của các biến trên, kết quả thu được như sau: Đối với quan điểm Tổng đầu tư dự án (Tip): tỷ lệ có NPV > 0 là 77,90% và NPV trung bình của các giá trị có NPV >0 là 185.400 trđ; tỷ lệ có IRR > 11,7% (Lãi suất chiết khấu bình quân) là 78,17% và IRR trung bình của các giá trị có IRR>11,7% là 13,34%. Đối với quan điểm của chủ đầu tư dự án (Epv): tỷ lệ để để NPV > 0 là 92,59% và NPV trung bình của các giá trị có NPV >0 là 430.035 trđ; tỷ lệ để IRR > 10% (Chi phí cơ hội mong muốn của chủ đầu tư) là 92,54% và IRR trung bình của các giá trị có IRR>10% là 16,93%. Nhận xét: Qua việc khảo sát độ nhậy khi thay đổi tổng vốn đầu tư từ -15% đến +15% cho thấy, dự án rất nhậy cảm với việc thay đổi tổng vốn đầu tư. Nếu tổng vốn đầu tư giảm thì việc đầu tư dự án có hiệu quả khá cao. Tuy nhiên, dự án đã ký hợp đồng Tổng thầu EPC nên việc tăng hay giảm vốn đầu tư cũng không có ý nghĩa. Qua việc khảo sát với phần mềm CRYSTALBALL khi cho đồng thời 5 biến cùng tác động ảnh hưởng đến dự án đầu tư, với kết quả thu được cho thấy : Nếu xét trên giác độ tổng thể dự án đầu tư (Tip) để đánh giá khả năng đứng vững về mặt tài chính của dự án, thì tỷ lệ các chỉ tiêu tài chính của dự án (NPV&IRR) là trên 77% phản ánh việc đầu tư dự án sẽ đem lại hiệu quả tài chính nhất định. Nếu xét trên giác độ của nhà đầu tư (Epv) thì tỷ lệ các chỉ tiêu tài chính mà dự án mang lại là trên 92% cho thấy hiệu quả tài chính đem lại cho chủ đầu tư là khá cao. Tuy nhiên ở đây mới chỉ đánh giá vòng đời dự án là 15 năm, nếu dự án hoạt động kéo dài hơn thì lợi ích thu được cho chủ đầu tư là rất lớn. Kết luận: Trên cơ sở các thông số đầu vào như đã nêu ở trên và qua kết quả tính toán hiệu quả tài chính của dự án, cùng với việc khảo sát độ nhậy của dự án khi các yếu tố đồng thời tác động ảnh hưởng đến dự án. Xét về tổng thể dự án và cho chủ đầu tư thì việc đầu tư dự án sẽ đem lại hiệu quả tài chính là tương đối cao. Đối với khoản vay các NHTM: trong 2-3 năm đầu dự án sẽ thiếu nguồn trả nợ vốn vay do đó phải điều chỉnh lịch trả nợ cho phù hợp với dòng tiền của dự án (những năm đầu trả ít và tăng dần các năm sau). Đồng thời chủ đầu tư phải có cam kết huy động thêm nguồn từ các hoạt động sản xuất kinh doanh khác để tham gia trả nợ vốn vay. Đánh giá rủi ro của dự án Rủi ro về tiến độ Theo Báo cáo đầu tư thì tiến độ thực hiện dự án là 33 tháng, như vậy khả năng đưa nhà máy vào hoạt động sẽ vào năm 2010 lúc đó sản phẩm mới có mặt trên thị trường, đây cũng là bất lợi lớn cho dự án vì theo NĐ 108/CP và thực tế đầu tư của những nhà máy lớn thì trong 2008-2010 một loạt sản phẩm XM mới sẽ tham gia cạnh tranh trên thị trường. Tiến độ càng chậm, thiệt hại cho dự án càng lớn do sản phẩm xuất hiện sau, mất cơ hội thuận lợi trước hội nhập AFTA, WTO và phải cạnh tranh mạnh mẽ với các nhà máy đã sản xuất ở trong nước đã giảm được chi phí khấu hao, lãi vay. Rủi ro về thị trường Khả năng cạnh tranh của dự án là rất khó khăn do dự án đi vào hoạt động đồng thời với các dự án lớn khác như XM Bút Sơn 2, XM Hoàng Thạch 3, XM Cẩm Phả, XM Hạ Long, XM Thăng Long…có công suất từ 1,5 đến 2,3 triệu tấn/năm với công nghệ tiên tiến của Châu Âu. Ngoài ra sự cạnh tranh của Xi măng ASEAN với giá thành thấp và xi măng địa phương với lợi thế về chi phí vận chuyển và các trạm nghiền clinker với clinker nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan sẽ rất quyết liệt. Đây là những rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của Dự án. Rủi ro về quản lý, vận hành Do chủ đầu tư và thành viên của Cty đều chưa có kinh nghiệm trong ngành xi măng hoặc đã tham gia sản xuất xi măng, nên rủi ro vận hành, quản lý còn rất tiềm tàng, các biện pháp hạn chế cần phải được phân tích kỹ. Việc lựa chọn phương pháp quản lý và cách thức quản lý là rất quan trọng. Với kinh nghiệm thực tế từ dự án XM Hoàng Mai và XM Tam Điệp cho thấy, yếu tố quản lý là nhân tố có quyết định rất lớn đến sự thành công của dự án ngay cả khi công nghệ sản xuất được xem là tốt. Theo báo cáo của chủ đầu tư một số công nhân vận hành sẽ được đưa đi đào tạo tại Trung Quốc và tại trường dạy nghề trong nước, đồng thời sẽ thuê và tuyển dụng một số chuyên gia nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực xi măng về điều hành sản xuất của nhà máy. Rủi ro về tổ chức phân phối tiêu thụ sản phẩm Là Doanh nghiệp mới chuyển từ lĩnh vực thi công xây lắp sang hoạt động sản xuất kinh doanh xi măng, nên Công ty chưa có kinh nghiệm và chưa thiết lập được mạng lưới bán hàng, do đó Công ty phải mất một thời gian tương đối dài và chi phí đáng kể cho việc gây dựng thương hiệu cũng như thiết lập hệ thống bán hàng. Nếu so với các đơn vị của Tổng Cty Xi măng thì công ty gặp rất nhiều khó khăn do không nhận được sự hỗ trợ về giá cả, thị trường, các chính sách đối với các đơn vị thành viên. Còn so với các đơn vị liên doanh như Nghi Sơn, Chinfon...thì Công ty lại không có tiềm lực tài chính đủ mạnh để có thể chịu lỗ trong thời gian hội nhập với thị trường. Bên cạnh đó, theo dự báo đến năm 2008-2010, sau khi một loạt các nhà máy xi măng đi vào hoạt động, có thể xuất hiện tình trạng cung vượt quá cầu trong một số năm. Điều này sẽ có ảnh hưởng bất lợi đến thị trường tiêu thụ dự án. Rủi ro về kinh tế vĩ mô Thị trường tiêu thụ dự án là hoàn toàn trong nước, nguồn thu hoàn toàn bằng VNĐ, trong khi đó dự án phải vay cả bằng ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị, nên sẽ có ảnh hưởng nhất định, nên phần nào sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính khi tỷ giá thay đổi. Bảo đảm tiền vay Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay Dự án đầu tư có vốn tự có và tài sản đảm bảo tối thiểu là 15%VĐT, đối với dự án này thì nguồn vốn tự có của chủ đầu tư tham gia = 15%VĐT là đảm bảo theo qui định hiện hành. Bảo đảm bằng cầm cố các quyền phát sinh từ Dự án Quyền thụ hưởng các hợp đồng bảo hiểm, quyền thụ hưởng các loại bảo hiểm, quyền khai thác tài nguyên, và các quyền phát sinh từ khác từ dự án (nếu có). Kết luận và kiến nghị về dự án Thuận lợi Dự án đầu tư đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại băn bản số 409/TTg-CN ngày 03.4.2007 bổ sung vào Qui hoạch công nghiệp xi măng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Dự án được đầu tư trên địa bàn có tiềm năng về nguồn nguyên liệu đầu vào, địa điểm xây dựng Nhà máy gần mỏ nguyên liệu chính để sản xuất xi măng là đá vôi, gần đường giao thông: đường bộ, đường thuỷ, đường sắt nên khá thuận lợi trong việc vận chuyển nguyên vật liệu đầu vào cũng như tiêu thụ sản phẩm đầu ra, góp phần không nhỏ trong việc giảm chi phí, giá thành sản phẩm; Dự án dây chuyền II được đầu tư bên cạnh vị trí dây chuyền I trong khu đất của nhà máy, nên tận dụng được cơ sở vật chất cùng hạ tầng kỹ thuật đã được đầu tư.Vì vậy đã giảm đáng kể tổng vốn đầu tư cho dự án do không phải đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng như những dự án xây dựng mới hoàn toàn Dự án sử dụng công nghệ thiết bị của Trung quốc, có suất đầu tư tương đương với các dự án có công suất tương tự và thấp hơn khá nhiều so với các dự án được đầu tư dây chuyền thiết bị của Châu Âu (chỉ bằng 50%-60%). Đây cũng là giải pháp công nghệ, thiết bị mà các dự án sản xuất xi măng lựa chọn. Với phương án công nghệ thiết bị như vậy, sẽ giảm được áp lực huy động vốn đầu tư ban đầu, giảm được giá thành sản xuất, qua đó tạo được khả năng cạnh về giá với các sản phẩm cùng loại; Tại thời điểm hiện nay, thị trường xi măng cả 03 miền Bắc, Trung, Nam vẫn đang ở trong tình trạng thiếu hụt, năng lực sản xuất xi măng trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ xi măng trong nước. Với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân trong những năm qua và dự kiến những năm tới cùng với việc chú trọng đầu tư các cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong cả nước, thì nhu cầu xi măng trong thì gian tới là rất cao. Vì vậy thị trường cho các sản phẩm xi măng nói chung và của dự án nói riêng còn rất khả quan. Việc đầu tư khai thác mỏ nguyên liệu của dây chuyền I đã được BIDV Ninh Bình cho Cty CP Đông Sơn vay vốn để đầu tư, do đó nếu D/c II đi vào hoạt động thì việc cung cấp nguồn nguyên liệu sẽ thuận lợi hơn. Khó khăn Khả năng quản lý dự án: Các thành viên trong HĐTV Công ty đều chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý tổ chức sản xuất xi măng. Nhu cầu nguồn nhân lực cho dự án là tương đối lớn, trong đó cần rất nhiều chuyên gia, kỹ sư đầu ngành về sản xuất và tiêu thụ xi măng, sức ép và chi phí cần thiết để tìm kiếm và tuyển dụng đội ngũ nhân lực có chất lượng là không dễ dàng. Việc phải thuê đội ngũ chuyên gia tư vấn cả trong quá trình xây dựng, tổ chức vận hành và tiêu thụ sản phẩm sẽ làm tăng đáng kể giá thành sản phẩm. Chất lượng dây chuyền thiết bị: Thiết bị của dự án chủ yếu được nhập của Trung Quốc có công suất thiết kế tương đối lớn 5.000tấn/clinker/ngày. Do số lượng các Nhà máy xi măng trong nước sử dụng dây chuyền thiết bị Trung Quốc chưa nhiều nên chưa được kiểm nghiệm, đánh giá trên thực tế về các chỉ tiêu KTKT có liên quan. Để đảm bảo được các điều kiện, tiêu chuẩn này, Chủ đầu tư nên lựa chọn một đơn vị tư vấn có đầy đủ tư cách pháp nhân, năng lực thay mặt Chủ đầu tư để thực hiện việc giám sát từ khâu thiết kế, chế tạo thiết bị trong và ngoài nước; chuyển giao công nghệ đến các nội dung, điều kiện ràng buộc trách nhiệm của Nhà cung cấp đối với dây chuyền trong hợp đồng mua bán.... Chất lượng sản phẩm: Hiện tại trên thị trường chưa có các sản phẩm được sản xuất từ dây chuyền công nghệ lò đứng của Trung quốc tương tự như nhà máy xi măng Dưyên Hà, các Nhà máy Xi măng Yên Bình, xi măng Vinakansai, xi măng Hướng Dương đều đang trong quá trình đầu tư nên chất lượng xi măng được sản xuất bằng công nghệ và thiết bị này chưa được kiểm chứng. Thị trường đầu ra của dự án: Theo tính toán của dự án thì Nhà máy sẽ đi vào sản xuất và cung ứng xi măng ra thị trường từ năm 2010, tuy nhiên theo dự báo thì bắt đầu từ giai đoạn này cung và cầu xi măng trên thị trường Việt nam là tương đương, do vậy sẽ khó khăn cho Nhà máy trong việc thâm nhập thị trường và tiêu thụ sản phẩm vì chưa có thương hiệu và thị phần trên thị trường. Về tiến độ xây dựng dự án: Theo tính toán của Chủ đầu tư thì dự án được hoàn thành trong 33 tháng, bắt đầu sản xuất xi măng từ năm 2010, do vậy nếu tiến độ xây dựng của Dự án không đạt kế hoạch thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ vì dự kiến cung cầu của thị trường xi măng sẽ tương đương vào năm 2009-2010 sẽ ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập thị trường của Nhà máy. Tuy nhiên do Chủ đầu tư đã có kinh nghiệm trong việc xây dựng dây chuyền I nên phần nào cũng có kinh nghiệm rút ra từ việc quản lý đầu tư xây dựng để thực hiện xây dưng cho dây chuyền II Hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án: Thông thường các Nhà máy xi măng mới đi vào hoạt động thường bị lỗ từ 02 – 03 năm đầu, theo phương án tính toán sơ bộ, dự án có hiệu quả tài chính khá cao, dự án bị lỗ trong 02 năm đầu đi vào hoạt động, nên thiếu nguồn trả nợ vốn vay trong 2 năm là khá lớn (-197.500trđ) và dự án khá nhạy cảm với các yếu tố: giá bán SP, giá NVL đầu vào khi có biến động. Hình thức bảo đảm nợ vay: Ngoài việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay và vốn tự có làm tài sản bảo đảm nợ vay, Chủ đầu tư chưa đề xuất các hình thức bảo đảm bổ sung khác cho dự án và khoản vay. Ý kiến của tổ thẩm định về dự án Trên cơ sở báo cáo thẩm đinh chung của các Ngân hàng và đánh giá ở trên cho thấy dự án có những khó khăn và thuận lợi nhất định. Việc phân tích tài chính dự án cho thấy dự án có hiệu quả, có khả năng trả nợ Ngân hàng. Phòng QHKH đề nghị Phòng QLRR rà soát trình cấp có thẩm quyền phê duyệt tham gia đồng tài trợ cho vay dự án với các nội dung sau: Hình thức cho vay: Cho vay dài hạn theo Dự án đầu tư dây chuyền II nhà máy xi măng Hồng Hà của Cty TNHH Hồng Hà. Số tiền tham gia đồng tài trợ là 70 tỷ đồng trong tổng số tiền đồng tài trợ cho dự án 1.717 tỷ đồng. Đồng tiền cho vay: VND. Thời gian vay vốn: 11 năm, trong đó ân hạn 3 năm (lãi nhập gốc 6 tháng/lần) Kỳ hạn trả gốc, lãi: Gốc và lãi trả định kỳ 3 tháng/lần. Lãi suất cho vay và phí: Lãi suất thả nổi bằng lãi suất huy động tiết kiệm 12 tháng trả lãi sau bình quân của các NH đồng tài trợ cộng (+) phí 3,2%/năm (lãi suất cho vay được điều chỉnh 6 tháng/lần kể từ ngày nhận nợ đầu tiên) Tài sản đảm bảo tiền vay: Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đánh giá tình hình thẩm định dự án vay vốn tại SGD Những kết quả đạt được Về quy trình thẩm định Công tác thẩm định của phòng QLTD Sở GD được tiến hành theo quá trình do Ngân hàng Quân đội thiết lập. Chuyên viên thẩm định dựa vào những văn bản hướng dẫn của Ngân hàng đã thực hiện đầy đủ các bước, các khâu trong quy trình thẩm định. Với những dự án đầu tư quy mô lớn, sau khi cán bộ thẩm định trình Ban giám đốc SGD sẽ được tái thẩm định tất cả các nội dung trước khi ra quyết định. Công tác thẩm định đáp ứng được các yêu cầu về tiến độ, thời hạn phân tích, nhanh chóng có trả lời cho khách hàng, giúp khách hàng không bị lỡ cơ hội đầu tư. Về nội dung thẩm định Các nội dung chính của dự án đều được cán bộ thẩm định đánh giá, phân tích. Mức độ thẩm định các nội dung tương đối đồng đều, trong đó khía cạnh hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án được chú trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng. Đặc biệt khía cạnh thị trường được các cán bộ thẩm định nghiên cứu và tìm hiểu khá kỹ lưỡng, đầy đủ dựa vào các văn bản, tài liệu do Bộ, ngành, tổng công ty cung cấp. Ở cuối mỗi bước thẩm định, cán bộ thẩm định nêu rõ nhận xét, kết luận và kiến nghị của mình về nội dung dự án có liên quan. Trong phần kết luận chung, những thuận lợi và khó khăn của dự án được tóm tắt rõ ràng, cô đọng cùng với ý kiến đề xuất của tổ thẩm định giúp người ra quyết định có được cái nhìn tổng quát, rõ ràng và chính xác về dự án. Về phương pháp thẩm định Cán bộ thẩm định tại Sở Giao dịch NHQĐ đã vận dụng được khá đầy đủ các phương pháp cơ bản về thẩm định dự án trong quá trình thẩm định dự án tín dụng tại Sở GD. Các phương pháp này được áp dụng có hiệu quả vào việc phân tích, đánh giá dự án. Điển hình là phương pháp thẩm định theo trình tự thể hiện qua bước phân tích mục tiêu và các nội dung sơ bộ của dự án rồi đến các nội dung chi tiết của dự án. Phương pháp so sánh, đối chiếu các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá các định mức, tiến độ cũng như chất lượng công nghệ, máy móc thiết bị của dự án. Trong phân tích hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án, cán bộ thẩm định đã sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy và phần mềm Crystall Ball phân tích rủi ro dựa vào lý thuyết xác suất Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân Hạn chế Về công tác thu thập thông tin Thông tin là yếu tố cơ bản nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định cho vay của ngân hàng nên công tác thu thập thông tin đảm bảo mức độ tin cậy, chính xác, kịp thời là rất quan trọng. Nguồn thông tin về doanh nghiệp mà các cán bộ thẩm định có được chủ yếu là các nguồn tài liệu do doanh nghiệp tự cung cấp, trong đó đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, báo cáo tài chính của họ chưa qua kiểm tra kiểm toán nên thiếu chính xác và độ tin cậy. Khách hàng thường có xu hướng muốn cung cấp những thông tin tốt và che đậy những thông tin có thể gây bất lợi cho mình. Trong quá trình tái thẩm định, phòng quản lý tín dụng cũng không thể dựa vào hồ sơ và thông tin do Phòng kinh doanh cung cấp vì những thông tin này cũng đã được điều chỉnh một phần để tăng khả năng vay được vốn của doanh nghiệp. Chính vì vậy, ngoài thông tin về bản thân doanh nghiệp và thông tin thị trường do phòng kinh doanh và doanh nghiệp cung cấp thì các cán bộ thẩm định phải dựa vào những nguồn thông tin khác như tự khai thác trên internet hay dựa vào các mối quan hệ để có được thông tin từ các cơ quan chức năng, các phòng ban khác trong ngân hàng, các ngân hàng khác, các hiệp hội (như VCCI)... Chẳng hạn một số thông tin về doanh nghiệp được thu thập qua Trung tâm CIC của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên những thông tin trên internet rất đa dạng và không có cơ quan nào đứng ra xác nhận và đảm bảo tính chính xác của các thông tin này. Các số liệu thu thập được từ các Bộ, Sở, Ngành tuy đáng tin cậy song tính cập nhật còn chưa cao, nguồn dễ tiếp cận chủ yếu là các số liệu cũ. Chính vì vậy, những thông tin về thị trường tiêu thụ, đầu vào và tác động môi trường của dự án thường bị thiếu hụt, chưa được phản ánh và đánh giá đầy đủ. Việc đánh giá thị trường nhiều khi cũng chỉ mang tính hình thức, thiếu tin cậy. Bên cạnh đó, cán bộ thẩm định không thể có chuyên môn sâu về tất cả các lĩnh vực nên khi gặp những dự án có mức độ phức tạp vượt quá phạm vi chuyên môn của mình thì người thẩm định, đặc biệt là những người còn thiếu kinh nghiệm, gặp rất nhiều khó khăn trong việc phân tích và đánh giá thông tin. Thông thường đối với dự án thuộc các ngành này, cán bộ thẩm định phải nhờ đến các cơ quan tư vấn hoặc phối hợp với chủ đầu tư tiến hành phân tích lại thị trường dự án. Về nội dung, phương pháp, quy trình thẩm định Trong quá trình thẩm định dự án, các cán bộ thẩm định chưa coi trọng việc đánh giá, phân tích kỹ thuật, chỉ xem xét các yếu tố kỹ thuật dựa vào các báo cáo phân tích kỹ thuật do bên khách hàng cung cấp. Các báo cáo này thường thiếu tính khách quan do doanh nghiệp phân tích theo chiều hướng có lợi để được vay vốn. Ngay cả khi bên khách hàng có sự hỗ trợ của cơ quan tư vấn kỹ thuật thì các kết quả phân tích cũng trở nên không có hiệu quả nếu bên tư vấn thông đồng với khách hàng trong việc phân tích. Có thể thấy trong ví dụ minh họa về Dự án dây chuyền II Nhà máy xi măng Hồng Hà, phần thẩm định kỹ thuật còn khá sơ sài. Việc đánh giá chất lượng máy móc mới chỉ dựa vào báo cáo từ phía khách hàng. Kết quả thẩm định kỹ thuật còn mang tính chủ quan và định tính, chưa đưa ra được những tiêu chuẩn, định lượng theo quy định của Bộ Công nghệ hay quy ước quốc tế. Trong quá trình thẩm định các thông số kỹ thuật, cán bộ thẩm định chưa áp dụng đầy đủ các chỉ tiêu, định mức do Bộ Xây dựng và Bộ Công nghệ đưa ra, đặc biệt đối với các dự án có hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao. Phương pháp thẩm định dự án dựa vào phân tích độ nhạy đã được áp dụng nhưng chưa được thực hiện một cách đầy đủ, đặc biệt là đối với các dự án nhỏ, đơn giản. Phương pháp dự báo còn hạn chế, được vận dụng trong phân tích khía cạnh thị trường sản phẩm dự án song còn sơ sài, mới chỉ dựa trên tài liệu sẵn có của Bộ, Ngành và Tổng Công ty. Một số nội dung thẩm định chưa được cán bộ thẩm định phân tích đầy đủ như thẩm định khía cạnh thị trường dự án, thẩm định khía cạnh tổ chức, thẩm định khía cạnh kinh tế xã hội. Đặc điểm của ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ nên mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng là tính an toàn và sinh lợi của dự án, thể hiện bằng tính khả thi và hiệu quả của dự án. Do vậy khía cạnh kinh tế xã hội thường ít được các ngân hàng nói chung chú trọng phân tích sâu. Khía cạnh tổ chức và thị trường dự án cần được phân tích kỹ lưỡng hơn. Các yếu tố rủi ro cũng như biện pháp khắc phục các rủi ro này chưa được phân tích triệt để trong quá trình thẩm định dự án. Một dự án khi thực hiện tiềm ẩn những rủi ro có thể phòng ngừa được cũng như những rủi ro bất khả kháng, gây tổn thất cho chủ đầu tư và cơ quan tài trợ vốn. Việc phân tích rủi ro và đề xuất các giải pháp ngăn chặn cũng như hạn chế thiệt hại là rất quan trọng, giúp chủ đầu tư và cơ quan tài trợ vốn bảo toàn được tài sản đầu tư, hạn chế tổn thất không mong muốn. Trong dự án minh họa phân tích ở trên, cán bộ thẩm định đã bỏ qua phần phân tích rùi ro của dự án. Việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính nhiều trường hợp còn mang tính hình thức, thiếu cơ sở tin cậy do không có tiêu chuẩn, định mức để so sánh. Hệ thống văn bản quy phạm, quy trình, tiêu chuẩn của Ngân hàng vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Đội ngũ cán bộ thẩm định tương đối trẻ nên còn thiếu kinh nghiệm, khó so sánh được với các dự án tương tự. Điều này chứng tỏ việc xây dựng và ban hành một hệ thống quy chuẩn trở nên rất cấp bách và thực sự cần thiết. Nguyên nhân Hoạt động thẩm định dự án vay vốn của Sở Giao dịch NHQĐ gặp khó khăn do những nguyên nhân từ nhiều phía, từ bản thân Sở Giao dịch, từ Ngân hàng, khách hàng và các cơ quan khác liên quan. Xuất phát từ Sở Giao dịch Sở Giao dịch mới tách ra hoạt động độc lập từ Hội sở chính được 3 năm, đội ngũ cán bộ, chuyên viên thẩm định cũng như quản lý tương đối trẻ nên chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Là chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Quân đội nên công tác quản lý tín dụng nói chung và hoạt động thẩm định nói riêng còn mang tính bị động, phụ thuộc vào Hội sở chính. Xuất phát từ Ngân hàng Ngân hàng Quân đội đi vào hoạt động được 14 năm, cũng là một ngân hàng trẻ so với các ngân hàng quốc doanh khác. Hệ thống văn bản, quy định chung cho toàn ngân hàng vẫn đang được xây dựng, chưa hoàn thiện và đồng bộ, do vậy chưa có một hệ thống chỉ tiêu chuẩn để so sánh, đối chiếu với các chỉ tiêu của doanh nghiệp. Xuất phát từ Khách hàng – Doanh nghiệp Nhiều doanh nghiệp không muốn công khai tình hình tài chính của mình. Phần lớn các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ thường chưa được kiểm toán nên số liệu không đáng tin cậy. Ngoài ra, một doanh nghiệp có thể mở nhiều tại khoản tại các ngân hàng khác nhau, trong khi trung tâm CIC chưa cập nhật kịp thời nên cán bộ thẩm định khó nắm được thông tin xác thực về dư nợ khách hàng. CHƯƠNG 2: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI Định hướng phát triển hoạt động thẩm định dự án vay vốn của SGD Các phòng, ban trong Sở Giao dịch phối hợp với Phòng Quản lý tín dụng thực hiện tăng cường quản lý chặt chẽ về chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng dự án vay vốn nói riêng. Phòng Quản lý tín dụng kết hợp với Phòng Quan hệ khách hàng doanh nghiệp và Phòng Giao dịch, các chi nhánh để rà soát lại toàn bộ các dự án đang được cấp tín dụng, đồng thời chú trọng công tác tái thẩm định đảm bảo khách quan, độc lập, hiệu quả. Sở giao dịch kết hợp với Hội sở chính, tham mưu cho hội sở chính về kế hoạch phát triển tín dụng, soạn thảo các quy trình, quy chế, chỉ tiêu, chuẩn mực trong hoạt động thẩm định để đảm bảo tính đồng bộ và kịp thời. Một số giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án vay vốn tại SGD NHQĐ Giải pháp về công tác thu thập thông tin Cán bộ thẩm định có thể khai thác thêm thông tin từ cán bộ lập dự án của doanh nghiệp hay cơ quan thuế trực tiếp quản lý thuế của doanh nghiệp. Việc tìm hiểu qua chính cán bộ lập dự án không những làm rõ được các vấn đề trong phân tích dự án mà còn cung cấp cho cán bộ thẩm định những căn cứ, tiêu chuẩn mà người lập dự án sử dụng trong quá trình soạn thảo dự án. Dựa vào các căn cứ này, cán bộ thẩm định nắm rõ hơn về tính xác thực, độ tin cậy của các số liệu cũng như đánh giá trong báo cáo của khách hàng. Mặc khác, từ cơ quan quản lý thuế trực tiếp của doanh nghiệp, chuyên viên thẩm định có thể khai thác những thông tin đã được kiểm chứng về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyên viên thẩm định cần nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách phát triển của đất nước, ngành, vùng, địa phương để có những thông tin sát thực về chính sách ưu đãi, khuyến khích hay những bất lợi đối với dự án. Những dự án nằm trong diện khuyến khích đầu tư hay ưu đãi đầu tư có nhiều thuận lợi hơn từ khâu xin giấy phép đầu tư, thực hiện dự án đến khâu vận hành khai thác, thường được miễn giảm thuế,… Thuận lợi hay khó khăn trong bất kỳ khâu nào của dự án đều ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ, chi phí của dự án, do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận và khả năng trả nợ của dự án. Cần tăng cường hệ thống thông tin nội bộ giữa các chi nhánh, phòng ban trong toàn Ngân hàng. Trong Ngân hàng Quân đội nói chung và Sở Giao dịch nói riêng có rất nhiều phòng ban, mỗi phòng ban lại có một chức năng nhiệm vụ cụ thể, đặc thù. Tuy nhiên, các phòng ban đều phục vụ một mục tiêu chung của Ngân hàng là mục tiêu kinh doanh tiền tệ có hiệu quả, bảo đảm an toàn nguồn vốn cho vay của Ngân hàng. Vì vậy, giữa các phòng, ban, khối trong Ngân hàng cần có sự phối hợp chặt chẽ, trao đổi thông tin nhanh chóng, kịp thời để đạt được sự thống nhất trong giao dịch với khách hàng. Việc tham khảo thông tin giữa các phòng ban khác nhau trong Ngân hàng và giữa các phòng trong cùng Khối, chi nhánh diễn ra thường xuyên nên để đảm bảo việc chia sẻ thông tin này không bị hạn chế cần thiết lập cơ chế thông tin nội bộ đạt tiêu chuẩn cao, nhanh chóng, hiệu quả. Giải pháp về quy trình thẩm định Quy trình thẩm định cần chặt chẽ hơn nữa, đảm bảo tính khách quan, hiệu quả trong công tác tái thẩm định. Ngoài quy trình chung cần bổ sung một số quy trình riêng áp dụng linh hoạt đối với các dự án có tính chất, đặc điểm khác nhau. Giải pháp về phương pháp thẩm định Trong quá trình thẩm định cần áp dụng các phương pháp thẩm định một cách linh hoạt, tránh mang tính hình thức. Khi vận dụng phương pháp so sánh, đối chiếu để thẩm định dự án, cán bộ thẩm định cần kiểm chứng mức độ chính xác và tin cậy của các quy định về kinh tế, kỹ thuật do Nhà nước ban hành và các thông tin, chỉ tiêu được lấy làm cơ sở để so sánh với các chỉ tiêu trong dự án. Quá trình này cần được đặt trong tổng thể các mối quan hệ biện chứng giữa các chỉ tiêu được phân tích với nhau, giữa nội dung về thị trường với nội dung kỹ thuật, nội dung tài chính của dự án… Việc phân tích và so sánh có thể tiến hành một cách trực tiếp hoặc thông qua tính toán lại các chỉ tiêu và các thông số kinh tế kỹ thuật trong dự án. Phương pháp dự báo trong thẩm định khía cạnh thị trường sản phẩm của dự án có vai trò quan trọng vì trên cơ sở các số liệu dự báo, cán bộ thẩm định đánh giá cung cầu thị trường về đầu vào và sản phẩm đầu ra của dự án, giá cả, chất lượng của công nghệ, thiết bị,… ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và tính khả thi của dự án. Các phương pháp dự báo thường được áp dụng trong dự báo nhu cầu sản phẩm của dự án trong tương lai là phương pháp ngoại suy thống kê, phương pháp sử dụng mô hình hồi quy tương quan, phương pháp sử dụng hệ số co giãn cầu, phương pháp định mức và phương pháp lấy ý kiến chuyên gia. Rủi ro là một nội dung gắn liền với dự án nên cán bộ thẩm định không thể xem nhẹ việc phân tích rủi ro. Các phương pháp có thể áp dụng để phân tích rủi ro về tài chính dự án là phân tích độ nhạy, phân tích kịch bản (hay còn gọi là phân tích tình huống) và phân tích mô phỏng. Để công tác thẩm định được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng và chính xác, cán bộ thẩm định cần được trang bị các công cụ cần thiết như máy tính bỏ túi, máy vi tính và các phần mềm ứng dụng chuyên biệt,… Hiện nay trong thẩm định tài chính dự án, phần mềm Excel và các phần mềm khác như RIODS, Risk Master, phần mềm mô phỏng Monte Carlo, phần mềm mô phỏng Crystall Ball… được sử dụng khá rộng rãi để tính toán và phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính và phân tích rủi ro dự án. Giải pháp về nội dung thẩm định Các dự án có tính chất kỹ thuật phức tạp cần tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn và áp dụng chỉ tiêu kỹ thuật của các cơ quan quản lý Nhà nước đã ban hành. Để nâng cao hiệu quả và tính chính xác trong khâu thẩm định khía cạnh tài chính của dự án, cán bộ thẩm định có thể thẩm định theo các 6 bước sau: Bước 1 : Xác định mô hình đầu vào, đầu ra của dự án. Cán bộ thẩm định cần xác định mô hình đầu vào, đầu ra phù hợp theo đặc điểm và quy mô của dự án, nhằm đảm bảo khi tính toán phải phản ánh trung thực, chính xác hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Đối với dự án xây dựng mới độc lập, các yếu tố đầu vào, đầu ra của dự án được tách biệt rõ ràng, dễ dàng trong việc xác định các yếu tố đầu vào, đầu ra để tính hiệu quả của dự án. Tuy nhiên, đối với các dự án đầu tư chiều sâu, mở rộng công suất, hoàn thiện quy trình sản xuất thì việc xác định mô hình đầu vào, đầu ra phù hợp là tương đối khó khăn. Đối với loại dự án này, các mô hình sau đây thường được sử dụng : Dự án mở rộng nâng công suất: Hiệu quả dự án được tính toán trên cơ sở đầu ra là công suất tăng thêm, đầu vào là các tiện ích, bán thành phẩm được sử dụng từ dự án hiện hữu và đầu vào mới cho phần công suất tăng thêm. Dự án đầu tư chiều sâu, hợp lý hoá quy trình sản xuất: Hiệu quả dự án được tính toán trên cơ sở đầu ra là chi phí tiết kiệm được hay doanh thu tăng thêm thu được từ việc đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm và đầu vào là các chi phí cần thiết để đạt được mục tiêu về đầu ra. Dự án kết hợp đầu tư chiều sâu, hợp lý hoá quy trình sản xuất và mở rộng nâng công suất: Hiệu quả của việc đầu tư dự án được tính toán trên cơ sở chênh lệch giữa đầu ra, đầu vào lúc trước khi đầu tư và sau khi đầu tư. Để đơn giản trong tính toán, đối với các dự án mà giá trị trước khi đầu tư không chiếm tỷ lệ lớn trong tổng giá trị dự án sau khi đầu tư thì dự án trước khi đầu tư xem là đầu vào của dự án sau khi đầu tư theo giá trị thanh lý. Bước 2 : Phân tích để tìm dữ liệu. Khi đã xác định được mô hình đầu vào, đầu ra của dự án, cần phải phân tích dự án để tìm ra các dữ liệu đầu vào, đầu ra cần thiết phục vụ cho việc tính toán hiệu quả dự án bằng các bước sau đây: Đọc kỹ Báo cáo nghiên cứu khả thi, phân tích trên các phương diện khác nhau của dự án để tìm ra các dữ liệu phục vụ cho công tác tính toán hiệu quả dự án. Thông thường việc phân tích phương diện tài chính được thực hiện sau khi đã thực hiện các phương diện khác như phương diện thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý,... Việc phân tích các phương diện và rút ra các giả định có thể tóm tắt như sau: TT Phương diện phân tích Giả định rút ra 1 Phân tích thị trường. - Sản lượng tiêu thụ. - Giá bán. - Doanh thu trong suốt thời gian dự án. - Nhu cầu vốn lưu động (Các khoản phải thu). - Chi phí bán hàng. 2 Nguyên nhiên vật liệu, nguồn cung cấp. - Giá các chi phí nguyên vật liệu đầu vào - Nhu cầu vốn lưu động (các khoản phải trả). 3 Phân tích kỹ thuật công nghệ. - Công suất. - Thời gian khấu hao. - Thời gian hoạt động của dự án. - Định mức tiêu hao nguyên vật liệu. 4 Phân tích tổ chức quản lý. - Nhu cầu nhân sự. - Chi phí nhân công, quản lý. 5 Kế hoạch thực hiện, tiến độ thi công, ngân sách. - Thời điểm dự án đưa vào hoạt động . - Chi phí tài chính. Xác định các giả định để tính toán cho trường hợp cơ sở (Phương án cơ sở): tính toán hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án với các giả định dự kiến ở mức sát với thực tế dự báo sẽ xảy ra nhất. Xác định các tình huống khác ngoài trường hợp cơ sở: Đánh giá độ tin cậy của các dữ liệu trong trường hợp cơ sở, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả dự án, từ đó thiết kế các tình huống khác có thể xảy ra. Xác định các dữ liệu cơ sở có độ tin cậy chưa cao và nhạy cảm đối với hiệu quả dự án để chuẩn bị cho bước phân tích độ nhậy sau này. Bước 3 : Lập bảng thông số cho trường hợp cơ sở. Tầm quan trọng của việc lập bảng thông số: + Bảng thông số là bảng dữ liệu nguồn cho mọi bảng tính trong khi tính toán. Các bảng tính được tính toán thông qua liên kết công thức với bảng thông số. + Chuẩn bị cho bước phân tích độ nhạy của dự án. + Khi chuyển hướng phân tích hay thay đổi các giả định, có thể kiểm soát ngay trên bảng thông số mà không bị sai sót. Phương pháp lập bảng thông số: Trường hợp cơ sở là trường hợp giả định thường xảy ra nhất đối với dự án. Các chỉ tiêu cần thiết của bảng thông số tuỳ thuộc vào từng dự án. Các thông số của dự án nên được phân nhóm để dễ kiểm soát. Nội dung bảng thông số như sau: Chỉ tiêu ĐVT Giá trị Diễn giải I/ Sản lượng, doanh thu - Công suất thiết kế - Công suất hoạt động - Giá bán II/ Chi phí hoạt động - Định mức NVL - Giá mua - Chi phí nhân công - Chi phí quản lý - Chi phí bán hàng....... III/ Đầu tư - Chi phí xây dựng nhà xưởng - Chi phí thiết bị - Chi phí đầu tư khác - Thời gian khấu hao, phân bổ chi phí IV/ Vốn lưu động Các định mức về nhu cầu vốn lưu động - Tiền mặt - Dự trữ nguyên vật liệu - Thành phẩm tồn kho - Các khoản phải thu - Các khoản phải trả V/ Tài trợ - Số tiền vay - Thời gian vay - Lãi suất VI/ Các thông số khác Thuế suất, tỷ giá,... Ghi chú: Phần diễn giải để giải thích nguồn hay lý do đưa ra thông số. Việc lập bảng thông số được thực hiện trước khi bắt tay vào tính toán. Tuy nhiên, các thông số phát sinh được bổ sung song song trong quá trình tính toán cho đến khi hoàn chỉnh bảng thông số. Bước 4 : Lập các bảng tính trung gian. Trước khi lập bảng tính hiệu quả dự án, cần phải lập các bảng tính trung gian. Các bảng tính trung gian này thuyết minh rõ hơn cho các giả định được áp dụng và là các thông số tổng hợp đầu vào cho bảng tính hiệu quả dự án, bảng lưu chuyển tiền tệ và bảng cân đối kế hoạch sau này. Tuỳ mức độ phức tạp, đặc điểm của từng dự án mà có số lượng, nội dung các bảng tính trung gian khác nhau. Đối với một dự án sản xuất thì số lượng các bảng tính trung gian như sau: Bảng 1 : Bảng tính sản lượng và doanh thu Chỉ tiêu Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm ... Công suất hoạt động Sản lượng Giá bán Doanh thu Thuế VAT Doanh thu sau thuế VAT Bảng 2 : Bảng tính chi phí hoạt động Chỉ tiêu Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm ... Nguyên vật liệu chính Nguyên vật liệu phụ Điện Nước Lương + BHYT Chi phí thuê đất Chi phí quản lý PX Chi phí quản lý DN Chi phí bán hàng Tổng cộng chi phí hoạt động Thuế VAT được khấu trừ Chi phí hoạt động đã khấu trừ thuế VAT Trong các chi phí hoạt động, đối với từng dự án có thể lập các bảng tính trung gian chi tiết cho từng loại chi phí như: chi phí nguyên vật liệu, tiền lương và bảo hiểm y tế, chi phí quản lý,... để đảm bảo tính rõ ràng và chính xác hơn. Bảng 3: Bảng phân bổ khấu hao Chỉ tiêu Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm ... I. Nhà xưởng - Nguyên giá - Đầu tư thêm trong kỳ - Khấu hao trong kỳ - Khấu hao luỹ kế - Giá trị còn lại cuối kỳ II. Thiết bị - Nguyên giá - Đầu tư thêm trong kỳ - Khấu hao trong kỳ - Khấu hao luỹ kế - Giá trị còn lại cuối kỳ III. Chi phí đầu tư khác - Nguyên giá - Đầu tư thêm trong kỳ - Khấu hao trong kỳ - Khấu hao luỹ kế - Giá trị còn lại cuối kỳ IV. Tổng cộng - Nguyên giá - Đầu tư thêm trong kỳ - Khấu hao trong kỳ - Khấu hao luỹ kế - Giá trị còn lại cuối kỳ Bảng 4: Tính toán lãi vay vốn Bảng 4.1: Lãi vay vốn trung dài hạn : Chỉ tiêu Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm ... Dư nợ đầu kỳ Vay trong kỳ Trả nợ gốc trong kỳ Dư nợ cuối kỳ Nợ dài hạn đến hạn trả Lãi vay trong kỳ Trong đó: - Vay trong kỳ: nhu cầu vay đầu tư bổ sung của dự án. - Trả nợ gốc trong kỳ: dựa vào lịch trả nợ dự kiến (sau này sẽ liên kết với Bảng 7). Bảng 4.2: Lãi vay vốn ngắn hạn Chỉ tiêu Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm ... Dư nợ đầu kỳ Vay trong kỳ Trả nợ gốc trong kỳ Dư nợ cuối kỳ Lãi vay trong kỳ Ghi chú: Lịch vay trả nợ ngắn hạn căn cứ vào Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Trường hợp nếu không lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì dựa vào nhu cầu vốn lưu động dự kiến ban đầu và phát sinh hàng năm để tính toán. Thực chất đây là một bước điều chỉnh lại hiệu quả dự án theo tình hình tiền mặt thiếu hụt tạm thời cần phải vay vốn lưu động (nếu có). Bảng 5: Bảng tính nhu cầu vốn lưu động Khoản mục Số ngày dự trữ Số vòng quay (360/số ngày DT) Nhu cầu Năm 1 Năm 2 Năm ... Nhu cầu tiền mặt tối thiểu Các khoản phải thu Hàng tồn kho - Nguyên vật liệu - Bán thành phẩm - Thành phẩm Các khoản phải trả Nhu cầu vốn lưu động Thay đổi nhu cầu vốn lưu động Cách tính toán: đối với từng khoản có phương pháp xác định riêng Nhu cầu tiền mặt tối thiểu: được xác định dựa trên các yếu tố sau: + Số ngày dự trữ: thông thường 10 - 15 ngày. + Bằng tổng các khoản chi phí bằng tiền mặt trong năm (chi lương, chi phí quản lý, ... ) chia cho số vòng quay. + Thông thường trong các dự án đơn giản, nhu cầu tiền mặt có thể tính theo tỷ lệ % doanh thu. Các khoản phải thu: + Số ngày dự trữ: dựa vào đặc điểm của ngành hàng và chính sách bán chịu của doanh nghiệp. + Bằng tổng doanh thu trong năm chia cho số vòng quay. Nguyên vật liệu: + Số ngày dự trữ: dựa vào điểm của nguồn cung cấp (ổn định hay không, trong nước hay ngoài nước, thời gian vận chuyển,...), thường xác định riêng cho từng loại. + Bằng tổng chi phí của từng loại nguyên vật liệu trong năm chia cho số vòng quay. Bán thành phẩm: + Số ngày dự trữ: dựa vào chu kỳ sản xuất. + Bằng tổng giá thành phân xưởng chia cho số vòng quay. Thành phẩm: + Số ngày dự trữ: dựa vào phương thức tiêu thụ và tình hình thị trường. + Bằng tổng giá vốn hàng bán trong năm chia cho số vòng quay. Các khoản phải trả: + Số ngày dự trữ: dựa vào chính sách bán chịu của các nhà cung cấp nguyên vật liệu. + Bằng tổng chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu trong năm chi cho số vòng quay. Để chính xác, nên xác định cụ thể cho từng loại nguyên nhiên vật liệu. Bước 5 : Lập báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và tính toán khả năng trả nợ của dự án. Nguồn trả nợ cho một dự án là tiền mặt tạo ra từ dự án, vì vậy, để tính toán khả năng trả nợ của một dự án, việc lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là rất cần thiết. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho phép đánh giá được hiệu quả dự án dựa trên các chỉ tiêu NPV, IRR - là các chỉ tiêu đánh giá chính xác nhất vì nó căn cứ vào dòng tiền bỏ ra và dòng tiền thu vào của một dự án có tính đến yếu tố thời gian. Bước 6: Lập bảng cân đối kế hoạch. Bảng cân đối kế hoạch cho biết sơ lược tình hình tài chính của dự án và tính các tỷ số (chỉ số thanh toán, đòn cân nợ,…) của dự án trong các năm kế hoạch. Bảng cân đối kế toán kế hoạch được lập dựa vào nguyên tắc cơ bản sau: Tài sản = Nguồn vốn Hay : Tài sản lưu động + TSCĐ = Nghĩa vụ nợ + Vốn chủ sở hữu Hay : Tiền mặt + Các khoản phải thu + Hàng tồn kho + (Nguyên giá TSCĐ - Khấu hao luỹ kế) = Nghĩa vụ nợ ngắn hạn + Nghĩa vụ nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu. KẾT LUẬN Qua những nội dung được phân tích trong chuyên đề, ta có thể thấy rằng công tác thẩm định dự án vay vốn ở Ngân hàng Quân đội nói chung và Sở Giao dịch nói riêng đang trong quá trình hoàn thiện hóa. Bên cạnh những thành tựu đã xây dựng được, hoạt động thẩm định dự án vay vốn ở Sở Giao dịch vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ nhiều chủ thể có liên quan tới dự án. Thực trạng kèm ví dụ minh họa và những đánh giá về hoạt động thẩm định dự án vay vốn ở Sở Giao dịch đã được tác giả trình bày trong Chương 1 của đề tài. Hoàn thiện hóa hoạt động thẩm định dự án vay vốn chính là quá trình phát huy những mặt đã đạt được và khắc phục những hạn chế của hoạt động này. Vì vậy, dựa vào việc đánh giá thực trạng hoạt động thẩm định dự án vay vốn tại Sở Giao dịch, tác giả đã đưa ra các giải pháp khắc phục tương ứng được đề cập đến trong Chương 2. Tác giả chuyên đề hy vọng những giải pháp này có thể góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định dự án trong Ngân hàng và được sử dụng như tài liệu tham khảo cho các cán bộ thẩm định. Sở Giao dịch Ngân hàng Quân đội là đơn vị rất trẻ song có lợi thế của người đi sau, có thể tiếp thu, tìm hiểu kiến thức, kinh nghiệm từ những đơn vị khác, từ Ngân hàng Quân đội, từ tài liệu nghiên cứu của các nước phát triển,… Hy vọng trong tương lai công tác thẩm định dự án ở Việt Nam sẽ đạt tới các tiêu chuẩn về thẩm định dự án như các nước phát triển, đặc biệt là thời điểm sau khi nước ta được công nhận là nền kinh tế thị trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (2005), Giáo trình Lập dự án đầu tư, Nxb Thống kê, Hà Nội. TS. Tô Ngọc Minh, TS. Nguyễn Như Minh (2003), Giáo trình Tài trợ dự án, Nxb Thống kê, Hà Nội. PGS.TS. Lưu Thị Hương (2004), Thẩm định tài chính dự án, Nxb Tài Chính, Hà Nội. Nguyễn Tấn Bình (2005), Phân tích hoạt động doanh nghiệp, Nxb Thống kê, Hà Nội. Ngân hàng TMCP Quân đội, Phụ lục 5 “Hướng dẫn Thẩm định dự án đầu tư” ban hành kèm theo Quy trình Nghiệp vụ tín dụng QTNV_01/MCSB-TINDUNG của Ngân hàng TMCP Quân Đội. Quyết định của Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Quân đội v/v Quy định phạm vi thẩm định của Phòng Quản lý tín dụng cấp chi nhánh. Phòng QLTD Sở Giao dịch Ngân hàng TMCP Quân đội, Báo cáo tình hình hoạt động năm 2008 của Sở Giao dịch Ngân hàng TMCP Quân đội. Báo cáo thẩm định Dự án dây chuyền II Nhà máy xi măng Hồng Hà. Tạp chí Xây dựng số 4/2006

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21674.doc
Tài liệu liên quan