Chuyên đề Thẩm định tài chính dự án vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình

Thông thường, cán bộ tín dụng căn cứ vào báo cáo tài chính để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn, song rất khó xác định độ tin cậy của các báo cáo tài chính đó. Do yêu cầu về độ chính xác của thông tin trong công tác thẩm định tài chính, cán bộ thẩm định cần kết hợp điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng với việc xác định độ tin cậy của các báo cáo tài chính. Ngoài ra, có thể thu nhập thông tin thông qua pháng vấn khách hàng vay vốn. Nguồn thông tin này khá quan trọng, nếu biết cách khai thác và tận dụng nó, cán bộ thẩm định có thể thu được kết quả khả quan. Thông tin thu thập được từ các nguồn khác: Bên cạnh những thông tin có được do doanh nghiệp vay vốn cung cấp, cán bộ thẩm định có thể khai thác được nhiều thông tin từ Ngân hàng có quan hệ giao dịch với khách hàng, thông tin từ doanh nghiệp cung cấp và tiêu thụ, từ các Công ty kiểm toán, từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN hoặc từ Trung tâm công nghệ thông tin của ngân hàng công thương. Hiện nay mạng thông tin tín dụng CIC của NHNN có thể cung cấp khá đầy đủ thông tin về tình hình quan hệ tín dụng của từng khách hàng với các thẩm định dễ dàng truy cập, sử dụng đánh giá thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án. Ngân hàng cần phân tích và dự báo chính xác xu hướng diễn biến về thị trường các loại sản phẩm, hàng hoá quan trọng trên thị trường thế giới và thị trường trong nước của các dự án lớn chuẩn bị đầu tư. Trong phần thẩm định kỹ thuật- công nghệ dự án, cán bộ thẩm định của ngân hàng công thương Ba Đình thường dựa vào các số liệu của dự án để đánh giá, điều này làm nhiều dự án không phản ánh đúng hiệu quả thực. Vì thế, ngoài việc tăng cường cán bộ am hiểu về kỹ thuật, công nghệ, các dự án quy mô lớn, phức tạp nên có sự phối hợp thẩm định của các chuyên gia.

doc90 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thẩm định tài chính dự án vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ống, Ngân hàng công thương Ba Đình đã đạt được một số kết quả trong công tác thẩm định. Hiện nay Chi nhánh đã tiến hành thẩm định và đầu tư có hiệu quả nhiều dự án. Trong bối cảnh chung có nhiều khó khăn, Chi nhánh đã phân tích đúng tình hình, xác định đúng hướng hoạt động, kịp thời đưa ra những giải pháp xử lý linh hoạt đảm bảo an toàn, chất lượng, có hiệu quả trong hoạt động Ngân hàng với mục tiêu đầu tư phát triển để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, các chỉ tiêu, kế hoạch Nhà nước giao luôn được Chi nhánh thực hiện vượt mức với chất lượng cao nhất. Chi nhánh cũng đã tập trung được vốn cho các công trình trọng điểm của Nhà nước, của tỉnh và các dự án mang lại hiệu quả kinh tế cao. Rất nhiều các doanh nghiệp trong địa bàn tỉnh đã được Chi nhánh tạo điều kiện cung cấp vốn tín dụng để xây dựng mới, tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, các đơn vị đang rất cần thay thế và đổi mới thiết bị sản xuất kinh doanh thì việc vay vốn trung, dài hạn của Ngân hàng là một giải pháp đúng đắn giúp các doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả kinh doanh. - Từ định hướng hoạt động kinh doanh của ngành, phát huy tính chủ động trong quản trị điều hành, Chi nhánh ngày càng phát huy tính sáng tạo như : Chủ động ký hợp đồng huy động vốn với Trung ương trên cơ sở có khả năng thực hiện, vừa thể hiện trách nhiệm cùng hệ thống lo đủ vốn phục vụ đầu tư phát triển vừa đảm bảo ổn định và tăng trưởng của Chi nhánh. - Trong quá trình thẩm định dự án khi cho vay, Chi nhánh luôn thực hiện đúng với thể lệ tín dụng trung, dài hạn. Trong quá trình thẩm định và cho vay, Ngân hàng công thương Ba Đình luôn thực hiện đúng theo các quy trình thẩm định cho vay đầu tư đối với các dự án: Kiểm tra xem khách hàng vay có sử dụng đúng mục đích hay đem sử dụng vào mục đích khác; dự án vay hoạt động có hiệu quả hay không; Tình hình tài chính của khách hàng có đảm bảo hay không; Các chứng từ vay vốn có hợp lý, hợp lệ hay không... Thông qua đó để hạn chế tối đa những rủi ro xảy ra có thể ảnh hưởng đến sự an toàn vốn của Ngân hàng, mặt khác tránh tình trạng đầu tư vào các dự án kém hiệu quả. - Hoạt động Marketing của Ngân hàng công thương Ba Đình cũng rất được chú trọng. Vì vậy số lượng khách hàng gửi hồ sơ xin vay vốn trung, dài hạn ngày càng nhiều. Do đó Chi nhánh có điều kiện để tìm được những dự án có chất lượng. Ngoài ra chi nhánh còn biết cách tiếp cận khách hàng hướng dẫn khách hàng một cách tận tình chu đáo trong việc lập hồ sơ vay vốn, đúng quy định, tạo điều kiện cho khách hàng sớm hoàn thành các thủ tục được thuận tiện. - Chi nhánh có đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp và được tổ chức sắp xếp một cách hợp lý. Với những công trình quan trọng, nhiều khó khăn, Chi nhánh đã chọn những cán bộ có năng lực trình độ và kinh nghiệm thực tế để giúp cho khách hàng hoàn tất thủ tục hồ sơ nhanh chóng, chính xác, sớm đưa công trình vào hoạt động có hiệu quả. - Hoạt động kinh doanh tiếp tục giữ được độ tăng trưởng, công tác thẩm định được củng cố, chấn chỉnh an toàn hơn, chất lượng hơn, giảm phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi, đảm bảo vốn quay vòng tốt và có thu nhập cho Ngân hàng, hiệu quả kinh doanh lợi nhuận năm sau luôn cao hơn năm trước. - Công nghệ Ngân hàng ngày càng được tăng thêm và cải tiến với việc sử dụng chương trình thanh toán tập trung, tốc độ xử lý nhanh, nối mạng với TW và các Chi nhánh khác..... đã tạo điều kiện cho việc quản lý điều hành vốn có hiệu quả và thuận lợi hơn. 1.3.2- Hạn chế và nguyên nhân. 1.3.2.1- Hạn chế trong việc thu thập thông tin: Các thông tin từ doanh nghiệp gửi đến NH không đầy đủ và thiếu chính xác. - Doanh nghiệp không thuyết minh được năng lực sản xuất, năng lực tài chính; không thuyết minh được tính khả thi của dự án, nhất là thị trường và tài chính, không thuyết minh được khả năng tiếp thu công nghệ của đội ngũ công nhân và chuyên gia kỹ thuật. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý đồ đầu tư tốt nhưng không có khả năng lập các dự án đầu tư khả thi. - Những tài liệu số liệu mà doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng thường chỉ mang tính tương đối, có độ tin cậy thấp, gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình thẩm định dự án. - Vốn tự có, tự huy động của các dự án thấp chỉ khoảng 7-15% trong tổng vốn đầu tư, chủ yếu là bất động sản có sẵn như nhà xưởng, thiết bị mua sắm chủ yếu vẫn được đáp ứng bằng vốn tín dụng ngân hàng. Khá nhiều doanh nghiệp khi thẩm định tín dụng thì có chủ sở hữu tham gia tổng vốn đầu tư, kể cả phần vốn tối thiểu đáp ứng nhu cầu tài sản lưu động cho dự án hoạt động, nhưng khi công trình đi vào hoạt động thì phần vốn này đưa vào đầu tư trung dài hạn cho các công trình khác hoặc sử dụng cho các mục tiêu khác nên dự án cấp tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Ba Đình hoạt động thiếu hiệu quả. Ví dụ trong tổng số 52 tỷ đồng đầu tư trung dài hạn cho kinh tế ngoài quốc doanh thì vốn tự có của doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 3,7 tỷ, tức là hơn 7%. - Trong điều kiện hiện nay khách hàng được quyền lựa chọn Ngân hàng để giao dịch, một doanh nghiệp được mở tài khoản giao dịch tiền gửi, tiền vay tại nhiều Ngân hàng Thương mại khác nhau. Lợi dụng điều này, trên thực tế không ít doanh nghiệp đã mở tài khoản tiền gửi, tiền vay tại nhiều Ngân hàng hoặc vay ngân hàng này không được thì chạy sang vay ngân hàng khác - Đối với hộ sản xuất, có thể có những hoạt động tài chính ngầm nên không có cơ sở để phát hiện cũng như xác minh tính chính xác của thông tin. - Nhìn chung, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp quốc doanh cũng như ngoài quốc doanh vẫn còn thấp. Trình độ quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh còn chưa đạt yêu cầu. Phần lớn các doanh nghiệp phải tiến hành sản xuất kinh doanh trong tình trạng máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu nên sản phẩm tạo ra thiếu sức cạnh tranh. Hơn nữa nhiều nhân tố khách quan cũng tạo nên sức ép lớn đối với các doanh nghiệp như hiện tượng bán phá giá hàng hoá, sản phẩm của các nước trong khu vực đã tác đông tiêu cực đến thị trường của các doanh nghiệp Viêt Nam. Hàng hoá ngoại nhập tràn vào thị trường Việt Nam đã cạnh tranh gay gắt và chiếm lĩnh thị trường trong nước. Những tác động tiêu cực này buộc doanh nghiệp Nhà nước phải giảm tốc độ sản xuất, nhiều doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Doanh nghiệp quốc doanh được coi là khu vực ưu tiên đầu tư của các Ngân hàng thương mại quốc doanh nói chung cũng như Ngân hàng Công thương Ba Đình nói riêng. Thiếu các thông tin vĩ mô làm cơ sở để thẩm định: - Thông tin tổng hợp từ Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng công thương Trung ương về xu hướng phát triển nền kinh tế của các ngành còn thiếu nên chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình thiếu căn cứ và thông tin vĩ mô trong thẩm định. - Không có cơ quan chuyên ngành đánh giá doanh nghiệp, hoạt động của kiểm toán độc lập còn hạn chế. Việc tổng hợp thông tin đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp chưa có cơ quan nào làm. - Nhiều dự án khi đến tay Ngân hàng đã được các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt mặc dù theo đánh giá của Ngân hàng, dự án thiếu tính khả thi. Tuy nhiên Ngân hàng vẫn phải đầu tư nếu không sẽ tạo thế đối lập với chính quyền địa phương, thành phố ở một mức độ nào đó. - Hệ thống định chế pháp luật trong việc điều tiết quan hệ tín dụng, thế chấp, cầm cố tài sản tạo nên sự phức tạp trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng đến tranh chấp, tố tụng, xử lý tín dụng. Đặc biệt môi trường pháp lý về quyền sở hữu tài sản và thế chấp tài sản còn nhiều vướng mắc 1.3.2.2- Hạn chế về nội dung và các chỉ tiêu dùng để thẩm định dự án: - Chưa có hệ thống tiêu chuẩn tín dụng và đánh giá doanh nghiệp, khách hàng. Việc đánh giá hiện tại chủ yếu là đánh giá tài chính, bỏ qua đánh giá nhiều yếu tố về năng lực của khách hàng. - Khi thẩm định, Ngân hàng chưa thực sự quan tâm việc dự kiến vòng đời của dự án trên cơ sở nghiên cứu khả năng thu hồi vốn, sự tiến bộ của năng lực kỹ thuật và công nghệ, quy hoạch phát triển kinh tế liên quan... dẫn đến xác định thời gian cho vay thiếu căn cứ. Còn có hiện tượng lý tưởng hóa hiệu quả của dự án và nguồn trả nợ. - Về các nội dung thẩm định, hiện nay NHCT Ba Đình nói riêng cũng như các NHTM Việt nam nói chung chủ yếu mới chỉ quan tâm đến thẩm định nội dung tài chính của DAĐT còn các nội dung quan trọng khác như thị trường, kỹ thuật- công nghệ...thì vẫn chưa được xem xét một cách sâu sắc và đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do cán bộ thẩm định còn thiếu các thông tin cần thiết, thiếu sự hiểu biết chuyên sâu về các lĩnh vực như thị trường và kỹ thuật. - Ngay trong nội dung thẩm định tài chính, hiện nay NHCT Ba Đình cũng mới chỉ quan tâm đến việc thẩm định các chỉ tiêu như tổng vốn đầu tư, khả năng sinh lời của DA hàng năm, khả năng trả nợ vay cho ngân hàng...Còn các chỉ tiêu tài chính quan trọng khác như thời gian thu hồi vốn đầu tư, NPV, IRR của DA vẫn chưa được quan tâm xem xét và tính toán một cách đầy đủ. - Về vấn đề phân tích rủi ro của DA, thực sự hiện nay ở NHCT Ba Đình cũng như ở các NHTM khác hầu như chưa được đề cập tới trong công tác thẩm định DA. Mặc dù trong kinh tế thị trường, khả năng biến động của các nhân tố đầu vào đầu ra của sản xuất và tiêu thụ là rất lớn, các rủi ro là hết sức đa dạng...Nhưng do thiếu các thông tin dự báo cần thiết, thiếu các công cụ phân tích và cán bộ thẩm định của các ngân hàng chưa đánh giá được hết tầm quan trọng của việc phân tích rủi ro DA nên hiện nay việc đảm bảo tín dụng chủ yếu là quan tâm đến tài sản thế chấp, đến thế lực và năng lực tài chính của bên bảo lãnh...Như vậy, việc thẩm định DA chưa đảm bảo việc lượng hoá và dự báo các rủi ro và do đó, không thể nhìn nhận và đánh giá được các nhân tố biến động sẽ tác động đến dự án như thế nào. 1.3.2.3- Hạn chế về vấn đề đào tạo và bố trí cán bộ làm công tác thẩm định: - Đại bộ phận cán bộ được trưởng thành trong thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, một số cán bộ mới bổ sung thì lại thiếu hiểu biết thực tiễn, kiến thức cơ bản về một nền kinh tế thị trường chưa được trang bị đầy đủ, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của cơ chế thị trường, thiếu phương pháp điều tra thu thập và xử lý thông tin, thiếu kiến thức về ngành kinh tế mà mình đang cho vay. Thêm vào đó là những kiến thức về pháp lý tự đọc, tự tìm hiểu thiếu tính hệ thống nên nhiều khi đã nhận thức chưa đúng những vấn đề cơ bản của luật kinh tế, luật hợp đồng, luật sở hữu tài sản vì vậy cán bộ thường thiếu khả năng, trình độ, kinh nghiệm để đánh giá đúng tính hiệu quả, mức độ rủi ro của dự án. - Bên cạnh nguyên nhân chủ quan do kiến thức của bản thân cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập thì cách thức tổ chức, bố trí và đào tạo cán bộ của Ngân hàng cũng là một nhân tố quan trọng, khiến cho năng lực, sở trường của cán bộ không được phát huy hết. Thứ nhất, công tác đào tạo, tuyển chọn cán bộ không tập trung theo một lĩnh vực, chuyên môn nhất định. Tuy công tác đào tạo cán bộ được ngân hàng rất quan tâm nhưng trên thực tế việc đào tạo còn mang tính chất của những khoá học cấp tốc, ngắn hạn nên kiến thức đem lại không sâu. ở ngân hàng chưa có những cán bộ chuyên môn giỏi hẳn về một lĩnh vực như thẩm định dự án đầu tư, cán bộ có kiến thức chuyên sâu về pháp lý, về kế toán, kiểm toán... để đánh giá độ chính xác của các số liệu trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp, thiếu những cán bộ có khả năng nhạy bén trong việc thu thập thông tin thị trường, dự đoán xu hướng phát triển của các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp đang đầu tư... Hầu hết các cán bộ đều có kiến thức dàn trải nên xử lý công việc không thể đạt hiệu quả cao nhất. Thứ hai, cách tổ chức, bố trí cán bộ như hiện nay của Ngân hàng Công thương Ba Đình còn những điểm bất hợp lý. Phòng kinh doanh của Ngân hàng được chia thành ba bộ phận chuyên môn: Phòng tín dụng công nghiệp, phòng tín dụng thương nghiệp, và tín dụng ngoài quốc doanh. Về cơ bản ta đã thấy sự chuyên môn hoá theo lĩnh vực và theo thành phần kinh tế, tuy nhiên với cách tổ chức như vậy, phòng tín dụng ngoài quốc doanh sẽ phải chuyên trách tất cả các lĩnh vực, hơn nữa bản thân các cán bộ tín dụng trong phòng lại không được chuyên môn hoá theo lĩnh vực kinh tế nên một cán bộ có thể khi thì cho vay công nghiệp, lúc thì cho vay thương nghiệp hay xây dựng cơ bản... Còn đối với lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh thì ranh giới phân biệt giữa hai phòng tín dụng công nghiệp và tín dụng thương mại cũng đã bị xoá nhoà. Phòng tín dụng thương nghiệp nhiều khi vẫn cho vay xây dựng cơ bản, cho vay sản xuất, điều này dễ dẫn đến tình trạng một cán bộ tín dụng phải cho vay những dự án nằm trong lĩnh vực mà mình am hiểu rất ít hoặc hầu như không hề biết. Hậu quả là cán bộ tín dụng rất thụ động vào những số liệu, những căn cứ về tính khả thi của các dự án mà doanh nghiệp đưa ra. Điều này cũng dễ hiểu vì một cán bộ tín dụng hiểu biết không đầy đủ về lĩnh vực xây dựng cơ bản thì khó lòng mà thẩm định chính xác được một dự án đầu tư nâng cấp đường bộ. Hay cán bộ tín dụng sẽ không thể khẳng định một nhà máy ximăng sẽ hoạt động hiệu quả nếu không hiểu gì về quy trình công nghệ, thành phần và yêu cầu chất lượng ximăng. Thứ ba, mặc dù Ngân hàng đã có những khen thưởng về vật chất để khuyến khích cán bộ tín dụng tìm kiếm những khách hàng mục tiêu và món vay mới có hiệu quả nhưng theo đánh giá của một số cán bộ trong ngân hàng thì sự kích thích còn rất nhỏ, chưa đủ tạo ra động lực cho cán bộ tích cực tìm kiếm khách hàng để mở rộng tín dụng trung dài hạn. 1.3.2.4- Hạn chế về phương pháp thẩm định. - Về phương pháp so sánh: Đây là một phương pháp hữu hiệu đối với những dự án cùng loại nhưng nếu chỉ căn cứ trên giấy tờ, văn bản, thiết kế thì dễ rơi vào hời hợt và không rút ra được những thước đo tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật chung. Về phương pháp phân tích độ nhạy của dự án: Khi phân tích độ nhạy của dự án, các biến cố của nhân tố ảnh hưởng đưa vào đển tính toán chưa thực sự sát với thực tế, đồng bộ, dẫn đến việc phân tích độ nhạy phiến diện. Về công nghệ: Việc tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án đa số là làm thủ công, chưa có sự trợ giúp của các phần mềm vi tính nên độ chính xác thực sự chưa cao. Vì vậy để nâng cao trong phương pháp thẩm định vấn đề đặt ra là phải tuỳ bước nghiên cứu để ứng dụng công nghệ của các Ngân Hàng công thương trên cơ sở tiêu chuẩn hoá, quy phạm hoá nội dung và thao tác trong hoạt động thẩm định. Chương II Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương Ba Đình. 2.1- Định hướng phát triển của ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình trong thời gian tới. 2.1.1- Định hướng phát triển chung cho toàn chi nhánh. Năm 2008 nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng phải đối mặt với những khó khăn thách thức lớn nhất trong hơn một thập kỷ qua do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Diễn biến nề kinh tế trong nước rất phức tạp: Lạm phát tăng cao do chi phí đẩy trong những tháng đầu năm nhưng đến cuối năm lại rơi vào tình trạng giảm phát, nhập siêu tăng và đầu tư gián tiếp nước ngoài giảm, diễn biến cung cầu vốn ngoại tệ trên thị trường tiền tệ bất thường trong những tháng đầu năm. Hoạt động tài chính ngân hàng đã bị ảnh hưởng rất lớn, đầu năm là cuộc chạy đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng do lạm phát tăng cao dẫn đến chi phí đầu vào tăng làm cho lãi suất huy động và cho vay bị đẩy lên cao. Nhưng đến cuối năm, khi ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện đồng bộ các giải pháp: Hạ lãi suất cơ bản, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cho phép các NHTM rút về tín phiếu bắt buộc, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc dẫn đến cạnh tranh bằng lãi suất giữa các ngân hàng cũng giảm dần, tình hình thanh khoản tốt hơn, lãi suất cho vay liên tục điều chỉnh giảm. Có thể nói, trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế ngành ngân hàng đã thực thi rất tốt vai trò nòng cốt của mình trong việc tham mưu và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ một cách hiệu quả, đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Hệ thống ngân hàng đã chấp hành nghiêm túc kỷ cương, kỷ luật điều hành và thể hiện tinh thần trách nhiệm vì lợi ích chung của đất nước...(Trích ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại hội nghị đánh giá thực hiện nhiệm vụ ngân hàng năm 2008 và triển khai nhiệm vụ năm 2009). Tại chi nhánh NHCT KV Ba Đình, với sự chỉ đạo sát sao của Ban lãnh đạo NHCT VN nói chung Ban giám đốc chi nhánh nói riêng,cùng với nỗ lực quyết tâm phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2008 do NHCT Việt Nam giao của tập thể chi nhánh; với các biện pháp đồng bộ, quyết liệt xuyên suốt năm 2008 nên đến cuối năm việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của Chi nhánh Ba Đình đã có nhiều chuyển biến và về cơ bản hoàn thành kế hoạch được giao. Theo mục tiêu và định hướng của NHCT VN và kế hoạch phát triển kinh doanh năm 2009, chi nhánh NHCT Ba Đình đề ra các mục tiêu kinh doanh và các biện pháp thực hiện chủ yếu sau đây: Chỉ tiêu nguồn vốn: Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2009 đạt: 6.000 tỷ đồng. Trong đó: + Huy động vốn VNĐ: 4.700 tỷ đồng. + Ngoại tệ quy VNĐ: 1.300 tỷ đồng. - Số dư điều chuyển vốn bình quân lên NHCT Việt Nam: 1.300 tỷ đồng. Dư nợ cho vay nền kinh tế: Đến 31/12/2009 đạt 4.500 tỷ đồng. - Trong đó: + Dư nợ VNĐ: 3.111 tỷ đồng. + Ngoại tệ quy VNĐ: 1.389 tỷ đồng. Về cơ cấu dư nợ : + Tỷ lệ cho vay không có Bảo Đảm bằng tài sản: 31% Tổng dư nợ. + Tỷ lệ cho vay Doanh nghiệp nhà nước: 47% Tổng dư nợ. Chỉ tiêu nợ xấu: Đến 31/12/2009: 90 tỷ đồng và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ giảm còn 2%. Chỉ tiêu thu nợ ngoại bảng: Phấn đấu thu 100% số nợ ngoại bảng của năm 2008. Chỉ tiêu thu dịch vụ: Đạt 40 tỷ đồng. Chỉ tiêu thẻ: Thẻ ATM: 20.000 thẻ. Thẻ TDQT: 120 thẻ. Cơ sở chấp nhận thẻ: 15. Chỉ tiêu lợi nhuận: Phấn đấu đạt 240 tỷ đồng lợi nhuận sau trích DPRR. 2.1.2- Định hướng cho công tác thẩm định. Thẩm định dự án đầu tư với tư cách là một hoạt động có khâu tổ chức điều hành, quy trình cũng như đội ngũ cán bộ thực hiện riêng nên trước khi đưa ra các giải pháp hoàn thiện nó còn cần phải có định hướng cho công tác thẩm định dự án đầu tư, trong thời gian tới công tác TĐ DAĐT trong hoạt động cho vay tại ngân hàng cần dựa trên định hướng như sau: + Công tác thẩ định phải đứng trên giác độ người cho vay, người bỏ vốn để xem xét. + Thẩm định dự án phải xuất phát từ tình hình thực tiễn trong từng ngành và nhằm phục vụ cho hoạt động cho vay của ngân hàng công thương trong từng giai đoạn. + Công tác TĐ DAĐT phải được phổ cập hóa trong toàn hệ thống với tất cả cán bộ làm nhiệm vụ ở các bộ phận khác nhau, với những yêu cầu và đòi hỏi khác nhau. + Công tác này phải được tiến hành theo một quy trình khoa học, hiện đại, bám sát tình hình thực tế và phù hợp với nghiệp vụ ngân hàng. + Công tác TĐ phải phát huy vai trò tham mưu cho lãnh đạo để có những biện pháp tổ chức, điều hành cụ thể trong việc quyết định các khoản cho vay. + Thẩm định dự án đầu tư phải đi đôi với công tác tiếp thị, tiếp cận khách hàng, đối với nhữnh doanh nghiệp sản xuất kinh doanh yếu kém thua lỗ không có khả năng trả nợ phải giảm dần mức độ đầu tư để đảm bảo an toàn tín dụng. + Thẩm định dự án đầu tư phải đứng trên quan điểm của người cho vay xem xét tính khả thi, hiệu quả của dự án, nhận thức rõ lợi ích của ngân hàng gắn bó chặt chẽ với lợi ích của dự án. +Công tác thẩm định dự án đầu tư phải được quán triệt trong toàn bộ hệ thống không chỉ các cán bộ trực tiếp thực hiện thẩm định mà còn cả các bộ phận khác với những mức độ yêu cầu cho những công việc khác nhau. + Quan tâm đào tạo quy hoạch và bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định, tạo điều kiện cử đi học các lớp Cao học, Đại học, bằng 2 và lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư. + Thẩm định phải được tiến hành thường xuyên liên tục với tất cả các dự án xin vay với cả 3 giai đoạn trước, trong và sau khi cho vay. + Thẩm định dự án đầu tư phải được tiến hành cùng các mặt khác của dự án, không đề cao tuyệt đối một mặt nào. Qua tìm hiểu mục tiêu và định hướng của công tác thẩm định dự án đầu tư nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung ta thấy việc hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư là hết sức cần thiết nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. 2.2- Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của tại ngân hàng công thương Ba Đình. 2.2.1- Hoàn thiện về nội dung thẩm định tài chính của dự án. Mục đích của phân tích tài chính là xác định chi phí và lợi ích của dự án từ xây dựng và xem xét các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án nhằm đem lại mức độ an toàn về tài chính cao. Trên thực tế, dự án đưa cho Ngân hàng được xây dựng trên cơ sở là có hiệu quả. Đứng về phía Ngân hàng cần kiểm tra lại tính hiệu quả của dự án bằng việc đánh giá lại việc tính đúng, đầy đủ các khoản chi phí, doanh thu hay khả năng trả nợ của dự án… bên cạnh đó phải thực sự chú ý đến những chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, đề cập đến giá trị thời gian của tiền như NPV, IRR, phân tích độ nhạy của dự án, coi như đây là chỉ tiêu bắt buộc trong thẩm định dự án đầu tư. Muốn vậy trước tiên Ngân hàng cần phải xem xét đánh giá tính đầy đủ hợp lý của các khoản chi phí và lợi ích của dự án. Có thể do vô tình hay cố tình mà các yếu tố này không được phản ánh đầy đủ, chính xác, bởi vậy Ngân hàng cần tiến hành đánh giá cẩn thận để đảm bảo độ chính xác các chỉ tiêu, có như vậy việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế như NPV, IRR… mới chính xác, đồng thời nó giúp cho chủ đầu tư thấy rõ được hiệu quả của dự án. 2.2.1.1- Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV) Với chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng, ta sẽ có quyết định đầu tư cho dự án có NPV lớn hơn 0 được chiết khấu ở lãi suất thích hợp. Lúc này, tổng lợi ích được chiết khấu lớn hơn tổng chi phí được chiết khấu dự án có khả năng sinh lời. Ngược lại khi NPV nhỏ hơn 0 dự án không phù đắp được chi phí bỏ ra và bị loại bỏ. Tuy nhiên, chỉ tiêu này có nhược điểm là nó rất nhạy cảm với lãi suất. Sự thay đổi của lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến giá trị hiện tại của dòng tiền lợi ích và chi phí dự án thường phải chịu những khoản chi phí trong những năm đầu khi dự án đầu tư được thực hiện và các lợi ích chỉ xuất hiện khi dự án đi vao hoạt động. Bởi vậy, khi lãi suất tăng, giá trị hiện tại ròng lợi ích sẽ giảm nhanh hơn giá trị hiện tại ròng chi phí và do đó, giá trị hiện tại ròng để đánh giá sẽ phụ thuộc vào việc xác định được lãi suất chiết khấu hợp lý. Lãi suất chiết khấu thường là hệ số tăng trưởng hàng năm của ngành. Dự án của các ngành khác nhau sẽ có lãi suất khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế ở Việt Nam chưa có số liệu thống kê này nên lãi suất chiết khấu được chọn có thể là chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp hay lãi suất cho vay của Ngân hàng. Nhưng đứng trên góc độ là Ngân hàng cho vay vốn, Ngân hàng thường chọn lãi suất chiết khấu là lãi suất phải trả cho tín dụng chung và dài hạn. Do đó, để đưa ra một quyết định đầu tư có hiệu quả, cần xác định lãi suất chiết khấu hợp lý nhằm khắc phục hạn chế của chỉ tiêu NPV. Trên thực tế, các dự án ở Việt Nam thường được tài trợ bởi rất nhiều nguồn khác nhau mặc dù chủ yếu vẫn là vốn vay trung và dài hạn của Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng nên áp dụng cách tính bình quân gia quyền các nguồn vốn để xác định lãi suất chiết khấu cho dự án. Bên cạnh đó, Ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất thay đổi để phản ánh các điều kiện kinh tế. Ví dụ, khi nguồn vốn khan hiếm, Ngân hàng có thể dự tính chi phí vốn cao hơn bình thường sau đó sẽ điều chỉnh lại khi nguồn cung ứng vốn tăng lên. Khi tính toán các dòng tiền của dự án để tính NPV, cán bộ thẩm định cần tính toán các dòng tiền cho từng năm của cả đời dự án chứ không nên dâng lại năm mà dự án đã trả hết nợ Ngân hàng để giúp cho Ngân hàng để giúp cho Ngân hàng thấy rõ hơn hiệu quả lâu dài của dự án. 2.2.1.2- Chỉ tiêu suất thu hồi vốn nội bộ (IRR): Suất thu hồi vốn nội bộ là lãi suất mà tại đó giá trị hiện tại ròng lợi ích bằng giá trị hiện tại ròng chi phí hay nói cách khác giá trị hiện tại ròng bằng 0. Suất thu hồi vốn nội bộ phản ánh mức lãi suất tối thiểu mà dự án có thể chấp nhận được. Điều đó có nghĩa là, dự án sẽ được chấp nhận nếu IRR lớn hơn lãi suất vay vốn. Lúc đó dự án có lãi suất cao hơn thực tế phải trả cho các nguồn vốn sử dụng trong dự án. Ngược lại, khi tỉ suất nội hoàn nhỏ hơn lãi suất vay vốn, dự án sẽ không được lựa chọn đầu tư. 2.2.2- Hoàn thiện về phương pháp thẩm định. Thực tế công tác thẩm định dự án đầu tư ở NHCT Ba Đình cũng như phần lớn các NHTM Việt nam hiện nay mới chỉ quan tâm chủ yếu đến phần thẩm định nội dung tài chính của DAĐT mà chưa tiến hành phân tích và thẩm định một cách đầy đủ nội dung về thị trường, về kỹ thuật của dự án. Trong quá trình nghiên cứu chọn lọc và phân tích các thông tin để lập dự án, chủ đầu tư phải xuất phát từ các yêu cầu thực tế của thị trường, từ các số liệu về giá bán cạnh tranh trên thị trường, đòi hỏi về chất lượng mẫu mã sản phẩm của khách hàng...Để từ đó, xây dựng các phương án công nghệ - kỹ thuật nhằm sản xuất ra sản phẩm với chất lượng thoả mãn các yêu cầu thương mại trên thị trường. Đối với mỗi phương án kỹ thuật, sẽ có một phương án về tài chính đi kèm, có thể nói các nội dung trong một dự án đầu tư có sự liên kết rất chặt chẽ, nội dung sau được xây dựng trên cơ sở của nội dung trước. Như vậy, việc thẩm định một dự án đầu tư mà chỉ tập trung vào phân tích tài chính như các NHTM Việt nam hiện nay đang làm là chưa đảm bảo tính toàn diện và tính hệ thống trong các yêu cầu của công tác thẩm định dự án. Để đảm bảo các kết luận thẩm định thực sự có giá trị, có ý nghĩa tham mưu cho cấp lãnh đạo và cán bộ tín dụng trong việc ra quyết định đầu tư đối với dự án, công tác thẩm định cần được đổi mới theo nguyên tắc thẩm định toàn diện tất cả các nội dung trong dự án xin vay mà khách hàng gửi đến ngân hàng. Tuy nhiên, để thực hiện được yêu cầu này không phải là vấn đề có thể giải quyết được một sớm một chiều, nó đòi hỏi một quá trình làm quen nhất định và trong quá trình này chắc chắn các cán bộ thẩm định sẽ gặp phải một số khó khăn cơ bản, mà khó khăn lớn nhất là vấn đề thu thập và cách thức xử lý các thông tin để có thể đưa ra các kết luận có giá trị tham mưu cho cấp lãnh đạo. Một thực tế hiện nay là phần lớn cán bộ làm công tác tín dụng và thẩm định ở NHCT Ba Đình nói riêng và các NHTM Việt nam nói chung đều được đào tạo ở các trường thuộc khối kinh tế, do đó khả năng nắm bắt các vấn đề thị trường, kỹ thuật sẽ gặp những khó khăn nhất định, nhất là đối với việc tài trợ các dự án lớn công tác nghiên cứu về thị trường và kỹ thuật rất chuyên sâu và phức tạp đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao. Về vấn đề này, chúng tôi xin khuyến nghị một giải pháp mang tính khả thi đó là ngân hàng cần tạo lập mối quan hệ với các chuyên gia kỹ thuật - công nghệ hàng đầu của các Viện nghiên cứu, các Trường đại học...để từ đó, khi có nhu cầu thẩm định các nội dung thị trường, kỹ thuật... mang tính chuyên sâu, ngân hàng có thể thuê các chuyên gia này tiến hành thẩm định. Như vậy, với kiến thức chuyên môn của mình, chắc chắn các kết luận của các chuyên gia sẽ có độ tin cậy cao đảm bảo chất lượng thông tin tư vấn cho quyết định tài trợ dự án của ngân hàng. Mô hình trên đây thực tế đã được áp dung ở các NHTM tại hầu hết các nước tiên tiến theo kinh tế thị trường. Tuy nhiên để công tác tư vấn nói trên đạt hiệu quả cao thì hoạt động này cần được đưa vào một khung pháp lý chắc chắn. Về vấn đề này, chúng tôi đã có khuyến nghị đối với Nhà nước trong việc sớm ban hành các văn bản pháp lý quy định về tư vấn và hành nghề tư vấn ( đã nêu ở phần trên ). 2.2.3- Hoàn thiện về số lương và chất lượng cán bộ thẩm định. Trong mọi hoạt động, con người luôn là trung tâm điều hành và quyết định hiệu quả của hoạt động. Con người cũng là động lực phát triển của TĐ nên để nâng cao chất lượng TĐ DAĐT thì điều đầu tiên và quan trọng nhất là phải quan tâm đến con người. Con người ở đây chính là đội ngũ cán bộ thẩm định, nhân viên điều hành hoặc trực tiếp thực hiện thẩm định các dự án đầu tư tại ngân hàng, để có được đội ngũ cán bộ thẩm định đáp ứng được yêu cầu, ngân hàng cần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ thẩm định về quy mô và chất lượng. Công tác thẩm định còn không nằm ngoài quy luật đó. Thực tế cho thấy, cường độ làm việc của cán bộ thẩm định ở ngân hàng công thương Ba Đình là khá căng thẳng. Tình trạng làm thêm ngoài giờ và làm việc trong các ngày nghỉ là phổ biến. Dẫn đến hạn chế các hoạt động tiếp xúc với khách hàng, hạn chế trong thu nhập thông tin về khách hàng và dự án. Để đảm bảo chất lượng thẩm định dự án, an toàn tín dụng, đủ nhân lực để đón bắt các cơ hội kinh doanh mới, việc tăng cường lực lượng cả về số lượng và chất lượng cán bộ thẩm định cần được coi là nhiệm vụ cấp thiết của ngân hàng công thương Ba Đình thời gian tới. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư, điều kiện kiên quyết và tất yếu là phải quan tâm đến đội ngũ cán bộ, nhân viên điều hành trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hoạt động thẩm định. Vai trò quan trọng của cán bộ tín dụng trong công tác thẩm định, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án đầu tư đòi hỏi phải có kiến thức tổng hợp về kinh tế thị trường, kinh doanh, về hoạt động Ngân hàng, quản lý tài chính tín dụng, trong đó có kiến thức chuyên sâu về tài chính Doanh nghiệp, tài chính dự án, có khả năng phân tích các chỉ tiêu, các chỉ số tài chính… để từ đó có thể xem xét, phân tích một cách toàn diện về dự án và đánh giá, kết luận về hiệu quả của dự án. Trên cơ sở hiểu biết cao, cán bộ thẩm định có thể đánh giá hiệu quả dự án một cách dễ dàng và chính xác hơn. Vì thế, để có được đội ngũ nhân viên đáp ứng được yêu cầu của công tác thẩm định, ngay từ khâu tuyển dụng cán bộ, Ngân hàng phải chú ý chỉ tuyển các cán bộ thực sự có năng lực, trình độ chuyên sâu. Muốn vậy, Ngân hàng cần có chính sách sắp xếp, sử dụng cán bộ hợp lý để thu hút những sinh viên giỏi của các trường kinh tế, tài chính, Ngân hàng, thương mại, kỹ thuật, pháp lý còn như những người có trình độ, năng lực, kinh nghiệm về tín dụng và thẩm định dự án để làm việc hoặc cộng tác với Ngân hàng. Đối với những cán bộ đáp ứng được yêu cầu của công việc, ngân hàng xây dựng một đội ngũ cán bộ thẩm định một đội ngũ chuyên viên giỏi làm nòng cốt cho hoạt động thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng và đội ngũ cán bộ này sẽ đảm nhận trách hiệm hướng dẫn, đào tạo đội ngũ cán bộ thẩm định trong ngân hàng. Ngân hàng cũng cần phải có chính sách ưu đãi cho cán bộ thẩm định để khuyến khích trách nhiệm ý thức và tinh thần vươn lên của mỗi cán bộ thẩm định. Ngân hàng cần có chính sách thu hút và ưu đãi các chuyên gia giỏi để thu hút đội ngũ này về làm việc cho ngân hàng hoặc mời làm cố vấn hoặc mời làm cộng tác viên cho hoạt động thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng có được chất lượng cao hơn nữa. Hàng năm ngân hàng thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn cho cán bộ thẩm định, ngân hàng mời chuyên gia về giảng dạy hoặc trực tiếp cử cán bộ thẩm định củ chốt, có năng lực theo học những khóa đào tạo chuyên ngành về dụ án và thẩm định dự án đầu tư trong nước và ngoài nước. Ngân hàng cũng nên tập hợp các sáng kiến, đề án nghiên cứu có giá trị phổ biến và áp dụng trong thực tế thẩm định dự án đầu tư. Đặc biệt ngân hàng cần phải có chính sách khuyến khích cán bộ tự đào tạo nâng cao trình độ như bố trí thời gian, trợ cấp học phí, tạo các điều kiện thuận lơi khác cho nhũng cán bộ thẩm định theo học các khóa đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ. Do đặc thù nghiệp vụ tín dụng rất phức tạp, lượng thông tin cần thiết để phân tích dự án rất lớn nên cán bộ thẩm định phải đi lại nhiều để gặp gỡ khách hàng, lấy thông tin từ các cơ quan, ban, nghành,… Vì vậy, Ngân hàng cần bố trí các phương tiện đi lại, giao dịch, hỗ trợ cung cấp điện thoại di động, máy tính xách tay… để tạo thuận lợi cho cán bộ thẩm định trong khi làm việc trong khi làm nhiệm vụ của mình. Với điều kiện cơ sở vật chất chưa cho phép cung cấp đầy đủ các phương tiện làm việc cho tất cả cán bộ tín dụng như hiện nay, trước mắt ưu tiên cấp cho lãnh đạo phòng hoặch cho một vài nhóm trong phòng thay nhau sử dụng. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần có quy định xử lý nghiêm khắc những trường hớp thiếu tinh thần trách nhiệm, gây lãng phí, thất thoát tài sản của ngân hàng. Trong quá trình công tác, hàng quý, hàng năm, Ngân hàng tổ chức buổi tổng kết hoạt động trong quý, năm, các buổi nói chuyện chuyên đề. Các cán bộ tín dụng, thẩm định sẽ nêu những vướng mắc gặp phải trong quá trình xét duyệt dự án, từ đó đúc kết kinh nghiệm. Như vậy, các cán bộ nhân viên có thể học hỏi lẫn nhau, nâng cao trình độ, khả năng nghề nghiệp, trau dồi kiến thức mới nhất về thị trường, về khách hàng và có điều kiện sâu sát thực tế. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn phổ biến những kiến thức mới nhất, chuyên sâu về thẩm định dự án. Đồng thời, đổi mới nội dung và phương thức đào tạo theo hướng: Đối với cán bộ thẩm định: nội dung đào tạo phải là những kiến thức cụ thể, chuyên sâu về nghiệp vụ thẩm định dự án, thẩm định khoản vay vốn và bảo lãnh TDH; Đối với lãnh đạo phụ trách thẩm định, nội dung đào tạo là các phương pháp rà soát, kiểm tra kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng; Đối với lãnh đạo phụ trách tín dụng, nội dung đào tạo là khả năng quyết định khoản vay, bảo lãnh với độ chính xác cao nhất. Ngoài ra, cần thường xuyên phổ cập kiến thức công nghệ thông tin ứng dụng trong lập và thẩm định dự án cho các cấp, đặc biệt là các cấp lãnh đạo. Tạo điều kiện thuận lợi và có chế độ để cán bộ được đi học tập, nghiên cứu dài hạn trong và ngoài nước, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các Ngân hàng có uy tín trong khu vực về thẩm định dự án. Ngân hàng nên tập trung khuyến khích sự năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ trẻ, vì đây là lực lượng sẽ có đóng góp lâu dài cho Ngân hàng. Ngoài khuyến khích vật chất, Ngân hàng có thể ưu tiên cử các cán bộ trẻ có nhiều đóng góp tích cực cho Ngân hàng đi dự các khoá đào tạo nghiệp vụ. Tuy nhiên, về phía các cán bộ thẩm định còn phải tự mình học tập, nghiên cứu, tự trang bị kiến thức cần thiết phù hợp với nghiệp vụ chuyên môn. Đồng thời, trau dồi đạo đức, gièn luyện tính trung thực, tinh thần trách nhiệm và kỷ luật cao. Một nội dung rất quan trọng nữa, đó là, cần gắn trách nhiệm vật chất với chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. Quá trình xét và ký duyệt các dự án đầu tư đều căn cứ trên tài liệu do cán bộ thẩm định chuẩn bị. Vì thế, để làm tốt công tác trong điều kiện cán bộ gặp nhiều khó khắn khách quan từ cơ chế chung, từ khách hàng, từ dự án, từ môi trường còn như các áp lực từ bên ngoài, cán bộ tín dụng phải chíu trách nhiệm trước một dự án mà mình giải quyết. Ngân hàng cần thấy được vai trò và vị trí của cán bộ thẩm định đối với chất lượng của các dự án đầu tư nói riêng để đảm bảo quyến lợi gắn liền với trách nhiệm, có chế độ khen thưởng kịp thời, kỷ luật nghiêm minh. 2.2.4- Hoàn thiện hệ thống thông tin thẩm định dự án: Thông tin chính là cơ sở để cán bộ thẩm định tiến hành các bước phân tích, đánh giá, thẩm định dự án đầu tư. Thông tin đầy đủ, nhiều chiều với độ tin cậy cao là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới kết quả thẩm định đạt chất lượng. Đối với công tác thẩm định dự án, thông tin bao gồm nhiều loại như: Thị trường tiêu thụ sản phẩm, giá cả yếu tố đầu vào của quá trình đầu tư xây dựng cơ bản và quá trình sản xuất kinh doanh, thông tin về công nghệ, về trình độ quản lý, trình độ sản xuất của chủ đầu tư… Việc hoàn thiện hệ thống thông tin đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa Ngân hàng và các ngành có liên quan. Ngân hàng Nhà nước với chức năng là Ngân hàng của các Ngân hàng phải tạo được một hệ thống thông tin phong phú, đầy đủ chính xác để cung cấp cho các NHTM và ngược lại, các NHTM phải cung cấp cho NHNN những thông tin mới nhất về khách hàng của mình để NHNN tổng hợp, sử dụng phục vụ chế độ thông tin báo cáo và giúp các NHNN có thông tin khi cần thiết. Ngân hàng công thương Ba Đình cần phải nâng cao chất lượng và số lượng thông tin phục vụ công tác thẩm định bằng cách hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ, tạo ra nguồn thông tin xuyên suốt trong toàn hệ thống Ngân hàng. Thông qua việc tổ chức dữ liệu trên cơ sở các chỉ tiêu thẩm định đã được chuẩn hoá, cung cấp thông tin và các báo cáo ngược lại trên mạng Online cho tất cả các phòng, ban tại chi nhánh. Đồng thời, xây dựng trang Web cung cấp thông tin tín dụng điện tử trực tuyến cho toàn hệ thống ngân hàng công thương Ba Đình bao gồm: Thông tin kinh tế, thị trường, pháp luật, thông tin tổng hợp định kỳ, thông tin hoạt động tín dụng của khách hàng… Hơn nữa, cần xây dựng hệ thống các ứng dụng hỗ trợ các cấp trong quản lý và điều hành kinh doanh của ngân hàng trong việc tận dụng, chia sẻ các nguồn thông tin vốn có trong nội tại Ngân hàng còn như những nguồn thông tin khác. Từ đó, hình thành kho dữ liệu về chủng loại hàng hoá, khách hàng, đáp ứng các yêu cầu: - Phản ánh được tính đặc thù của ngành hàng và khách hàng trong nền kinh tế và đối với việc thay vốn của ngân hàng. - Phản ánh được thực trạng của ngành hàng, khách hàng về hoạt động kinh doanh, tài chính. - Những ảnh hưởng của cơ chế, chính sách và triển vọng phát triển của ngành hàng, khách hàng. Ngoài ra cần thu thập các thông tin về các công ty, doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ phá sản và các cá nhân lãnh đạo các công ty bị phá sản. Thu nhập và tổng hợp các thông tin, Ngân hàng cần chú ý khai thác các nguồn sau: Thông tin thu nhập được từ doanh nghiệp vay vốn: Thông thường, cán bộ tín dụng căn cứ vào báo cáo tài chính để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn, song rất khó xác định độ tin cậy của các báo cáo tài chính đó. Do yêu cầu về độ chính xác của thông tin trong công tác thẩm định tài chính, cán bộ thẩm định cần kết hợp điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng với việc xác định độ tin cậy của các báo cáo tài chính. Ngoài ra, có thể thu nhập thông tin thông qua pháng vấn khách hàng vay vốn. Nguồn thông tin này khá quan trọng, nếu biết cách khai thác và tận dụng nó, cán bộ thẩm định có thể thu được kết quả khả quan. Thông tin thu thập được từ các nguồn khác: Bên cạnh những thông tin có được do doanh nghiệp vay vốn cung cấp, cán bộ thẩm định có thể khai thác được nhiều thông tin từ Ngân hàng có quan hệ giao dịch với khách hàng, thông tin từ doanh nghiệp cung cấp và tiêu thụ, từ các Công ty kiểm toán, từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN hoặc từ Trung tâm công nghệ thông tin của ngân hàng công thương. Hiện nay mạng thông tin tín dụng CIC của NHNN có thể cung cấp khá đầy đủ thông tin về tình hình quan hệ tín dụng của từng khách hàng với các thẩm định dễ dàng truy cập, sử dụng đánh giá thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án. Ngân hàng cần phân tích và dự báo chính xác xu hướng diễn biến về thị trường các loại sản phẩm, hàng hoá quan trọng trên thị trường thế giới và thị trường trong nước của các dự án lớn chuẩn bị đầu tư. Trong phần thẩm định kỹ thuật- công nghệ dự án, cán bộ thẩm định của ngân hàng công thương Ba Đình thường dựa vào các số liệu của dự án để đánh giá, điều này làm nhiều dự án không phản ánh đúng hiệu quả thực. Vì thế, ngoài việc tăng cường cán bộ am hiểu về kỹ thuật, công nghệ, các dự án quy mô lớn, phức tạp nên có sự phối hợp thẩm định của các chuyên gia. Về thẩm định tổng chi phí đầu tư và cơ cấu nguồn vốn: Ngân hàng không nên chỉ dựa vào hồ sơ mà chủ dự án đã đệ trình hoặc căn cứ hoàn toàn vào kết quả phê duyệt của các cơ quan nhà nước. Cần tham khảo thông tin từ những dự án trong lĩnh vực tương tự đã và đang đi vào hoạt động, từ đó phân tích, đánh giá tính hợp lý của cơ cấu tổng chi phí đầu tư của dự án. Trong tính toán doanh thu, chi phí, luồng tiền dự án: Để tránh tình trạng một số cán bộ thẩm định không đánh giá đúng hiệu quả dự án do tính toán giá bán sản phẩm, giá nguyên vật liệu,… cố định trong cả đời dự án. Ngân hàng cần quan tâm tới những yếu tố thường xuyên biến động và có ảnh hưởng đến doanh thu, chi phí như lạm phát, tỉ giá, biến động thị trường, tính ổn định của nguồn nguyên liệu, nhà cung cấp… Cần kiểm tra lại các số liệu để xác định mức độ tin cậy của nó, có thể xem xét đơn giá trong dự án với giá cả thị trường hiện hành, xem xét sản lượng tiêu thụ so với mức tiêu thụ hịên tại và năng lực cung cấp của đơn vị đang hoạt động, xem xét lại quy mô đầu tư và các giải pháp đầu tư đứng trên quan điểm cân đối giữa tính năng của thiết bị và vốn đầu tư. Ngoài ra còn cần xem xét giữa quy mô đầu tư với khả năng huy động vốn, có nhiều dự án không thể triển khai được do người lập mải mê chọn lựa các giải pháp hiện đại, quy mô lớn mà không cần biết đến khả năng tài chính đầu tư cho dự án. Trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án, để áp dụng một cách có hiệu quả các phương pháp thẩm định hiện đại, Ngân hàng phải tìm ra được các hạn chế của chỉ tiêu thẩm định cũ, các lợi thế của các chỉ tiêu mới để từ đó chuẩn hoá phương pháp thẩm định dự án và xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích, đánh giá dự án. Ngân hàng công thương Ba Đình cần chú ý tới việc hoàn chỉnh quy chế, quy trình hoạt động thẩm định để đưa vào áp dụng tại ngân hàng. Một trong những giải pháp quan trọng và cụ thể là cán bộ Ngân hàng phải tuân thủ nghiêm túc các quy chế, quy trình thẩm định đã được xây dựng và thực hiện đồng bộ thống nhất những chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả dự án. Đối với các dự án cho vay thương mại không có sự can thiệp của chính phủ (Ngân hàng cho vay trực tiếp), khi thẩm định phải chú ý tới các chỉ tiêu NOV, IRR, thời gian hoàn vốn, quan tâm đến giá trị theo thời gian của tiền và cần chú ý tới các nguyên tắc: - Chỉ cho vay các dự án NPV >0, IRR > IRRđm - Chọn dự án đầu tư có NPVmax Sử dụng chỉ tiêu NPV đê đánh giá hiệu quả của dự án cần chú trọng tới việc lựa chọn tỉ lệ chiết khấu cho phù hợp: Với dự án mà vốn tự có chiếm ưu thế thì tỉ lệ chiết khấu nên lấy bằng lãi suất cho vay là tối thiểu (chi phí cơ hội). Với dự án mà vốn tự có nhỏ hay những dự án không cho vay theo kế hoạch Nhà nước thì tỉ lệ chiết khấu thường là lãi suất trái phiếu kho bạc Nhà nước cộng thêm một phần bù rủi ro tương ứng trong lĩnh vực, ngành nghề của dự án. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trên thế giới trong việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam, thị trường tài chính chưa hoàn toàn phát triển, lãi suất trái phiếu kho bạc không phải là mức lãi suất thấp nhất trên thị trường vốn nên chưa phản ánh chính xác chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Hơn nữa, xác định mức độ rủi ro của từng lĩnh vực, ngành, nghề lại không đơn giản. Vì vậy, với dự án có tỉ lệ vốn vay cao, Ngân hàng nên chon tỉ lệ chiết khấu là lãi xuất cho vay dự kiến được điều chỉnh tăng một tỉ lệ phần trăm nhất định dự phòng rủi ro. Nếu lãi suất của các nguồn vốn khác nhau, có thể lấy lãi suất bình quân gia quyền của các lãi suất vay. Về cách tính dòng tiền: Cần phải tính toán cho cả đời dự án mà không chỉ tính cho đến lúc dự án trả hết nợ Ngân hàng. Bởi vì, khi tính toán dòng tiền trả nợ là tính trong tương lai, nếu dự án không có hiệu quả trong cả đời dự án thì sự tồn tại của dự án đến khi Ngân hàng thu hết nợ là không chắc chắn. Về thời gian hoạt động: Trong một dự án đầu tư, chủ đầu tư có thể đưa ra một số phương án có thời gian hoạt động khác nhau. Để so sánh và phân tích, Ngân hàng sẽ chọn thời gian hoạt động của dự án là bội số chung nhỏ nhất của các phương án và đưa về so sánh các phương án có thời gian hoạt động bằng nhau. Đối với các dự án đầu tư mà không xác định trước thời gian hoạt động thì Ngân hàng sẽ lấy thời gian khấu hao phần thiết bị chính để sử dụng làm thời gian hoạt động của dự án. Trong tổng vốn đầu tư mà các cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt cho dự án có khoản lãi vay trong quá trình xây dựng. Khoản lãi vay này là cố định, nhưng thực tế các khoản đầu tư cho dự án của Ngân hàng đều có khả năng không trả nợ đúng thời hạn do nguồn thu của dự án phụ thuộc nhiêu vào thời điểm thuê đất, do vậy lãi phải trả Ngân hàng của dự án sẽ tăng lên so với dự kiến ban đầu. Mặt khác, nếu tổng vốn đầu tư trong dự án phê duyệt được tính bằng ngoại tệ thì khi Ngân hàng cho vay bằng đồng nội tệ (trừ khoản vay tài trợ xuất nhập khẩu) thì ảnh hưởng của sự biến động tỉ giá trong quá trình cho vay và đầu tư là không thể tránh khỏi. Điều này còn ảnh hưởng tới thời gian trả nợ dự án. Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân trong quá trình cho vay đầu tư ảnh hưởng đến nguồn trả nợ và thời gian trả nợ của dự án. Do đó, trong quá trình thẩm định dự án, Ngân hàng phải chú trọng vấn đề này. Việc thẩm định dự án một cách khách quan, khoa học và toàn diện sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng đầu tư vào những dự án có hiệu quả, thu hồi được nợ khi đến hạn, sử dụng hợp lý nguồn vốn vào việc kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Về phân tích rủi ro của dự án: Thực chất của phân tích rủi ro dự án đầu tư chính là việc đánh giá hiệu quả của dự án trong trạng thái động, găn liền với những biến động bất lợi có thể sảy ra từ thị trường, thiên nhiên, chính sách vĩ mô, yếu tố bên ngoài… Qua đó, giúp Ngân hàng có thể lường trước các rủi ro và có biện pháp phòng ngừa thích hợp. Trong phân tích rủi ro của dự án đầu tư tại ngân hàng công thương Ba Đình chưa chú trọng đến đánh giá độ an toàn của dự án khi xảy ra các tình huống sau: Tình huống 1: Nhiều tình huống thay đổi (tốt, khá, trung bình, xấu) ứng với mức thay đổi (tăng, giảm) của những yếu tố nào đó trong dự án (chi phí đầu tư, giá bán… ). Với tình huống này, cần phân tích dự án theo trình tự sau: - Xác định các yếu tố có thể xảy ra biến động trong tương lai. - Xác định những tình huống có thể sảy ra đối với từng yếu tố. - ứng với mỗi tình huống, xác định mức thay đổi của từng yếu tố. - Tính toán lại các chỉ tiêu hiệu quả: NPV, IRR, B/C,… ứng với các giá trị mới của từng yếu tố khi xảy ra từng tình huống. - Tính NPV, IRR, B/C,… bình quân, max, min của dự án. Từ đó đưa ra nhận xét về hiệu quả của dự án. So với cách tính toán thông thường, cách tổ chức tính toán cho kịch bản trên sẽ mất rất nhiều công sức. Tuy nhiên, thông qua việc sử dụng kiến thức xác suất thống kê, các hàm và một số chức năng của Excel thì việc tính toán sẽ đơn giản hơn rất nhiều. Tình huống 2: Dự đoán dòng tiền của dự án thay đổi ứng với những xác suất nhất định. Trường hợp này cần phân tích theo trình tự sau: - Lựa chọn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của dự án để phân tích. - Tính toán chỉ tiêu đã lựa chọn theo các dòng tiền. - Gắn cho mỗi giá trị của chỉ tiêu đó những xác suất tương ứng. - Tính toán giá trị kỳ vọng và xác định độ lệch chuẩn của chỉ tiêu. - Phân tích phân phối xác suất của chỉ tiêu được chọn. Ví dụ: Đánh giá hiệu quả của dự án theo chỉ tiêu NPV khi dự đoán có n dòng tiền tệ ứng với n xác suất (tổng của các xác suất luôn bằng 1). Ta tính các giá trị của chỉ tiêu NPV ứng với các dòng tiền tệ. Khi đó, giá trị kỳ vọng của NPV của dự án là: Độ lệch chuẩn: Trong đó: n là số phương án NPVi : Giá trị NPV tại dòng tiền i Pi : Xác suất xảy ra dòng tiền i - Phân tích phân phối xác suất của chỉ tiêu được chon: Giả sử NPV tuân theo quy luật phân bố chuẩn tới kỳ vọng toán độ lệch chuẩn - Khi đó xác suất để NPV lớn hơn hoặc nhỏ hơn số x nào đó được xác định như sau: Với kết quả tính toán được cho ta thấy cái nhìn tổng thể và động về việc phân tích và thẩm định dự án. Từ đó, cho ra một sự ước lượng rất định lượng về tính khả thi của dự án và cho thấy các biến số rủi ro cần lưu ý trong quá trình thực hiện dự án. Phương pháp này tuỳ có độ chính xác cao nhưng cần phải có cơ sở dữ liệu phong phú để xác định được xác suất xảy ra và có phương tiện kỹ thuật để tính toán. Đây là phương pháp rất hiệu quả trong đánh giá độ rủi ro của dự án. Kết luận. Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đó từng bước ổn định và đang trên đường phát triển. Cùng với sự đi lên của nền kinh tế Việt Nam ngân hàng Công thương đã từng bước hoàn thiện và hiện đại hoá cơ sở vật chất, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ để hoà nhập vào sự đổi mới của đất nước. Xác định đúng đắn vai trò quan trọng của hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Ban lãnh đạo Ngân hàng Công thương Ba Đình đã chỉ đạo và cùng các phòng ban trong chi nhánh tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh ngày càng đạt hiệu quả cao. Sau thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Ba Đình và được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn, cô Nguyễn Bạch Nguyệt, anh Tuệ và các anh chị phòng khách hàng số II em đã hoàn thành chuyên đề với đề tài “ Thẩm định tài chính dự án vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình”. Có thể nói, sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và được viết về chuyên đề “ Thẩm định tài chính dự án vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình” em đã một lần nữa tìm hiểu sâu thêm về phương pháp thẩm định dự án đầu tư, với kiến thức rất còn hạn hẹp so với sự phát triển của ngành Ngân hàng nói chung và công tác thẩm định nói riêng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta chưa thích ứng với những phương pháp thẩm định tiên tiến, nhưng không vì vậy mà bỏ qua phương pháp thẩm định đó mà cần thiết phải nắm vững nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra. Tài liệu tham khảo Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2005 của ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 của ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 của ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2008 của ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình. Sổ tay tín dụng của ngân hàng công thương. Trang web: Thời báo kinh tế Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21756.doc
Tài liệu liên quan