Trên đây là những kiến thức sơ lược về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam là hết sức cần thiết để thực hiện các mục tiêu đã đề ra cho sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiến hành vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Đảng và nhà nước cần có những giải pháp hỗ trợ cũng như sự góp sức của tất cả các ngành, các cấp cũng như sự ủng hộ của nhân dân.
Các chính sách, giải pháp cần phải được thực hiện một cách đồng bộ và linh hoạt. song điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần phải lựa chọng được một mô hình thị trường chứng khoán thích hợp với Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay.
37 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thị trường chứng khoán và các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ống đăng ký, thanh toán, bù trừ và lưu ký chứng khoán
Công ty chứng khoán
SGDCK
Nhà đầu tư có tổ chức
OTC
Thị trường thứ ba
Nhà đầu tư các nhân
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là hai bánh xe của một chiếc xe.thị trương sơ cấp là bánh động lực còn thị trường thứ cấp là bánh cân bằng.Như vậy thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ nội tạI, trong đó thịtrường sơ cấp là tiền đề còn thị trường thứ cấp là động lực.
Xét về phương diện tổ chức và giao dịch ,TTCK có ba loại:
Thị trường chứng khoán tập trung:là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán.
Thị trường chứng khoán bán tập trung: là thị trường CK “bậc cao”. Thị trường chứng khoán bán tập trung (OTC) không có trung tâm giao dịch mà giao dịch mua bán chứng khoán thông qua mạng lưới điện tín, điện thoại. Một điều rất quan trọng là các nhà đầu tư trên thị trường OTC không trực tiếp gặp nhau để thoả thuận mua bán chứng khoán như trong phòng giao dịch của SGDCK, thay vào đó họ thuê các công ty môi giới giao dịch hộ thông qua hệ thống viễn thông.
Các công ty chứng khoán trên thị trường OTC có mặt ở khắp nơi trên đất nước, mỗi công ty chuyên kinh doanh buôn bán một số loại chứng khoán nhất định. Các công ty chứng khoán giao dịch mua bán chứng khoán cho mình và cho khách hàng thông qua việc giao dịch với các nhà tạo thị trường về các loại chứng khoán đó. Các công ty cũng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như: giao dịch mua bán cho chính mình, môi giới mua bán cho khách hàng, dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh phát hành. Các chứng khoán mua bán trên thị trường OTC cũng phải được niêm yết công khai cho công chúng biết để có quyết định đầu tư. Các chứng khoán được niêm yết trên thị trường OTC tương đối dễ dàng, các điều kiện niêm yết không quá nghiêm ngặt. Như vậy, hầu như tất cả các chứng khoán không được niêm yết trên SGDCK đều được giao dịch ở đây. Các chứng khán buôn bán trên thị trường OTC thường có mức độ tín nhiệm thấp hơn các chứng khoán được niêm yết trên SGDCK. Song, do thị trường nằm rải rác ở khắp các nơi nên độ lớn của thị trường khó có thể xác định chính xác được, thông thường khối lượng buôn bán chứng khoán trên thị trường này là lớn hơn SGDCK. Từ điều kiện niêm yết thông thoáng hơn mà chứng khoán của các công ty được buôn bán trên thị trường này nhiều hơn, thậm chí một số chứng khoán được niêm yết trên SGDCK cũng được mua bán ở thị trường này.
Hoạt động giao dịch buôn bán chứng khán trên thị trường OTC cũng diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số lượng chứng khoán nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh ra cho công ty chứng khoán đang quản lý tài sản của mình yêu cầu thực hiện giao dịch hộ mình. Thông qua hệ thống viễn thông, công ty môi giới- giao dịch sẽ liên hệ tới tất cả các nhà tạo thị trường của loại chứng khoán này để biết được giá chà bán thấp nhất của loại chứng khán đó. Sau đó công ty này sẽ thông báo lại cho khách hàng của mình và nếu khách hàng chấp thuận, thì công ty sẽ thực hiện lệnh này và giao dịch của khách hàng sẽ được thực hiện.
Thị trưòng chứng khoán phi tập trung: còn gọi là thị trường thứ ba. Hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện tự do.
2. Chức năng của TTCK
2.1.Chức năng thứ nhất :Huy động vốn cho nền kinh tế
Thị trường chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền người thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu và qua đó để huy động vón cho nền kinh tế, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, ổn định đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Thông qua thị trường CK,chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.Thị trường chứng khoán đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế. Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô hoạt động của từng thị trường chứng khoán. Chẳng hạn, những TTCK lớn như Luân Đôn, Niu óc , Paris, Tokyo,... thì phạm vi ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia vì đây là những TTCK từ lâu được xếp vào loại hoạt động có tầm cơ quốc tế. Cho nên biến động của thị trường tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế của bản thân nước sở tại, mà còn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán nước khác.
2.2. Chức năng thứ hai: thông tin
Thị trường chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời ( cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán ) về tình hình cung - cầu, thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị trường chứng khoán hữu quan.
2.3. Chức năng thứ ba: cung cấp khả năng thanh khoản
Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi thành tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quảvà năng động.
2.4 Chức năng thứ tư:đánh giá giá trị doanh nghiệp
Thị trường chứng khoán là nơI đánh giá chính xác doanh nghiệp thông qua chỉ số chứng khoán trên thị trường .Việc này kích các doanh nhgiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,kích thích áp dụng công ngệ mới.
2.5 chức năng thứ năm: tạo môI trường để chính phủ thực hiện chính vĩ mô
Chính phủ có thẻ mua bán tráI phiếu chính phủ đẻ toạ ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát.ngoàI ra chính có thể sử dụng các chính sách tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư .
3. Những mặt tích cực và tiêu cực
3.1. Những mặt tích cực:
3.1.1. Khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào công cuộc đầu tư:
Muốn phát triển thì phải đầu tư. Đầu tư, bất cứ một doanh nghiệp nào, dù là khu vực Nhà nước hay khu vực tư nhân cùng đều có hai giải pháp cơ bản:
Bản thân doanh nghiệp tự tích lũy để đầu tư qua phân bổ lợi nhuận. Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được ở những doanh nghiệp hiện hữu, kinh doanh có hiệu quả, có lãi.
Biện pháp thứ hai là huy động vốn từ bên ngoài, chủ yếu bằng hai nguồn vốn: vay tín dụng trung và dài hạn của các tổ chức tài chính, tín dụng và phát hành cổ phiếu,trái phiếu. Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được khi dân chúng có nguồn tiết kiệm dồi dào, và ý thức cũng như phong trào tiết kiệm trong dân chúng tốt.
Có thị trường chứng khoán số vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ được thu hút vào công cuộc đầu tư. Vốn đầu tư sẽ sinh lời, càng kích thích ý thức tiết kiệm trong dân chúng.
3.1.2. Giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của Nhà nước. Bất cứ Nhà nước nào cũng phải có ngân sánh. Ngân sánh Nhà nước càng lớn thì chương trình phát triển kinh tế xã hội càng dễ dàng thành công.
Để có vốn cho chi tiêu, Nhà nước phải thực hiện chính sách thuế. Thuế là biện pháp quan trọng nhất để tạo ngân sách Nhà nước. Nhưng, thông thường thuế không đủ cho chi tiêu, do đó phải có một nguồn thu khác, đó là trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương. Một hình thức Nhà nước vay tiền của dân.
3.1.3. Thị trường chứng khoán là công cụ giảm áp lực lạm phát
3.1.4. Thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư từ nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những nước đang phát triển. Chúng ta ai cũng có thể nhận ra rằng vốn đầu tư trong nước (dù có huy động tối đa nguồn tiết kiệm của dân chúng) cũng chỉ có giới hạn. Do vậy phải có vốn đầu tư từ nước ngoài. Trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài có nhiều chính sách và biện pháp có thể thực hiện ở nước ta.
3.1.5. Thị trường chứng khoán lưu động hóa mọi nguồn vốn trong nước
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn dầu tư được mua đi bán lại trên TTCK như một thứ hàng hóa. Người có vốn (có cổ phiếu, trái phiếu...) không sợ vốn của mình bị bất động tức là không sợ bị “chôn” tại nơi mà mình không thể lấy ra được khi không vừa ý. Vì khi cần, họ sẽ bán lại các cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK để mua lại cổ phiếu, trái phiếu khác. Nhờ vậy, sinh hoạt kinh tế thêm sôi động.
3.1.6. Thị trường chứng khoán là điều kiện tiên đề cho quá trình cổ phần hóa
Cổ phần hóa là quá trình chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Nó đòi hỏi phải có TTCK. Bởi vì TTCK và công ty cổ phần như hình với bóng. Chỉ có thông qua TTCK thì Nhà nước mới có thể thực hiện cổ phần hóa đối với bất cứ loại doanh nghiệp nào, dù doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi hay thua lỗ. Vì TTCK là nơi tập trung được toàn bộ quan hệ cung cầu về vốn, là nơi tập trung các nhà đầu tư. Do vậy, có thể nói TTCK là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hóa.
3.1.7. Thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng hơn
Nhờ TTCK, các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành các cổ phiếu, trái phiếu của họ. Với sự tự do lựa chọn của người mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu, không có cách nào khác hơn là nhà quản lí các doanh nghiệp phải tính toán, làm ăn đàng hoàng hơn và có hiệu quả hơn.
3.2. Những mặt tiêu cực:
3.2.1.Yếu tố đầu cơ: Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Yếu tố này dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo.
3.2.2. Mua bán nội gián: Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm được những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình ảnh hưởng đến giá của cổ phiếu đó trên thị trường.
3.2.3. Mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán: Luật về TTCK cũng hạn chế những nhà môi giới mua bán cổ phiếu ngoài TTCK. Vì nếu để việc mua bán này được tự do thực hiện sẽ gây hậu quả khôn lường.
3.2.4. Tin đồn thất thiệt: Việc phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc về hoạt động của một đơn vị kinh tế sẽ gây hậu quả xấu cho đơn vị. Đây là điều cấm trong hoạt động của TTCK.
3.2.5. Mua bán liên tục nhằm đầu cơ: Liên tục mua một loại cổ phiếu nào đó ở giá cao và bán ra ở giá thấp với mục tiêu làm ảnh hưởng đến giá cổ phiếu để đầu cơ.
4. Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán
Các đối tượng tham gia thị trường CK chia thành các nhóm:nhà phát hành,nhà đầu và các tổ chức có liên quan.
4.1. Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là chính phủ, chính quyền địa phương, công ty, hay các tổ chức tài chính.
4.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư có thể chia làn hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
4.2.1. Các nhà đầu tư các nhân
Nhà đầu tư các nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy, các nhà đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình.
4.2.2. Các nhà đầu tư có tổ chức
Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn và có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông qua các tổ chức này có ưu điểm là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho mình.
4.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán
4.3.1. Công ty chứng khoán
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
4.3.2. Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán nhưng chỉ được trong giới hạn rất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán.
4.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
4.4.1. Cơ quan quản lý nhà nước
Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán. cơ quan này có những tên gọi khác nhau tuỳ từng nước. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB- Securities Investment Board), tại Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) hay ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (ESC - Exchange Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992 và đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency. Và ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị địng số 75/CP ngày 28/11/1996.
4.4.2. Sở giao dịch chứng khoán
Hiện nay trên thế giới có ba hình thức tổ chức SGDCK:
Thứ nhất: SGDCK được tổ chức dưới hình thức “câu lạc bộ mini” hay được tổ chức theo chế độ hội viên. Đây là hình thức tổ chức SGDCK có tính chất tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của sgdck tự tổ chức và tự quản lý SGDCK theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các thành viên của SGDCK bầu ra hội đồng quản trị để quản lý và hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành.
Thứ hai: SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên. SGDCK tổ chức dưới hình thức này hoạt động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng chứng khoán do chính phủ lập ra.
Thứ ba: SGDCK được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành SGDCK do ủy ban chứng khoán bổ nhiệm.
Thành viên của SGDCK có thể là cá nhân hoặc các công ty chứng khoán (còn gọi là công ty môi giới chứng khoán). Để trở thành thành viên của một SGDCK, công ty phải được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động, phải có số vốn tối thiểu theo quy định và có những chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán, ngoài ra công ty còn phải thoả mãn yêu cầu của từng sở giao dịch riêng biệt. Một công ty chứng khoán có thể là thành viên của hai hay nhiều SGDCK,nhưng khi đã là thành viên của SGDCK (thị trường chứng khoán tập trung) thì không được là thành viên của thị trường phi tập trung (thị trường OTC) và ngược lại.
Để cho các giao dịch diễn ra công bằng, đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư, SGDCK có bộ phận chuyên theo dõi, giám sát các hoạt động giao dịch buôn bán chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao dịch như là gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch có giàn xếp trước. Bộ phận giám sát tiến hành theo dõi dưới hai hình thức là theo dõi thường xuyên hoặc theo dõi định kì. Khi phát hiện có vi phạm thì xử lý nghiêm minh, nếu đặc biệt nghiêm trọng thì trình lên Uỷ ban chứng khoán để điều tra xử lý.
4.4.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau:
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán.
- Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.
4.4.4. Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán
Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ.
4.4.5. Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm
Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên đưa ra các đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ số tín nhiệm.
Phần hai - Thị trường chứng khoán việt nam
I. Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam
Để tiến hành CNH, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền, Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầy đủ. Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình CNH, HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 - 9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40 - 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500 - 600 tỉ USD.
Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn vốn nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau:
- Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài chính có chức năng phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia.
- Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những ngành, những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả thông qua sự định hướng của thị trường vốn.
- Một thị trường chứng khoán hoạt động tốt sẽ cung cấp những dự báo chính xác về chu kỳ kinh doanh trong tương lai, giúp nhà nước hoạch định các chính sách thích hợp.
- Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ dàng.
II Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam
1.Thuận lợi
Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đnag phát triển với một tốc độ khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã được thành lập. Đây là hạt nhân cơ bản, quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán.
Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của Đảng và nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn của nước ta trong thời kỳ tới rất cao như đã nói ở phần trên. Để đạt được mục tiêu tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu vốn của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ 2000-2010 là 543,5 tỷ USD.
Nước ta là một nước đang phát triển, tài nguyên chưa được thăm dò và khai thác đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà lâu nay Việt Nam mới chú trọng khai thác theo hướng đầu tư trực tiếp (FDI) mà chưa chú trọng theo hướng đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán.
Trong vòng 12 năm qua, giá vàng liên tục sụt giảm và yếu tố tâm lý giữ vàng của nhân dân không còn như trước. Do vậy, người ta thường dùng tiền để gửi tiền tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu...
2. Khó khăn
Tuy nhiên, những thuận lợi đã có, những khó khăn vẫn còn nhiều, và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành TTCK ở Việt Nam. Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng “làm đồng nào xào đồng ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay trong cả một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về TTCK cho đến nay vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn dự thảo. Tình hình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước còn chậm, số lượng đã cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đặt ra. Các công ty cổ phần đã được thành lập còn quá ít và phần lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các “hàng hoá” cần thiết, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức và các công ty chứng khoán và có uy tín hàng đầu thế giới, chúng ta đã ban hành được 2 văn bản pháp quy quan trọng là Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 và Quyết định 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của TTCK, cũng như đào tạo được nhiều cán bộ dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm phục vụ cho sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán Việt nam, tuy nhiên lượng cán bộ đã được đào tạo vừa qua vẫn chưa đủ về số lượng và do chưa có TTCK nên chất lượng chưa được kiểm chứng.
Từ thực trạng và những thuận lợi trên đòi hỏi chúng ta cần phải chuẩn bị mọi mặt chu đáo hơn nữa, tạo ra những điều kiện tiền đề thật hoàn chỉnh để sớm cho ra đời hoạt động của TTCK Việt nam. Đây là đòi hỏi vô cùng bức xúc, khách quan cho công tác huy động nguồn lực về vốn cho nền kinh tế đất nước, phục vụ cho chủ trương CNH-HĐH mà Đảng, nhà nước đã đề ra.
III. Các giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam
A. Cổ phần hoá doanh nghiệp
1. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng
Những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực lớn nhất, đầu tiên trong việc tiến hành CPH ở bất cứ một DNNN nào. Do đó, giải đáp những thắc mắc cho CBCNV trong DN cũng như những người có liên quan phải được coi là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên cần làm, và nên làm trước khi công việc CPH được tiến hành.
Bởi vì chủ trương CPH ở nước ta hiên nay là ưu tiên cho CBCNV trong DN cho nên đối tượng đầu tiên cần được phổ biến chính là họ. Việc phổ biến chủ trương theo chúng tôi cần phải đạt được những yêu cầu tối thiểu sau:
- CBCNV trong DN phải ý thức một rõ ràng CPH là một yêu cầu tất yếu khách quan, không sớm thì muộn cũng phải thực hiện. Trong giai đoạn này, tiến hành càng sớm thì DN càng được lợi do Nhà nước vẫn còn dành rất nhiều ưu đãi cho các DNNN tiến hành CPH. Kinh nghiệm của các DN đi trước đã được đúc kết tương đối đầy đủ. Hơn nữa CPH sớm sẽ giúp cho DN có điều kiện hơn trong việc ổn định tổ chức SXKD, chuẩn bị tốt hơn cho việc cạnh tranh khốc liệt trong tương lai khi chúng ta tham gia AFTA. Trông chờ, ỷ lại lúc này chính là con đường ngắn nhất dẫn đến chỗ phá sản.
- Họ cũng cần hiểu rằng, CPH trước hết là vì lợi ích của các DN, của CBCNV của DN. Sau khi trở thành CTCP, họ sẽ được hoàn toàn độc lập tự chủ trong SXKD, song tất nhiên họ cũng phải biết tự mình chống đỡ với những cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường. Đây là điều không thể tránh khỏi. Nhưng đây cũng là cơ hội để cho những người có thực lực, thực tài, những DN thực mạnh vươn lên tự khẳng định mình. Còn đối với những DN yếu, những người thiếu năng lực, trình độ thì cũng phải nhận ra một điều là đã đến lúc họ phải thay đổi, phải tự vươn lên hoàn thiện mình nếu không họ sẽ bị đào thải theo qui luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
- Phải làm rõ cho người lao động hiểu những lợi ích mà họ được hưởng khi DN của họ tiến hành CPH. Song cũng đồng thời phải làm cho họ hiểu rõ cả những trách nhiệm mà họ sẽ phải gánh vác, những rủi ro có thể xảy ra để họ có cái nhìn đầy đủ toàn diện, làm cơ sở cho nỗ lực quyết tâm của họ.
- Ngoài ra một vấn đề nữa cần lưu tâm giải thích là vấn đề phân định rạch ròi giữa quyền của một cổ đông với quyền của một người lao động trong DN, tránh để rơi vào tình trạng CBCNV mua cổ đông để giữ vị trí, giữ công việc. Và cũng tránh để xảy ra những rắc rối khi DNCP cần phải sắp xếp lại nhân sự sau này.
Để hỗ trợ việc tuyên truyền các mục tiêu trên thì đài, báo, vô tuyến truyền hình là những phương tiện hết sức đắc lực. Tuy nhiên để công tác tuyên truyền thực sự đi sâu, đi sát với CBCNV thì cần phải có nhiều biện pháp khác, sát sườn hơn. ở đây chúng tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm mà nhiều DN đã áp dụng tốt. Đó là việc cung cấp cho CBCNV trong DN những văn bản, có nội dung liên quan trực tiếp đến chủ trương CPH. Sau đó tổ chức các buổi nói chuyện có mời các chuyên gia giỏi về nhằm giải đáp những thắc mắc của họ đồng thời cũng tạo điều kiện cho họ được đóng góp ý kiến tham gia việc xây dựng đề án CPH... Ngoài ra, để công tác phổ biến, tuyên truyền được đều đặn và kịp thời, theo chúng tôi, các cơ quan có chức năng nên tổ chức các lớp tập huấn cho những cán bộ chủ chốt trong DN như Giám đốc, lãnh đạo Đảng, lãnh đạo công đoàn trong DN. Ngoài việc phát huy vai trò lãnh đạo tư tưởng của tổ chức Đảng trong DN cần có một cơ quan thường trực bao gồm những người có uy tín, nắm vững chủ trương của Đảng và Nhà nước để giải đáp những thắc mắc cho CBCNV đồng thời tiếp thu những ý kiến của họ phản ánh lên cơ quan cấp trên. Cơ quan này nên là một bộ phận của tổ chức công đoàn tại DN.
Đối với các cổ đông tiềm năng bên ngoài DN thì không có biện pháp tuyên truyền nào hiệu quả bằng các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là những tờ báo có uy tín cũng như đài phát thanh và truyền hình TW. Chương trình thời sự cũng như các bộ phim, những câu chuyện truyền thanh là những chương trình mà theo chúng tôi thu hút được rất nhiều khán thính giả. Việc đưa tin về các CTCP làm ăn có hiệu quả, những buổi phỏng vấn trực tiếp trên đài truyền thanh, truyền hình về chủ trương CPH; những bộ phim hay, thiết thực về CPH chắc chắn sẽ đóng góp rất nhiều cho việc tuyên truyền cho đông đảo công chúng các chủ trương đúng đắn của nhà nước nói chung, chủ trương CPH nói riêng.
Đối với những hành động chây ỳ, có ý cản trở việc thực hiện chủ trương này thiết nghĩ, cần có những chế tài xử lý nghiêm minh, có như vậy vai trò chỉ đạo của các cơ quan, tổ chức mới được đảm bảo, trên cơ sở đó tiến hành đẩy nhanh các công đoạn của qui trình CPH
2. Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý
Theo tin từ ban CPH DNNN thì nhà nước đã có chủ trương phân loại DNNN thành 4 nhóm.
- Nhóm DN làm ăn có hiệu quả.
- Nhóm DN có khó khăn về tài chính.
- Nhóm DN có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
- Nhóm DN thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở nên).
Ba nhóm đầu thuộc diện CPH, còn nhóm thua lỗ kéo dài, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi CPH, đấu thầu cho thuê, bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoaì DN, thực hiện biện pháp khoán hoặc cho phá sản.
Những biện pháp nói trên có áp dụng cho nhóm 4 theo chúng tôi là hợp lý. Tuy nhiên, nhiều biện pháp trong số đó như khoán kd, cho thuê vẫn còn nhiều mới mẻ. Do đó cơ sở pháp lý cho chúng vẫn chưa hoàn thiện. Song nếu các biện pháp khoán kd cho thuê mà thành công thì đây sẽ được coi là những giải pháp quá độ có nhiều tác dụng thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả SXKD của các DNNN để tiến tới CPH.
Còn đối với các DNNN gặp khó khăn về tài chính thì việc thành lập quỹ hỗ trợ CPH sẽ là một giải pháp quan trọng. Nhiệm vụ và vai trò của quỹ CPH không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ cho các DN gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên hỗ trợ tài chính cho các DN vẫn là một trong những chức năng chính của quỹ này.
Nguồn vốn của quỹ có thể hình thành từ 3 nguồn chính.
- Tiền thu từ việc bán cổ phiếu thuộc vốn nhà nước tại DN.
- Vốn trợ cấp từ NSNN.
- Vốn tài trợ lần đầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (chủ yếu là vốn vay ưu đãi).
Ngoài ra còn có thể là những khoản thu từ việc thanh lí tài sản trong DNNN khi tiến hành CPH.
Hoạt động hỗ trợ của quỹ có thể được thực hiện dưới một số hình thức sau:
- Kế thừa hoặc mua lại nợ của DN.
- Cho DN vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi. Như vậy, quỹ CPH cũng góp phần giải quyết vấn đề nợ đọng trong nhiều DNNN hiện nay.
Sự hỗ trợ của quỹ CPH sẽ có tác dụng giải quyết nhiều khó khăn cho DN, từ đó giúp DN nâng cao hiệu quả SXKD, tiến tới làm ăn có lãi. Có thể nói “làm ăn có lãi” là điều kiện rất quan trọng, nhiều khi là nhân tố có tính quyết định cho sự thành công của việc CPH nhiều DN.
Với ý nghĩa đó, việc nâng cao hiệu quả SXKD cũng chính là mục tiêu cơ bản của những giải pháp đối với các DN gặp khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
Giá thành sản xuất lên cao có thể có nhiều nguyên nhân song suy cho cùng nguyên nhân quan trọng nhất vẫn nằm trong khâu quản lý. Người quản lý tốt có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất sẽ biết phải làm gì khi thua lỗ xảy ra. Khi thua lỗ do nguyên nhân khách quan đưa lại, không thể khắc phục được thì người đó cần tìm cách chuyển hướng SXKD hoặc tuyên bố phá sản. Những DN không có khả năng khắc phục đã được xếp vào nhóm 4. Những DN có khả năng khắc phục nhưng do quản lý tồi, người quản lý kém năng lực, trình độ thậm chí mất phẩm chất thì cách giải quyết duy nhất theo chúng tôi là thay đổi nhân sự trong ban quản lý DN. Việc lựa chọn người lãnh đạo mới không phải là việc dễ dàng, song nên đưa ra một tiêu thức để lựa chọn là người lãnh đạo đó phải lập được phương án SXKD có hiệu quả và khả thi trên cơ sở của máy móc, công nghệ, lao động của DN hiện tại. Một số tiêu chí nữa có thể kể đến là uy tín của người đó đối với CBCNV trong DN, khả năng tổ chức nhân sự.
Với biện pháp cải cách như trên chúng tối có nhiều tin tưởng là hiệu quả SXKD của DN sẽ được nâng lên. ở đây cũng xin lưu ý là chúng ta phải có những ưu đãi, khuyến khích đối với các nhà quản lý, gắn trách nhiệm của họ với quyền lợi, gắn lợi ích của họ với hiệu quả SXKD của DN.
Chính phủ và Nhà nước nên sớm có chủ trương củng cố công tác đào tạo trong ngành quản trị kinh doanh . Khi nền kinh tế phát triển, công tác quản lý được chuyên môn hoá thì nhu cầu đối với các Giám đốc giỏi sẽ không nhỏ. Trong khi đó công tác đào tạo ngành quản trị kd hiện nay xem ra vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu nhất là yêu cầu về chất lượng, vì rằng nếu không có các nhà quản lý giỏi thì các động lực về kinh tế cho dù có mạnh đến đâu cũng khó có thể bù đắp được cho những thiếu hụt về trình độ.
3. Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến hành CPH
Cơ chế biên chế trong giai đoạn trước đã dẫn đến tình trạng tuyển chọn lao động tràn lan, bất chấp trình độ nghề nghiệp và hiệu quả SXKD trong nhiều DNNN. Theo ước tính, tổng số lao động đang làm việc tại 5.790 DNNN vào khoảng 1,8 triệu người. Song chất lượng lao động rất thấp: Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chỉ chiếm 10 - 12% số còn lại chủ yếu là lao động phổ thông. Những con số này cũng phản ánh phần nào những khó khăn đối với việc giải quyết vấn đề lao động dôi dư sau khi tiến hành cải cách DNNN cũng như CPH. Bởi vì cùng với việc chú trọng nâng cao hiệu quả SXKD thì việc làm tất yếu của các DN là phải giảm bớt số lao động dư thừa, không đủ trình độ. Con số này quả là không nhỏ trong nhiều DNNN hiện nay.
Giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề rất phức tạp, có tính xã hội sâu sắc. Song đó là việc mà chúng ta không thể né tránh.
Trước hết chúng ta phải thống nhất với nhau một điều là việc giải quyết vấn đề dôi dư đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía là DN và Nhà nước cụ thể hơn là Chính phủ và các cấp Bộ, ngành có liên quan. Trong sự hợp tác đó thì DN là người có trách nhiệm trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, còn Nhà nước chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ và phân giải các mâu thuẫn giữa DN với người lao động.
Về các giải pháp cụ thể, sau một quá trình nghiên cứu, tham khảo tài liệu, chúng tôi nhận thấy những giải pháp mà tác giả Đặng Quyết Tiến trong bài “Lao động dôi dư - những hướng giải quyết” ( Báo Tài Chính) số tháng 10 năm 1998, 25) đưa ra là những giải pháp khá sâu sắc và toàn diện. Nội dung của các giải pháp đó chúng tôi xin phép được trình bày tóm tắt như sau:
- Đối với DN: Phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên cơ sở đề án SXKD của DN với một số nội dung chính là.
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra các hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu ( người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưu)có thể trợ cấp để đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại ( chiếm đa số), có nhiều hướng giải quyết như tái sử dụng sau khi đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới.
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện tại DN có thể lấy từ các nguồn quỹ sau: Quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào tạo của đơn vị (nếu có).
- Đối với Nhà nước: Nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián tiếp.
+ Hỗ trợ trực tiếp theo tác giả chỉ tập trung vào: Hỗ trợ một phần kinh phí cho DN. Mà nguồn hỗ trợ chính có thể lấy ra từ quỹ CPH DNNN. Những hỗ trợ này nên nhằm vào việc đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động:Hỗ trợ bổ sung cho người lao động nghèo tại DN để họ có thể đảm bảo đời sống trong thời gian đầu bị mất việc ( khoảng từ 6 tháng đến một năm).
+ Hỗ trợ gián tiếp: Hỗ trợ về cơ chế và chính sách lập nghiệp đối với lao động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê đất, về thuế SXKD.
Trong các giải pháp nêu trên, cũng như tác giả của bài báo, chúng tôi nhất trí rằng giải pháp khuyến khích lập nghiệp, tự tạo việc là là giải pháp cần được nhân rộng. Đây là giải pháp có tác dụng kích thích sự sáng tạo tự chủ của người lao động. Đã đến lúc người lao động phải chủ động, sáng tạo vươn lên đối mặt với những khó khăn, thách thức để có những bước phát triển vững vàng. Tư tưởng cầu an, ỷ lại vào Nhà nước cần phải được khắc phục. Có như vậy nền kinh tế đất nước mới phát triển.
Ngoài ra, đào tạo, và đào tạo lại nghề nghiệp cho số lao động dôi dư cũng cần phải được xem là giải pháp vừa mang tính sách lược mà mang tính chiến lược. Thực tế CPH trong những năm qua đã cho thấy nhiều DN CPH sau khi đi vào SXKD ổn định thì thường có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Song những lao động đó phải là người có tay nghề, đã qua đào tạo .Về mặt lâu dài, khi kinh tế phát triển, sẽ có ngày cần nhiều những ngành đòi hỏi công nhân có tay nghề và trình độ chuyên môn. Nếu chúng ta không chuẩn bị ngay từ bây giờ thì e rằng tình trạng" thừa việc ,thiếu người" trong nhiều DN, nhất là các DN có vốn đầu tư nước ngoài như hiện nay sẽ càng trầm trọng thêm.
4. Giải pháp cho những tồn tại trong vốn để xác định giá trị doanh nghiệp
Nghị định 44/CP ra đời với những qui định cụ thể, rõ ràng hơn đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề rất nan giải trong quá trình xác định giá trị DN trước đây. Ví dụ như việc các tài sản DN không có nhu vầu sử dụng bao gồm tài sản không cần dùng và tài sản không có khả năng phục hồi cho quá trình SXKD đã được loại trừ ra khỏi giá trị DN khi tiến hành CPH. Các tài sản hình thành từ quỹ phúc lợi khen thưởng cũng không được tính vào giá trị DN và được bàn giao riêng cho CPH tiếp tục quản lý sử dụng. Hay như vấn đề công nợ khó đòi cũng được qui định rất rõ ràng. Với các khoản công nợ khó đòi nếu có chứng cứ hợp lệ cũng không tính vào giá trị DN CPH.
Những quy định mới này đã góp phần đẩy mạnh công tác CPH trong suốt giai đoạn từ nửa cuối năm 1998 đến nửa đầu năm 1999.
Tuy nhiên xung quanh vấn đề xác định giá trị DN vẫn còn một số tồn tại.
Thứ nhất: Việc xác định còn phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc chồng chéo, nhiều khi gây ra tình trạng phân công trách nhiệm không rõ ràng, đã làm chậm quá trình này.
Để giải quyết tình trạng trên thì phân cấp trách nhiệm là rất cần thiết. Theo đó, chỉ có DN TW mới do Bộ Tài Chính thẩm định giá trị và Bộ tài chính giao cho Tổng cục quản lý vốn, còn địa phương thì giao cho Cục Quản lý vốn.
Trong quá trình thẩm định, nếu giá trị tài sản cao hơn so với sổ sách 30% thì vẫn cho phép cấp dưới tiến hành mà không phải gửi lên trên.
Thứ hai: Trong thực tế, đối với tài sản cố định, đặc biệt là đối với máy móc thiết bị tại DN sản xuất thường xuất hiện sự mâu thuẫn giữa giá trị ghi trong số sách. Nguyên nhân là do nhiều trường hợp DN trước đây đã mua về các thiết bị đã lỗi thời, hỏng hóc nhưng được tân trang, làm mới với giá gốc khi mua cao hơn rất nhiều so với giá trị thực tế. Do đó, nên chăng để tạo điều kiện tốt hơn cho DN, Ban thẩm định nên đánh giá dựa trên giá trị sử dụng thực tế còn lại theo giá thị trường hiện tại. Như thế, sẽ phản ánh đúng hơn giá trị của tài sản.
Thứ ba: Nhiều DN chuẩn bị không đầy đủ tài liệu, nhất là cơ sở pháp lý về nhà cửa, đất đai, các biên bản kiểm tra quyết toán, quyết toán thuế do đó đã làm chậm lại hoạt động của ban thẩm định. Nếu như các DN CPH chuẩn bị tài liệu, hồ sơ đầy đủ thì việc xác định giá trị DN có thể không quá 15 ngày kể từ ngày thành lập Hộ đồng xác định giá trị DN.
Do vậy, Bộ Tài chính nên sớm có hướng dẫn những hồ sơ tài liệu mà DN nhất thiết phải chuẩn bị đồng thời cũng cần có những biện pháp xử lý đối với những cá nhân đã không hoàn thành công tác này. Về mặt lâu dài thì việc yêu cầu các DN áp dụng nghiêm ngặt chế độ kế toán thống kê, công khai tài chính sẽ là những giải pháp quan trọng một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị sổ sách giấy tờ, mặt khác cũng tạo giúp DN chuẩn bị tốt hơn cho quá trình gia nhập TTCK sau này.
5. Một số giải pháp cho việc khuyến khích việc thu hút vốn đầu tư của các cổ đông ngoài DN
5.1. Thúc đẩy sự ra đời của TTCK
Ông Bùi Nguyên Hoàn - Vụ trưởng UBCKNN đã có một câu nói rất hay: “Nếu ta coi đồng tiền như những giọt máu của nền kinh tế, thì muốn cho hết thảy mọi đồng tiền trong xã hội đến được với các tế bào kinh tế, một cơ thể nền kinh tế hoàn chỉnh phải có “hai con tim” “con tim ngân hàng và con tim TTCK”. Quả thực là như vậy, TTCK chính là nơi mà những người cần có vốn để kd và những người có vốn và muốn kd (trực tiếp và gián tiếp). Sự gặp nhau qua TTCK trực tiếp hơn so với việc thông qua Ngân hàng. Nó thường đem lại nhiều lợi ích hơn cho cả DN lẫn nhà đầu tư. Sự phát triển của các TTCK trên thế giới hiện nay là một minh chứng thực tế cho tính ưu việt của loại thị trường đặc biệt này. Đối với tiến trình CPH ở nước ta sự ra đời của TTCK sẽ thực sự tạo ra một lực đẩy mới đẩy nhanh quá trình này. Điều này đã được phân tích nhiều ở các phần trước đặc biệt là phần bài học kinh nghiệm của Trung Quốc. ở đây chỉ xin nhắc lại một số tác dụng cơ bản.
Thứ nhất: TTCK góp phần làm tăng khả năng chuyển nhượng của các TTCK, trong đó có cổ phiếu do đó sẽ làm tăng sức hấp dẫn của hình thức đầu tư dưới dạng cổ phiếu.
Thứ hai: TTCK cho phép các nhà đầu tư có nhiều thông tin hơn về các DN thông qua sự biến động của các chỉ số trên thị trường này. Nó tạo ra sự giám sát công khai, khách quan đối với DN do đó làm tăng niềm tin của các nhà đâù tư, nhất là những người ở ngoài DN.
Thứ ba: Nó làm tăng khả năng thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài của các DN CPH, do đó sẽ đem lại nhiều động lực thúc đẩy DN tiến hành CPH.
Với những ưu điểm cơ bản nêu trên có thể thấy sự ra đời của TTCK ở nước ta sẽ là một sự hỗ trợ đắc lực cho việc đẩy mạnh CPH trong thời gian tới. Điều này đã được chứng minh qua thực tế CPH ở Trung Quốc.
Vấn đề trước mắt cần làm là Nhà nước nên sớm xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động giao dịch cổ phiêú của các CTCP qua TTCK, hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, thúc đẩy các DN làm quen với chế độ công khai tài chính trên TTCK qua đó làm cho hoạt động của TTCK được diễn ra một cách suôn sẻ, thực sự phát huy được những tác dụng tích cực của mình.
5.2. Thành lập các quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là một loại định chế tài chính trung gian trên thị trường vốn do công ty đầu tư lập ra, huy động tiền của nhiều nhà đầu tư bằng cách bán cổ phiếu của Quỹ cho các cổ đông rồi dùng khoản tiền đó mua trái phiếu hoặc cổ phiếu của nhiều hạng mục đầu tư để sinh lợi và bảo toàn vốn. Cổ đông của Quỹ có thể bán cổ phần của Quỹ bất kỳ lúc nào tại TTCK hoặc bán lại cho Quỹ tuỳ hình thức hoạt động Quỹ.
Mỗi quỹ có một nhà quản lý chuyên nghiệp, và một đội ngũ chuyên viên phụ tá, có trách nhiệm phân tích lựa chọn danh mục đầu tư, theo dõi tình hình hoạt động của các công ty nằm trong danh mục đầu tư và đưa ra những quyết sách khi có biến động ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của quỹ. Quỹ được tiếp thị rộng rãi đến nhà đầu tư bằng cách quảng cáo, thư mời hay qua các trung gian khác.
Đầu tư vào các quỹ đầu tư là một hình thức đầu tư có nhiều ưu điểm hơn so với đầu tư mua cổ phiếu trực tiếp của các công ty nhất là trong điều kiện TTCK chưa ra đời và phát triển. Các nhà đầu tư cá biệt thường khó có khả năng và điều kiện tìm hiểu vì hoạt động của các công ty, do đó thường gặp khó khăn khi ra quyết định đầu tư. Vì vậy họ thường phải đầu tư thông qua các tổ chức hoặc cá nhân môi giới trung gian mà quỹ đầu tư là một trong số đó. Với đội ngũ chuyên viên có trình độ, lại có nhiều điều kiện thuận lợi, quỹ đầu tư sẽ giúp các cổ đông của mình giảm bớt rủi ro khi ra quyết định đầu tư mà vẫn có khả năng thu được lãi suất khá cao.
Hơn nữa, đầu tư vào các quỹ đầu tư còn giúp các nhà đầu tư phân tán rủi ro. Nếu đầu tư với tư cách là một nhà đầu tư cá biệt thì các nhà đầu tư thường khó có khả năng đầu tư vào nhiều công ty mà nếu có đầu tư được thì cũng rất khó có thể theo dõi hoạt động của các công ty đó để cho ra các đối sách phù hợp. Khi đầu tư vào quỹ số vốn của các cổ đông cá biệt sẽ được tập hợp lại và đem đầu tư vào nhiều công ty khác mà vẫn đảm bảo khả năng theo dõi tốt hoạt động của các công ty đó. Hơn nữa, với việc tập hợp cổ phiếu của nhiều cổ đông, các quỹ đầu tư sẽ có khả năng bảo vệ tốt hơn lợi ích của các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nhỏ tại DN.
Một nhân tố rất quan trọng làm cho đầu tư vào các quỹ đầu tư trở nên hấp dẫn hơn, nhất là đối với người dân Việt Nam hiện nay trong điều kiện chưa có TTCK là khả năng hoàn vốn. Tâm lý lo sợ đầu tư dài hạn vẫn là tâm lý chung của phần đông người dân Việt Nam. Trong khi đó, đầu tư vào các CTCP trong điều kiện TTCK chưa ra đời thì các cổ đông với khả năng chuyển nhượng thấp, thường chỉ nhận lại vốn khi công ty phá sản hoặc giải thể. Như vậy thì rủi ro quá lớn . Nhưng nếu đầu tư vào quỹ đầu tư thì nhà đầu tư có thể bán lại cho quỹ sau một thời hạn nhất định (có những loại quỹ không mua lại, nhưng trong điều kiện Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi nên khuyến khích thành lập các quỹ có hoàn vốn). Thời hạn hoàn vốn phù hợp (theo nghiên cứu của nhiều chuyên gia) nên là 3 năm vì như vậy đảm bảo .
- Ngang với thời gian huy động vốn trung hạn ở ngân hàng .
- Đủ thời gian cho các DNNN được CPH phát huy những tiềm năng hiện nay.
- Người dân không sợ bị chôn vốn quá lâu.
Công ty đầu tư sẽ lần lượt thành lập các quỹ đầu tư sau 3 năm khi quỹ đầu tư trước ra đời. Quỹ đầu tư sau sẽ có thể tái đâù tư vào những DNNN được CPH mà công ty đã được đầu tư trước đó và đầu tư vào các DNNN CPH sau này. Người đầu tư của quỹ trước có thể tái đầu tư vào quỹ đầu tư sau. Do đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư trung, dài hạn. Các DNNN được CPH phát triển vẫn luôn được công ty đầu tư giữ cổ phần của họ.
Với những ưu điểm trên, quỹ đầu tư thường có ưu thế hơn các DN trong việc thu hút vốn đầu tư của các cổ đông đặc biệt là các cổ đông nhỏ nhất là trong điều kiện TTCK chưa phát triển. Sau đó các quỹ sẽ tiến hành đầu tư mua cổ phần ở các DNNN tiến hành CPH. Từ đó có thể thấy rằng, phát triển hình thức công ty đầu tư, quỹ đầu tư sẽ là một giải pháp hữu ích có tác dụng đẩy nhanh quá trình CPH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các CTCP sau này.
Những giải pháp nêu trên có thể chưa phải là những giải pháp tốt nhất, song hy vọng chúng cũng giúp ích được một chút gì đó cho việc đẩy mạnh tiến trình CPH DNNN ở nước ta trong thời gian tới.
B. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Chính phủ.
1. Cải cách quy trình đấu thầu trái phiếu
Từ năm năm nay, Sở Giao dịch, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm đại lý cho Bộ Tài chính trong việc đấu thầu trái phiếu kho bạc loại kỳ hạn dưới một năm. Khách hàng thương mại và các công ty bảo hiểm. Ai trong số các khách hàng bỏ thầu với lãi suất thấp nhất, số lượng trái phiếu mua cao nhất thì sẽ trúng thầu. Tuy nhiên, quá trình đấu thầu lại có những điểm không hợp lý. Bộ Tài chính là cơ quan phát hành đáng lẽ phải công bố lãi suất trái phiếu trước, sau đó các ngân hàng và công ty bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất. Nhưng đấu thầu đã được làm ngược lại: các khách hàng tuyên bố lãi suất và số lượng trái phiếu họ muốn mua, sau đó Bộ Tài chính mới công bố lãi suất trái phiếu phát hành. Lãi suất của khách hàng nào sát cận với lãi suất của Bộ Tài chính thì sẽ trúng thầu.
Với phương thức đấu thầu như trên, Nhà nước khó huy động được nguồn vốn với lãi suất thị trường phù hợp. Không ít thời điểm lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của ngân hàng đã được hạ thấp, nhưng lãi suất trái phiếu kho bạc vẫn cao. Chưa kể trong trường hợp ngân sách nhà nước cần tiền gấp để đầu tư cho một công trình, dự án nào đó, phải phát hành trái phiếu, nhưng khách hàng "cấu kết" với nhau, bỏ thầu lãi suất cao, thì các phiên đấu thầu sẽ thất bại. Và trên thực tế đã có những lần đấu thầu mà không có một trái phiếu nào được phát hành.
Tóm lại, ta phải cải cách lại hình thức đấu thầu : Bộ Tài chính là cơ quan phát hành phải công bố lãi suất trái phiếu trước, sau đó các ngân hàng và công ty bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất và số lượng.
2. Chuẩn bị phát hành trái phiếu thông qua bảo lãnh
Từ đầu năm 2000, để chuẩn bị hàng hoá cho thị trường chứng khoán tương lai (một trong những điều kiện để trái phiếu có thể lưu hành trên thị trường chứng khoán là phải dài hạn). Theo dự kiến, tổng trị giá trái phiếu Chính phủ phát hành trong năm 2000 là 14.000 tỷ đồng. Đối với trái phiếu kỳ hạn từ một năm trở lên, có ba hình thức phát hành: Đấu thầu qua Trung tâm Giao dịch Chứng khoán; qua các công ty bảo lãnh và bán lẻ qua kho bạc. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, việc bán lẻ trái phiếu kho bạc chưa được thực hiện, Trung tâm giao dịch chứng khoán chưa ra đời, nên Bộ Tài chính mới chỉ chuẩn bị phát hành trái phiếu thông qua các công ty bảo lãnh. Kho bạc Nhà nước, cho biết công ty chứng khoán của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (Vietinde bank) và Bảo Việt là hai đơn vị đã đăng ký xin được bảo lãnh phát hành trái phiếu. Nếu được chọn, những công ty Bảo lãnh sẽ ký hợp đồng với Bộ Tài chính và họ sẽ nhận được một khoản phí "hoa hồng". Trong trường hợp không phát hành hết, các công ty bảo lãnh sẽ phải bỏ tiền ra mua hết số trái phiếu đã nhận.
Vấn đề còn lại đang được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan thảo luận là lãi suất của trái phiếu hợp lý không những huy động được nguồn lực tài chính trong dân cư, doanh nghiệp, mà còn tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nghiên cứu, chuẩn bị cho việc phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường quốc tế sau này.
C. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Doanh nghiệp.
Giải pháp để đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu của Doanh nghiệp là Nhà nước phải có văn bản luật cụ thể về vấn đề phát hành trái phiếu Doanh nghiệp. Các DN có đủ điều kiện phát hành trái phiếu đều được phát hành thông qua một cơ quan phát hành trái phiếu như các công ty chứng khoán. Hiện nay mới có hai công ty chứng khoán, và 6 công ty chứng khoán khác đang được xem xét cho phép hoạt động. Vấn đề phát hành trái phiếu doanh nghiệp sẽ trở nên vô cùng đơn giản khi phát hành thông qua các công ty chứng khoán, mà hiện nay và sắp tới, số lượng các công ty chứng khoán sẽ tăng lên đáng kể.
D. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
Qua thực tiễn các nước cho thấy cơ quan quản lý độc lập. Đối với Việt Nam về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán nhà nước độc lập là một bước đi đúng đắn và để hỗ trợ cho sự hoạt động của Uỷ ban chứng khoán, nhà nước cần có sự tài trợ về ngân sách, đồng thời giải quyết thoả đáng chế độ lương bổng cho cán bộ uỷ ban trong thời gian đầu.
E. Hệ thống pháp lý
Trong thời gian qua, những đạo luật cơ bản cho hoạt động của thị trường chứng khoán đã được ban hành nhưng vẫn còn rất nhiều xun đột mâu thuẫn giữa các văn bản. Do vậy, các nhà làm luật phải tìm ra một khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán đảm bảo tính linh hoạt tối đa và nx bước phát triển đồng bộ.
F. Về sự tham gia của nước ngoài
Chúng ta cần có sự mở cửa thị trường một cách thích hợp nhằm thu hút vốn và công nghệ nước ngoài, cho phép nước ngoài được phép sở hữu một tỷ lệ phần trăm nhất định và các công ty chứng khoán nước ngoài được liên doanh với các công ty chứng khoán Việt Nam.
G. Các tổ chức trung gian
Việt Nam nên cho phép các công ty chứng khoán Việt Nam phát triển các hình thức hoạt động kinh doanh: bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Riêng hình thức quản lý danh mục đầu tư phải hoạt động tách rời dưới hình thức công ty con nahừm bảo vệ lợi ích của quỹ.
Kết luận
Trên đây là những kiến thức sơ lược về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam là hết sức cần thiết để thực hiện các mục tiêu đã đề ra cho sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiến hành vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Đảng và nhà nước cần có những giải pháp hỗ trợ cũng như sự góp sức của tất cả các ngành, các cấp cũng như sự ủng hộ của nhân dân.
Các chính sách, giải pháp cần phải được thực hiện một cách đồng bộ và linh hoạt. song điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần phải lựa chọng được một mô hình thị trường chứng khoán thích hợp với Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay.
Tài liệu tham khảo
Chứng khoán và thị trường chứng khoán - Uỷ ban chứng khoán nhà nước
Những kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - Uỷ ban chứng khoán nhà nước
Tạp chí tài chính
Báo đầu tư
Thời báo kinh tế Việt Nam
Phân tích đầu tư - Uỷ ban chứng khoán nhà nước
Tạp chí Kinh tế và Dự báo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37241.doc