Chuyên đề Thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường, thị trường là môi trường sống, là mảnh đất sống cho mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Để tồn tại và phát triển được trong điều kiện thị trường luôn biến đổi, cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường. Công việc trước hết và quan trọng nhất cần phải tiến hành trong quá trình sản xuất kinh doanh là nghiên cứu thị trường, công việc này cần được chú trọng đầu tư thích đáng và tiến hành thường xuyên liên tục đúng với ý nghĩa của nó. Nếu doanh nghiệp xao lãng công việc này sẽ dẫn đến tình trạng mất phương hướng hoạt động và mất dần thị phần của mình, thậm chí còn có thể bị đào thải khỏi thị trường. Do vậy, thị trường và nghiên cứu thị trường ở các doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện. Đề tài: "Thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường ở doanh nghiệp" đã nêu ra cơ sở lý luận của vấn đề thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường, đánh giá tình hình thị trường và nghiên cứu thị trường ở các doanh nghiệp trên cơ sở đó em đưa ra một số kiến nghị nhằm mở rộng thị trường và hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường ở doanh nghiệp. Do điều kiện không cho phép, bài viết này của em không tránh khỏi hạn chế. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy và các bạn.

doc30 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư liệu tiêu dùng: là những cá nhân và hộ gia đình mua hàng hoá và dịch vụ để tiêu dùng cho cá nhân. Khối lượng hàng mua trên thị trường này không nhiều trong mỗi lần nhưng nó có một tập hợp khách hàng cực lớn với tính chất tiêu dùng thường xuyên. Việc mua hàng của khách hàng này trên thị trường chịu ảnh hưởng của nhân tố tâm lý cá nhân, văn hoá, phong tục tập quán, mức thu nhập... 3-/ Phân loại thị trường theo phạm vi địa lý: Theo tiêu thức này thị trường được chia thành: Thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường thế giới. Thị trường trong nước: Dung lượng thị trường không lớn, cạnh tranh không cao. Các doanh nghiệp trong nước hiểu rõ về thị trường này. Thị trường khu vực: Có dung lượng thị trường là khá lớn, có một số nét tương đồng với thị trường trong nước. Thị trường thế giới: Đây là một thị trường rất rộng lớn, cạnh tranh rất gay gắt. Có những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc thâm nhập và phát triển thị trường của doanh nghiệp như: chính trị, văn hoá, luật pháp... đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu rất kỹ lưỡng loại thị trường này. 4-/ Phân loại thị trường theo mức độ quản lý của Nhà nước: Theo tiêu thức này thị trường được chia thành: thị trường có tổ chức và thị trường không có tổ chức. Thị trường có tổ chức: là thị trường mà Nhà nước có thể kiểm soát được. Thị trường không có tổ chức: là loại thị trường mà Nhà nước không thể kiểm soát được. Như vậy: Từ các cách phân loại thị trường theo các tiêu thức nêu ở trên, các doanh nghiệp có thể lựa chọn cách thức ứng xử phù hợp với từng thị trường. III-/ Các bộ phận cấu thành thị trường: Có khá nhiều quan niệm khác nhau về thị trường như đã nói ở trên. Nhưng chỉ xem xét ở khía cạnh nào thị trường cũng có 4 yếu tố cấu thành là: cung, cầu, giá cả, cạnh tranh. Sau đây ta sẽ đi xem xét từng bộ phận và mối quan hệ của chúng với nhau: 1-/ Cung: Số lượng cung của một hàng hoá là khối lượng mà người bán sẵn sàng bán trong một chu kỳ nào đó (ngày, tháng hoặc trong một năm). Số lượng cung phụ thuộc vào giá cả hàng hoá và phụ thuộc vào các yếu tố khác, trước hết là giá cả các yếu tố đầu vào và kỹ thuật sản xuất hiện có. Số lượng cung thường tăng hay giảm theo giá cả của hàng hoá, nếu xét trong một chu kỳ đủ dài. Giá bán một loại hàng hoá nào đó càng cao thì lượng cung của hàng hoá đó càng lớn vì khi đó nhà sản xuất sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Ngược lại, khi giá hạ người sản xuất sẽ sản xuất cầm chừng, giảm bớt số lượng, thậm chí chuyển sang sản xuất hàng hoá khác. Số lượng cung của thị trường là tổng lượng cung của từng doanh nghiệp. Sự thay đổi của số lượng cung một hàng hoá tuỳ thuộc vào sự biến đổi giá cả của hàng hoá đó, trong khi các yếu tố khác không đổi tạo nên một hàm gọi là hàm cung: Qx = Fpx Hàm cung là quy luật cung ứng trên thị trường thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa số lượng cung và giá cả về một hàng hoá nhất định trên một thị trường xác định và trong một thời điểm nhất định. * Các yếu tố ảnh hưởng đến cung: Ngoài yếu tố giá cả đã trình bày ở trên cung còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau: 1, Năng lực sản xuất: Năng lực sản xuất một loại hàng hoá nào đó tăng lên, làm cho trong cùng một thời gian lượng hàng cung ứng cho thị trường tăng lên, nếu như các yếu tố khác không đổi. Năng lực sản xuất tăng lên là do từng xí nghiệp mở rộng quy mô sản xuất hoặc do một số doanh nghiệp mới triển khai sản xuất. 2, Công nghệ sản xuất: Công nghệ sản xuất gồm kỹ thuật và các phương pháp sản xuất một loại hàng hoá dịch vụ nào đó. Cải tiến công nghệ làm cho chi phí sản xuất thấp hơn dẫn đến lợi nhuận cao hơn, người sản xuất mở rộng sản xuất. 3, Giá cả các yếu tố đầu vào: Nếu giá cả các yếu tố đầu vào như: máy móc, thiết bị, lao động, nguyên vật liệu giảm xuống, ở mỗi mức giá cho trước nhà sản xuất thu được nhiều lợi nhuận hơn trên mỗi sản phẩm do vậy nhà sản xuất sẽ sản xuất và cung ứng cho thị trường nhiều hơn tức là cung sẽ tăng lên. 4, Dự kiến giá trong tương lai: Nếu trong tương lai giá hàng tăng lên việc cung ứng hàng đó ra thị trường hiện tại có thể bị giảm. Ngược lại: nếu dự kiến giá giảm trong tương lai, việc cung ứng sẽ tăng lên tạm thưòi. Đây là do sự tăng giảm dự trữ ở khâu lưu thông. Còn nhiều nhân tố khác v.v... 2-/ Cầu: Nhu cầu (hay còn gọi là cầu) là một phạm trù dùng để mô phỏng hành vi của người mua và người mua tiềm năng đối với một mặt hàng nào đó. Số lượng cầu của một hàng hoá là khối lượng hàng hoá người mua muốn mua và có khả năng mua trong một thời gian nhất định và ở một mức giá nhất định. Quy luật về cầu là: Số lượng cầu sẽ tăng nếu giá giảm và ngược lại trong điều kiện các nhân tố khác không đổi. Quy luật về cầu được giải thích bằng chi phí cơ hội hoặc chi phí lựa chọn. Nhu cầu thị trường là một danh sách giá cả và số lượng tương ứng mà người tiêu dùng sẵn sàng mua và có khả năng thanh toán ở mỗi mức giá trong danh sách nếu coi yếu tố thu nhập, giá cả của các hàng hoá có liên quan, thị hiếu và mục tiêu mua sắm vẫn giữ nguyên. Sự thay đổi của lượng cầu tuỳ thuộc vào sự biến đổi của giá cả (nếu các yếu tố khác giữ nguyên tạo nên một hàm số gọi là hàm cầu. Qx = a - bp Qx: Lượng cầu ứng với giá p. p: Giá hàng hoá. a, b: Các hệ số. Mức độ thay đổi của số lượng cầu theo sự biến đổi của giá cả hàng hoá gọi là độ co giãn của cầu. Để tính toán độ co giãn cầu người ta sử dụng hệ số co giãn (E). E = Nếu số lượng cầu tăng nhanh hơn tốc độ giảm giá thì cầu có độ co giãn cao và ngược lại. Nếu chúng bằng nhau thì gọi là sự co giãn đồng nhất. * Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu: Ngoài yếu tố giá cả của các yếu tố: Số lượng người tiêu thụ, giá cả của hàng hoá có liên quan, thu nhập của người tiêu dùng, sở thích và dự kiến giá cả trong tương lai: 1, Số lượng người tiêu thụ: Số lượng người tiêu thụ trên thị trường càng lớn thì ở mỗi mức giá số lượng cầu càng lớn. 2, Giá cả của những hàng hoá có liên quan: Hàng hoá có liên quan gồm hàng thay thế và hàng bổ sung. Sự tác động của chúng do sự thay đổi giá cả đến nhu cầu của một loại hàng hoá có liên quan trái ngược nhau. Nếu tăng (hoặc giảm) giá những hàng hoá thay thế thì kéo theo làm tăng (hay giảm) số lượng cầu hàng hoá đang xét (ứng với mức giá cho trước). Sở dĩ như vậy là do khi tăng giá một mặt hàng thì người tiêu dùng chuyển sang sử dụng một mặt hàng khác thay thế làm cho nhu cầu tăng lên. 3, Thu nhập của người tiêu thụ: Sự thay đổi thu nhập của người tiêu thụ làm thay đổi nhu cầu của họ, tuy nhiên còn tuỳ thuộc ở chỗ hàng hoá đang xét là hàng bình thường hay hàng cấp thấp. Nếu là hàng cao cấp, thu nhập tăng làm tăng nhu cầu và ngược lại. Đối với hàng hoá cấp thấp, thu nhập tăng lại làm giảm nhu cầu. 4, Sở thích của người tiêu thụ: Sở thích hay thị hiếu của người tiêu thụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhu cầu, khi sở thích thay đổi kéo theo nhu cầu thay đổi. Thị hiếu của người tiêu dùng đan hướng vào một lại, kiếu hàng hoá nào đó thì nhu cầu về nó sẽ rất cao. 3-/ Giá cả: Giá cả là một bộ phận không thể thiếu của thị trường. Giá cả đóng vai trò quyết định trong việc mua hay không mua hàng của người tiêu thụ. Giá cả có thể hiểu là số tiền mà người bán dự tính sẽ nhận được ở người mua thông qua trao đổi trên thị trường một hàng hoá dịch vụ nào đó họ có. Giá cả và thị trường có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau. Thị trường không những chi phối đến sự cấu tạo và mức độ hình thành giá cả mà ngay giá cả cũng gây nên sự biến động gất gao cả về hình thức và cường độ đối với thị trường. Đối với các doanh nghiệp giá cả được xem như những tín hiệu đáng tin cậy, phản ánh tình hình biến động của thị trường. Thông qua giá cả các doanh nghiệp có thể rất bắt được sự tồn tại, sức chịu đựng cũng như khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Đối với sản xuất giá cả giữ một vịt rí đặc biệt, bởi lẽ thông qua giá cả mà thị trường tác động tới quá trình sản xuất. Trên thị trường tuy người sản xuất và tiêu dùng đối lập nhau trong việc thực hiện các chức năng riêng biệt của mình, nhưng trong quan hệ trao đổi mua bán họ vừa có quan hệ hợp tác vào đấu tranh với nhau về giá, để cuối cùng các bên đều đi đến chấp nhận hình thành nên một mức giá nào đó gọi là giá thị trường. Khi xem xét giá cả phải thấy được các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả của doanh nghiệp: Đó là các nhân tố kiểm soát được và những nhân tố khách quan không kiểm soạt được. 1, Những nhân tố kiểm soát được: * Chi phí sản xuất sản phẩm: Giá bản sản phẩm có quan hệ chặt chẽ với chi phí sản xuất sản phẩm, vì nó được hình thành trên cơ sở của chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm những chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất: chi phí nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, chi phí nhân công... Tuy nhiên việc bán ra khối lượng nhiều hay ít sản phẩm lại có ảnh hưởng trở lại đối với chi phí sản xuất bình quân trên đơn vị sản phẩm. * Chi phí bán hàng và chi phí phân phối: Đây là những chi phí cho dịch vụ bán hàng, nhu chi phí vận tải, chi phí về dịch vụ bảo hành, chi phí về phân phối bán hàng. * Chi phí xúc tiến bán hàng: Gồm các chi phí quảng cáo, triển lãm sản phẩm, xúc tiến bán hàng. 2, Những nhân tố khách quan không kiểm soát được. * Quan hệ cung cầu trên thị trường: Đây là nhân tố tồn tại độc lập, không chịu tác động chủ quan của các doanh nghiệp. Sự thay đổi quan hệ cung cầu trên thị trường sẽ dẫn đến sự biến động về giá cả. Nếu cầu tăng, cung giảm thì giá cả sẽ tăng. * Sự cạnht ranh trên thị trường: Cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp sẽ làm cho giá cả giảm xuống. * Sự điều tiết của Nhà nước: Để đảm bảo tính chất hợp lý của giá cả và tình hình ổn định về kinh tế chính trị, Nhà nước có thể can thiệp vào thị trường bằng việc định giá một số loại sản phẩm. Đối với những doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng này thì buộc phải tuân thủ đúng theo giá đã quy định. Đối với những mặt hàng Nhà nước không qua định. Đối với những mặt hàng Nhà nước không quy định giá các xí nghiệp được quyền quyết định nhưng phải theo đúng luật định. 4-/ Cạnh tranh: Cạnh tranh là bất khả kháng, là linh hồn sống của cơ chế thị trường. Cạnh tranh là động lực để phát triển kinh doanh. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường là cuộc chạy đua không đích giữa các nhà sản xuất kinh doanh. Nếu ai cảm thấy đích sẽ trở thành cầu nối để đối thủ đằng sau vượt lên. Trong nền kinh tế thị trường tồn tại cả ba trạng thái cạnh ranh: Cạnh tranh giữa những người bán với nhau, cạnh tranh giữa những người mua với nhau, cạnh tranh giữa những người mua và người bán. Cụ thể là: Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Người bán buôn muốn bán đắt, ngược lại người mua lại muốn mua rẻ. Sự cạnh tranh này diễn ra trong quá trình mặc cả để hình thành giá cả và phương thức thanh toán trên thị trường. Cạnh tranh giữa những người mua là nhằm độc quyền chiếm quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một lại hàng hoá dịch vụ. Hiện tượng này chỉ xuất hiện khi hàng hoá khan hiếm, cạnh tranh giữa các người mua làm tăng giá cả hàng hoá, người bán loại hàng này sẽ đựoc lợi . Cạnh tranh giữa những người bán, tức là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng cung ứng một thứ hàng hoá hay dịch vụ, làm cho giá cả hàng hoá giảm, và khi ấy người mua sẽ được lợi. Đây là loại cạnh tranh gay gắt nhất trên thị trường. Đối với loại cạnh tranh này có hai hình thức cạnh tranh là: cạnh tranh dọc và cạnh tranh ngang. Đó là 2 hình thức cạnh tranh dựa trên cơ sở mức chi phí bình quân thấp nhất của các doanh nghiệp. Đồng thời với cạnh tranh về giá các doanh nghiệp còn cạnh tranh với nhau bằng chất lượng sản phẩm, bằng các hình thức dịch vụ, bằng các phương thức thanh toán.... Khi đó doanh nghiệp nào không đáp ứng nhu cầu thị trường sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Mọi doanh nghiệp phải chịu sức ép không ngừng hoàn thiện giá trị sử dụng, mở rộng điểm bán, tăng cường các hình thức dịch vụ... Do vậy cạnh tranh kinh tế là phương thức vận động để phát triển nền kinh tế thị trường, bảo đảm mục tiêu lợi nhuận tối đa của doanh nghiệp qua đó lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội cũng được đảm bảo hơn. 5-/ Mối quan hệ cung - cầu và giá cả: Các bộ phận cấu thành thị trường: Cung - cầu, giá cả và cạnh tranh không tồn tại độc lập riêng rẽ với nhau mà chúng luôn tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một thể thống nhất: thị trường. Trên thị trường mỗi hàng hoá đều có một hàm cung và một hàm cầu tuân theo quy luật cung và quy luật cầu. Kết hợp quy luật về cung và quy luật với cầu thì ta đang quy luật cung cầu. Theo quy luật cung cầu thì một hàng hoá sẽ được bán theo giá vừa phối hợp với cung lại phù hợp với cầu tức là ở đó cung và cầu gặp nhau. Tại mức giá thấp hơn mức gia cân bằng cầu sẽ lớn hơn cung khi đó giá cả sẽ tự tăng lên để đạt đến điểm cân bằng. Ngược lại khi giá cả ở mức trên giá cân bằng cung sẽ lớn hơn cầu khi đó có sự dư thứa hàng hoá . Người bán muốn bán được hàng phải giảm giá cho đến khi đạt mức giá cân bằng. Với cầu co giãn: Một sự giảm nhỏ trong giá thì sẽ đạt được một lượng bán lớn, người bán sẽ chấp nhận hạ một chút ít giá để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng. IV-/ Nội dung, phương pháp nghiên cứu thị trường. Để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu khách hàng từ đó giành được thắng lợi trong cạnh tranh, đạt được mục tiêu của doanh nghiệp thì trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh doanh nghiệp phải tiến hành công tác nghiên cứu thị trường. 1-/ Nội dung nghiên cứu thị trường a - Nghiên cứu khái quát thị trường: Nghiên cứu khái quát thị trường là nghiên cứu tổng cầu hàng hoá, tổng cung hàng hoá, giá cả thị trường của hàng hoá, chính sách của chính phủ về loại hàng hoá đó. Nghiên cứu tổng cầu hàng hoá là nghiên cứu tổng khối lượng hàng hoá và cơ cấu loại hàng hoá tiêu dùng thông qua mua sắm hoặc sử dụng với giá cả thị trường trong một khoảng thời gian. Tổng khối lượng hàng hoá chính là quy mô của thị trường. Nghiên cứu quy mô thị trường phải nằm được số lượng người hoặc đơn vị tiêu dùng. Nghiên cứu tổng cầu và cơ cấu hàng hoá cũng cần nghiên cứu trên mỗi địa bàn, đặc biệt thị trường trọng điểm. Nghiên cứu tổng cung hàng hoá là nghiên cứu để xác định xem khả năng sản xuất trong một thời gian. Các đơn vị sản xuất có khả năng cung ứng cho thị trường tổng số bao nhiêu hàng khả năng nhập khẩu bao nhiêu, khả năng dự trữ (tồn kho) xã hội bao nhiêu. Giá cả bán hàng của doanh nghiệp sản xuất, giá hàng nhập khẩu. Nghiên cứu giá cả thị trường, đó là sự nghiên cứu cái yếu tố hình thành giá, các nhân tố tác động và dự án những diễn biến của giá cả thị trường. Nghiên cứu chính sách của chính phủ về loại hàng kinh doanh: cho phép kinh doanh tự do, kinh doanh có điều kiện khuyến khích hay hạn chế kinh doanh. Đó là chính sách thuế, giá các loại dịch vụ cơ bản quan như cước vận tải, giá thuế đất lãi suất tiền vay ngân hàng... b - Nghiên cứu chi tiết thị trường: Nghiên cứu chi tiết thị trường thực chất là nghiên cứu đối tượng mua, bán loại hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh; cơ cấu thị trường hàng hoá và chính sách mua bán của các doanh nghiệp có nguồn hàng lớn. Nghiên cứu chi tiết thị trường phải trả lớn được các câu hỏi: Ai mua hàng ? Mua bao nhiêu ? cơ cấu của loại hàng; mua hàng làm gì ? Đối thủ cạnh tranh là ai ?. Nghiên cứu chi tiết thị trường phải nghiên cứu nhu cầu và yêu cầu của khách hàng về loại hàng mã doanh nghiệp kinh doanh. Đối với hàng tiêu dùng, nhu cầu về loại hàng phụ thuộc vào sở tích, thu nhập, lứa tuổi nghề nghiệp trình độ văn hoá, tập quản... Nhu cầu đối với hàng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào công n ghệ định mức sử dụng nguyên vật liệu trong sản xuất và kế hoạch sản xuất mặt hàng cảu doanh nghiệp sản xuất... Nghiên cứu thị trường hàng tư liệu sản xuất phải nghiên cứu lĩnh vực tiêu dùng sản xuất. Đó là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp....Khi nghiên cứu chi tiết thị trường doanh nghiệp phải xác định tỷ trọng thị trường doanh nghiệp đặt được (thị phần cảu doanh nghiệp và thị phần cảu các doanh nghiệp khác cùng ngành, so sánh các mặt sản phẩm của mình, các hình thức dịch vụ của của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh để có biện pháp đổi mới thu hút khách hàng mua hàng của mình. 2-/ Phương pháp nghiên cứu thị trường: Để nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp người ta thường dùng hai phương pháp là : phương pháp nghiên cứu tại bản và phương pháp nghiên cứu hiện trường. a - Phương pháp nghiên cứu tại bản: Phương pháp những tại bản hay còn gọi là phương pháp nghiên cứu văn phòng là phương pháp phổ thông nhất của mọi cán bộ nghiên cứu thị trường. Đây là phương pháp nghiên cứu thị trường bằng các nguồn thông tin thứ cấp bao gồm: - Các nguồn thông tin trong nước về thị trường cần nghiên cứu: Niêm giám thông kê Việt Nam, các bản tin về thị trường giá cả, tạp chí thương mại, sách báo thương mại, các báo cáo của bộ thương mại, báo cáo tổng kết đánh giá của chính phủ, cán Bộ, ngành có liên quan. - Các nguồn thông tin tư liệu quốc tế cần nc: Trung tâm thương mại quốc tế, tổ chức thương mại thế giới (WTO), tổ chức thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), thống kê của Liên Hợp Quốc (UNSO). Ngoài ra nghiên cứu tại bản có thể tìm tài liệu ở ngoài doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp chiếm thị trường phần lớn; cũng có thể đã có nghiên cứu các tài liệu ở trong doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp đã có những tài liệu có liên quan đến việc mua, bán mặt hàng cần nghiên cứu và doanh nghiệp đang chiếm một thị phần đáng kể. Hiện nay nghiên cứu tài bản có một nguồn thông thị trường cực kỳ lớn và phong phú đó là nguồn thông tin từ mạng Internet. Bàng việc tiếp nối máy tính vào mạng Internet nhà nghiên cứu thị trường có thể tìm được thông tin về thị trường ỏ khắp nói trên thế giới qua các Trang web của các doanh nghiệp, của các phòng thương mại, tổ chức thương mại các nước... Qua nguồn thông tin này doanh nghiệp có thể biết được số lượng hàng hoá, giá cả, cạnh tranh trên thị trường trong nước và trên thế giới. Thông tin ở trên mạng Internet thường xuyên được thay đổi cấp nhật trên các doanh nghiệp, các tổ chức do vậy nó có ít độ trễ so với thực tế. Các cán bộ nghiên cứu thị trường, cần triệt để khai thác nguồn tài nguyên thông tin quá giá này. Nghiên cứu tại bàn cho phép ta nhìn được khái quát thị trường mặt hàng cần nghiên cứu. Đây là phương pháp tương đối dễ làm có thể nhanh ít tốn chi phí nhưng đòi hỏi người nghiên cứu phải có chuyên môn, biết cách thu nhập tài liệu, đánh giá và sử dụng các tài liệu được thu nhập một cách đầy đủ và tin cậy. Tuy nhiên phương pháp này còn hạn chế là dựa vào tài liệu đã xuất bản nên thời gian đã qua, Bài lệch so với thực tế và mức độ tin cậy có hạn. b - Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: Đây là phương pháp trực tiếp cử cán bộ đến tận nơi để nghiên cứu. Cán bộ nghiên cứu thông qua các phương pháp là quan sát, thực nghiệm, thăm dò dư luận. * Quan sát: Là một trong những phương pháp thu thập số liệu sơ cấp có thể áp dụng khi người nghiên cứu trên hành quan sát trực tiếp người và hoàn cảnh, khuyết điểm của phương pháp quan sát là chỉ thấy được sự mô tả bên ngoài, tốn nhiều công sức và thời gian. Thực hiện: nghiên cứu thực hiện đòi hỏi phải tuyển chọn các nhóm đối tượng có thể so sánh được với nhau, tạo ra cho các nhóm đó hoàn cảnh khác nhau, kiểm tra những thành phần biến động và xác định mức độ quan trọng của các đặc điểm được quan sát. Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm ra mối quan hệ nhân quả bằng cách sàng lọc những bài giải thích mâu thuẫn nhau về các kết quả quan sát được. * Thăm dò dư luận: là phương pháp nắm giữa quan sát và thực nghiệm. Quan sát phù hợp nhất với những nghiên cứu thăm dò, thực nghiệm thì phù hợp nhất với việc tìm kiếm những mối liên hệ nhân quả, trong khi đó thăm dò dư luận lại thuận tiện nhất khi tiến hành nghiên cứu mô tả. Các công ty tiến hành thăm dò dư luận để có được những thông tin về tư thức, chính kiến và sở thích của con người, về mức độ thoả mãn của họ.... Cũng như để đo độ bền vững của địa vị của mình dưới con mắt của công chúng. Khi nghiên cứu thị trường tại hiện trường các cán bộ nghiên cứu thường sử dụng hai công cụ nghiên cứu chủ yếu là phiếu điều tra và các thiết bị cơ học. Phiếu điều tra, theo nghĩa rộng, là một loạt các câu hỏi mà người được hỏi vẫn trả lời. Phiếu điều tra là một dụng cụ rất mềm dẻo theo nghĩa là có thể đưa ra những câu hỏi bằng rất nhiều các phương thức khác nhau. Phiếu điều tra đòi hỏi phải soạn thảo kỹ, thử và sửa những thiếu sót đã phát hiện thấy chưa khi đem sử dụng nó rộng rãi. Tuy nhiên điều tra là một công cụ nghiên cứu phổ biến nhất, các thiết bị cơ học cũng được sử dụng trong nghiên cứu thị trường. * Các phương thức liên hệ với công chúng: Làm thế nào để tiếp xúc với các thành viên của mẫu nghiên cứu? Qua điện thoại, bưu điện hay phỏng vấn trực tiếp. 1. Phỏng vấn qua điện thoại: là phương pháp tốt nhất để thu thập thông tin nhanh nhất. Phỏng vấn qua điện thoại có hai nhược điểm cơ bản là: chỉ có thể thăm dò dư luận của những người có điện thoại và cuộc nói chuyện phải gói gọn trong một thời gian ngắn. 2. Phiếu điều tra gửi qua bưu điện: những phiếu điều tra gửi qua bưu điện đòi hỏi các câu hỏi phải đơn giản, rõ ràng, còn tỷ lệ phần trăm gửi trả phiếu lại thấp và thời gian gửi trả rất lâu. 3. Phỏng vấn trực tiếp: là phương pháp thăm dò dư luận tối ưu nhất trong ba phương pháp. Người phỏng vấn không những có thể đưa ra nhiều câu hỏi hơn mà còn có thể bổ xung những kết quả nói chuyện bằng những quan sát trực tiếp của mình. Phỏng vấn trực tiếp là phương pháp đắt tiền nhất trong ba phương pháp và đòi hỏi phải có kế hoạch chuẩn bị kỹ và kiểm tra chặt chẽ. Như vậy, nghiên cứu thị trường là một hoạt động không thể thiếu của các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Nó phải được tiến hành một cách thường xuyên liên tục trước trong và sau mỗi giai đoạn kinh doan. Việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu thị trường một cách riêng rẽ hay phối hợp là tuỳ theo mục tiêu của doanh nghiệp, khả năng của doanh nghiệp và điều kiện thị trường. Phần II Thực trạng thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp trong thời gian qua và các kiến nghị I-/ Thực trạng thị trường và công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp trong thời gian qua: 1-/ Thực trạng thị trường trong thời gian qua: Nghị quyết 12 của Bộ chính trị ngày 3-1-1996 đánh giá tình hình thị trường qua những năm đổi mới: - Chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu. - Chuyển thị trường từ trạng thái chia cắt khép kín theo địa giới hành chính kiểu “tự cấp, tự túc” sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Với sự tham gia về vốn, kỹ thuật và lưu thông hàng hoá làm cho thị trường trong nước phát triển sống động, tổng mức lưu chuyển hàng hoá xã hội tăng nhanh. - Thị trường ngoài nước được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. - Quản lý Nhà nước và thị trường và hoạt động thương mại có tiến bộ về tổ chức hệ thống, hoạch định chính sách vĩ mô, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển. Nghị quyết 12 NQ/TW cũng chỉ ra những hạn chế cần khắc phục: - Thị trường hàng hoá và số lượng doanh nghiệp bung ra kinh doanh phát triển với tốc độ nhanh, nhưng nặng tính tự phát. Nền thương nghiệp về cơ bản vẫn là một nền thương nghiệp nhỏ, tổ chức phân tán manh mún, buôn bán theo kiểu “chụp giựt” qua nhiều tầng nấc, dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra ở thị trường trong nước bị chèn ép giá ở thị trường nước ngoài. Chưa thiết lập được mối liên kết lâu dài giữa cơ sở sản xuất với nhà buôn và giữa các nhà buôn để hình thành những kênh lưu thông ổn định, tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng, xây dựng thị trường cung ứng và tiêu thụ vững chắc đặc biệt trên lĩnh vực bán vật tư nông nghiệp, mua nông sản thực phẩm. - Kỷ cương pháp luật bị vi phạm, trật tự thị trường chưa được xác lập. Nạn buôn lậu, buôn bán hàng giả diễn ra nghiêm trọng tác động xấu đến sản xuất và đời sống. Những đánh giá nhận xét về tình hình thị trường trong Nghị quyết 12/NQTW được cụ thể hoá như sau: a-/ Tình hình thị trường trong nước: Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội tăng lên hàng năm. Năm 1990 đạt 19.031,2 tỷ đồng, năm 1991 đạt 33.403,6 tỷ đồng, năm 1992 đạt 51.214,5 tỷ đồng, năm 1996 đạt 145.874 tỷ đồng, năm 1997 đạt 158.000 tỷ đồng, năm 1998 đạt 180,5 ngàn tỷ đồng. Thị trường nông thôn miền núi năm 1998 có tiến bộ nhờ bước đầu triển khai Nghị định 20/CP ngày 31/3/1998 của Chính phủ về phát triển thương nghiệp miền núi, biên giới và hải đảo. Năm 1998 thị trường các tỉnh miền núi có tiến bộ tăng trưởng về tổng mức bán lẻ năm 1998 phổ biến từ 6-15% so với năm 1997. Về giá cả trên thị trường năm 1998: Giá các loại vật tư, vật liệu xây dựng và hàng tiêu dùng tương đối ổn định. Riêng giá lương thực có mức tăng cao, có lợi cho nông dân. Việc thực hiện dán tem một số mặt hàng nhập khẩu đã tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất và kinh doanh hàng trong nước phát triển tốt, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chống hàng lậu và gian lận thương mại. b-/ Về tình hình thị trường nước ngoài: Kể từ khi thực hiện đường lối mở cửa giao lưu buôn bán với nước ngoài kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được tăng lên. Điều đó được thể hiện: năm 1998-1998 kim ngạch xuất khẩu luôn luôn tăng, tuy tốc độ tăng không đều. Giai đoạn 1988-1993 tăng chậm do thị trường khu vực I tan rã, ta bước đầu chuyển sang thị trường khu vực II; giai đoạn 1993-1997 kim ngạch xuất khẩu gia tăng với tốc độ “thần kỳ” 30%/năm. Năm 1998 và 3 tháng đầu năm 1999 kim ngạch xuất khẩu tăng chậm và chựng lại. Nguyên nhân khách quan do thiên tai và khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực chủ quan: do yếu kém của ngành ngoại thương. Từ tháng 1-1999 đến nay, kim ngạch xuất khẩu đã tăng trở lại. Bảy tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 1.166 triệu USD tăng 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân khách quan do một số nước Châu á đã qua cơn khủng hoảng, đang tăng nhu cầu nhập khẩu như Nhật, Hàn Quốc,... thị trường EU cũng dành cho Việt Nam một số thuận lợi. Nguyên nhân chủ quan: Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của Chính phủ đã bắt đầu phát huy tác dụng trong đó đặc biệt quan trọng là Nghị định 57/CP về mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp và quy chế thưởng xuất khẩu. Cộng với nỗ lực bươn trải của các doanh nghiệp đã tạo nên sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trong mấy tháng gần đây. Bảng 3: 20 thị trường xuất nhập khẩu hàng đầu của Việt Nam Đơn vị tính: triệu USD 1994 1997 1998 VNX VNN XNK VNX VNN XNK VNX VNN XNK Singapore 594 1.146 1.740 1.157 2.075 3.232 1.100 2.420 3.520 Nhật Bản 1.179 586 1.765 1.615 1.428 3.043 1.390 1.460 2.850 Đài Loan 220 396 616 780 1.391 2.171 650 1.360 2.010 Hàn Quốc 86 721 807 352 1.556 1.908 220 1.400 1.620 Trung Quốc 296 144 440 521 409 930 470 460 930 Thái Lan 97 226 323 223 569 792 260 640 900 Đức 115 149 264 396 281 677 540 340 880 Hồng Kông 197 319 516 473 608 1.071 330 500 830 Hoa Kỳ 95 44 139 273 416 689 470 330 800 Pháp 117 240 357 228 548 776 280 330 610 Austraylia 46 64 110 181 196 377 330 220 550 Indonesia 35 116 151 48 200 248 280 250 530 Philippines 4 15 19 211 36 247 350 60 410 Anh 65 19 84 256 103 359 310 400 Nga 90 289 379 120 159 279 230 161 394 Malaysia 65 66 131 147 217 364 102 240 342 Hà Lan 61 25 86 251 50 301 290 50 340 Thuỵ Sĩ 28 26 54 318 146 464 260 76 336 Bỉ 15 9 24 114 79 193 190 65 255 Italia 20 34 54 111 98 209 112 90 202 Sau đây sẽ xem xét cụ thể thị trường xuất nhập khẩu: Thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Nếu đạt cả hai chiều xuất và nhập khẩu thì Singapore là thị trường lớn nhất củaViệt Nam (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1998 là 3.520 triệu USD) nhưng nếu đạt theo kim ngạch xuất nhập khẩu thì các thị trường lớn ở Việt Nam là: Nhật, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan, Đức, Mỹ, Philippin, úc, Thái Lan, Thuỵ Sĩ, Anh, Inđonesia, Pháp, Nga, Hàn Quốc, Bỉ, Italia, Malaysia. Theo Bộ thương mại, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường này trong những năm qua gia tăng nhanh chóng từ 58,7% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1994 lên 87,2% năm 1998. Ngoài 20 thị trường lớn nêu trên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường mới như Trung Cận Đông, Ucraina, Nam Phi,... cũng tăng mạnh trong thời gian gần đây. Nghiên cứu một số thị trường chính ta thấy: * Thị trường ASEAN: Kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với các nước trong khối ngày càng phát triển và có những bước tăng trưởng vượt bậc. Đến giữa năm 1999 thị trường ASEAN chiếm 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và khoảng 32% tổng kim ngạch nhập khẩu. Việt Nam xuất sang các nước ASEAN gạo, dầu thô, giày dép, hàng dệt may,... và nhập xăng, dầu, sắt thép, xe máy,... Do các nước ASEAN có cùng chung lợi thế với Việt Nam, lại có trình độ phát triển cao hơn chúng ta nên hàng Việt Nam khó cạnh tranh, mức nhập siêu ngày càng tăng, mỗi năm trung bình lên tới 7,2 tỷ USD. Điều này đòi hỏi Nhà nước, Bộ thương mại và các doanh nghiệp khẩn trương tìm biện pháp nâng tính cạnh tranh của hàng Việt Nam. * Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu củaViệt Nam. Nhật là bạn hàng lớn thứ hai sau Singapore, kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1998 đạt xấp xỉ 3 tỷ USD. Ngày 26-5-1999 Chính phủ Nhật Bản đã cấp quy chế tối huệ quốc (MFN) cho Việt Nam tạo cơ hội mới để phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước. Mục tiêu đặt ra: đến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và Nhật đạt 5,1-5,4 tỷ USD. Để biến hy vọng thành hiện thực các doanh nghiệp Việt Nam cần: Tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm: nghiên cứu kỹ các kênh phân phối, tìm hiểu cá tính của các doanh nhân Nhật Bản để có khả năng thích ứng. * Thị trường Mỹ: Đây là thị trường rộng lớn giảm tiềm năng, mạnh về khả năng thanh toán nhưng khả năng cạnh tranh cũng rất khốc liệt. Bốn năm qua kể từ khi Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam quan hệ buôn bán giữa hai nước phát triển theo chiều hướng tốt. Đến nay kim ngạch xuất nhập giữa Việt Nam - Mỹ đạt gần 1 tỷ USD/năm. Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ: cà phê, hải sản, hàng may mặc,... và nhập từ Mỹ: thiết bị máy móc, nguyên vật liệu,... Sắp tới đây Hiệp định - thương mại Việt Nam Mỹ được ký kết sẽ mở ra triển vọng mới trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Để đón nhận cơ hội mới này các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực phấn đấu nâng cao tính cạnh tranh các hàng Việt Nam thì mới có thể thâm nhập và trụ vững trên thị trường rộng lớn này. Nghiên cứu các thị trường khác như EU, Nga, Trung Quốc,... chúng ta rút ra nhận định chung: tính cạnh tranh của hàng Việt Nam còn rất yếu. Muốn mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, bắt buộc phải nâng tính cạnh tranh của hàng Việt Nam 2-/ Thực trạng công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp trong thời gian qua: Chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự hoạch toán và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Sự tồn tại hay diệt vong của doanh nghiệp do thị trường quyết định do vậy hiện nay các doanh nghiệp đã rút ra kết luận “phải bán cái thị trường cần chứ không phải thứ mà mình có”. Để nắm bắt được nhu cầu và tình hình thị trường các doanh nghiệp đã tiến hành các công tác nghiên cứu thị trường. Công tác nghiên cứu thị trường ở các doanh nghiệp hiện nay không còn là hình thức mà nó được coi là một công việc, rất quan trọng được tiến hành một cách thường xuyên liên tục. Việc nghiên cứu thị trường được tiến hành ở hai cấp độ: nghiên cứu khái quát thị trường: nghiên cứu tổng cung, tổng cầu giá cả hàng hoá và nghiên cứu chi tiết thị trường: nhu cầu khách hàng, số lượng,... Phương pháp nghiên cứu thông tin thị trường được sử dụng là hai phương pháp: nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường. Việc tiến hành công tác nghiên cứu thị trường ở các doanh nghiệp đã bước đầu cho phép các doanh nghiệp xác định được nhu cầu thị trường, dự báo tình hình thị trường, đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên mức đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp còn thấp chưa có cán bộ chuyên trách và công tác nghiên cứu thị trường có trình độ chuyên môn cao, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với một số tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ để khai thác thông tin thị trường,... Ví dụ về công tác nghiên cứu thị trường ở công ty thương mại - dịch vụ Tràng Thi: Công ty thương mại - dịch vụ Tràng Thi là một doanh nghiệp thương mại đóng trên địa bàn Hà Nội. Công ty thương mại - dịch vụ Tràng Thi có 14 đơn vị trực thuộc được bố trí trên địa bàn Hà Nội. Hiện nay công tác nghiên cứu thị trường của công ty được tiến hành ở hai mức: Toàn công ty và các đơn vị trực thuộc. Hoạt động này ở công ty thì do phòng kinh doanh đảm nhận và ở các đơn vi thì do cán bộ phụ trách kinh doanh của đơn vị đảm nhận. ở mức độ toàn công ty thì hoạt động nghiên cứu thị trường được tiến hành trên phạm vi rộng hơn, bao quát hơn, là các đơn vị trực thuộc chủ yếu là thị trường Hà Nội, và các tỉnh phía Bắc. Còn đối với các đơn vị trực thuộc thì chủ yếu tiến hành nghiên cứu trên địa bàn mà mình hoạt động. Trong những năm vừa qua hoạt động nghiên cứu thị trường các công ty được tiến hành như sau: * Về phương pháp thu thập thông tin về thị trường: cũng được tiến hành theo hai cách nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường. - Nghiên cứu tại bàn: theo cách này công ty có được các thông tin về thị trường chủ yêú thông qua các báo cáo về tình hình thị trường, tình hình hoạt động cũng như số lượng doanh nghiệp, tình hình thực hiện kế hoạch thương mại mỗi năm và các dự báo phương hướng cho năm tới của Bộ thương mại, Sở thương mại Hà Nội các kết quả điều tra về dân số mức sống,.... các sách báo chí. Bên cạnh đó công ty cũng căn cứ vào các kết quả điều tra thị trường, kết quả hoạt động kinh doanh của chính bản thân công ty đã có trong những năm trước. - Nghiên cứu tại hiện trường: theo cách này để có được các thông tin về thị trường công ty tiến hành tiếp cận thị trường Hà Nội thông qua việc xuống trực tiếp các đơn vị trực thuộc công ty phân bố ở các quận, huyện trong thành phố. Ngoài ra công ty cũng tổ chức các đoàn cán bộ đi khảo sát thị trường trong ngoài tỉnh, thu thập các thông tin phản hồi trực tiếp của khách hàng,... qua đó nắm bắt được các nhu cầu khách hàng cũng như khả năng tiêu thụ từng loại hàng hoá trên từng khu vực và theo từng thời vụ khác nhau. Tuy nhiên: nhìn chung trong những năm qua công tác nghiên cứu thị trường ở công ty không được chú ý đến một cách đúng mức, các hoạt động nghiên cứu không được thực hiện một cách chuyên môn mà hầu như chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu khái quát thị trường Hà Nội như nghiên cứu tổng cung, tổng cầu hàng hoá giá cả thị trường của hàng hoá,... chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu chi tiết thị trường. Điều này thể hiện ở việc công ty chưa xác định được tỷ trọng thị trường mà mình đạt được, không có được các thông tin chi tiết về các đối thủ cạnh tranh,... Nguyên nhân vấn đề là do: * Về chủng loại mặt hàng kinh doanh của công ty rất phong phú và đa dạng do đó sẽ rất tốn kém và khó khăn để có thể tiến hành nghiên cứu chi tiết cho từng mặt hàng hay từng loại mặt hàng. Bên cạnh đó công ty lại bao gồm rất nhiều đơn vị trực thuộc mà mỗi đơn vị này lại hoạt động gần như độc lập và cùng kinh doanh nhiều mặt hàng do đó nếu tiến hành nghiên cứu thị trường ở phạm vi toàn công ty thì chỉ có thể nghiên cứu một cách khái quát nhằm đi đến các quyết định mang tính chỉ đạo chung. Nhưng nếu tiến đến nghiên cứu ở phạm vi từng đơn vị trực thuộc thì lại gặp hạn chế về vốn và về nhân sự. * Công ty chưa có một Ban chuyên trách công tác nghiên cứu thị trường mà các hoạt động này cho đến hiện nay vẫn do các cán bộ phòng kinh doanh của công ty hoặc do các cán bộ phụ trách kinh doanh ở từng đơn vị đảm nhận. Do đó không thể đảm đương được tất cả công việc. * Ví dụ về công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài ở Tổng công ty dệt may Việt Nam: Tổng công ty dệt may Việt Nam là một tổng công ty vai trò rất lớn trong việc quản lý và định hướng cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam. Một trong những cơ hội và cũng là một khó khăn cho sự phát triển của ngành Dệt - May Việt Nam đó là việc tham gia vào thị trường dệt may thế giới trong điều kiện mức độ chấn động và cạnh tranh trên thị trường là rất lớn. Để có thể tồn tại và phát triển được trong thị trường đó việc cần làm trước hết đối với tổng công ty là nghiên cứu thị trường. Công tác nghiên cứu thị trường ngày càng được tổng công ty coi trọng, ngay từ khi mới thành lập, tổng công ty đã xây dựng ban kế hoạch - thị trường để đảm nhận việc nghiên cứu, phân tích và dự báo thị trường phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của tổng công ty. Về việc nghiên cứu khái quát thị trường: Tổng công ty luôn chú ý tới việc nghiên cứu các nhân tố mang tính chất toàn cầu vì nó chính là tiền đề cho sự phát triển trong tương lai của Tổng công ty. Điều này được thực hiện khá rõ trong chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam tới năm 2010. Trong chiến lược này Tổng công ty đã đưa ra một bản dự bảo về thị trường cho hoạt động của mình trong những năm tới, đánh giá được những mặt thuận lợi cũng như những khó khăn hạn chế mà ngành Dệt may Việt Nam sẽ gặp phải khi thâm nhập vào thị trường thế giới. Đặc biệt khi Việt Nam ký kết hiệp định thương mại song phương với Mỹ, các hiệp định về thuế quan của AFTA, APEC được thực hiện đối với Việt Nam và khi Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Hoạt động nghiên cứu thị trường cũng quan tâm đến những yếu tố về kinh tế chính trị, pháp luật của các nước, các vùng kinh tế mà tổng công ty thực hiện hoạt động xuất khẩu vì đây là điều kiện ban đầu quyết định tới việc Tổng công ty có thể xuất khẩu sang thị trường các nước này hay không, các chính sách của Chính phủ về hoạt động xuất nhập khẩu như mức thuế quan về hàng dệt may đối với các thị trường phi hạn ngạch như Nhật Bản, Nga... các thị trường được quảnlý bằng hạn ngạch như thị trường EU, các háng rào phi thuế quan khác như các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm trên từng khu vực thị trường. Đây cũng là một trong những yếu tố đó tiến hành lựa chọn thị trường, lựa chọn các phương thức thâm nhập thị trường của Tổng công ty và để ra các biện pháp chính sách phù hợp góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu các yếu tố về môi trường văn hoá của từng nước cũng đang dần được quan tâm. Trước kia hoạt động nghiên cứu thị trường của Tổng công ty thường không quan tâm nhiều tới các yếu tố về môi trường văn hoá của các vùng thị trường, các sản phẩm chủ yếu được chịu vào sản phẩm tiêu chuẩn có ở trên thị trường. Về nghiên cứu chi tiết thị trường: Tổng công ty thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo về các thị trường xuất khẩu hàng may mặc chỉ Mỹ, Nhật Bản... giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên đề cập nhật những thông tin về giá cả hàng hoá, nguyên vật liệu, tình hình biết động trên thị trường thế giới ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của toàn công ty, từ đó rút ra những nhận xét và đưa ra các giải pháp tốt nhất trong việc mở rộng và thâm nhập thị trường nước ngoài. Trong thời gian qua tổng công ty đã cử nhiều đoàn cán bộ đi tham gia các hội chợ triển lãm, tham quan khảo sát tại một số nước Nhật Bản, Trung Quốc, EU, Mỹ. Để tìm hiểu về thị trường và kiểm thêm khách hàng. Tổng công ty cũng thực hiện hoạt động nghiên cứu thị trường nước ngoài thông qua một số văn phòng đại diện của tổng công ty trên các thị trường Nga, Nhật, Đông Âu...hoạt động nghiên cứu thị trường trong thời gian qua của Tổng Công ty cũng đã thu được một số kết quả nhất định: Tổng công ty đã đưa ra được nhiều mẫu mã quần áo và phát triển thêm một số sản phẩm mới cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Đặc biệt, tỷ trọng hàng xuất khẩu trực tiếp của Tổng công ty trong những năm qua đã tăng lên đáng kể ngay cả trong năm 1998. Điều này đã chứng tỏ Tổng công ty đã từng bước tiếp cận được với thị trường thế giới. Tuy nhiên hoạt động nghiên cứu thị trường của Tổng công ty còn rất hạn chế do sự eo hẹp về tài chính cho hoạt động này. Việc nghiên cứu thị trường diễn ra không liên tục, đều đặn và những thông tin thu được thường không đầy đủ và có độ chính xác chưa cao. Do đó các chính sách đề ra chưa đạt hiệu quả cao, chưa nhanh nhạy với sự biến động của thị trường quốc tế, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua thị trường phi hạn ngạch của Tổng công ty đã bị suy giảm đáng kể. Phần lớn việc nghiên cứu được thực hiện gián tiếp thông qua tài liệu của các tổ chức trong và ngoài nước thông qua báo chí. Phương pháp này có ưu điểm là chi phí thấp và có tác dụng tốt trong việc nghiên cứu thị trường một cách khái quát tuy nhiên nó không cho biết chính xác về nhu cầu chi tiết của thị trường. Từ hai ví dụ trên về công tác nghiên cứu thị trường trong nước và nước ngoài cho thấy: các doanh nghiệp đã có sự quan tâm, chú ý đến công tác nghiên cứu thị trường. Song có thể do nguyên nhân chủ quan là: Ban lãnh đạo chưa thực sự thấy hết được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường hoặc do nguyên nhân khách quan là khả năng về tài chính, nhân lực không cho phép mà công tác nghiên cứu thị trường vẫn chưa được đầu tư một cách đúng mức. II-/ Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường và hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường ở các doanh nghiệp. 1-/ Về phát triển thị trường. a-/ Phát triển thị trường nội địa. Từ đầu năm 1998 đến nay do tác động xấu của khủng hoảng kinh tế và thiên tai, sức mua trong dân giảm sút hàng hoá vì thế tồn đọng lớn, nên việc kích cầu đang được đặt ra một cách cấp bách. Phát triển thị trường nội địa cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất: Tăng sức mua của dân cư đặc biệt dân cư nông thôn. Sức mua của nông dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Tổng sản lượng, tỷ trọng sản lượng hàng hoá tiêu thụ, giá cả hợp lý, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn. Sức mua của công nhân viên chức phụ thuộc vào tiền lương mà sau cải tiến đến nay giá đã tăng lên 50% lương mới được bù 20%. Thứ hai: Tăng đầu tư xây dựng và cơ sở vật chất cho xã hội. Tăng tỷ lệ vốn đầu tư của Nhà nước. Trong lúc này là một biện pháp quan trọng để tăng sức mua, giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Thứ ba: Về tiền tệ và tín dụng: Cần theo dõi trực tiếp chặt chẽ diễn biến trên thị trường trong nước và nước ngoài, lãi suất huy động và lãi cho vay cũng cần được đối chiếu với tốc độ tăng giá tiêu dùng để góp phần tăng trưởng kinh tế tránh cả lạm phát và giải pháp. Trong một chừng mực nào đó có thể giảm thuế để tăng sức mua. Thứ tư: Tổ chức hoạt động thị trường thông suốt, hàng hoá đổi mới đa dạng hợp túi tiền nhân dân, áp dụng các phương thức bán trả góp, trả chậm... b-/ Phát triển thị trường xuất khẩu. Mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu là nhiệm vụ trọng tâm trong lĩnh vực hoạt động thương mại ở nước ta hiện nay. Để mở rộng được thị trường cần thực hiện một số biện pháp. Một là: Nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu. Đây là biện pháp rất quan trọng để mở rộng thị trường đầu tư chiều sâu, tiếp nhận công nghệ tiên tiến, củng cố khâu quản lý, tăng năng suất lao động. Đặc biệt cần sớm áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Hai là: Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại để quản lý hoạt động xúc tiến thương mại trong cả nước và khắc phục những yếu kém trong tổ chức hội chợ, triển lãm hoặc tham gia hội chợ triển lãm tại nước ngoài trong thời gian qua. Tăng cường xúc tiến thương mại giúp các thương nhân Việt Nam tìm được khách hàng, các thương vụ có thể nghiên cứu xây dựng và đăng ký cụ thể với Bộ thương mại về trị giá kim ngạch xuất khẩu vào từng thị trường. Ba là: Đào tạo đội ngũ doanh nhân Việt Nam giỏi nghiệp vụ, ngoại ngữ, có bản lĩnh dám đương đầu với khó khăn, dám cạnh tranh và giành chiến thắng. 2-/ Về hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường ở doanh nghiệp. a-/ Kiến nghị đối với Nhà nước: - Nhà nước cần thiết lập một hệ thống thông tin đầy đủ và cập nhật về tình hình thị trường trong và ngoài nước để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành công tác nghiên cứu thị trường. - Giảm cước để các doanh nghiệp có điều kiện sử dụng rộng rãi mạng Internet để truy cập thông tin, giao dịch với khách hàng. - Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về nghiên cứu thị trường cho các cán bộ kinh doanh của các doanh nghiệp. b-/ Giải pháp đối với doanh nghiệp: Nghiên cứu thị trường là việc cần thiết đầu tiên đối với mỗi doanh nghiệp. Vì thị trường không phải là bất biến mà thị trường luôn biến động đầy bí ẩn và thay đổi không ngừng do đó nghiên cứu thị trường là việc làm thường xuyên của mỗi doanh nghiệp. Để hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường các doanh nghiệp cần: Thứ nhất: Thành lập tổ riêng chuyên phụ trách công tác nghiên cứu thị trường. Như phần trên đã trình bày: ở hầu hết các doanh nghiệp hiện nay hoạt động nghiên cứu thị trường hoàn toàn do phòng kinh doanh và các cán bộ phụ trách kinh doanh ở từng đơn vị trực thuộc đảm nhận mà đây là một công việc có khối lượng lớn, phức tạp do vậy việc nghiên cứu không được tiến hành một cách chi tiết, tỉ mỉ. Mặt khác với tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường thì cần phải có một sự đầu tư riêng về nhân sự, thiết bị, kinh phí hoạt động... Sau khi được thành lập bộ phận này sẽ phải thực hiện nhiệm vụ thu thập xử lý các thông tin về thị trường để đưa ra các dự báo thị trường và hiệu quả hoạt động cũng như vị trí của công ty trên thị trường. Về nhân sự của tổ nghiên cứu thị trường: Tuyển chọn các cán bộ có khả năng phân tích, xét đoán, tổng hợp, có năng lực kinh nghiệm và năng động nhạy bén với những diễn biến trên thị trường và trung thành với công ty. Có kế hoạch về đào tạo và đào tạo lại cán bộ nghiên cứu thị trường để bắt kịp với những tiến bộ, thành tựu mới trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Liên kết với các trường Đại học, trung tâm đào tạo để đào tạo cán bộ nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp và bổ sung thêm những cán bộ mới. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bộ phận này: Mua sắm dụng cụ tính toán phục vụ cho việc thống kê phân tích tính toán in ấn các tài liệu: Máy vi tính, các phần mềm máy tính dùng cho thống kê, phân tích số liệu. Đầu tư phương tiện để khai thác, tiếp cận thông tin thị trường một cách nhanh nhất: Điện thoại, fax, kết nối mạng Internet và mạng thông tin trong nước. Tạo điều kiện đi lại nhanh chóng và thuận tiện cho cán bộ khi làm việc để nắm vững và kiểm tra thông tin. Thiết lập một hệ thống thông tin qua các ấn phẩm của các tổ chức Nhà nước và nước ngoài. Cần có chính sách để cung cấp cho bộ phận này một nguồn kinh phí hoạt động hàng năm: Thiết lập các chính sách khen thưởng và kỷ luật hợp lý để thu được hiệu quả cao trong công tác nghiên cứu thị trường. Các doanh nghiệp cũng cần phát triển thêm các hình thức thu thập thông tin trực tiếp như tiến hành gặp và phỏng vấn trực tiếp khách hàng, tham dự hội nghị khách hàng của các đơn vị cung ứng cũng như các doanh nghiệp khác... Một vấn đề rất quan trọng nữa là: Với các doanh nghiệp không có khả năng về tài chính, nhân sự để thành lập bộ phận chuyên trách về công tác nghiên cứu thị trường thì có thể đi thuê các công ty nghiên cứu thị trường để họ tiến hành nghiên cứu thị trường cho mình. Các công ty nghiên cứu thị trường chuyên hoạt động trong lĩnh vực này do vậy họ có thể làm việc nhanh chóng và chính xác. Tuy nhiên chi phí thuê công ty nghiên cứu thị trường là khá cao và hoạt động nghiên cứu thị trường như trên đã nói phải được tiến hành một cách thường xuyên liên tục. Chính vì vậy: Các doanh nghiệp phải tập trung khả năng để thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường của mình. Đối với những doanh nghiệp đã thành lập được tổ, ban nghiên cứu thị trường song quy mô thị trường quá lớn và khả năng về tài chính của doanh nghiệp lại eo hẹp thì doanh nghiệp nên tăng cường các hoạt động nghiên cứu thị trường trên một số các thị trường trọng điểm, thị trường có tiềm năng phát triển trong tương lai của mình. Trên mỗi vùng thị trường trọng điểm đó doanh nghiệp cần xác định rõ được những điểm nổi bật, những vấn đề cần phải quan tâm và đi sâu nghiên cứu. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường, thị trường là môi trường sống, là mảnh đất sống cho mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Để tồn tại và phát triển được trong điều kiện thị trường luôn biến đổi, cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường. Công việc trước hết và quan trọng nhất cần phải tiến hành trong quá trình sản xuất kinh doanh là nghiên cứu thị trường, công việc này cần được chú trọng đầu tư thích đáng và tiến hành thường xuyên liên tục đúng với ý nghĩa của nó. Nếu doanh nghiệp xao lãng công việc này sẽ dẫn đến tình trạng mất phương hướng hoạt động và mất dần thị phần của mình, thậm chí còn có thể bị đào thải khỏi thị trường. Do vậy, thị trường và nghiên cứu thị trường ở các doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện. Đề tài: "Thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường ở doanh nghiệp" đã nêu ra cơ sở lý luận của vấn đề thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường, đánh giá tình hình thị trường và nghiên cứu thị trường ở các doanh nghiệp trên cơ sở đó em đưa ra một số kiến nghị nhằm mở rộng thị trường và hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường ở doanh nghiệp. Do điều kiện không cho phép, bài viết này của em không tránh khỏi hạn chế. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy và các bạn. Danh mục tài liệu tham khảo 1-/ Nghị quyết 12/NQTW của Đảng Cộng Sản Việt Nam - ngày 3/1/1996. 2-/ Giáo trình kinh tế thương mại PGS-PTS Nguyễn Duy Bột PGS-PTS Đặng Đình Đào - NXB Giáo dục - 1997. 3-/ Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại. PGS-PTS Hoàng Minh Đường PTS Nguyễn Thừa Lộc - NXB Giáo dục - 1998 4-/ Giáo trình Marketing thương mại TS - Nguyễn Xuân Quang - NXB Thống kê - 1999 5-/ Tìm hiểu thị trường trong sản xuất kinh doanh PTS Hoàng Bình - NXB TP Hồ Chí Minh - 1998 6-/ Báo cáo thương mại. 7-/ Marketing căn bản P.Kotler - NXB Thống kê - 1996 8-/ Tạp chí: Thương mại Việt Nam Kinh tế phát triển Kinh tế và dự báo. 9-/ Báo Hà Nội mới, Thời báo kinh tế Việt Nam. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0609.doc
Tài liệu liên quan