Chuyên đề Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam: thực trạng và giải pháp

Trong quá trình hội nhập và mở cửa nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua đã không ngừng thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và thị trường xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng. Việt Nam từ một nước xuất khẩu kém trên thế giới thì đến năm 2000 vừa qua Việt Nam vượt qua ngưỡng cửa xuất khẩu kém trên thế giới( trên 175USD/người/năm), cơ cấu thị trường và cơ cấu hàng hoá xuất khẩu chuyển biến theo chiều hướng có lợi, tỉ trọng xuất khẩu hàng hoá qua chế biến tâưng dần, tỉ trọng xuất khẩu hàng hoá thô và sơ chế giảm dần Có được những thành quả đó là nhờ sự nỗ lực không nừng của nhà nước cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia thì tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam còn rất nhỏ bé. Thị trường xuất khẩu chưa ổn định, tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu thô và sơ chế vẫn chiếm một tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Trong những năm tới đây thị trường xuất khẩu của chúng ta cũng có rất nhiều cơ hội khi Việt Nam tham gia mậu dịch tự do ASIAN(AFTA), thực thi hiệp định thương mại Việt- Mỹ,Trung Quốc gia nhập WTO Do vậy đòi hỏi nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải không ngừng nổ lực trong việc tìm kiếm cơ hội để xuất khẩu sang các thị trường này.

doc60 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gành dệt may cần phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, cụ thể như: - Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu: Để thực hiên được điều này thì nhà nước cần hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường. Ngoài phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, cần có một trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may và đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, môi giới, giới thiệu sản phẩm dệt may Việt Nam với khách hàng quốc tế, thu thập xử lý thông tin về thị trường, về khách hàng một cách kịp thời, khảo sát thực tế thị trường. Các doanh nghiệp cần xâm nhập vào thị trường mới và cũng cố thị trường hiện có. Cần nhanh chống tham gia hệ thống “thông tin ngành dệt may khu vực Châu á- Thái Bình Dương” của 7 nước trong khu vực Châu á để tiết kiệm tối đa chi phí về thời gian, tiền của trong công tác nghiên cứu thị trường. - Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư: Để đạt được mục tiêu đến 2010 ngành dệt may sản xuất 2 tỷ mét vải các loại và xuất khẩu 4 tỷ USD, cần đầu tư mạnh mẻ để huy động, sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong nước.. Công ty tài chính dệt may cần phát huy vài trò bằng cách thay mặt cho tập đoàn các doanh nghiệp dệt may trong nước để huy động vốn, sau đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp đơn lẻ. Về phía các ngành dệt may, phải đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá để huy động vốn trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp(qua chứng khoán), liên doanh liên kết. Nhà nước cần cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư nước ngoài, đơn giản hoá thủ tục hành chính, đầu tư vào những mặt hàng trọng điểm, ổn định và bền vững về chất lượng cũng như thị trường. - Nâng cao hiệu quả gia công sản xuất, từng bước tạo tiền đề chuyển sang xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua nước thứ 3. Trong thời gian tới thì Việt Nam vẫn tiếp tục gia công hàng dệt may sắp xuất khẩu. Để nâng cao hiêuk quả hoạt động gia công, các doanh nghiệp dệt may cần mở rộng gia công xuất khẩu các mặt hàng mới, sang thị trường mới. Tránh tập trung gia công cho một mặt hàng, cho một thị trường, dẫn đến bị ép giá, lệ thuộc. Trong hoạt động gia công, phía Việt Nam cần dành quyền tự cung cấp nguyên liệu, quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm để từng bước khách hàng làm quen với sản phẩm của doanh nghiệp. Trong quá trình gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp đồng thời phải chuẩn bị cho xuất khẩu trực tiếp học hỏi kinh nghiệm quản lý, sản xuất kinh doanh của phía đối tác. Giảm tỷ trọng xuất khẩu sang nước thứ 3 là một biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may. Muốn vậy, các doanh nghiệp trong nước phải tự mình nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm. Đồng thời thực hiện tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu thương mại của hàng hoá. Nhà nước cần có chính sách phát triễn ngành tạo một ở Việt Nam bằng cách hỗ trợ cho các nhân tài trong ngành ra nước ngoài du học. - Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm: chúng ta thấy rằng khả năng cạnh tranh của ngành còn khá khiêm tốn. Yêu càu đầu tiên cơ bản nhất để nâng cao khả nâng cạnh tranh của sản phẩm là không ngừng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Cụ thể như là: không ngừng ứng dụng những thiết bị khoa học kỹ thuật, hiện đại trang bị cho các doanh nghiệp dệt may từng bước nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao uy tín với khách hàng. Kiểm tra chặt chẻ nguên liệu đầu vào, tạo bạn hàng cung cấp nguyên liệu phụ ổn định, đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng. Đảm bảo yêu cầu giao hàng trước khi xuất khẩu qua hệ tống kiểm tra chất lượng bắt buộc. Đảm bảo giao hàng bằng cách đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu, chủ động trong vận chuyển và bóc xếp hàng hoá. Nhà nước có thể hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp bằng cách kéo dài thời gian hoàn vốn để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh. - Hoàn thiện cơ chế xuất nhập khẩu: Trước hết cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên vật liệu, hàng mẩu, bản vẻ. Ngành dệt may cần được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan hợp lý. Cơ chế phân bổ hạn ngạch phải được thay đổi căn bản theo hướng sử dụng hạn ngạch làm công cụ thúc đẩy các doanh nghiệp tiến ra các thị trường không hạn ngạch. Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ truyền thống gặp nhiều khó khăn, nhà nước cần sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu. Hơn nữa, nhà nước cần hỗ trợ cụ thể cho các doanh nghiệp tìm kiếm và khai thác thị trường hoàn toàn mới như thị trường Trung Đông, như cấp tín dụng dài hạn, lãi suất thấp. 2.3. Giày dép Nhu cầu thế giới về mặt hàng giày dép ngày càng tăng, mặt hàng này rất được thế giới ưu chuộng. Bước vào tiên niên kỷ mới, ngoài các khu vực phát triễn như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật… có nhu cầu đáng kể về mặt hàng giày da, các nước đang phát triễn cũng có biến động theo hướng tăng lên của mức sống. Hàng năm các nước Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật… tiêu thụ 100 triệu tấn sản phẩm da hàng năm và khoảng 14 tỷ đôi giày, chiếm 60-70% tổng sản lượng tiêu thụ của toàn thế giới. Riêng khu vực Đông Nam á, cuộc khủng hoảng kinh tế trong 2 năm 1997-1998 không nhưng làm giảm lượng cầu của sản phẩm giày dép mà còn làm chững lại các nguồn đầu tư nước ngoài trong nhiều lĩnh vực trong đó có cả giày dép. Tuy nhiên sang năm 1999, nền kinh tế của các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật đã phục hồi. Mặt hàng giày dép của Việt Nam trong những năm gần đây đã có một bước phát triễn dài và mạnh. Năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của ta đạt 296 triệu USD thì chỉ sau một năm 1997 đạt xấp xỉ gần 1 tỷ USD(978 triệu USD, tăng 84,53%). Tiếp theo vào năm 1998 tuy xuất khẩu giày dép chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực, nhưng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng 5,46% và vượt qua ngưởng cữa 1 tỷ USD. Đặc biệt vào năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,4 tỷ USD, tăng tới 36,2% so với năm 1998, xuất khẩu giày dép đã vượt xa mặt hàng gạo. Có thể nói ngành giày dép trong những năm gần đây đã có một bước phát triễn vượt bậc từ không có tên trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì đến năm 1999 đứng vào vị trí thứ 3 sau dầu khí và dệt may. Theo đánh giá của Bộ Thương Mại sở dĩ xuất khẩu giày dép đạt được tốc độ tăng trưởng cao là do 3 nguyên nhân: xuất khẩu vào thị trường EU là xuất khẩu tự do số lượng không hạn chế và không cần hạn ngạch; các doanh nghiệp đã ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu với giá trị lớn; giày dép của nước ta phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trường EU. Với đà tăng trưởng mau lẹ đó, có cơ sở để hy vọng rằng trong một vài năm tới sẽ là mặt hàng thứ 3 đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD. Để thực hiện được điều này thì bên cạnh mở rộng và duy trì thị trường truyền thống thì phải tiếp tục phát triễn thị trường mới. Sản phẩm giày dép cần hướng tới thị trường nước ngoài trên cơ sở để sử dụng những lợi thế của nước ta. Hàn Quốc, Đài Loan sẽ tiếp tục xuống ngôi và danh sách 10 nước xuất khẩu giày dép hàng đầu sẽ có sự xáo trộn thứ tự, thay thế lẫn nhau, các nước Đông Nam á sẽ chiếm vị trí cao trong bảng. Trong tình hình đó ta cần phấn đấu từng bước giành thị phần thế giới, với ưu thế giá rẻ. Trước hết là sự lựa chọn các sản phẩm phù hợp với xu thế phát triễn thị trường, với các sản phẩm có tiềm lực nguyên liệu nội địa hoặc có khả năng sử dụng các nguồn nguyên liệu thô nhập khẩu để chế biến. Ba thị trường xuất khẩu giày dép lớn nhất thế giới là: Bắc Mỹ, liên minh Châu Âu, Nhật hoặc các nước NICS. Trong đó mỹ giữ bình quân nhập gần 1,3 tỷ đôi/năm, Đức 380 triệu đôi/năm, 250 triệu đôi/năm, Pháp 230 triệu đôi/năm… Như vậy để ngành giày dép Việt Nam đạt được các mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, ngoài sự nổ lực của từng doanh nghiệp, từng ngành, chúng ta ý thức được vai trò tạo môi trường điều kiện của chính phủ bằng quản lý vĩ mô, bằng pháp luật, bằng đòn bẩy kinh tế, bằng các chính sách ưu đãi… là rất quan trọng. Ngành giày dép chỉ có thể thực hiện thành công mục tiêu chiến lược hướng về xuất khẩu trong sự nổ lực thống nhất hữu cơ liên ngành, đồng thời nhờ vào chính sách bảo hộ đúng đắn của nhà nước cũng như các giai đoạn ổn định và phát triễn hợp lý của ngành giày dép. 2.4. Thuỷ sản Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam á, có bờ biển dài 3260 km với 112 cửa sông, lệch và hơn 400 hòn đảo lớn nhỏ. Việt Nam có điều kiện rất thuận lợi để phát triễn ngành khai thác nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu. Hiện nay Việt Nam đứng thứ 29 thế giới về xuất khẩu thuỷ sản, xuất khẩu sang 64 nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân 12 năm qua tăng 20% từ 90 triệu USD năm 1998 thì đến năm 2000 giá trị xuất khẩu đạt 1,475 tỷ USD. Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 1986 đến tháng 7-2001: 1986 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 7/2001 Kim ngạch (triệu USD) 102 205 262 305 368 458 550 670 780 858 985 1475 1001.9 Tốc độ tăng trưởng(%) 101 28 16 20 24 20 21 15 10 14 55 Năm 2000 thủy sản Việt Nam có một bước phát triễn nhanh chóng đạt kim ngạch 1,475 tỷ USD tăng 504 triệu USD hay tăng 54,9% so với năm 1999. Hàng thuỷ sản Việt Nam có giá trị cao, được thế giới ưa chuộng. Thị trường cho hàng thuỷ sản có rất lớn với các mặt hàng thủ sản xuất khẩu chính là hàng khô, cá đông lạnh, tôm đông lạnh, nhuyễn thể đông lạnh và các loại khác. Từ cuối năm 1999, cộng đồng Châu Âu đã xếp Việt Nam vào danh sách số một các nước xuất khẩu vào EU, đồng thời công nhận 18 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam đảm bảo điều kiện vệ sinh, an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn của EU. Các nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ngày càng tỏ ra có kinh nghiệm hơn trong việc tìm kiếm thị trường nên số lượng các mặt hàng tăng, giá cả ổn định. Hàng thuỷ sản của ta vào EU sẽ có điều kiện thuận lợi thâm nhập vào các thị trường khác. Các thị trường chính của Việt Nam là Nhật Bản, cộng đồng Châu Âu, Mỹ, Đài Loan, Trung Quốc và các nước khác. Trong đó Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới đồng thời là thị trường số 1 của ngành thuỷ sản Việt Nam. Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản trong năm 2000 đã tăng hơn 40% so với năm 1999, đưa ra thị trường Nhật Bản chiếm 45% tổng kim ngạch. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Châu á khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan cũng tăng nhanh và chiếm 21% thị phần xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu đứng thứ 3 là Mỹ chiếm hơn 14% tổng kim ngạch vào năm 1999. Kết quả rất khả quan của xuất khẩu thuỷ sản những năm gần đây, nhất là trong 3 năm 1998, 1999, 2000 đã đưa hàng thuỷ sản lọt vào danh sách 5 mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị cao nhất của Việt Nam và là một trong 3 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, nếu tính từ giai đoạn 1999-2000 thì tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 tăng gấp 6,17 lần so với năm 1990. Bước sang năm 2001 tổng sản lượng thuỷ sản 7 tháng đầu năm ước đạt 1,314 triệu tấn, đạt 60,6% kế hoạch và bằng 113,2% cùng kỳ. Tổng gái trị kim nghạch xuất khẩu đạt 1 tỷ đô la. Mặc dù trong 7 tháng đầu năm 2001 có biến động về thị trường, giá giảm, có thời điểm hàng tồn kho lớn nhưng nhìn chung hàng thủy sản vẫn xuất khẩu được. Tuy nhiên hiện nay, những yếu tố về an toàn thực phẩm, thị trường tiêu thụ thuỷ sản chế biến thế giới còn đòi hỏi nhà cung cấp, nhà xuất khẩu phải có sự ổn định về khối lượng hàng, chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng và xuất khẩu thuỷ sản không có một nguồn nguyên liệu ổn định và có thể kiểm soát được chất lượng. Các nhà nhập khẩu thường đòi hỏi sản phẩm phải có chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế GMP(thực hành xuất khẩu tốt), HACCP(hệ thống phân tích mối nguy tại điểm kiểm soát tới hạn) hoặc SSOP(tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm). Những tiêu chuẩn này không chỉ áp dụng cho khâu chế biến và xuyên suốt quá trình sản xuất, từ nguyên liệu đến bảo quản thành phẩm, cho nên không coi nhẹ vấn đề chất lượng từ công đoạn khai thác nguyên liệu. Thị trường tiêu thụ thủy sản còn bấp bênh, lại nhiều rủi ro, luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của cả người sản xuất và các cơ sở chế biến thủy sản, bài học này được hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp trả giá rất đắt vào năm 1997, khi thị trường xuất khẩu cá basa bị suy sụp, làm cho nhiều hộ ngư dân lỗ đến hàng chục tỷ đồng, phong trào nuối trồng thủy sản xuống dốc thảm hại. Trở ngại có tính bức xúc hiện nay đối với việc phát triển ngành nuôi thuỷ sản của Việt Nam là con giống, thức ăn và kỹ thuật phòng bệnh. Cả nước hiện nay chỉ có khoảng 27 cơ sở sản xuất thức ăn cho thuỷ sản nuôi, đáp ứng từ 10-15% nhu cầu nuôi tôm, nuôi cá bề và thuỷ sản đặc sản khác. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này, ngành nuôi thuỷ sản khó mà phát triễn xa hơn. Ngoài ra, chính phủ, các bộ, ngành hữu quan cần có kế hoạch mở các văn phòng đại diện tại các thị trường lớn và đẩy mạnh các hoạt động quan hệ, xúc tiến thương mại cho ngành thủ sản. Tóm lại, phong trào phát triễn ngành thuỷ sản chỉ mới tập trung đẩy mạnh mấy năm gần đây nhưng đã thu về lượng ngoại tệ cho đất nước hàng năm với con số hơn 1 tỷ USD và hứa hẹn vững chắc sẽ đạt con số 2 tỷ USD trong những năm tới. Ngoài ra, đây là ngành góp phần tích cực trong chuyển dịch kinh tế nông thôn, phân công, bố trí lại lao động cho hàng triệu nông dân, góp phần làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho họ và từng bước đi lên giàu. Nếu nhà nước và các doanh nghiệp có chính sách, chiến lược, chủ trương đầu tư đầy đủ, đồng bộ và hữu hiệu để phát triễn tốt nghề khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, nhất là hai vùng trọng điểm Đồng băng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh ven biển nước ta, thì thời gian không xa nhất định ngành thuỷ sản sẽ xứng đáng trở thành mũi nhọn trong phát triễn kinh tế của đất nước. 2.5. Gạo Năm 1989, đánh dấu sự liện quan trọng: lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo hơn 1 triệu tấn ra thị trường nước ngoài, trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới sau một thời kỳ dài nhập khẩu. Từ đó lượng gạo xuất khẩu ngày càng gia tăng, là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, kim ngạch có lúc lên đến hơn 1 tỷ USD. Có thể nói xuất khẩu gạo kể từ năm 1998 đã chuyển Việt Nam từ nước nhập khẩu sang xuất khẩu, cải thiện đời sống của một bộ phận dân cư, gia tăng sức mua xã hội, giảm bớt thâm hụt thương mại, là tiền đề quan trọng chống lạm phát có hiệu quả, từ đó có tác động đến quá trình phát triễn kinh tế Việt Nam trong những năm sau này. Trong hơn 10 năm vừa qua xuất khẩu trên 30 tấn gạo với tổng giá trị gần 7 tỷ USD. Với thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam như: Indonesia, Philippin, Băng La Đét, Mỹ… Giá cả và sản lượng xuất khẩu gạo từ năm 1989-2000 Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Giá XK gạo(USD/T) 222 179,8 225,4 209,8 207,8 205,4 273,5 254,1 226,9 258,9 199,7 161,9 Sản lượng(1000T) 1.423 1.624 1.033 1.946 1.722 1.983 1.988 3.003 3.575 3.730 4.508 3.500 Nhìn vào Bảng cho thấy giá xuất khẩu cao vào năm 1989, giảm trong 1990, ổn định trong các năm 1991-1994. Đây là thời kỳ xuất khẩu gạo của Việt Nam chưa được ổn định. Số lượng xuất khẩu hàng năm dưới 2 triệu tấn. Từ năm 1995-1998, giá cả tăng, lượng xuất khẩu đã tăng từ 2 triệu tấn lên 3,8 triệu tấn vào năm 1998. Năm 1999 đạt con số kỹ lục: xuất khẩu 4,5triệu tấn nhưng giá cả giảm sút mạnh, tổng giá trị xuất khẩu đạt 1,03 tỷ USD chỉ cao hơn 1998 một ít. Bước vào năm 2000, xuất khẩu đạt 3,5 triệu tấn nhưng giá đã giảm thảm hại đạt kỷ lục về giá thấp. Theo tổ chức lương nông liên hợp quốc(FAO), năm 2000 nhu cầu nhập khẩu gạo thế giới chỉ còn khoảng 22 triệu tấn, giảm 3,25 triệu tấn so với năm 1999. Trong đó nhu cầu giảm mạnh nhất ở những nước nhập khẩu gạo lớn như: Indonesia giảm 0,95 triệu tấn còn 1,7 triệu tấn và Philippin giảm 0,5 triệu tấn. Nguồn cung gạo cho xuất khẩu của các nước khác tỏng khu vực như Thái Lan, Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan cũng tăng vững làm cho cạnh tranh trên thị trường gạo thế giới càng găy gắt hơn. Trước tình hình gạo thế giới không thuận lợi, ngày 23/3/2000, thủ tướng chỉnh phủ đã có quyết định số 35 về một số giải pháp tiêu thụ lúa gạo vụ đông xuân ở Đồng bằng sông cửu long. Theo đó các đầu mối xuất khẩu gạo có kho chứa của công ty lương thực miền Nam, công ty lương thực miền Bắc và các tỉnh ĐBSCL phải mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo để chờ xuất khẩu. Thời hạn tạm trữ 4 tháng từ 1/4/2000 đến 31/7/2000; cho phép quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ 100% lãi suất vay vốn ngân hàng để các doanh nghiệp thực hiện mua tạm trử; đồng ý về nguyên tắc việc Bộ Thương Mại cho phép một số doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu gạo được bán trả chậm khoảng 1 tấn gạo với thời hạn 720 ngày, khuyến khích các doanh nghiệp ngoài đầu mối tham gia xuất khẩu nếu tìm được thị trường và hợp đồng giao dịch đáp ứng được các điều kiện của Bộ Thương Mại. Tất cả các biện pháp trên nhằm bảo đảm tiêu thụ hết lúa gạo hàng hoá bảo vệ lợi ích của nông dân. Tuy nhiên, do thị trường gạo thế giới trì trệ, giá chào bán gạo các loại của Việt Nam năm qua giảm 19-20%, đến đầu tháng 12 chỉ còn 174 USD/tấn, FOB(5%/ tấm); 153 USD/tấn, FOB(25% tấm), nên lượng gạo xuất khẩu năm 2000 ước tính chỉ đạt 3,5 triệu tấn, giảm 22,4% so với năm 1999. những nhân tố trên đã làm cho giá thóc gạo trong nước năm qua giảm mạnh. Tính chung cả năm 2000, số giá lương thực trong cả nước giảm 7,9%. Theo dự đoán của Bộ nông nghiệp và phát triễn nông thôn, sản lượng thóc năm 2001 sẽ đạt 31 triệu tấn, nguồn cung gạo cho sản xuất sẽ tiếp tục ở mức cao 4,2-4,5 triệu tấn. Trong khi đó dự báo của FAO cho thấy, sản lượng thóc thế giới năm 2001 sẽ giảm gần 1% so với năm trước, còn 584,8 triệu tấn thóc( tương đương 393,15 triệu tấn gạo) và thấp hơn nhu cầu tiêu thụ gạo thế giới 7 triệu tấn. Nhu cầu nhập khẩu gạo thế giới năm 2001 dự đoán tăng 7% so với năm 2000, lên 23,6 triệu tấn. Giá gạo thị trường thế giới năm 2001 dự đoán sẽ tăng 10-15% so với năm 2000. Điều này đưa giá xuất khẩu gạo của Việt Nam củng sẽ tăng lên trong năm 2001. Năm 2001, công tác điều hành thị trường thóc gạo của chính phủ có một số thay đổi. Chính phủ xoá bở việc quy định hạn ngạch xuất khẩu gạo mà chỉ công bố định hướng xuất khẩu gạo. Hàng tháng các doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải báo cáo tình hình xuất khẩu với các cơ quan chức năng, để có thể điều hành kịp thời lượng gạo xuất khẩu phù hợp với cung cầu gạo trong nước. Mức thuế xuất khẩu gạo khi nguồn cung trong nước dồi dào hay hạn chế xuất khẩu gạo trong khi ngùn thu trong nước khó khăn. Tiêu thụ kịp thời lúa hàng hoá cho nông dân. Nhà nước hỗ trợ một phần tài chính cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo để tiêu thụ lúa và đưa vào tạm trử chờ xuất khẩu. Thị trường lúa, gạo đã hình thành từ nhiều năm trước khi Việt Nam tham gia vào hệ thống xuất khẩu đó. Nhưng tình hình ổn định chỉ tương đối và biên độ giao động tương đối lớn. Hệ thống thông tin về sản xuất, tiêu thụ, tồn kho của các quốc gia rất lớn cần được chú ý theo dõi và phân tích chặt chẻ, nhất là các quốc gia trong vùng(Trung Quốc, Indonesia, ấn Độ, Philippin…). Sự thay đổi sản lượng sản xuất và tồn kho của các quốc gia này có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Xuất khẩu gạo nước ta từ chổ thiếu hụt đến có dư thừa, từ xuất khẩu nhiều trong khoảng không đầy 15 năm là một bước tiến vượt bậc. Thành tựu đó cần được giữ vững và nâng lên tầm cao mới trong điều kiện Việt Nam đã là một quốc gia xuất khẩu lương thực, đang trên bước công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Vấn đề lương thực phải tính đến không chỉ trong ngắn hạn và đặt trong chiến lược tổng thể phảttiẽen kinh tế của Việt Nam. 2.6. Cà phê Trong 70 nước sản xuất cà phê thì Việt Nam cách đây 20 năm còn đứng vị trí rất thấp, hàng năm xuất khẩu 5.000-6.000 tấn, ngoài việc trao đổi hàng hoá với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cũ, còn lại một lượng nhỏ được bán cho các thương gia ở hai thị trường Singapore và Hong Kong. Ngày nay cà phê Việt Nam đang trực tiếp xuất sang 40 nước với khối lượng lớn đứng thứ 4 trên thế giới. Mức tăng trưởng lượng cà phê xuất khẩu hàng năm khá lớn. Có thể xem số liệu xuất khẩu cà phê của nước ta từ vụ cà phê 1992 - 1993 lại đây. Niên vụ Lượng xuất khẩu (tấn) Tốc độ tăng (%) 1992-1993 130.500 65,0 1993-1994 158.520 21,5 1994-1995 212.038 33,7 1995-1996 233.000 9,8 1996-1997 346.000 48,5 1997-1998 382.000 10,4 1998-1999 1999-2000 660.000 Kim ngạch xuất khẩu còn tuỳ thuộc vào giá cả, có năm ngành cà phê đã thu được 560 triệu USD. Nếu tính theo năm thì từ 1/1/1997 đến 31/12/1997 Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 390.000 tấn, tăng 56% năm 1996, đạt trị giá xấp xỉ 500 triệu USD, đứng thứ 6 về kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Từ 1998 đến 2000, dù giá cà phê giảm nhưng nhờ lượng xuất khẩu tăng nhanh nên kim ngạch xuất khẩu cà phê vẫn giữ ổn định ở mức cao: 1998=593,8 triệu USD 1999=583,3 triệu USD và năm 2000 giá cà phê giảm sút lớn, nhưng nhờ lượng tăng 44% nên kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt gần 500 triệu USD. Với một lượng hàng hoá lớn như vậy, Việt Nam đã thực sự có ảnh hưởng to lớn đến giá giao dịch của cà phê Robusta trên thị trường thế giới. Có thể nói giá cà phê Robusta trên thế giới tăng giảm theo mùa vụ thu hoạch cà phê của Việt Nam và Indonesia. Trong tình hình diễn biến phức tạp của thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, ngành cà phê còn non trẻ của Việt Nam cần xác định cho mình phương hướng sản xuất kinh doanh đúng đắn. Nói một cách khác là chúng ta phải có một chiến lược đúng về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Niên vụ 1999-2000 giá cà phê giảm kỷ lục. Theo tổng cục thống kê, năm 2000 sản lượng cà phê Việt Nam tăng mạnh, tăng gần 28% so với năm 1999, ước đạt 690.000 tấn. Lượng cà phê xuất khẩu ước tính tăng kỷ lục, tăng gần 40% so với năm 1999, lên 680.000 tấn. Tuy nhiên do giá cà phê năm qua giảm kỷ lục với sự giảm giá cà phê thế giới đã làm cho kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2000 chỉ đạt 489 triệu USD, giảm 17% so với năm 1999. Mặc dù thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam vẫn được duy trì và phát triễn. Cà phê Việt Nam đã được xuất khẩu sang 50 nước và khu vực trên thế giới. Đặc biệt là xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ đã tăng kỷ lục. Năm 2000 ước tính tăng gấp hơn 2 lần năm 1999, lên 90.700 tấn. Điều này đã đưa Mỹ trở thành nước nhập khẩu cà phê lớn thứ 2 của Việt Nam sau Thuỷ Sĩ. Năm 2000, nước nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam vẫn là Thuỷ Sỹ(khoảng 24% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu), Đức(10%), Singapore(9%), Anh(8%), Hà Lan(7%) và Italia(5,5%). Theo hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam(VICOFA), năm 2000 thị trường cà phê thế giới thừa cung lớn, giá cà phê giảm mạnh. Sản lượng cà phê niên vụ 1999/2000 đạt 111,55 triệu bao (6,693 triệu tấn), tăng hơn 4% so với trước. Trong đó sản lượng cà phê Robusta tăng hơn 10,3%, lên 38,44 triệu bao (2,306 triệu tấn). Tiêu thụ cà phê Thế giới vụ 1999/2000 ước đạt 6,154 triệu tấn thấp hơn so với sản lượng tới 8% (537.000 tấn). Giá cà phê thế giới năm 2000 đã liên tục giảm, tháng 12/2000 giá cà phê Robusta tại Luân Đôn chỉ còn 590-620 USD/tấn, giảm 58-60% so với tháng 1/2000. Trong bối cảnh xuất khẩu cà phê của Việt Nam cũng giảm kỷ lục. Năm 2000, giá xuất khẩu cà phê Robusta loại 2(5% đen và vở) tháng 12/2000 chỉ còn 430 USD/ tấn, FOB giảm hơn 51% so với tháng 1/2000. Theo VICOFA, đây là mức giá cà phê xuất khẩu thấp nhất trong 10 năm qua. Đây cũng là nguyên nhân làm cho giá cà phê trong nước năm qua cũng giảm liên tục với tốc độ nhanh xuống những mức thấp kỷ lục chưa từng có. Tại Đắc Lắc, giá cà phê nhân kho loại 1 đã giảm từ 11.500 đồng/kg(1/2000) xuống 4.000-4.500 đồng/ kg(2 tuần đầu tháng 12/2000), giảm hơn 62% so với tháng 1/1999 khi đó giá cà phê hạt loại 1 khoảng 20.500 – 21.000 đồng/ kg, thì giá cà phê thời điển này giảm 80%. Tính toán sơ bộ cho thấy, mức giá cà phê trên đã thấp chi phí sản xuất 33 – 38%. Trước tình hình giá cà phê quá thấp, giữa tháng 12/2000, VICOFA đã quyết định các thành viên của mình tạm ngừng ký hợp đồng xuất khẩu cà phê và chỉ sẻ chào bán cà phê với mức giá tối thiểu 450 USD/ tấn, FOB. Đây là nhân tố chủ yếu đưa giá cà phê 2 tuần cuối tháng 12/2000 tăng 1.500 – 2.000 đồng/ tấn, lên 5.800 – 6.500 đồng/ tấn(loại 1). Theo VICOFA, sản lượng cà phê thế giới vụ 2000/2001 dự đoán sẽ tiếp tục tăng 3% lên 115,1 triệu bao(6,906 triệu tấn). Trong đó sản lượng cà phê Robusta sẽ tăng hơn 6% lên 40,9 triệu bao(2,454 triệu tấn). Tiêu thụ cà phê thế giới vụ 2000/2001 dự đoán sẽ ở mức 107,5 triệu bao(6,45 triệu tấn) và tiếp tục tăng hơn sản lượng 7,6 triệu bao( 456.000 tấn). Đây là nhân tố áp lực làm giá cà phê thế giới tiếp tục giảm sút. Trong bối cảnh này, hiệp hội các nước xuất khẩu cà phê (ACPC) cũng ra quyết tâm tạm dự trữ 20% sản lượng cà phê xuất khẩu để nâng đỡ giá cả, Việt Nam cũng tham gia chương trình này. Ngày 27/10/2000, thủ tướng chính phủ đã có quyết định 1067 về việc hổ trợ xuất khẩu cà phê niên vụ 2000/2001. Theo đó, thực hiện tạm trữ 60.000 tấn cà phê nhân, phân bổ cho các tỉnh: Đắc Lắc 20.000 tấn, Đồng Nai 10.000 tấn, Gia Lai 7.000 tấn, Lâm Đồng 8.000 tấn và tổng cộng cà phê Việt Nam là 15.000 tấn. Thời hạn tạm trữ 60 ngày kể từ ngày 15/11/2000. Quỹ hổ trợ xuất khẩu hổ trợ 100% lãi suất vay vốn ngân hàng trong thời gian tạm trữ cà phê. Hiện nay hàng năm chúng ta đã xuất khẩu cà phê đến 49 nước, thu về 400-500 triệu USD và có quan hệ thương mại với tất cả các hãng cà phê lớn trên thế giới. Nâng cao chất lượng cà phê, đảm bảo tín nhiệm với khách hàng, tuân thủ tập quán buôn bán quốc tế,... là những biện pháp quan trọng để củng cố thị trường. Mặt khác cần có các giải pháp để khôi phục thị trường truyền thống cũ trước đây ở các nước SNG và Đông Âu, mở mang thị trường mới như Trung Quốc và các nước Trung cận Đông,... Khối lượng cà phê xuất khẩu ngày một lớn không thể thụ động ngồi chờ ai đến mua thì bán mà cần chủ động tạo thị trường, mở cơ quan đại diện với sử dụng các phương thức thương mại khác như: đổi hàng, trả nợ Nhà nước và các Hiệp định Chính phủ. Việt Nam đã gia nhập ICO, sẽ tham gia tổ chức Hiệp hội các nước sản xuất cà phê (ACPC) và những tổ chức quốc tế khác có liên quan để tăng cường hợp tác kinh tế thương mại, khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực. Xuất khẩu cà phê và giá cà phê Năm 1997 1998 1999 2000 Sản lượng xuất khẩu(1.000T) 392 382 482 694 Giá xuất khẩu bình quân(USD/tấn,FOB) 1277 1510 1213 718 III. Kết luận rút ra quá trình nghiên cứu Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thường đạt tốc độ cao(trừ 2 năm 1991 và1998). Bảng A: Tình hình xuất khẩu thời kỳ 1991-2000 Năm Kim ngạch (triệu USD) Tốc độ tăng (%) 1991 2.085 -13,2 1992 2.580 23,7 1993 2.985 15,7 1994 4.054 35,8 1995 3.448 34,4 1996 7.255 33,2 1997 9.185 26,6 1998 9.361 1,9 1999 11.523 23,1 2000 14.308 23,9 Nguồn: niên giám thống kê 1998 và báo cáo của Bộ Thương Mại Tình hình chung thời kỳ 1991 –1998 kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 20,4%, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (đạt khoảng 7,5%). Kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người kinh doanh, năm 1991 mới đạt 30 USD, năm 1995 đạt 73 USD, năm 1997 là 119 USD, năm 1999 là 150 USD và đến 2000 con số này đã lên 184 USD, vượt qua ngưởng cửu có nền ngoại thương kém phát triễn (170 USD). Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực phù hợp theo sự dịch chuyển cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá. Tỷ trọng các nhóm các mặt hàng đã qua chế biến tăng, tỷ trọng nhóm hàng thô và sơ chế giảm dần. Bảng B: Cơ cấu xuất khẩu thời kỳ 1991-1999(%) Năm Mặt hàng 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Công nghiệp nặng và khoáng sản 33,4 37 34 28,8 25,3 28,7 28 23,8 25 Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp 14,4 13,5 17,6 23,1 28,4 29 36,7 35,8 36,8 Nông, lâm, thuỷ sản 52,2 49,5 48,4 48,2 46,2 42,3 35,3 40,4 38,2 Nguồn niên giám thống kê 1998 và báo cáo của Bộ Thương Mại Số hiệu Bảng B cho thấy tỷ trọng nhóm hàng nông- lâm- thuỷ sản, khoáng sản và hàng công nghiệp năng bình quân từ 79% thời kỳ 1991-1995 xuống còn 64,6% thời kỳ 1996-1999, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiêu thủ công nghiệp từ 21% lên 34,4%. Điều đó phản ánh cơ cấu xuất khẩu Việt Nam đã được cải thiện theo hướng tăng đầu tư chiều sâu và chuyên môn hoá theo phân công lao động xã hội, phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng kinh tế, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, phù hợp với tiến trình hội nhập và phân công lao động quốc tế. Một số mặt hàng chủ lực có giá trị lớn và xu hướng tăng trưởng ổn định , làm trụ cột cho chiến lược xuất khẩu của Việt Nam trong hiện tại cũng như tỏng tương lai, đó là dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hải sản, dệt may, giày dép và than đá. Thị trường xuất khẩu của nước ta đã chuyển biến kịp thời và không ngừng được mở rộng. Từ năm 1991, sau thị trường truyền thống là Liên Xô(củ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, Châu á là thị trường xuất khẩu chính của nước ta, chiếm trên 60% tổng kim ngạch. Tỷ trong xuất khẩu sang các khu vực Âu- Mỹ đều tăng khá nhanh, nhất là thị trường các nước EU và Mỹ. Tỷ trọng thị trường Tây Âu tăng 6% năm 1991 lên 24% năm 1999, còn thị trường Mỹ tăng từ 0,3% năm 1991 lên 5,3% năm 1999. Sự chuyển dịch cơ cấu thị trường trên mang tính tích cực và phù hợp với chiến lược đa phương hoá thị trường, đa dạng hoá mặt hàng của ta. Điều này cho thấy khả năng tham gia thị trường thế giới của ta tăng lên. Trong thời gian qua, sự đổi mới về chính sách cơ chế xuất khẩu theo hướng tháo gở và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đã thúc đẩy các doanh nhiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau tham gia hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn FDI tăng trưởng nhanh hơn các doanh nghiệp trong nước có kim ngạch từ 161 triệu USD năm 1994 lên 2.577 triệu USD năm 1999. Tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp có FDI cũng tăng dần 4% năm 1994 lên 19% năm 1997 và 22,4% năm 1999. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế, kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ và tăng trưởng xuất khẩu chưa vững chắc. Cơ cấu hàng xuất khẩu có chuyển biến nhưng còn chậm, cho tới nay xuất khẩu hàng thô và sơ chế vẫn chủ yếu, tỷ trọng chiếm tới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Vì thế thời gian qua có một nghịch lý là mặc dù số lượng hàng xuất khẩu của một số mặt hàng tăng nhiều hơn trước nhưng giá trị thu được lại giảm đi. Hiện nay, hàng Việt Nam đã có mặt tại nhiều thị trường lớn, một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao như dệt may, dầu thô, da giày, cao su… Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng không ổn định do phụ thuộc quá nhiều vào sự biến động của từng thị trường và khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam vẫn còn yếu kém. Ví dụ, giá gạo thường thấp hơn giá quốc tế khoảng 30-50 USD/tấn, giá cà phê và chè thấp hơn 100-150 USD/ tấn, giá thịt lợn chỉ bằng 60% giá quốc tế… chương III các giải pháp để phát triễn thị trường xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt nam I. hoàn thiện môi trường pháp lý và đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách xuất khẩu Để tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu thành công thì trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp để hoàn thiện môi trường pháp lý kinh doanh, đồng thời tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách xuất khẩu cho phù hợp với điều kiện thực tế: 1. Rà soạt lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy định không phù hợp hoặc chưa rõ ràng, trước hết là luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong nước. Về luật thương mại cần bổ sung các quy định rõ ràng hơn về quản lý nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu. Về luật đầu tư nước ngoài, cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại. 2. Ban hành các văn bản luật mới để điều chỉnh quan hệ kinh tế mới phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia như luật về Tối huệ quốc(MFN) và Đối xử quốc gia(NT), luật cạnh tranh và chống độc quyền, luật chống phá giá và chống trợ cấp, luật phòng vệ khẩn cấp, luật chống chuyển giá. Điều chỉnh hoặc ban hành mới các quy định dưới luật để xử lý linh hoạt các mảng kinh doanh đang ngày càng trở nên quan tỏngj nhưng chưa đủ khung pháp lý như xuất khẩu tại chổ(bán hàng thu ngoại tệ mạnh, bán hàng miển thuế, giao hàng xuất khẩu trên lãnh thổ Việt Nam để tiếp tục sản xuất thành phẩm xuất khẩu…), buôn bán biên giới và buôn bán duyên hải kinh doanh tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu… Đặc biệt chú trọng khuyến khích đi đôi với việc quản lý các dịch vụ tái xuất và chuyển khẩu và kho ngoại quan để tận dụng uy thế về vị trí địa lý, tăng ngoại tệ. 3. Xây dụng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hoá- dịch vụ xuất khẩu cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh. 4. Trong hoạt động xuất khẩu kiên trì chính sách nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Hạn chế dần, tiến tới xoá bỏ tình trạng độc quyền mở rộng đầu mối kinh doanh xuất khẩu, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo đảm sự bình đẳng trong việc tiếp cận với các nhân tố đầu vào(vốn, tính dụng, đất đai, lao động). 5. Tiếp cận các phương thứckinh doanh mới, như buôn bán trên thị trường giao dịch hàng hoá, tỏng đó có thị trường hàng hoá giao ngay và thị trường kỳ hạn để vừa trực tiếp tham gia điều tiêts giá quốc tế, vừa tận dụng được tính chất phòng ngừa rủi ro của các thị trường này. Từ nay đến năm 2010, phấn đấu hình thành thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn tại Việt Nam đối với 1;2 mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Cần đặc biệt lưu tâm tiếp cận và phát triễn thương mại điện tử, trong đó có việc tạo dựng khung pháp lý cho các hình thức thương mại đặc thù này. 6. Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái để vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế- xã hội trong nước, vừa có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tiến tới biến đồng Việt Nam thành chuyển đổi. II. các giải pháp chính để phát triễn thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam 1. Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường nước ngoài Ký kết và rà soát để đàm phán thương mại song phương và đa phương, ký lại Hiệp định thương mại với các yêu cầu mới và tổ chức tốt việc thực hiện các hệp định đó. Cụ thể là đàm phán mở cửa thị trường mới, đamg phán để tiến tới thương mại cân bằng với thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn về kỷ thuật và đàm phán để nới lõng các hàng rào phi thuế quan. Nhằm phát triển mạnh công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, khắc phục đồng thời hai biểu hiện “ ỷ lại và nhà nước” và “phó mặc cho doanh nghiệp”. Sữa đổi bổ sung ký kết các hiệp định khác với nước ngoài có liên quan đến hoạt động thương mại như hiệp định vận tải, hiệp định thanh toán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh của doanh nghiệp. Tranh thủ ký cam kết “G to G” với các nước mà có sự can thiệp của chính phủ có vai thò quyết định đối với việc nhập khẩu những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gạo, cao su, cà phê, hải sản… Tổ chức tốt phổ biến hướng dẫn và kiểm tra thực hiện các hợp đồng thương mại và các cam kết khác về thương mại giữa Việt Nam với nước ngoài. Phối hợp quốc tế trong việc xuất khẩu các mặt hàng như gạo, cà phê, cao su. 2. Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu. Việc thâm nhập thị trường nước ngoài cho hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung và các mặt hàng chủ lực nói riêng là kết quả tổng hợp của nhiều biện pháp chính trị, ngoại giao, kinh tế kỹ thuật và nghiệp vụ ngoại thương và đòi hỏi sự nổ lực của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp trong đó có tập trung các biên pháp sau: - Tổ chức tốt việc nghiên cứu khảo sát thị trường nước ngoài. Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện cho các cơ quan có trách nhiệm của Bộ thương mại ( các vụ chính sách thị trường nước ngoài, các cơ quan thường vụ của Việt Nam ở nước ngoài, viện nghiên cứu thương mại, các xúc tiến thương mại, trung tâm thông tin thương mại) trong công tác nghiên cứu thị trường, cung cấp các thông tin và kết quả nghiên cứu cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát, tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu. - Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm, áp dụng các phương thức buôn bán linh hoạt như gửi hàng, bán thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp từng mặt hàng, từng thị trường nước ngoài hoặc lập các công ty pháp nhân nước sở tại để chuyển nhập khẩu hàng Việt Nam, khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhập hàng Việt Nam. - Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và các doanh nghiệp cố gắng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng một vài trung tâm thương mại, tiến hành quảng cáo, tham gia triễn lãm, hội chợ đối với từng mặt hàng, từng thị trường. - Các doanh nghiệp cần phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua nâng cao chất lượng hàng hoá, mẩu mả, bao bì phù hợp với thị hiếu tập quán từng thị trường và đội ngủ cán bộ ngoại thương có năng lực; xây dựng chiến lược phát triễn cho từng mặt hàng chủ lực xuất khẩu trong đó có chiến lược về thị trường; đảm bảo chữ “tín” trong kinh doanh, kết hợp xuất khẩu với nhập khẩu để đảy mạnh xuất khẩu trên thị trường cụ thể. 3. Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm công tác thị trường nước ngoài. Kiên toàn tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ và đổi mới lề lối làm việc của các vụ chính sách thị trường nước ngoài của Bộ thương mại và gắn hoạt động của các đơn vị này với các doanh nghiệp vì sự tăng trưởng xuất khẩu. Gắn công tác của viện nghiên cứu thương mại thuộc Bộ thương mại với các hoạt động của các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu. Có chính sách và biện pháp để các doanh nghiệp đặt hàng cho Viện các đề tài nghiên cứu về thị trường và mặt hàng xuất khẩu. Cùng với việc cũng cố các cơ quan thường vụ, Việt Nam hiện có ở nước ngoài, mở thêm một số cơ quan ở các địa bàn mới, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan này đối với việc thực hiện chiến lược xuất khẩu và các doanh nghiệp trong nước về công tác xuất khẩu. Duy trì việc tổ chức hàng năm Hội nghị Tham tán thương mại và tiếp xúc giữa các Tham tán thương mại với các doanh nghiệp. Các cơ quan thường vụ Việt Nam ở nước ngoài phải là “tai mắt” và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài trong hoạt động xuất nhập khẩu. Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để xúc tiến thương mại thuộc Bộ thương mại, phát huy vai trò hổ trợ và hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến thương mại và sự tăng trưởng xuất khẩu. Có kế hoạch và biện pháp bồi dưởng, đào tạo cán bộ làm công tác thị trường nước ngoài. Trước mắt cần có biện pháp để mở các lớp bồi dưởng, đào tạo cán bộ chuyên đề công tác thị trường ngoài nước cho doanh nghiệp. 4. Hổ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Sớm hoàn thành đề án về chủ trương và giải pháp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại phục vụ chiến lược xuất khẩu. Hổ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài, kể cả việc tháp tùng các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, để thâm nhập thị trường, tiếp cận cơ hội xuất khẩu, phát triễn kinh doanh. Phối hợp và hổ trợ các ngành, địa phương và các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện chiến lược Marketing cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội chợ, triễn lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài. Có cơ chế xúc tiến và thẩm vấn định kỳ giữa Bộ thương mại và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng và các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Mở rộng các quan hệ hợp tác đa phương và song phương đối với nước ngoài trong các công tác xúc tiến thương mại. Khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng, báo chí đối ngoại phục vụ tăng trưởng xuất khẩu. 5. Xây dựng đội ngủ cán bộ và doanh nghiệp ngoại thương hùng mạnh. Một đội ngũ cán bộ ngoại thương là một đội ngũ có đủ khả năng để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Đồng thời, phải nắm bắt được chính xác mọi thông tin về sự thay đổi nhu cầu và giá cả thị trường, những nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó (như các diễn biến về chính trị, quân sự, tài chính, tiền tệ…; sự thay đổi chính sách của chính phủ của một quốc gia nào đó trên thế giới) cho dù là năng nề, thậm chí mang tính tàn phá cũng phải được cung cấp ngay lập tức. Đó là con đường duy nhất để giúp lãnh đạo doanh nghiệp ngoại thương tiếp tục xử lý một vấn đề trước khi nó vượt ra ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Để có một đội ngủ và doanh nghiệp ngoại thương như vậy, mỗi nhân viên và cán bộ doanh nghiểp trước tiên là những người phải giỏi chuyên môn nghiệp vụ ở vị trí hoạt động của mình, đồng thời giỏi ngoại ngữ tiếng Anh và ngôn ngữ thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. Luôn rèn luyện thói quen theo dõi, ghi nhận, nghiên cứu và phân tích các thông tin có liên quan đến sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường mục tiêu, giá cả trên thị trường thế giới…Đồng thời phải nắm được kỹ thuật sử dụng một số phương tiện phân tích và truyền tin hiện đại như Internet, Fax… để nâng cao khả năng phân tích chính xác và kịp thời. 6. Tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thương mại cho các doanh nghiệp Sớm hoàn thiện và tổ chức thực hiện đề án về công tác thông tin thương mại mà Bộ thương mại đang xây dựng để phục vụ các ngành, các địa phương của doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu trong đó gồm các việc cụ thể như: - Tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý, các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. - Xây dựng kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại và các doanh nghiệp. - Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hổ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp, cần phải thực hiện thương mại hoá các thông tin và các áp dụng của phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cá thể, kịp thời của doanh nghiệp. 7. Sớm xây dựng và ban hành cơ chế công tác thị trường ngoài nước: Trong đó xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan của trung ương cũng như của địa phương và trách nhiệm của daonh nghiệp, quy chế phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm và doanh nghiệp trong công tác thị trường nước ngoài. Đồng thời, nhà nước có chính sách cụ thể để đảm bảo các điều kiện vật chất và tài chính để thực hiện trách nhiệm được giao trong công tác thị trường nước ngoài, cần sớm xây dựng và ban hành cơ chế này mới có thể làm tốt công tác thị trường ngoài nước, một mặt vừa bắt buộc, khuyến khích các cơ quan đơn vị liên quan trong công tác thị trường, mặt khác tạo điều kiện để kiểm điểm, đánh giá tình hình công tác thị trường ngoài nước. III. điều kiên tiền đề để thực hiện các giải pháp trên 1. Để thâm nhập, tìm kiếm thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam cần làm rõ trách nhiệm của Nhà nước, Hiệp hội và các doanh nghiệp 1.1. Về phía nhà nước Đàm phán thương mại song phương và đa phương để duy trì và mở rộng thị trường mới, tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và nới lỏng các hàng rào phi thuế quan. Bộ thương mại và các thường vụ tích cụ hoạt động để gia tăng thị phần xuất khẩu của Việt Nam vào các nước; các ngành và các địa phương cần chủ động phối hợp, nêu yêu cầu cụ thể với Bộ thương mại và các thường vụ về ngành hàng cụ thể. Đề nghị chính phủ nghiên cứu có quy định chính thức về cơ chế “hoa hồng” giữa thường vụ với doanh nghiệp. Bộ thương mại tăng cường công tác phổ cập thông tin về các thị trường từ tình hình chung tới các ccơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung cầu hàng hoá và dịch vụ… Các ngành, các địa phương cần “đặt hàng” cụ thể về các thông tin còn thiếu. Nhà nước tiếp tục tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu, tránh gây phiền hà, sách nhiễu. Để hổ trợ các daonh nghiệp hoạt động ở thị trường nước ngoài, nhà nước xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài và đơn giản hoá thủ tục mở tài khoản để phục vụ giao dịch trên thị trường nước ngoài. Nhà nước sớm hoàn chỉnh cơ chế vận hành các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ bảo hiểm xuất khẩu, Quỹ bảo lãnh tín dụng,…hình thành quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để hỗ trợ các doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, trưng bày, triễn lãm…Có chế độ khuyến khích thoả đáng (như miễn giảm thuế thu nhập cá nhân, cho phép tính vào chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp…) đối với các tổ chức và cá nhân, bao gồm các cơ quan đại diện ngoại giao, ngoại thương của ta với nước ngoài tham gia các hoạt động môi giới, trợ giúp tiếp cận và tâm nhập thị trườn quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện chính sách thưởng xuất khẩu theo hướng mở rộng hơn nữa diện, tiêu chuẩn và mức độ xét thưởng đối với các doanh nghiệp tìm kiếm được thị trường xuất khẩu mới, xuất khẩu được các mặt hàng mới hoặc xuất khẩu hàng hoá với chất lượng cao ra thị trường nước ngoài. Đối với những mătỵ hàng mà Việt Nam giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu…), tăng cường áp dụng các biện pháp thư thông tin chiến lược, chiến tuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể… để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi. 1.2. Về các hiệp hội ngành hàng Nâng cao hơn nữa vai trò của các hiệp hội trong việc phối hợp và thống nhất hành động trong tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm (kể cả việc thống nhất giá bán, hạn chế tranh mua, tranh bán) một cách có hiệu quả nhất, bảo đảm lợi ích của toàn ngành, mở rộng hợp tác quốc tế vì lợi ích của ngành hàng. Các ngành liên quan chỉ đạo việc hình thành các hiệp hội ngành hàng mới. 1.3. Về phía doanh nghiệp ở tầm vi mô các doanh nghiệp có trách nhiệm dựa vào khung pháp lý và các chính sách của nhà nước để chủ động, tích cực tổ chức tiếp cận, khai thác thông tin, lo tìm bạn hàng, thị trường, tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội chợ triễn lãm; kịp thời nắm bắt xu thế thị trường. Tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá, đặc biệt chú trọng “chử tín” trong kinh doanh để duy trì chổ đứng trên thị trường, phối hợp với nhau trong việc đi tìm và quan hệ bạn hàng. 2. Không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu: - Ban hành cơ chế điều hành xuất khẩu ổn định theo hướng tiếp tục mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp ( trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Cụ thể: tất cả các thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thnàh lập theo quy định của pháp luật được phép xuất khẩu tất cả các mặt hàng mà nhà nước không cấm, cấm kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Riêng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được xuất khẩu như các doanh nghiệp trong nước. - Về mặt hàng, cần tiếp xúc xây dựng và tích cực thực hiện các đề án xuất khẩu, tập trung vào các mặt hàng có thế mạnh và tiềm năng phát triễn như: thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử… Hiên nay xuất khẩu hàng gia công đang chiếm tỷ trọng khá lớn trong kim ngạch xuất khẩu, song hiệu quả thấp và ngoại tệ thu được rất hạn chế. Vì vậy, đối với các mặt hàng đang xuất khẩu chủ yếu bằng phương pháp gia công, cần khuyến khích các doanh nghiệp tìm thị trường và bạn hàng nhập khẩu trực tiếp, trên cơ sở tăng cường nghiên cứu mẩu mả, phát triễn sản phẩm, chuyển sang bán FOB, giảm dần việc phụ thuộc vào nước ngoài, kể cả khâu kỹ thuật, công nghệ, thiết kế mẩu mả và tiếp thị. - Sử dụng có mục đích và có hiệu quả Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, trong đó có cả phần thưởng xuất khẩu. Chú ý ưu tiên các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép, cà phê, thuỷ hải sản, thủ công mỹ nghệ nhằm tăng cường xuất khẩu các mặt hàng này ra thị trường thế giới. Khuyến khích đầu tư vào các ngành hàng chủ lực và các dự án nâng cao cấp độ chế biến, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Theo hướng đó, đối với những dự án đầu tư chỉ nhằm mở rộng quy mô thì ít ưu đãi. Đối với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao cấp độ chế biến hàng hoá thì tuỳ theo mức độ, được ưu đãi nhiều hơn. Kết luận Trong quá trình hội nhập và mở cửa nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua đã không ngừng thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và thị trường xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng. Việt Nam từ một nước xuất khẩu kém trên thế giới thì đến năm 2000 vừa qua Việt Nam vượt qua ngưỡng cửa xuất khẩu kém trên thế giới( trên 175USD/người/năm), cơ cấu thị trường và cơ cấu hàng hoá xuất khẩu chuyển biến theo chiều hướng có lợi, tỉ trọng xuất khẩu hàng hoá qua chế biến tâưng dần, tỉ trọng xuất khẩu hàng hoá thô và sơ chế giảm dần… Có được những thành quả đó là nhờ sự nỗ lực không nừng của nhà nước cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia…thì tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam còn rất nhỏ bé. Thị trường xuất khẩu chưa ổn định, tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu thô và sơ chế vẫn chiếm một tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam… Trong những năm tới đây thị trường xuất khẩu của chúng ta cũng có rất nhiều cơ hội khi Việt Nam tham gia mậu dịch tự do ASIAN(AFTA), thực thi hiệp định thương mại Việt- Mỹ,Trung Quốc gia nhập WTO…Do vậy đòi hỏi nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải không ngừng nổ lực trong việc tìm kiếm cơ hội để xuất khẩu sang các thị trường này. tài liệu tham khảo sách: Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Nghiên cứu thị trường xuất khẩu Chiến lược phát triễn xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ Quan hệ Việt Nam – ASEAN 7. Niên giám thống kê 1998, 2000 tạp chí: 1. Tạp chí phát triển kinh tế: Số 11(270) 11/2000 Số 10(269) 10/2000 Số 7(266) 7/2000 Số 5(252) 5/2000 2. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản: Số 3/2000 Số 1/2000 Số 3/1999 3. Chuyên sản của thời báo kinh tế Việt Nam Năm 1999 – 2000 và 2000 – 2001 4. Tạp chí kinh tế phát triển Số 128, 126, 124, 120, 116, 114, 112 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0547.doc
Tài liệu liên quan