Chuyên đề Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO

Thực tiễn 20 năm thu hút FDI nói chung và trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói riêng đã cho thấy những đóng góp to lớn của khu vực kinh tế này. Đây là kết quả của chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù các văn bản hướng dẫn cho FDI trong giáo dục đào tạo được ban hành chậm hơn so với các quy định khác trong hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài nhưng cũng đã tạo được hành lang pháp lý thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Tính đến nay đã thu hút được 94 dự án với tổng vốn đầu tư gần 140 triệu USD trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, Việt Nam đã theo đuổi lập trường tích cực, chủ động và đã cam kết thực hiện GATS đối với tất cả 12 ngành dịch vụ, trong đó có giáo dục. Với chủ trương từng bước mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong bản chào dịch vụ đa phương, mức cam kết của Việt Nam về dịch vụ giáo dục là khá sâu rộng. Chúng ta đã mở cửa hầu hết các lĩnh vực giáo dục về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, quản lý doanh nghiệp, kinh tế, kế toán., trong đó giáo dục đại học được coi là lĩnh vực mở cửa rộng nhất với một lộ trình thích hợp. Cam kết thực hiện GATS về giáo dục sẽ đặt giáo dục Việt Nam trước những thách thức cực kỳ to lớn. Nếu không có ý chí và quyết tâm đổi mới để phát triển thì giáo dục đại học sẽ không đủ sức cạnh tranh, bản sắc văn hóa dân tộc và những giá trị văn hóa truyền thống sẽ bị phai nhạt, tình trạng thất thoát chất xám ngày càng trầm trọng, quyền lợi người học sẽ bị xâm phạm, khoảng cách giữa Việt Nam và các nước phát triển sẽ ngày càng gia tăng. Do đó, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm phát triển dịch vụ giáo dục là một bước đi vô cùng đúng đắn trong điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất và khó khăn trong công tác quản lý giáo dục ở Việt Nam. Có chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát triển dịch vụ giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, cung cấp cho đất nước nguồn nhân lực có trình độ cao, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước, nâng vị thế nước ta lên một tầm cao mới./

doc89 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
án qua các năm có xu hướng tăng song riêng năm 2007 lại có xu hướng giảm do Việt Nam phải thực hiện cam kết WTO về dịch vụ giáo dục. Số lượng và nguồn vốn các dự án đầu tư vào dịch vụ giáo dục nhìn chung có xu hướng tăng. Trong số các địa phương thu hút đầu tư nước ngoài vào giáo dục, hai địa phương thu hút phần lớn vốn đầu tư nước ngoài là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Vừa là địa phương có dự án đầu tư nước ngoài đầu tiên trong lĩnh vực giáo dục, vừa là nơi thu hút nhiều nhất đầu tư trong lĩnh vực này, thành phố Hồ Chí Minh hiện có 59 dự án đầu tư nước ngoài thành lập các cơ sở giáo dục đào tạo đã được cấp phép, với tổng vốn đăng ký trên 33 triệu USD. Tiếp đó là Hà Nội với 21 dự án, tổng vốn đăng ký 3,5 triệu USD. Các địa phương khác như Hải Phòng, Hà Tây, Đã Nẵng, Hải Dương cũng đã có các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn đầu tư nước ngoài. Về đối tác đầu tư, Australia là đối tác lớn nhất trong lĩnh vực giáo dục đào tạo có vốn đầu tư nước ngoài. Với 10 dự án, trong đó có dự án thành lập Đại học RMIT Việt Nam với tổng vốn đầu tư trên 37 triệu USD, Australia đã chứng tỏ vai trò của mình trong việc thiết lập các cơ sở giáo dục có danh tiếng ở Việt Nam. Singapore là nước có số lượng dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại Việt Nam lớn nhất (23 dự án), tuy nhiên, quy mô các dự án này tương đối nhỏ nên tổng vốn đăng ký cũng chỉ là 3,4 triệu USD. Hoa Kỳ, Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản cũng có nhiều dự án dạy nghề, dạy ngoại ngữ, dạy phổ thông tại Việt Nam. 2.5.Đánh giá thực trạng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 2.5.1.Ưu điểm trong việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO Ngay từ những năm đầu của Luật Đầu tư nước ngoài, khi giáo dục và đào tạo còn là lĩnh vực rất mới mẻ trong thu hút đầu tư nước ngoài, thì việc một số nhà đầu tư đề xuất thành lập trường phổ thông đã phần nào đáp ứng nhu cầu học tập của con em các nhà đầu tư và các doanh nhân đến sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Gần đây, ngoài các dự án giáo dục phổ thông dành cho con em người nước ngoài, các dự án cung cấp dịch vụ chăm sóc, giáo dục mầm non cũng đã được cấp phép khá nhiều. Đây là những cơ sở chất lượng cao không chỉ dành cho con em người nước ngoài mà còn thu hút một lượng không nhỏ các gia đình Việt Nam có điều kiện. Có thể nhận thấy phần nhiều các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đào tạo dành cho việc dạy ngoại ngữ, chủ yếu là tiếng Anh và gần đây là một số ngoại ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Hàn Quốc. Tiếp đến là các dự án giảng dạy về công nghệ thông tin với 16 dự án. Điều này thể hiện sự nắm bắt nhanh nhạy của nhà đầu tư đối với nhu cầu học tập để tìm kiếm việc làm của xã hội. Ngoài ra, cũng đã có nhiều dự án dạy nghề ngắn hạn như dạy các kỹ năng văn phòng, nghiệp vụ kế toán, marketing, quản trị kinh doanh. Các khóa học này còn có thể được thiết kế kết hợp với các chương trình tiếng Anh để nâng cao nghiệp vụ cho học viên, tạo điều kiện cho họ dễ dàng hơn khi làm việc tại các vị trí khác nhau. Mặc dù vốn đầu tư thực hiện chưa nhiều nhưng tỷ lệ các dự án giáo dục đào tạo được triển khai thực hiện đạt con số tương đối khả quan. Hầu hết các dự án sau khi cấp phép đã triển khai hoạt động. Đối với trường đại học duy nhất có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay, sau 5 năm hoạt động RMIT Việt Nam đã thiết lập được các cơ sở giảng dạy tại thành phố Hồ Chí Minh và gần đây đã mở chi nhánh ra Hà Nội. Các chuyên ngành đào tạo của RMIT Việt Nam đã phần nào đáp ứng nhu cầu học tập, du học tại chỗ theo tiêu chuẩn quốc tế không chỉ của sinh viên Việt Nam mà còn của sinh viên nước ngoài. Các cơ sở đào tạo có vốn FDI trong thời gian qua đã đóng góp đáng kể cho ngành giáo dục đào tạo nước ta tiếp cận được nền giáo dục quốc tế với phương pháp giảng dạy, nghiên cứu, học tập... tiên tiến, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên Việt Nam được theo học các chương trình chất lượng quốc tế ngay trên quê hương mình. Phần lớn các dự án là của các nhà đầu tư đến từ Hoa Kỳ, Anh, Australia... là những nước có nền giáo dục chất lượng hàng đầu thế giới, có bề dày lịch sử lâu đời. Bằng cấp của các nước này được công nhận và được coi như chuẩn mực cao trên toàn thế giới. Bên cạnh đó là sự đóng góp của các trường phổ thông, trường dạy nghề đối với việc phát triển nguồn nhân lực. Trong lĩnh vực đào tạo phổ thông, các dự án đều thu hút được nhiều học sinh và đã có nhiều học sinh tốt nghiệp nhận bằng tú tài quốc tế, có khả năng được các trường đại học danh tiếng trên thế giới nhận vào học. Trong lĩnh vực đào tạo nghề, đặc biệt là tin học và ngoại ngữ, các dự án đều được triển khai rất nhanh, tạo được uy tín với học viên và góp phần nâng cao trình độ cho đông đảo người Việt Nam, đặc biệt là thanh niên. Việc này đối với người lao động đã giúp họ có cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập, tạo điều kiện nâng cao chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu ra nước ngoài cũng như vào các khu chế xuất, khu công nghiệp và tăng khả năng được đào tạo ở nước ngoài, giúp cho người Việt Nam tiến nhanh hơn trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. 2.5.2.Tồn tại trong việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO Mặc dù đã đạt được một số thành tựu trong việc thu hút nguồn vốn FDI vào dịc vụ gáio dục song nguồn vốn FDI vào dịch vụ giáo dục tăng chậm và không đồng đều. Quy mô các dự án tương đối nhỏ nên lượng vốn đầu tư không nhiều FDI vào dịch vụ giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Hiện nay nước ta có cơ cấu dân số rất trẻ, là độ tuổi cần và tích cực tham gia vào quá trình giáo dục đào tạo. Bên cạnh đó, nước ta đang trong tình trạng thừa lao động nhưng thiếu việc làm, số lượng lao động tập trung nhiều vào nông nghiệp. Vì vậy, cần được đào tạo nghề để chuyển lực lượng lao động này sáng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Qua đó cho thấy nhu cầu cần được giáo dục và đào tạo của Việt Nam là rất lớn. Đáp ứng được nhu cầu này sẽ đem lại kết quả to lớn, có lợi cho cả người lao động cũng như đơn vị cung cấp dịch vụ giáo dục. Kết quả thu được trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI vào giáo dục và đào tạo còn khá khiêm tốn, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Quy mô tính trung bình trên một dự án còn quá thấp (khoảng 1,3 triệu USD), số dự án đầu tư quá ít (94 trên tổng số 8000 dự án đầu tư nước ngoài). Hiện nay chỉ có một trường đại học quốc tế duy nhất - trường đại học RMIT - nhưng số lượng sinh viên theo học các khóa học còn khiêm tốn. Việc xúc tiến đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực giáo dục chưa thực sự mạnh mẽ. Thực tế cho thấy đây chưa phải là lĩnh vực gây được sự chú ý, quan tâm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam đã thu hút FDI vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế từ gần 80 quốc gia, trong khi đó với lĩnh vực giáo dục chỉ thu hút được từ 18 quốc gia. Về địa bàn đầu tư, các dự án chủ yếu tập trung vào hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, chưa có một dự án FDI vào dịch vụ giáo dục được thực hiện ở nông thôn. Tại các thành phố lớn này tập trung phần lớn các cơ sở đào tạo trong nước, nhất là các trường đại học với hàng triệu sinh viên trên toàn quốc và khu vực theo học. Thêm vào đó, ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mật độ dân số ngày càng tăng vì vậy giá tiền thuê đất cũng ngày càng leo thang, dẫn tới chi phí xây dựng dự án sẽ tăng. Mặt khác, nếu ở hai thành phố lớn này ngày càng xuất hiện nhiều các trung tâm đào tạo của cả ở trong và ngoài nước sẽ dẫn tới nguy cơ nhu cầu thị trường bị bão hòa. Trong khi đó, ở vùng nông thôn, với một lực lượng lao động dồi dào có nhu cầu lớn về giáo dục thì số dự án đăng ký cấp giấy phép đầu tư còn ít. Các nội dung được phép thu hút FDI theo Nghị định 06/2000/NĐ-CP ban hành ngày 06/03/2000 còn ít so với nhu cầu thực tế. Về đào tạo nghề, các cơ sở đào tạo nghề trong nước hiện nay còn gặp khó khăn: các trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp còn thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị lạc hậu, nghèo nàn, đội ngũ giáo viên trình độ thấp, phương pháp giảng dạy thô sơ, yếu kém. Hơn nữa, đào tạo nghề còn đứng trước tình trạng những người có nghề thực sự, được đào tạo bài bản còn thiếu một cách trầm trọng. Mặt khác, việc tuân thủ các quy định chuyên ngành giáo dục gần như chưa được chú ý và một số dự án giáo dục đào tạo còn nhiều vướng mắc trong quá trình đề xuất dự án cũng như triển khai thực hiện. 2.5.3.Nguyên nhân của các tồn tại Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nướcta luôn khẳng định: “Thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước là chủ trương nhất quán và lâu dài”. Trong đó, giáo dục đào tạo là một ngành dịch vụ đặc biệt, cần được khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài. Quan điểm này cần được thống nhất trong các cơ quan quản lý Nhà nước. Mặc dù trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, giáo dục và đào tạo được coi là lĩnh vực khuyến khích đầu tư nhưng trên thực tế, phạm vi các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn đầu tư nước ngoài được phép hoạt động cũng còn khá hẹp. Vẫn còn một vài nơi có tư tưởng e ngại trong việc thu hút nguồn vốn này, nhất là những chuyên ngành mang tính nhạy cảm. Tư tưởng e ngại vẫn còn nên có nhiều ý kiến cho rằng nếu chưa quản lý được thì không nên cho phép. Ngay trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, dịch vụ giáo dục được coi là lĩnh vực bị hạn chế mở cửa theo lộ trình. Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa cũng như có nhiều cơ hội để lựa chọn dịch vụ cao cấp thì đây là quan điểm không còn thích hợp. Hệ thống văn bản pháp luật và các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài vào dịch vụ giáo dục đã được sửa đổi bổ sung nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, thể hiện ở sự chồng chéo, chậm ban hành văn bản hoặc còn thiếu những quy định cho các phương thức giáo dục mới. Ngoài ra, cam kết WTO đã hạn chế hình thức đầu tư trong giáo dục đào tạo. Do vậy, cần hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục. Mặc dù được coi là lĩnh vực khuyến khích đầu tư nhưng thực tế cho thấy trong các hoạt động xúc tiến đầu tư, các dự án giáo dục đào tạo chưa thực sự được chú trọng giới thiệu với nhà đầu tư nước ngoài. Ngay trong danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài mới được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 26/09/2007 chỉ có 3 dự án kêu gọi xây dựng các trường đại học (trong tổng số 163 dự án). Hơn nữa, đây cũng chỉ là tên dự án mà chưa có thông tin chi tiết để mời gọi các nhà đầu tư quan tâm. Trong khi nhu cầu học tập là rất lớn, nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì việc tăng cường xúc tiến đầu tư nước ngoài vào các dự án này là rất cần thiết. Tóm lại, chương 2 đã làm một số nhiệm vụ sau: Giới thiệu quá trình hình thành và phát triển của giáo dục Việt Nam, từ đó có một cái nhìn tổng quát về nền giáo dục Việt Nam. Phân tích thực trạng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Việt Nam thời gian qua, bao gồm phân tích tình hình thực hiện các công việc trong hoạt động thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục, phân tích các kết quả thu hút FDI vào dịch vụ giáo dục và đánh giá ưu, nhược điểm của hoạt động thu hút FDI vào dịch vụ giáo dục ở Việt Nam, từ đó tìm ra nguyên nhân của những tồn tại đó. Trên cơ sở những nguyên nhân đã tìm ra, chương 3 sẽ kiến nghị những định hướng, giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong thời gian tới. CHƯƠNG III MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIÁO DỤC TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CHÍNH THỨC CỦA WTO 3.1. Định hướng phát triển dịch vụ giáo dục Việt Nam đến năm 2020 3.1.1. Định hướng phát triển dịch vụ giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Ngày 28/12/2001, Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết định số 201/2001/QĐ về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010”. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 gồm 6 điểm lớn: Tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay; Bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với giáo dục nước ta trong vài thập kỷ tới; Các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục; Mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2010; Các giải pháp phát triển giáo dục; Tổ chức thực hiện chiến lược. Mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2010: a)Giáo dục mầm non: Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở nông thôn và những vùng khó khăn; tăng cường các hoạt động phổ biến kiến thức và tư vấn nuôi dạy trẻ cho các gia đình. Đến năm 2010 hầu hết trẻ em đều được chăm sóc, giáo dục bằng những hình thức thích hợp. Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên 15% năm 2005 và 18% năm 2010. Đối với trẻ 3-5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo từ 50% năm 2000 lên 58% vào năm 2005 và 67% vào năm 2010; riêng trẻ em 5 tuổi tăng tỷ lệ huy động đến mẫu giáo để chuẩn bị vào lớp 1 từ 81% năm 2000 lên 85% vào năm 2005 và 95% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non xuống dưới 20% vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010. b)Giáo dục phổ thông: Thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ các nước phát triển trong khu vực. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Tiểu học: Phát triển những đặc tính tự nhiên tốt đẹp của trẻ em, hình thành ở học sinh lòng ham hiểu biết và những đức tính, kỹ năng cơ bản đầu tiên để tạo hứng thú học tập và học tập tốt. Củng cố và nâng cao thành quả phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước. Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010. Trung học cơ sở: Cung cấp cho học sinh học vốn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở, tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động. Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố, đô thị vùng kinh tế phát triển vào năm 2005, trong cả nước vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010. Trung học phổ thông: Thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau trung học phổ thông, để học sinh vào đời hoặc chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp. Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. c)Giáo dục nghề nghiệp: Đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đáp ứng nhu cầu của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực nông thôn, các ngành kinh tế mũi nhọn và xuất khẩu lao động. Mở rộng đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp dựa trên nền học vấn trung học cơ sở. Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, trong đó chú trọng phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao dựa trên nền học vấn trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp. Trung học chuyên nghiệp: Thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005, 15% năm 2010. Dạy nghề: Thu hút học sinh sau trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005, 15% năm 2010. Dạy nghề bậc cao: Thu hút học sinh sau trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp vào học các chương trình này đạt 5% năm 2005, 10% năm 2010. d)Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học: Đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng giáo dục sau trung học thông qua việc đa dạng hóa chương trình đào tạo trên cơ sở xây dựng một hệ thống liên thông phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực và năng lực của các cơ sở đào tạo. Tăng cường năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội, năng lực tự tạo việc làm cho mình và cho những người khác. Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118 năm học 2000 - 2001 lên 200 vào năm 2010. Tăng quy mô đào tạo thạc sĩ từ 11.727 học viên năm 2000 lên 38.000, nghiên cứu sinh từ 3.870 năm 2000 lên 15.000 vào năm 2010. e)Giáo dục không chính quy: Phát triển giáo dục không chính quy như là một hình thức huy động tiềm năng của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi trình độ, mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực. Củng cố và nâng cao kết quả xóa mù chữ cho người lớn, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện có hiệu quả các chương trình sau xóa mù chữ bổ túc trên tiểu học để góp phần thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010; tạo điều kiện để thực hiện phổ cập bậc trung học trong những năm tiếp theo. Tạo cơ hội cho đông đảo người lao động được tiếp tục học tập được đào tạo lại, được bồi dưỡng ngắn hạn, định kỳ và thường xuyên theo các chương trình giáo dục, các chương trình kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập hoặc chuyển đổi nghề nghiệp. Chú trọng phát triển các chương trình chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức Nhà nướctừ Trung ương đến địa phương. g)Giáo dục trẻ khuyết tật: Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập ở một trong các loại hình lớp hòa nhập, bán hòa nhập hoặc chuyên biệt, đạt tỷ lệ 50% vào năm 2005 và 70% vào năm 2010. 3.1.2.Định hướng phát triển giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 Sau 20 năm đổi mới và 5 năm thực hiện chiến lược “Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010”, giáo dục đại học nước ta đã phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng hóa về loại hình và các hình thức đào tạo, bước đầu điều chỉnh cơ cấu hệ thống, cải tiến chương trình, quy trình đào tạo và huy động được nhiều nguồn lực xã hội. Để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới, tháng 7/2005, Chính phủ đã quyết định về Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam với mục tiêu chung là: “Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo được chuyển biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân dân. Đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới; có năng lực cạnh tranh cao, thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu cụ thể: Hoàn chỉnh mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học trên phạm vi toàn quốc, có sự phân tầng về chức năng, nhiệm vụ đào tạo, bảo đảm hợp lý cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, phù hợp với chủ trương xã hội hoá giáo dục và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của các địa phương. Phát triển các chương trình giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và định hướng nghề nghiệp - ứng dụng. Bảo đảm sự liên thông giữa các chương trình trong toàn hệ thống. Xây dựng và hoàn thiện các giải pháp bảo đảm chất lượng và hệ thống kiểm định giáo dục đại học. Xây dựng một vài trường đại học đẳng cấp quốc tế. Mở rộng quy mô đào tạo, đạt tỷ lệ 200 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2010 và 450 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2020, trong đó khoảng 70 - 80% tổng số sinh viên theo học các chương trình nghề nghiệp - ứng dụng vào khoảng 40% tổng số sinh viên thuộc các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập. Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đại học đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy và quản lý tiên tiến; bảo đảm tỷ lệ sinh viên/giảng viên của hệ thống giáo dục đại học không quá 20. Đến năm 2010 có ít nhất 40% giảng viên đạt trình độ thạc sỹ và 25% đạt trình độ tiến sỹ; đến năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên đạt trình độ thạc sỹ và 35% đạt trình độ tiến sỹ. Nâng cao rõ rệt quy mô và hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học. Các trường đại học lớn phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học mạnh của cả nước; nguồn thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ, sản xuất và dịch vụ đạt tối thiểu 15% tổng nguồn thu của các cơ sở giáo dục đại học vào năm 2010 và 25% vào năm 2020. Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học theo hướng bảo đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học, sự quản lý của Nhà nướcvà vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với giáo dục đại học. 3.2.Những việc cần làm của giáo dục nước ta trước tác động của WTO Cần phân định rõ 3 loại hình giáo dục ở nước ta: - Dịch vụ giáo dục công ích xã hội - Dịch vụ giáo dục phi lợi nhuận - Dịch vụ giáo dục có lợi nhuận Dịch vụ giáo dục công ích xã hội Chủ thể của loại dịch vụ này là giáo dục công lập, là giáo dục mang tính công ích xã hội. Dịch vụ này do tài chính công của Nhà nước đảm nhận, được hưởng các chính sách ưu tiên toàn diện của Nhà nước. Trong trường hợp này hệ thống giáo dục nước ta cần thể hiện sự tương tác, ứng phó tự tin, bản lĩnh trước tác động mạnh mẽ của thương mại dịch vụ nước ngoài, nhưng đồng thời lại tìm cách có được nhiều nguồn đầu tư mới trong hợp tác phát triển giáo dục công ích xã hội với nước ngoài. Dịch vụ giáo dục phi lợi nhuận Các trường học, các cơ sở giáo dục không nhằm mục đích kinh doanh ở nước ta cần được hưởng những chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước như chính sách sử dụng đất đai, xây dựng cơ bản... Hàng năm, có thể thiết lập mục lục khoa học các ngành nghề hợp tác với nước ngoài, những ngành nghề mà bản thân nước ta chưa đào tạo được, những ngành nghề hiện ta còn thiếu người giỏi, thiếu nhân tài thực sự. Nhìn chung, cần có nhiều chính sách khuyến khích để phát triển loại hình dịch vụ này. Dịch vụ giáo dục có lợi nhuận Đây là loại dịch vụ mang tính doanh lợi dưới tiền để nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật. Dịch vụ này thực chất là dịch vụ mua bán tri thức, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo. Dịch vụ giáo dục phi lợi nhuận có thể được thực hiện theo mấy cách dưới đây: Gia nhập thị trường dịch vụ giáo dục xuyên quốc gia: trong những năm gần đây khoa học công nghệ thông tin và mạng lưới thông tin viễn thông đã phát triển nhanh và có những bước tiến nhảy vọt ở các nước phát triển và cả một vài nước đang phát triển. Các con đường thông tin siêu tốc đang ngày càng mở rộng. Thành tựu này trên thực tế đã ảnh hưởng và làm biến đổi mạnh mẽ đến cách dạy và học. Người học hoàn toàn có thể chủ động tự lựa chọn thời gian thích hợp cho mình, lựa chọn nội dung cần học... thông qua mạng lưới giáo dục từ xa, đại học ảo. Tuy nhiên, cần lưu ý trong quản lý giáo dục, vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể giám sát, kiểm soát và quản lý được nội dung học tập để loại bỏ đi được những gì có thể làm hại đến an ninh quốc gia. Gia nhập thị trường tiêu thụ ngoài nước: hiện nay, hàng năm có khoảng trên 2 triệu học sinh, sinh viên du học ở các nước trên thế giới. Trong đó, có tới ¾ số lượng người học từ các nước đang phát triển đổ đến các nước phát triển để học. Lợi nhuận của các nước có người đến học là rất lớn. Tại Mỹ, theo một số đánh giá thì năm 2005, giá trị dịch vụ giáo dục trên thị trường này không dưới 90 tỷ USD. Trong 15 năm cuối thế kỷ XX, các tập đoàn xuyên quốc gia đã lập các trường đại học trong tập đoàn của mình và số lượng các trường này đã tăng từ 400 lên 2500 và dự kiến đến năm 2020 sẽ lên tới 3700 trường. Nhu cầu đi học nước ngoài hiện nay ở nước ta ngày một cao. Trong những năm gần đây, bình quân mỗi năm có tới một vài nghìn người đến các nước trong khu vực và trên thế giới học tập. Hiện có khoảng 40-50 nghìn lưu học sinh Việt Nam đang học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. Do vậy, Nhà nước cần có thêm chính sách thu hút và sử dụng để nguồn nhân lực này có thêm điều kiện trở về phục vụ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Đồng thời, cần tạo nhiều điều kiện để các trường đại học, cao đẳng của nước ta có thể thu hút thêm được lưu học sinh các nước láng giềng, khu vực và trên thế giới đến Việt Nam nghiên cứu và học tập. Muốn vậy, cần mở rộng quyền tự chủ và tính trách nhiệm cho các trường và cơ sở giáo dục. Cần hình thành một cơ chế cạnh tranh lành mạnh giúp các trường sáng tạo, chủ động trong việc quảng bá và thu hút được nhiều người nước ngoài đến học. Hình thành các trường và cơ sở giáo dục tư thục ở hầu hết tất cả các cấp bậc, trình độ học và ngành nghề ở tất cả các vùng, miền trong cả nước để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của mọi người dân nước ta. Nhà nước cần có chính sách đảm bảo tính công bằng, dân chủ, tính chủ động, sáng tạo giúp cho các trường và cơ sở này phát triển. Loại hình này hiện nay rất phát triển trong các nước thành viên WTO và ở không ít nước, chính loại hình này đã tạo ra chất lượng cao cho một nền giáo dục có thương hiệu. Trong hợp tác quốc tế về giáo dục, ngành Giáo dục có kế hoạch chủ động đề xuất và cho phép mở các ngành nghề có liên quan đến thương mại dịch vụ giáo dục theo từng địa phương và trong cả nước, đồng thời đảm bảo quyền quản lý nhà nước về giáo dục ở các lĩnh vực này. Trên cơ sở luật pháp nước ta, cho phép và tạo điều kiện cho nước ngoài và các tổ chức quốc tế đến mở trường, mở ngành nghề theo hướng hiện đại, chất lượng cao, công nhận văn bằng, chứng chỉ lẫn nhau và tiệm cận tới Việt Nam hóa. Trên cơ sở hiến pháp, luật Giáo dục sửa đổi, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đảm bảo quyền học tập của dân, đảm bảo chủ quyền giáo dục quốc gia, đảm bảo an ninh chính trị quốc phòng... cần có các quy định cụ thể để khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào làm giáo dục ở nước ta, song không được lấy danh nghĩa hợp tác quốc tế, giao lưu giáo dục, dịch vụ giáo dục để tiến hành những hoạt động bị nghiêm cấm theo luật pháp Việt Nam hiện hành. Tất cả những hoạt động về giáo dục của các cá nhân, tổ chức nước ngoài chỉ được triển khai sau khi đã được các cơ quan có thẩm quyền ở nước ta phê chuẩn. 3.3.Một số quan điểm thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO Hiện nay vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau về các vấn đề sau: Về ranh giới giữa “giáo dục” và “dạy nghề” Trên thực tế, cách hiểu về hai khái niệm này khó có thể phân định rạch ròi. Hiện nay vẫn còn tồn tại các quy định riêng rẽ cho 2 lĩnh vực này nên để có căn cứ áp dụng pháp luật, các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cần xác định rõ ranh giới giữa hoạt động giáo dục và dạy nghề, làm cơ sở cho việc áp dụng các quy định có liên quan cũng như hướng dẫn nhà đầu tư. Trong trường hợp có thể thì đề nghị thống nhất hướng dẫn ở một hệ thống văn bản để tiện theo dõi và vận dụng. Về hình thức đầu tư Cho đến trước khi Việt Nam gia nhập WTO, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài chưa bao giờ bị hạn chế. Tuy nhiên, theo cam kết WTO, từ nay đến trước thời điểm 01/01/2009, các dự án giáo dục chỉ được thực hiện theo hình thức liên doanh. Điều này đã hạn chế việc thành lập các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI mới mà trên thực tế thì đây không phải là lĩnh vực bắt buộc phải hạn chế. Với tinh thần mở cửa như Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo và cam kết với cộng đồng quốc tế, coi đây là cam kết sàn và Việt Nam sẽ xem xét mở cửa sớm hơn một số ngành dịch vụ, trong Nghị định Chính phủ về thực hiện cam kết WTO cần cho phép hình thức 100% vốn nước ngoài đối với các dự án giáo dục đào tạo, nhất là các dự án dạy nghề, dạy kỹ năng cho người lao động. Về các điều kiện mà các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI cần phải đáp ứng Hiện nay các cơ sở này áp dụng các tiêu chí quy định tại các Thông tư liên tịch số 14/2005 ngày 06/03/2000 giữa Bộ Giáo Dục Đào Tạo và Bộ Kế Hoạch Đầu Tư; số 20/2004 ngày 03/12/2004 giữa Bộ Lao Động Thương binh Xã hội và Bộ Kế Hoạch Đầu Tư. Tuy nhiên, các Thông tư này được ban hành trước thời điểm ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 2005 áp dụng chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, quan điểm khi xây dựng các văn bản này của các cơ quan còn khác nhau đẫn đến các yêu cầu đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo là khác nhau như với cùng nội dung hướng dẫn Nghị định 06/2000/NĐ-CP, trong khi Thông tư 20/2004 hướng dẫn về dạy nghề không yêu cầu cụ thể về các tiêu chí như suất đầu tư, diện tích phòng học, các công trình phục vụ giảng dạy... thì Thông tư 14/2005 hướng dẫn về giáo dục lại quy định rất chi tiết các điều kiện này. Việc quy định chi tiết cho từng cấp độ, từng loại hình đào tạo sẽ tạo thuận lợi cho việc vận dụng vào thực tế; tuy nhiên, cần quy định thống nhất để tránh việc áp dụng tùy tiện. Ngoài ra, với mong muốn thu hút các dự án giáo dục đào tạo chất lượng cao, yêu cầu đối với các dự án này là tương đối cao nhưng trên thực tế không có nhiều nhà đầu tư có thể đáp ứng được ngay các tiêu chí này. Thực tế là từ khi có Thông tư 14/2005, chưa có thêm dự án nào ở bậc đại học được thành lập tương tự như RMIT Việt Nam, ngoại trừ 2 dự án đào tạo công nghệ thông tin đề nghị nâng cấp lên trình độ cao đẳng. Do đó, cần nghiên cứu thêm các trường hợp liên kết đào tạo, đào tạo liên thông... để có quy định cụ thể về tiêu chí, làm cơ sở cho việc cho phép mở rộng phương thức đào tạo mà vẫn đạt được mục tiêu thu hút đầu tư vào những cơ sở giáo dục đào tạo có chất lượng. Về đối tượng học sinh được phép theo học tại các trường quốc tế: Cho đến nay Nghị định 06/2000/NĐ-CP mới chỉ cho phép thí điểm đào tạo học sinh Việt Nam bậc phổ thông trung học trong khi nhu cầu của các gia đình Việt Nam về việc cho con em mình vào học các trường quốc tế là khá lớn. Đây là nhu cầu chính đáng. Do vậy, cần có tổng kết, đánh giá chủ trương cho phép đào tạo phổ thông, từ đó kiến nghị phương án dừng, duy trì hoặc mở rộng phạm vi đào tạo học sinh Việt Nam từ mẫu giáo đến trung học phổ thông một cách minh bạch. Về các phương thức đào tạo: Hiện nay chưa có quy định về phương thức đào tạo liên thông, đào tạo từ xa, đào tạo qua internet... áp dụng cho các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI, trong khi nhu cầu cả từ phía người học và từ phía nhà đầu tư đối với các phương thức này rất lớn. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng việc cho phép các phương thức đào tạo này là khá phức tạp, khó quản lý nhưng có một thực tế, nếu chưa cho phép các cơ sở này hoạt động trong nước thì học viên có thể sử dụng chương trình do các trường ở nước ngoài cung cấp hoặc đi du học nước ngoài. Khi đó, vừa không thu hút được các nhà đầu tư vừa không quản lý được nội dung giảng dạy, học tập. 3.4.Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 3.4.1.Thống nhất nhận thức và quan điểm thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Trước khi Việt Nam gia nhập WTO, cách nhìn chung của phần đông những người hoạt động trong ngành giáo dục đều coi giáo dục là một phúc lợi xã hội hoạt động theo nguyên tắc phi thương mại. Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, Việt Nam đã theo đuổi lập trường tích cực, chủ động và đã cam kết thực hiện Hiệp định chung về thương mại dịch vụ đối với tất cả 12 ngành dịch vụ, trong đó có giáo dục. Điều này cũng có nghĩa là sau khi gia nhập WTO, chúng ta phải có một cái nhìn khác, đó là giáo dục là một dịch vụ trong hoạt động thương mại và thương mại dịch vụ giáo dục cần được tự do hóa. Mặc dù trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, giáo dục và đào tạo được coi là lĩnh vực khuyến khích đầu tư nhưng trên thực tế, phạm vi các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI được phép hoạt động còn khá hẹp và vẫn còn một vài nơi, một số cá nhân chưa thực sự yên tâm với việc thu hút nguồn vốn này, nhất là trong những chuyên ngành mang tính nhạy cảm. Với tư cách là một ngành dịch vụ, giáo dục đào tạo còn dư địa lớn để kêu gọi đầu tư. Cùng với các ngành như ngân hàng, tài chính, vận tải, bưu chính viễn thông... giáo dục và đào tạo góp phần tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Các cơ quan chức năng cần thể hiện rõ vai trò tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp và tạo cơ sở cho các cơ quan quản lý quản lý tốt hoạt động này. Bên cạnh đó, cần có các quy định cụ thể để vừa tạo điều kiện cho hoạt động giáo dục đào tạo phát triển, vừa quản lý tốt hoạt động này. 3.4.2.Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách liên quan đến thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Hiện nay có nhiều văn bản điều chỉnh hoạt động của các cơ sở giáo dục đào tạo có yếu tố nước ngoài như Nghị định 06/2000/NĐ-CP ngày 06/03/2000 điều chỉnh hoạt động của cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI; Nghị định 18/2001/NĐ-CP ngày 04/05/2001 quy định về lập và hoạt động của các cơ sở văn hóa, giáo dục nước ngoài không nhằm mục đích lợi nhuận tại Việt Nam và Nghị định 165/2004/NĐ-CP áp dụng cho các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục (chủ yếu là hợp tác phát triển). Quy định như vậy khiến cho việc phân định phạm vi hoạt động được phép của các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI cũng như cơ quan quản lý các cơ sở này rất phức tạp, nhiều trường hợp không vận dụng được hoặc vận dụng không nhất quán như trường hợp cho phép đào tạo học sinh Việt Nam ở cấp tiểu học và trung học cơ sở ở Trường Quốc tế dạy bằng tiếng Anh tại thành phố Hồ Chí Minh. Hơn nữa, Nghị định 06/2000/NĐ-CP được ban hành năm 2000 căn cứ vào Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến nay đã được thay thế bằng Luật Đầu tư áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài. Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư quy định phân cấp triệt để việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho các địa phương, do vậy, trình tự, thủ tục đầu tư cũng đã thay đổi. Ngoài ra còn có những quy định riêng cho lĩnh vực dạy nghề. Để thống nhất quản lý cũng như tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, cần rà soát các quy định hiện hành để sửa đổi, bổ sung theo hướng đưa các quy định đặc thù chuyên ngành giáo dục đào tạo đối với các trường hợp có yếu tố nước ngoài vào một văn bản để vừa bao quát hết các loại hình vừa thuận tiện cho việc áp dụng 3.4.3.Về công tác hướng dẫn thủ tục, kêu gọi đầu tư vào các dự án giáo dục đào tạo Mặc dù được coi là lĩnh vực khuyến khích đầu tư nhưng trong các hoạt động xúc tiến đầu tư, các dự án giáo dục đào tạo chưa thực sự được chú trọng. Trong danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 26/09/2007 mới chỉ có 3 dự án kêu gọi xây dựng các trường đại học (trong tổng số 163 dự án); hơn nữa, đây cũng chỉ là tên dự án mà chưa có thông tin chi tiết để mời gọi các nhà đầu tư quan tâm. Trong khi nhu cầu học tập là rất lớn, nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì việc tăng cường xúc tiến đầu tư nước ngoài vào các dự án này là rất cần thiết. Để có cơ sở kêu gọi đầu tư vào dịch vụ giáo dục, trước mắt cần nghiên cứu toàn diện về nhu cầu học tập ở từng cấp học, từng ngành và từng phương thức đào tạo, từ đó có quy hoạch cho mạng lưới các trường, các cơ sở giáo dục đào tạo.Yêu cầu của quy hoạch này là chỉ ra nhu cầu phát triển cho từng giai đoạn, trên cơ sở đó cơ quan quản lý giáo dục sẽ cân đối phần vốn trong khả năng của ngân sách Nhà nướccó thể đáp ứng, phần còn lại kêu gọi từ các nguồn vốn khác, trong có có nguồn vốn FDI. Đây sẽ là thông tin cơ bản và quan trọng nhất để nhà đầu tư tham khảo khi họ tìm kiếm cơ hội đầu tư. Tuy nhiên, quy hoạch này cũng nên được hiểu một cách linh hoạt, nghĩa là không chỉ những dự án trong quy hoạch mới được phép triển khai, mà nếu trong quá trình nghiên cứu, nhà đầu tư thấy rằng có thể đầu tư một cơ sở giáo dục đào tạo nào đó chưa có trong quy hoạch thì ý tưởng, dự án này vẫn cần được xem xét, thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định hiện hành. Một vấn đề nữa cần được quan tâm trong quá trình hướng dẫn, hỗ trợ các nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đào tạo là việc tìm kiếm địa điểm. Đặc thù của cơ sở giáo dục đào tạo chất lượng quốc tế là yêu cầu có diện tích tương đối lớn để xây dựng giảng đường, phòng học, thư viện, khu nghiên cứu... Ngoài ra, địa điểm cũng phải thuận lợi cho việc thu hút học sinh, sinh viên đến học. Cho đến nay, rất ít cơ sở giáo dục đào tạo được cấp phép đáp ứng được yêu cầu này mà chủ yếu là các cơ sở quy mô nhỏ, hầu hết thuê địa điểm để cải tạo lại thành các phòng học. Vì vậy, cùng với những ưu đãi về giá thuê địa điểm để giảm một phần chi phí xây dựng dự án, các địa phương cần phải quy hoạch địa điểm cụ thể để phù hợp với những đặc điểm riêng nêu trên, đồng thời phải tích cực hỗ trợ nhà đầu tư nước ngoài nghiên cứu, tìm hiểu, khảo sát địa điểm. Đối với những khu vực tập trung nhiều khu công nghiệp, cùng với việc quan tâm xây dựng các công trình phúc lợi, nhà ở cho công nhân, cần quy hoạch địa điểm dành cho các trường dạy nghề và các trung tâm đào tạo kỹ năng để tạo điều kiện thu hút đầu tư vào các cơ sở này phục vụ nhu cầu học nghề của số lượng lớn công nhân. Để thúc đẩy FDI vào lĩnh vực giáo dục đào tạo, trước mắt cần xây dựng và triển khai ngay hoạt động xúc tiến đầu tư theo chuyên ngành này, theo đó cần có nghiên cứu và chuẩn bị thật tốt các thông tin về dự án kêu gọi đầu tư cũng như thông tin về khả năng đầu tư của các đối tác để có sự vận động thích hợp, đặc biệt là việc theo sát, tổ chức hướng dẫn, hỗ trợ nhà đầu tư ngay từ khi họ có ý định đầu tư tại Việt Nam để có cơ sở hình thành ý tưởng và xây dựng dự án. 3.4.4.Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nướcđối với hoạt động FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Về công tác thẩm tra, cấp Giấy chứng nhận đầu tư Theo quy định hiện hành, việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư đã được phân cấp cho các địa phương. Tuy nhiên, giáo dục đào tạo là lĩnh vực đầu tư có điều kiện nên trong quá trình thẩm tra, địa phương phải lấy ý kiến Bộ quản lý ngành và Bộ chuyên ngành có trách nhiệm thẩm tra việc đáp ứng các điều kiện của dự án (theo Điều 50 Nghị định 108 số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư). Để bảo đảm thời gian cũng như chất lượng công tác thẩm tra, các cơ quan được hỏi ý kiến cần nghiên cứu trả lời trong thời hạn luật định và cần trả lời trực tiếp vào những vấn đề thuộc trách nhiệm, phạm vi quản lý của mình. Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với tư cách là cơ quan đầu mối quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài cần phối hợp chặt chẽ với Bộ quản lý ngành để thông báo kịp thời cho nhà đầu tư nước ngoài những thay đổi về cơ chế chính sách, về điều kiện kinh doanh và hướng dẫn họ thực hiện các thủ tục để công việc tiến hành thuận lợi. Về công tác quản lý sau cấp phép Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với dự án có vốn FDI, trong đó có dự án giáo dục đào tạo; theo đó Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý trực tiếp dự án trên địa bàn. Hiện nay, việc quản lý dự án có vốn FDI thường chỉ do Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện, do vậy chỉ nắm được tình hình từ khía cạnh đầu tư, trong khi hoạt động của dự án, đặc biệt là dự án giáo dục đào tạo liên quan đến rất nhiều vấn đề khác như đăng ký chương trình giảng dạy, kiểm tra chất lượng, cấp văn bằng, chứng chỉ... Để thực hiện tốt chức năng này, đặc biệt là đối với các dự án phức tạp, ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội như giáo dục đào tạo, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các địa phương cần xây dựng quy chế phối hợp giữa các sở, ban, ngành liên quan (Sở Giáo dục Đào tạo, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Tài chính...), trong đó phân công rõ trách nhiệm của từng đơn vị làm tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc theo dõi, quản lý, giám sát tình hình hoạt động của các cơ sở này. Bên cạnh đó, công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho các cán bộ làm công tác quản lý là rất quan trọng. Do vậy, các Bộ như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần tăng cường công tác tập huấn, phổ biến pháp luật cho các Sở theo ngành để quán triệt, thống nhất trong công tác quản lý Nhà nước, tránh tình trạng một số nơi còn thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc không kịp thời nắm bắt thông tin về các quy định mới ban hành, dẫn đến không rõ trách nhiệm quản lý của mình. Công tác quản lý sau cấp phép không chỉ giới hạn ở việc nắm thông tin và giám sát hoạt động mà với tinh thần hỗ trợ doanh nghiệp, các cơ quan quản lý cần phải giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc, tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho các dự án đầu tư triển khai thuận lợi và đúng pháp luật. Việc tập trung chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư đang có dự án hoạt động hiệu quả vừa giúp cho nhà đầu tư giải quyết các vấn đề phát sinh, vừa có ý nghĩa quan trọng và có sức thuyết phục để vận động nhà đầu tư mới. Về việc quản lý chất lượng giảng dạy và bảo đảm quyền lợi của học viên Mặc dù các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI là các cơ sở tư nhân do nhà đầu tư thành lập và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, nhưng do đây là dịch vụ đặc biệt, có liên quan đến con người nên cần quản lý chặt chẽ. Theo quy định hiện hành, các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI phải đăng ký nội dung và chương trình giảng dạy với cơ quan quản lý giáo dục trước khi tuyển sinh. Bên cạnh đó, cần có cơ chế kiểm soát và cơ quan kiểm định chất lượng độc lập, có khả năng đánh giá khách quan chất lượng các cơ sở giáo dục đào tạo, một mặt làm cơ sở cho học viên lựa chọn nơi cung cấp dịch vụ, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý. 3.4.5.Nghiên cứu mở rộng các mô hình thu hút nguồn vốn FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Trong thời gian qua, số lượng học sinh, sinh viên đi du học ngày càng đông, trong đó, tỷ lệ du học tự túc ngày càng lớn bên cạnh nguồn học bổng tài trợ từ các tập đoàn, Chính phủ. Hàng năm, có tới vài chục ngàn học sinh, sinh viên đi du học bằng con đường tự túc. Điều đó chứng tỏ nhu cầu được học trong các trường đạt tiêu chuẩn quốc tế là khá cao. Bên cạnh đó, với đà thu hút đầu tư như hiện nay, hiện tượng thiếu lao động qua đào tạo và có chất lượng để cung cấp cho các dự án mới là rất trầm trọng. Do đó, cùng với thu hút nguồn vốn FDI, cần nghiên cứu cho phép thêm và có cơ chế khuyến khích một số phương thức, mô hình đào tạo mới như: Việc đào tạo, dạy nghề phải gắn với nhu cầu của thị trường lao động. Để đào tạo đúng hướng, cần xây dựng đề án và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về lao động tự thành lập cơ sở dạy nghề hoặc kết hợp chặt chẽ, hỗ trợ các cơ sở dạy nghề sẵn có tổ chức dạy nghề theo yêu cầu hoặc đơn đặt hàng. Cho phép nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần trong các cơ sở giáo dục của Việt Nam để tận dụng lợi thế của các cơ sở sẵn có, đồng thời tạo điều kiện cho họ đầu tư thêm cơ sở vật chất cho công tác giảng dạy và trong nhiều trường hợp, việc đầu tư này không chỉ nâng cấp cơ sở hiện có mà còn tận dụng được kinh nghiệm của nhà đầu tư nước ngoài. Cho phép các cơ sở giáo dục của Việt Nam nếu có điều kiện thì thuê tổ chức quản lý giáo dục nước ngoài để tạo lập cơ sở giáo dục đào tạo theo chuẩn quốc tế. Theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài trước đây cũng như Luật Đầu tư hiện nay, việc thuê tổ chức quản lý của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là được phép, nhất là đối với các lĩnh vực cần kỹ năng quản lý chuyên sâu như kinh doanh bất động sản, khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo; tuy nhiên, trên thực tế mới chỉ có các dự án kinh doanh khách sạn, văn phòng cho thuê, sân golf là sử dụng phương thức này. Đây là phương thức tiên tiến được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là trong trường hợp nhà đầu tư không đồng thời là nhà quản lý giáo dục. Do vậy, nên nghiên cứu cho phép và khuyến khích các cơ sở giáo dục đào tạo sử dụng phương thức này. Tóm lại, chương 3 đã thực hiện một số nhiệm vụ sau: Đưa ra định hướng phát triển giáo dục Việt Nam đến năm 2010, định hướng phát triển giáo dục đại học Việt Nam đến 2020.. Đưa ra một số quan điểm về dịch vụ giáo dục hiện nay. Từ định hướng và quan điểm, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp về cơ chế đầu tư, luật pháp, chính sách, mô hình thu thú vốn FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO. KẾT LUẬN Thực tiễn 20 năm thu hút FDI nói chung và trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói riêng đã cho thấy những đóng góp to lớn của khu vực kinh tế này. Đây là kết quả của chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù các văn bản hướng dẫn cho FDI trong giáo dục đào tạo được ban hành chậm hơn so với các quy định khác trong hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài nhưng cũng đã tạo được hành lang pháp lý thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Tính đến nay đã thu hút được 94 dự án với tổng vốn đầu tư gần 140 triệu USD trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, Việt Nam đã theo đuổi lập trường tích cực, chủ động và đã cam kết thực hiện GATS đối với tất cả 12 ngành dịch vụ, trong đó có giáo dục. Với chủ trương từng bước mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong bản chào dịch vụ đa phương, mức cam kết của Việt Nam về dịch vụ giáo dục là khá sâu rộng. Chúng ta đã mở cửa hầu hết các lĩnh vực giáo dục về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, quản lý doanh nghiệp, kinh tế, kế toán..., trong đó giáo dục đại học được coi là lĩnh vực mở cửa rộng nhất với một lộ trình thích hợp. Cam kết thực hiện GATS về giáo dục sẽ đặt giáo dục Việt Nam trước những thách thức cực kỳ to lớn. Nếu không có ý chí và quyết tâm đổi mới để phát triển thì giáo dục đại học sẽ không đủ sức cạnh tranh, bản sắc văn hóa dân tộc và những giá trị văn hóa truyền thống sẽ bị phai nhạt, tình trạng thất thoát chất xám ngày càng trầm trọng, quyền lợi người học sẽ bị xâm phạm, khoảng cách giữa Việt Nam và các nước phát triển sẽ ngày càng gia tăng. Do đó, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm phát triển dịch vụ giáo dục là một bước đi vô cùng đúng đắn trong điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất và khó khăn trong công tác quản lý giáo dục ở Việt Nam. Có chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát triển dịch vụ giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, cung cấp cho đất nước nguồn nhân lực có trình độ cao, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước, nâng vị thế nước ta lên một tầm cao mới./ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO GS.TSKH.Vũ Ngọc Hải “Giáo dục Việt Nam đổi mới và phát triển hiện đại hóa”, NXB Giáo dục, 2007. GS.TS.Nguyễn Đình Hương “Việt Nam hướng tới nền giáo dục hiện đại”, NXB Giáo dục, 2007. PGS.TS.Nguyễn Hữu Khải “Các ngành dịch vụ Việt Nam”, NXB Thống Kê, 2007. Phạm Minh Hạc “60 năm phát triển nền giáo dục Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Giáo dục số 1 tháng 10 và số 2 tháng 11 năm 2005. Vũ Ngọc Hải “Đổi mới cách nghĩ và cách làm giáo dục”, Tạp chí Phát triển Giáo dục, số 4(76)/2005. PGS.TS.Nguyễn Thị Hường chủ biên: Giáo trình “Kinh doanh quốc tế (tập 2)”, NXB Lao động-Xã hội, 2005. Phạm Khiêm Ích “Cải cách giáo dục – Thách thức của thế kỷ XXI”, Tạp chí Tia sáng, tháng 4/2005. Nguyễn Quang Kính và tập thể tác giả “Giáo dục Việt Nam 1945-2005”, NXB Chính trị quốc gia, 2005. Đặng Bá Lãm (chủ biên) “Quản lý nhà nước về giáo dục, lý luận và thực tiễn”, NXB Chính trị quốc gia 2005. Luật Giáo dục 2005 Viện Sử học “60 năm nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Một số thành tựu chủ yếu”, NXB KHXH, 2005. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng “Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai - Vấn đề và giải pháp”, NXB Chính trị quốc gia, 2004. Vũ Ngọc Hải “Dịch vụ giáo dục”, Tạp chí Phát triển Giáo dục số 11(71)/2004. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (chủ biên) “Một số vấn đề về giáo dục đại học”, NXB Đại học Quốc gia, 2004. Nguyễn Công Giáp “Sự hình thành và phát triển thị trường trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Giáo dục, tháng 3/2003. Vũ Ngọc Hải, Trần Khánh Đức (đồng chủ biên) “Hệ thống giáo dục hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XXI”, NXB Giáo dục, 2003. Đặng Bá Lãm “Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XXI - Chiến lược phát triển”, NXB Giáo dục, 2003. Ban Khoa giáo trung ương “Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới, chủ trương, thực hiện, đánh giá”, NXB Chính trị quốc gia,2002. Phạm Minh Hạc (chủ biên) “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI”, NXB Chính trị quốc gia, 2002. PGS.TS.Nguyễn Thị Hường chủ biên: Giáo trình “Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tập 1)”, NXB Thống Kê, 2002. Lê Văn Giang “Những vấn đề lý luận cơ bản của khoa học giáo dục”, NXB Chính trị quốc gia, 2001. UNDP “Việt Nam hướng tới 2010”, NXB Chính trị quốc gia, 2001. www.chungta.com www.gso.gov.vn www.moet.gov.vn www.mpi.gov.vn www.vnexpress.net www.vnn.vn DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT AIT Viện công nghệ châu Á BOT Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BTO Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh BT Hợp đồng xây dựng - chuyển giao FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài GATS Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ IMF Quỹ tiền tệ quốc tế NCC Tổ chức toàn cầu hoạt động trong lĩnh vực giáo dục OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế PERC Tổ chức tư vấn rủi ro kinh tế và chính trị UNCTAD Hội nghị liên hợp quốc tế về thương mại và phát triển DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Danh mục dự án đầu tư nước ngoài tính đến hết năm 2000 49 Bảng 2.2: Danh mục dự án đầu tư nước ngoài tính riêng năm 2007 51 Hình 2.3: Số dự án đầu tư vào giáo dục từ năm 1993-2007 52 Hình 2.4: Vốn đầu tư của các dự án từ năm 1993-2007 52 MỤC LỤC NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26450.doc
Tài liệu liên quan