Chuyên đề Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của công ty cổ phần da giày Việt Nam

EU, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới với 27 quốc gia thành viên với sức tiêu thụ khổng lồ là một thị trường xuất khẩu hấp dẫn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Trong thời gian trước kia, da giày Việt Nam đã đạt được những thành công lớn tại thị trường EU, xuất khẩu mặt hàng da giày của Việt Nam vào thị trường này thường xuyên đạt được tốc độ tăng trưởng cao, mang lại nguồn thu lớn cho đất nước. Tuy nhiên, từ năm 2006, khi Việt Nam bị liên minh châu Âu EU chính thức áp mức thuế chống bán phá giá 10% đối với các sản phẩm giày mũ da, một sản phẩm chủ lực của ngành công nghiệp da giày Việt Nam, thì hoạt động xuất khẩu da giày của Việt Nam vào thị trường này đã giảm sút rõ rệt. Là một doanh nghiệp chuyên sản xuất và xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU, công ty cổ phần da giày Việt Nam cũng không tránh khỏi thách thức này. Hơn nữa, cùng thời gian đó, công ty còn phải đối mặt với những khó khăn vướng mắc gặp phải sau quá trình cổ phần hoá. Chính những điều này đã làm cho hoạt động kinh doanh của công ty có dấu hiệu sa xút nghiêm trọng, cần có những biện pháp thích hợp để khôi phục và gia tăng hiệu qua kinh doanh của công ty và hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giàu sang thị trường EU. Một mặt, công ty nên chuyển hướng hoạt động xuất khẩu của mình sang các thị trường lớn khác như Mỹ, Nhật Bản nhằm giảm thiểu những rủi ro khi có biến động xảy ra. Mặt khác, công ty vẫn cần phải có các giải pháp phù hợp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình sang thị trường EU, bởi đây vẫn là một thị trường giàu tiềm năng, hơn nữa, công ty lại có kinh nghiệm nhiều năm trong việc xuất khẩu sang thị trường này, do vậy không thể vì những khó khăn trước mắt gặp phải mà có thể từ bỏ nó.

doc112 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1991 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của công ty cổ phần da giày Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng khác nhau nhưng đều giảm xuống rõ rệt. Đây chính là giai đoạn khó khăn đối vơi công ty cổ phần da giày Việt Nam. 2.2.2.4. Hình thức xuất khẩu Hiện nay, gia công xuất khẩu cho các đối tác nước ngoài như Đài Loan, Hàn Quốc vẫn là hình thức xuất khẩu chủ yếu của công ty cổ phần da giày Việt Nam, Gia công xuất khẩu hiện nay chiếm tới 80% kim ngạch xuất khẩu của công ty, hình thức xuất khẩu trực tiếp ( bán FOB ) chỉ chiếm 20 %. Bảng số liệu 2.8 sẽ cho thấy điều đó. Bảng 2.8: Các hình thức xuất khẩu của công ty cổ phần da giày Việt Nam : Đơn vị tính : USD Hình thức Năm Gia công xuất khẩu Xuất khẩu trực tiếp 2004 6,890,741 1,795,176 2005 7,811,492 2,061,749 2006 6,296,843 1,699,237 2007 5,576,040 1,508,211 Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của công ty cổ phần da giày Việt Nam từ năm 2004 – 2007. 2.2.2.5. Các biện pháp công ty cổ phần da giày Việt Nam đã thực hiện để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu 1. Các biện pháp tác động đến nguồn hang xuất khẩu của công ty Các hoạt động đầu tư Từ những năm đầu của thập kỷ 90, công ty cổ phần da giày Việt Nam đã chú trọng vào công tác đầu tư, đổi mới công nghệ phục vụ cho hoạt động sản xuất. Cụ thể : Thuộc da : một số máy móc tương đối tiên tiến thời bấy giờ được công ty nhập về từ Đài Loan để phục vụ cho hoạt động thuộc da của công ty. Vốn đầu tư vào khoảng 4 tỷ đồng. Sản xuất sản phẩm : Công ty đã nhập về 6 dây chuyền sản xuất da giày từ Đài Loan và Hàn Quốc. Vốn đầu tư được trả chậm và trừ vào chi phí gia công. Sản xuất nguyên phụ liệu : Để đáp ứng một phần nhu cầu của sản xuất và yêu cầu vê xuất xứ cũng như các ưu đãi thuế quan đối với mặt hàng da giày xuất khẩu sang thị trường EU, công ty đã chủ động đầu tư một số loại máy móc để sản xuất các loại nguyên phụ liệu như đế giày, dao chặt… Hoạt động đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực Hiểu được tầm quan trọng của việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực đối với sự phát triển, công ty cổ phần da giày Việt Nam luôn chú trọng đẩy mạnh các hoạt động đào tạo , bồi dưỡng, đặc biệt là về kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn đối với nhân viên nghiệp vụ tại các đơn vị. Các nhân viên mới được tuyển dụng đều được công ty tổ chức đào tạo để nắm rõ chuyên môn, nghiệp vụ, trách nhiệm, quyền hạn được giao. Hàng năm, căn cứ vào nhu cầu phát triển, năng lực trình độ cán bộ, mức độ gắn bó, công ty cổ phần da giày Việt Nam thường xuyên cử các cán bộ đi đào toạ, tham dự các khoá huấn luyện… Hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm Quản lý chất lượng sản phẩm từ khâu sản xuất đến khi xuất khẩu là hoạt động có vai trò rất quan trọng. Công ty cổ phần da giày Việt Nam đã cố gắng xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng sản phẩm đáp ứng tốt các yêu cầu về chất lượng của đối tác. Công ty đã được cấp chứng chỉ ISO 9002 về hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng sản phẩm. 2. Các hoạt động tác động đến thị trường xuất khẩu của công ty Hoạt động xúc tiến thương mại Mặc dù hình thức xuất khẩu của công ty chủ yếu là gia công xuất khẩu cho các đối tác nước ngoài nhưng công ty cổ phần da giày Việt Nam cũng đã bắt đầu quan tâm đến các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá cho hình ảnh của công ty. Công ty thường tham gia các cuộc triển lãm quốc tế chuyên ngành da giày, các hội chợ thời trang được tổ chức hàng năm ở trong và ngoài nước. Hoạt động nghiên cứu và môi trường Hoạt động nghiên cứu triển khai các mẫu mốt để đưa vào sản xuất của công ty đã bước đầu được thực hiện tuy nhiên còn khá yếu kém và nghèo nàn so với các đối thủ cạnh tranh tại các quốc gia như Trung Quốc, Indonexia, Thái Lan… Môi trường là yếu tố rất được các bạn hàng nước ngoài quan tâm, đặc biệt là tại các quốc gia phát triển như thị trường EU thì môi trường là một trong những tiêu chuẩn để lựa chọn sản phẩm. Do vậy, công ty cổ phần da giày Việt Nam đã bước đầu chú trọng đến công tác đầu tư để xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. 2.2.3. Đánh giá hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của công ty cổ phần da giày Việt Nam 2.2.3.1. Những ưu điểm trong hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty cổ phần da giày Việt Nam sang thị trường EU Xuất khẩu sang thị trường EU luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty cổ phần da giày Việt Nam. Trong những năm qua thì kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU luốn chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều này đã góp phần nâng cao lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của công ty cũng như góp phần nâng cao thu nhập cho cán bộ, công nhân viên trong công ty. Công ty đã tiếp cận được với các thị trường khó tính và có yêu cầu cao trong liên minh châu Âu như Đức, Pháp, Italia, Anh. Đây là các thị trường lớn và rất có tiềm năng. Nó không chỉ góp phẩn mang lại một nguồn doanh thu lớn cho công ty mà còn giúp nâng cao uy tín của công ty đối với các đối tác nước ngoài, tạo cơ hội cho công ty xâm nhập dễ dàng hơn vào các thị trường khác trong liên minh châu Âu và trên thế giới. Công ty cổ phần da giày Việt Nam đã đáp ứng được một phần nhu cầu nguyên phụ liệu cho sản xuất. Điều này giúp cho công ty tránh phụ thuộc quá nhiều vào đối tác nước ngoài cũng như giảm được ảnh hưởng do những biến động lớn trên thị trường nguyên phụ liệu thế giới. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng như thị trường xuất khẩu của công ty trong thời gian qua khá ổn định, không có sự biến động lớn giữa các mặt hàng và thị trường. Công ty đã bắt đầu triển khai một số hoạt động nhằm thúc đẩy xuất khẩu có ý nghĩa chiến lược như việc triển khai hoạt động nghiên cứu mẫu mốt, chủ động một phần nguyên phụ liệu… 2.2.3.2. Những tồn tại trong hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty cổ phần da giày Việt Nam sang thị trường EU Kim ngạch xuất khẩu của công ty cổ phần da giày Việt Nam trong thời gian qua không ổn định và có dấu hiệu đi xuống. Mặc dù trong năm 2005 kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng da giày của công ty vào thị trường EU đã tăng lên đáng kể, có những mặt hàng tăng đến hơn 20%, nhưng 2 năm sau đó, năm 2006 và 2007, kim ngạch xuất khẩu của công ty lại giảm đi rất nhiều. Điều này cho thấy hoạt động xuất khẩu của công ty đang gặp nhiều khó khăn. Gia công xuất khẩu vẫn là hình thức xuất khẩu chủ yếu của công ty. Do đó, doanh thu của công ty chủ yếu là phí gia công từ phía đối tác, chiếm một tỉ lệ nhỏ trong giá trị sản phẩm ( khoảng từ 15 – 20% giá thành). Hơng nữa, công ty sẽ không có điều kiện tiếp xức trực tiếp với thị trường nước ngoài, bị động trước những thay đổi về nhu cầu, thị hiếu… ở thị trường nước ngoài do phải phụ thuộc chủ yếu vào đơn đặt hàng của các đối tác đặt gia công từ phía Đài Loan và Hàn Quốc. Mặt khác, các đối tác này chủ yếu ký các hợp đồng gia công cho các loại mặt hàng da giày có giá trị thấp, mẫu mã đơn giản để tận dụng được nguồn lao động rẻ tại Việt Nam và đối phó với tình trạng thiếu nhân công tại nước họ. Mặc dù đã chủ động được một phần nguyên phụ liệu cho sản xuất tuy nhiên tỷ lệ nguyên phụ liệu nhập khẩu trong giá trị sản phẩm còn rất cao.Giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu có khi chiếm tới hơn 50% giá thành sản phẩm. Thị trường xuất khẩu của công ty vẫn là những thị trường truyền thống như Anh, Pháp, Italia, Đức hay Hà Lan. Mặc dù đây là những thị trường lớn nhưng sẽ ẩn chứa rất nhiều rủi ro khi có những biến động lớn nếu như hoạt động xuất khẩu của công ty chỉ phụ thuộc chủ yếu vào các thị trường này. Các biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu của công ty còn nghèo nàn, chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, điển hình như hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp thị, nghiên cứu thị trường của công ty còn nhiều bất cập, thường thiếu thông tin về thị trường quốc tế nên chưa có được các kế hoạch sản xuất tối ưu. 2.2.3.3. Nguyên nhân của những mặt tồn tại 1. Nguyên nhân chủ quan Năm 2006 – 2007 là những năm đầu tiên công ty hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần, điều này đã gây cho công ty một số khó khăn : Khi chưa cổ phần hóa, số vốn trong công ty chịu sự quản lý của cơ quan chủ quản. Sau cổ phần hóa, chế độ chủ quản không còn nên công ty xử lý vấn đề này hết sức lúng túng. Sau cổ phần hóa, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong vấn đề vay vốn ngân hàng do phải có tài sản thế chấp. Trong đó các tài sản thế chấp của doanh nghiệp thường lại không có đầy đủ các giấy tờ liên quan, đặc biệt là đất đai…Do đó ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việc xử lý những lao động dôi dư sau cổ phần cũng là vấn đề hết sức tế nhị, những cán bộ năng lực yếu kém sẽ phải nghỉ công tác, tuy nhiên trong đó có không ít những người đã có quá trình đóng góp, cống hiến. Điều này đã gây một số ảnh hưởng không tốt tới tâm lý người lao động, ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động sản xuất củng công ty còn nhiều yếu kém, trang thiết bị do đã được đầu tư từ khá lâu nên phần lớn thuộc vào loại trung bình, thiếu các dây chuyền sản xuất hiện đại có khả năng nâng cao chất lượng, hạ giá thành, đảm bảo chất lượng cho sản phẩm. Do thiếu khả năng tài chính nên các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của công ty vẫn còn rất manh mún, chưa đem lại hiệu quả rõ rệt. Mặc dù công ty đã cố gắng thực hiện tốt hoạt động quản lý nguồn nhân lực nhưng trình độ của các cán bộ, công nhân viên, đặc biệt là cán bộ quản lý còn hạn chế, khả năng nghiên cứu, tiếp cận thị trường và đưa ra những dự bào còn chưa cao. Hoạt động sản xuất của công ty vẫn chủ yếu dựa vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu từ nước ngoài, điều này đã dẫn tới giá thành sản phẩm cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường quốc tế. Công ty chủ yếu là gia công cho các đối tác nước ngoài nên hoạt động sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào họ, đặc biệt trong thời gian gần đây, do thị trường thế giới có nhiều biến động cùng với việc ngành da giày Việt Nam bị liên minh châu Âu Eu chính thức áp thuế chống bán phá giá nên đã khiến nhiều khách hàng ngần ngại, cầm chừng hoặc trì hoãn đặt hàng, nhận hàng làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất cũng như xuất khẩu của công ty. 2. Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân đầu tiên dẫn tới sự giảm sút trong kim ngạch xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của công ty cổ phần da giày Việt Nam là do các sản phẩm giày mũ da của Việt Nam bị liên minh châu Âu chính thức áp dụng mức thuế chống bán phá giá 10% từ năm 2006. Điều nay đã ảnh hưởng đáng kể đến sức cạnh tranh của mặt hàng giày mũ da của Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới như Indonexia, Thái Lan… Sự canh tranh gay gắt từ các công ty sản xuất giày dép trong nước và trên thế giới, đặc biệt là các công ty của Trung Quốc, bởi họ có nhiều tiềm năng và lợi thế, đặc biệt trong đó là lợi thế về mẫu mốt, đây là một điểm rất mạnh của các sản phẩm giày dép Trung Quốc, trong khi đó nó lại là điểm yếu cố hữu của các doanh nghiệp da giày Việt Nam nói chung và công ty cổ phần da giày Việt Nam nói riêng, vì phần lớn các doanh nghiệp da giày Việt Nam đều gia công cho các đối tác nước ngoài. Các đơn hàng gia công chủ yếu tập trung vào các mẫu mã đơn giản, chi phí thấp. Nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, đang trong chiều hướng suy giảm, điều này đã ảnh hưởng lớn đến nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm nói chung và sản phầm giày dép nói riêng. Chất lượng hoạt động xúc tiến thương mại của nước ta còn ở mức trung bình, tính chuyên nghiệp chưa cao, thiếu tính sáng tạo, các doanh nghiệp “cứ mạnh ai người ấy làm”, dẫn tới thua thiệt trong cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Hiệp hội da giày chưa thực hiện đầy đủ vai trò của mình trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU MẶT HÀNG DA GIÀY SANG THỊ TRƯỜNG EU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DA GIÀY VIỆT NAM 3.1. Cơ hội và thách thức đối với mặt hàng da giày của Việt Nam trên thị trường EU 3.1.1. Cơ hội Theo dự báo của các chuyên gia, mặc dù tiếp tục phải chịu ảnh hưởng từ việc liên minh châu Âu (EU) áp thuế bán phá giá 10% đối với các loại giày mũ da nhập từ Việt Nam, song những năm tới đây, ngành da giày vẫn có cơ hội phát triển do nhu cầu tiêu dùng tại thị trường EU sẽ ngày càng tăng, sự thay đổi trong cách thức tiêu dùng của nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt là giới trẻ với xu hướng thời trang ngày càng đa dạng và phong phú. Cụ thể đối với một số thị trương lớn như sau : Dự đoán chi tiêu cho giày dép của người Đức sẽ tăng khoảng từ 1 – 1,5%/năm . Đáng chú ý là trong những năm tới nhu cầu tiêu thụ sẽ tập trung ở các loại giày dép thông thường và giày dép nhẹ nhàng. Đối với thị trường Anh, do giá giày dép giảm nhiều so với các nước khác thuộc EU nên dự đoán trong giai đoạn tới chi tiêu cho giày dép tăng khoảng 2% năm. Hơn nữa, xu hướng bình dân hoá đang tạo sự ra sự cạnh tranh về giá mạnh hơn dưới dạng chiết khấu. Với thị trường giày dép của Pháp, dự đoán tăng trưởng vào mức trung bình của EU. Trong khị thị trường Italia sẽ tăng trưởng mạnh hơn so với mức trung bình của EU, đặc biệt trong vòng vài năm tới. Thị trường Hà Lan đã có xu hướng hồi phục rõ rệt trong mấy năm gần đây sau một thời gian dài phát triển chậm chạp. Cũng giống như Đức, các loại giày dép thông thường và nhẹ nhàng sẽ chiếm ưu thế và được người tiêu dùng Hà Lan ưa chuộng. Mặt khác, sự kiện EU áp thuế chống bán phá giá 10% đối với mặt hàng giày mũ da của Việt Nam cũng là một cơ hội tốt đế sàng lọc và buộc các doanh nghiệp phải tự vươn lên bởi trong thời gian qua rất nhiều doanh nghiệp da giày Việt Nam không có sự đầu tư thoả đáng để làm giày xuất khẩu, tức là không có đội ngũ kỹ thuật, quản lý, thiết kế mẫu hay nói cách khác là thiếu nền tảng phát triển ngành. Một số doanh nghiệp thực chất là cho thuê nhà xưởng , ăn tỷ lệ phần trăm trên từng đôi giày vì đây là cách làm nhẹ nhàng và không rủi ro. Toàn bộ doanh nghiệp thực chất là cho khách hàng thuê và họ đưa người vào quản lý sản xuất , kiểm tra chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy đây chính là những doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi giày da Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá. Việc Việt Nam gia nhập WTO tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận những thành tựu và kinh nghiệm tiên tiến của các nước trong WTO về quản lý kinh tế , quản lý sản xuất kinh doanh, về điều hành các mặt của đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp đã ý thức được sự cần thiết phải thực hiện triển khai các yêu cầu về công nghệ. quản lý điều hành sản xuất, đạo đức kinh doanh, đảm bảo quyền lợi của người lao động, đảm bảo duy trì mối quan hệ bạn hàng, đáp ứng các yêu cầu phát triển và hội nhập. Các cơ chế chính sách của chính phủ về tháo gỡ thúc đẩy sản xuất, khuyến khích xuất khẩu trong năm 2003 – 2005 và cơ chế 2006 – 2010 tiếp tục phát huy tác dụng, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu. Cơ sở hạ tầng của nhiều doanh nghiệp được đầu tư nâng cấp và đầu tư mới đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, thông thoáng. 3.1.2. Thách thức Ngành da giày Việt Nam tuy có tốc độ phát triển cao trong thời gian qua nhưng vẫn còn phải đối mặt với những thách thức, bất lợi lớn ảnh hưởng tới ảnh hưởng tới tính bền vững, đặc biệt là những thách thức đang gặp phải khi xuất khẩu sang thị trường EU, do bị ảnh hưởng của việc áp thuế chống bán phá giá của EU đối với mặt hàng giày mũ da. Dưới tác động của vụ kiến bán phá giá , thị phần xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã bị giảm mạnh, từ đầu năm 2006, các doanh nghiệp da giày thường xuyên phải đối mặt với tình trạng thiếu đơn hàng. Tuy đứng thứ 3 về xuất khẩu nhưng phương thức sản xuất chủ yếu vẫn là gia công cho đối tác nước ngoài, có đến trên 70% doanh thu các năm là gia công, xuất khẩu trực tiếp còn tương đối hạn chế. Vì chủ yếu làm gia công cho đối tác nước ngoài nên từ mẫu mã đến giá bán hoàn toàn do phía đối tác quyết định, còn thu nhập của doanh nghiệp chủ yếu từ phí gia công sản phẩm. Do đó các doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng quyết định giá bán trên thị trường, không tham gia vào quá trình thương mại, không quyết định được đầu vào đầu ra cho sản phẩm. Một khó khăn nữa đó là giày dép Việt Nam mẫu mã còn khá nghèo nàn, nguyên phụ liệu phải nhập khẩu, 3 loại nguyên liệu chủ yếu để sản chủ yếu để sản xuất da giày là chất liệu da và giả da, đế và các nguyên liệu phụ trợ như keo dán, chỉ khâu, cúc, nhãn hiệu, gót… thì đến 70 – 80% là nhập khẩu từ các nước châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc… Riêng đế giày, khâu nguyên phụ liệu được các doanh nghiệp Việt Nam chủ động tốt nhất, cũng chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu sản xuất của ngành nói chung. Chất liệu giả da, đặc biệt được sử dụng nhiều cho giày thể thao, mặc dù chiếm tỷ trọng xuất khẩu gần bằng 50% giá trị giày xuất khẩu nói chung, cũng sử dụng đến 80% nguyên liệu nhập ngoại. Thêm vào đó, công tác xúc tiến thương mại, quảng bá chưa đạt yêu cầu. Thời gian qua, ngành da giày đã có những nỗ lực trong việc tăng cường giải quyết những vấn đề trên, tuy nhiên hiệu quả vẫn chưa đạt được như ý muốn, đặc biệt là việc xúc tiến, xây dựng thương hiệu vẫn chưa thành công. Một nguyên nhân cơ bản khác dẫn tới sự suy giảm kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU trong thời gian qua là do sự cạnh tranh gay gắt của giày dép Trung Quốc. Bất chấp việc bị áp thuế chống bán phá giá cho sản phẩm giày mũ da cao hơn Việt Nam 6,5%, Trung Quốc vẫn có những biện pháp nhằm nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, trong đó có sự cải tiến mẫu mã, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn lao động, đẩy mạnh xây dựng thương hiệu sản phẩm. Hơn hết, khâu xúc tiến thương mại của nước này đã thực hiện rất tốt. Bên cạnh Trung Quốc, xuất khẩu giày dép của Tây Ban Nha đang có xu hướng tăng khá. Hiện nay, chính phủ Tây Ban Nha đang kết hợp với ngành giày, dép nhằm thúc đẩy xuất khẩu và khuyến khích tiêu dùng nội địa. Ngoài ra, một số đối thủ cạnh tranh của nước ta như Thái Lan và Indonexia cũng đang có những nỗ lực nhằm phát triển ngành giày, dép của mình. Một thách thức khác đó là, thực trạng nguồn nguyên liệu và hệ thống cung ứng của Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế và bức xúc. Hiện tại, phần lớn các loại đế giày, vải các loại ( cho giày vải ), một số nguyên liệu như tấm đế 1, keo dán phụ liệu khác… được đầu tư trong nước. Riêng các loại nguyên liệu mũ giày (ga, giả da, da nhân tạo, váng tráng PU…) mới sản xuất trong nước với sản lượng rất thấp, phần lớn còn lại phải nhập khẩu từ Đài Loan, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tuy nhiên, khâu chau chuốt, hoàn thiện vẫn còn nhiều hạn chế. Đồng thời với sự gia tăng của xuất khẩu giày dép hàng năm , số lượng da thuộc phải nhập khẩu vẫn rất lớn, trên 200 triệu Sqft/năm. Nhiều nguyên liệu nhập khẩu được sản xuất từ Trung Quốc, song giá cả nhập khẩu chính ngạch vẫn rất cao, do đó, các doanh nghiệp phải nhập qua nước thứ 3 (Đài Loan, Hàn Quốc). Hệ thống cung ứng trong nước hiện còn đang rất yếu, hầu hết nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc đều qua con đường tiểu ngạch, giá nguyên liệu trong nước còn rất cao. Trước những thách thức và khó khăn như vậy đòi hỏi các doanh nghiệp da giày Việt Nam phải có những giải pháp phù hợp để duy trì và nâng cao kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU. 3.2. Phương hướng xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty cổ phần da giày Việt Nam sang thị trường EU 3.2.1. Mục tiêu phát triển chung của công ty Trong bối cảnh kinh tế hiện nay của nước ta, việc hội nhập với thế giới ngày càng cần thiết và tất yếu, chính vì vậy công ty nhận định việc mở rộng thị trường là điều kiện cần thiết để củng cố và phát triển doanh nghiệp. Mục tiêu của công ty trong những năm tới là duy trì và phát triển thị phần tại các nước, tiến tới mở rộng hơn nữa thị trường tại các nước trên thế giới. Mục tiêu tổng quát của công ty trong giai đoạn tới: Huy động vốn của toàn xã hội và của các cổ đông nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, tạo điều kiện để người lao động, người có cổ phần trong công ty và những người góp vốn được làm chủ thực sự doanh nghiệp. Thiết lập phương thức quản lý tiên tiến, tạo động lực thúc đẩy công ty làm ăn có hiệu quả cao, tạo việc làm ổn định và nâng cao thu nhập cho người lao động, nâng cao lợi tức cho cổ đông, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. 3.2.2. Phương hướng hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần da giày Việt Nam sang thị trường EU Đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu : Thời gian qua, do chưa có sự quan tâm và đầu tư đúng mức vào hoạt động sản xuất nên kim ngạch xuất khẩu của công ty đã giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh và đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty. Trong những năm tới, mục tiêu hàng đầu mà công ty cổ phần da giày Việt Nam đặt ra là đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, gia tăng kim ngạch nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm da giày xuất khẩu, phù hợp với thị hiếu và xu hướng tiêu dùng của thị trường EU : EU là một thị trường lớn với 27 quốc gia và hơn 500 triệu dân, đầy là một thị trường rất hấp dẫn cho các doanh nghiệp xuất khẩu da giày Việt Nam. Tuy nhiên, người tiêu dùng EU lại rất khó tính, mỗi quốc gia đều có những nét khác nhau trong thị hiếu và xu hướng tiêu dùng. Do đó đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng của người dân EU chính là chìa khoá để nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần da giày Việt Nam. Từng bước chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang phương thức xuất khẩu trực tiếp để nâng cao hiệu quả và tăng tích luỹ : Xét về lâu dài, tất yếu phải chuyển sang xuất khẩu trực tiếp để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và trong xuất khẩu. Tuy nhiên có những vấn đề khó khăn mà bản thân công ty cũng chưa thể giải quyêt được, do vậy, trong thời gian trước măt, vẫn cần duy trì hình thức gia công xuất khẩu nhưng cần nâng dần hiệu quả để tăng giá trị tích luỹ, tạo đà cho việc chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp trong tương lai. Nâng cao trình độ khoa học công nghệ, chú trọng công nghệ thông tin, nâng cao năng lực tiếp cận công nghệ hiện đại, đổi mới công nghệ hiện có, tăng cường đầu tư và kinh phí cho nghiên cứu triển khai, phát minh, sáng chế… ngang tầm với sự phát triển của các doanh nghiệp xuất khẩu trong khu vực. Tạo được sản phẩm xuất khẩu chủ lực của doanh nghiệp, xây dựng được thương hiệu sản phẩm có tiếng, đảm bảo đủ sức cạnh tranh trên thị trường EU. Nâng cao năng suất lao động vượt trội hơn các đối thủ cạnh tranh hoặc ít nhất là bằng đối thủ cạnh tranh, giảm thiểu chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao giá bán ra ngang bằng mức giá trên thị trường quốc tế được khách hàng châu Âu chấp nhận. 3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty cổ phần da giày Việt Nam sang thị trường EU 3.3.1. Các giải pháp tháo gỡ những khó khăn trước mắt của công ty 3.3.1.1. Giải quyết vấn đề thiếu vốn kinh doanh Hiện tại, sau khi cổ phần hoá, công ty cổ phần da giày Việt Nam phải đối mặt với những thách thức lớn do thiếu vốn sản xuất do rắc rối trong việc vay vốn của ngân hàng vì những phức tạp trong giấy tờ sở hữu tài sản thế chấp, gặp phải những vướng mắc về tài chính chưa được giải quyêt giữa công ty và tổng công ty da giày Việt Nam đã ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Mục tiêu trước mắt của công ty là cần phải giải quyết dứt điểm công nợ còn tồn tại giữa công ty với tổng công ty da giày Việt Nam và các công ty thành viên khác trong tổng công ty, giải quyết những vướng mắc trong thủ tục giấy tờ thế chấp tài sản để có thể vay vốn ngân hàng, đảm bảo được nguồn vốn để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu trong thời gian tới. Trong tương lai, công ty cần tạo ra cho mình một năng lực tài chính lành mạnh, cần hướng tới mục tiêu niêm yết trên thị trường chứng khoán để có thể chủ động và đa dạng cho mình những phương thức huy động vốn, tránh phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay, giảm thiểu những rủi ro không cần thiết, đồng thời có thể nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Mặt khác, công ty cần có thêm các giải pháp nâng cao trình độ tổ chức sản xuât và quản lý của công ty nhằm phát huy tối đa hiệu quả sử dụng các yếu tố vật chất cũng như phi vật chất của doanh nghiệp. Nếu công ty quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả thì sẽ đem lại lợi nhuận cao, từ đó có khả năng tái sản xuất mở rộng, phát triển thị trường tiềm năng, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty nhờ quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng. 3.3.1.2. Khắc phục tình trạng công nghệ lạc hậu, yếu kém như hiện nay Công ty cần tập trung hiện đại hoá trang thiết bị kỹ thuật công nghệ, nâng cao trình độ tổ chức quản lý và sản xuất. Nếu máy móc thiết bị được trang bị hiện đại, trình độ quản lý tốt, tay nghề của công nhân cao thì hoạt động kinh doanh sẽ suôn sẻ, tạo được nhiều lợi thế so với các đối thủ, nâng cao kim ngạch xuất khẩu của công ty trên các thị trường. Công ty cổ phần da giày Việt Nam có thể lựa chọn đầu tư theo 2 phương thức sau : Đầu tư theo chiều sâu : nhằm mục đích cân đối lại các dây chuyền sản xuất, khai thác tối đa và nâng cao hiệu quả sản xuất dựa trên năng lực sản xuất sẵn có. Việc đâu tư đổi mới công nghệ của công ty cần phải kết hợp giữa việc sử dụng các công nghệ trung bình, sử dụng nhiều lao động với các công nghệ hiện đại, tiên tiến từ các nước phát triển. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư vào từng loại sản phẩm khác nhau theo hướng đảm bảo sự phát triển bền vững. Cụ thể : Giày da : giày da là sản phẩm chủ lực, chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu của công ty cổ phần da giày Việt Nam sang thị trường EU. Tuy nhiên dây chuyền sản xuất tại công ty lại được đầu tư một cách thiếu đồng bộ, do đó đỏi hỏi phải có sự đầu tư, thay thế phù hợp để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực sản xuất sản phẩm này của công ty. Giày thể thao : dây chuyềy sản xuất mà công ty nhập về tuy là từ những năm đầu của thập kỷ 90 nhưng đó đã là những công nghệ đã khá lạc hậu của thế giới. Do đó, cần phải đầu tư đồng bộ ngay từ đầu nhằm đáp ứng những đòi hỏi đối với mặt hàng giày thể thao, vốn là một trong những mặt hàng ngày càng được người dân châu Âu, đặc biệt là giới trẻ ưa chuộng. Giày nữ : đây là sản phẩm yêu cầu tính thời trang rất cao, do đó bên cạnh việc đầu tư dây chuyền sản xuất đồng bộ còn cân quan tâm đến hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu mốt. Giày vải : để từng bước sản xuất các loại giày vải cao cấp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mặt hàng này tại thị trường EU, công ty cần thiết phải thay thế một số thiết bị chủ yếu ở các khâu gò ráp, hấp sấy, may thủ công và đổi mới công nghệ từ ép dán lưu hoá sang ép dán đối với một số loại giày vải cao cấp. Với các thiết bị còn lại có thể thay thế phụ tùng để duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất. Dép các loại : trong thời gian qua, công ty hầu như chỉ đầu tư các máy may công nghiệp, khâu lắp ráp hoàn chỉnh phần lớn làm thủ công do đó chất lượng sản phẩm không đảm bảo, thiếu sự đồng đều. Trong thời gian tới, công ty cần có những kế hoạch đầu tư cụ thể cho khâu lắp ráp hoàn chỉnh nhằm đảm bảo cho sản phẩm mang tính hàng hoá cao. Đầu tư xây dựng mới : Công ty cổ phần da giày Việt Nam đang đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất giầy tại Thái Bình với các nội dung sau : Vốn đầu tư : Tổng vốn đầu tư dự kiến là 7.5 triệu USD bao gồm: Xây dựng cơ bản : 3.5 triệu USD Máy móc thiết bị : 4 triệu USD Nguồn vốn :Vốn đầu tư xuất phát từ 2 nguồn : Công ty sẽ vay vốn ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển trung ương để đầu tư xây dựng cơ bản Máy móc thiết bị sẽ do đối tác Đài Loan cung cấp, tuy nhiên công ty không phải thanh toán giá trị số thiết bị này mà sẽ khấu trừ vào tiền gia công hàng năm theo thỏa thuận trước. Nội dung đầu tư : Lắp đặt thiết bị mới 100% Sản phẩm sản xuất : giầy thể thao, giầy da nam nữ Thị trường mục tiêu là các thị trường xuất khẩu : các nước EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và các thị trường khác. Hạng mục công trình : Nhà sản xuất chính Nhà điều hành sản xuất, kinh doanh Hệ thống nhà kho Quy mô nhà dự án : 4 dây chuyền giày da nam, nữ 4 dây chuyền giày thể thao Yêu cầu vệ sinh môi trường : đảm bảo vệ sinh công nghiệp, đạt tiêu chuẩn SA8000 Ý nghĩa xã hội : giải quyết việc làm cho 4500 lao động địa phương (Tỉnh Thái Bình). Phía công ty chịu trách nhiệm đào tạo dạy nghề. Hiệu quả kinh tế : Công ty dự kiến đạt kim ngạch xuất khẩu 38 – 40 triệu USD Theo thông tin mới nhất từ Cục quản lý cạnh tranh - Bộ công thương cho biết , rất có thể vào tháng 10 tới đây, giày mũ da Việt Nam xuất khẩu vào EU sẽ không còn bị áp thuế chống bán phá giá. Thông báo của uỷ ban châu Âu (EC) cho biết về thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da có xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc, nếu không có yêu cầu rà soát , thời hạn áp thuế chống bán phá giá sẽ kết thúc vào ngày 7/10/2008. Do vậy, công ty cổ phần da giày Việt Nam cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, nhanh chóng đưa nhà máy vào sản xuất để có thể nắm bắt tốt cơ hội này. 3.3.1.3. Ổn định tâm lý cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong công ty sau cổ phần hoá Khả năng cạnh tranh của công ty phụ thuộc nhiều vào kỹ năng kỹ năng của công ty trong việc sử dụng và phối hợp các nguồn lực vào sản xuất – kinh doanh một cách có hiệu quả. Những kỹ năng này thể hiện trong tất cả các chức năng và lĩnh vực quản trị của công ty, đó là sản phẩm của hệ thống tổ chức quản trị trong công ty. Công tác đào tạo và phát triển nhân sự trong công ty đang là vấn đề cấp bách cần thiết phải được coi trọng nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh trong thời gian tới.Hiện tại và tương lai sau này, da giày vẫn là ngành sử dụng nhiều lao động nhưng luôn đòi hỏi lao động phải có trình độ cao hơn, không chỉ là lao động giản đơn mà cả lao động quản lý, nghiên cứu. Trong quá trình cổ phần hoá, công ty cổ phần da giày Việt Nam đã cắt giảm những bộ phận lao động không cần thiết, trong đó có nhiều nhân viên đã gắn bó nhiều năm với công ty. Điều này đã gây nên những biến động trong tâm lý đội ngũ lao động ảnh hưởng tời kết quả kinh doanh của công ty. Trong thời gian tới đây, công ty cần có các giải pháp khắc phục nhanh chóng tình trạng này để họ có thể yên tâm công tác. Cụ thể là : Công ty cần có những chính sách đãi ngộ phù hợp với năng suất và chất lượng lao động. Đối với các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật và công nhân có trình độ tay nghề cao thì cần có những chính sach đãi ngộ nhằm gắn kết họ với doanh nghiệp, nhằm tránh tình trạng chảy máu chất xám trong công ty. Công ty cần làm cho người lao động quan tâm đến hiệu quả sản xuát kinh doanh, gắn lợi ích của người lao động với hiệu quả của hoạt động sản xuât kinh doanh. Khi đó, mới phát huy được hết giá trị của người lao động nhằm mang lai hiệu quả tối đa cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Hoạt động đào tạo cần phải đi đôi với với việc chăm lo và đảm bảo quyền lợi cho người lao động, đảm bảo cho người lao động có một môi trường làm việc tốt, đặc biệt ở các khâu sản xuất độc hại thì cần có những trang thiết bị nhằm bảo vệ an toàn sức khoẻ cho người lao đông và một mức trợ cấp độc hại thoả đáng. Công ty cũng cần phải thường xuyên tổ chức các hoạt động đào tạo, huấn luyện nhằm nâng cao trình độ của người lao động, trình độ của các cán bộ quản lý, cập nhật những thông tin và kiến thức mới nhất của ngành ở trong và ngoài nước, cử cán bộ tham gia các khoá đào tạo, thực tập tại các quốc gia có ngành công nghiệp da giày phát triển. Đặc biệt, công ty cần chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu nhằm đảm bảo cho công ty một đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, làm nền tảng cho sự phát triển của công ty trong tương lai. 3.3.2. Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai 3.3.2.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh xuất nhập khẩu Rất nhiều doanh nghiệp hiện không ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng chiến lược kinh doanh cho công ty. Sức cạnh tranh của một công ty có thể được nâng cao một cách nhanh chóng nếu như công ty có một kế hoạch rõ ràng và có những mục tiêu cụ thể để đạt tới. Do vậy, công ty cổ phần da giày Việt Nam cũng cần xác định cho mình một tầm nhìn và các mục tiêu cụ thể, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Chỉ có như vậy, công ty mới có khả năng cạnh tranh và tồn tại trong một môi trường canh tranh ngày càng gay gắt như thị trường EU. Ngược lại, công ty sẽ khó có khả năng đối phó với những thay đổi của môi trường. Có rất nhiều chiến lược phát triển, công ty sẽ cần phải dựa trên tình hình cụ thể của công ty, phân tích các điểm mạnh điểm yếu, các cơ hội và thách thức trong từng giai đoạn khác nhau để lựa chọn cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp. Trong giai đoạn này, có lẽ công ty vẫn nên tập trung vào các chiến lược giá thấp, dựa trên cơ sở cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo nên lợi thế cạnh tranh khi thâm nhập thị trường EU. 3.3.2.2. Đầu tư có hiệu quả các nguồn tiềm lực vật chất và phi vật chất của công ty Đó là các nguồn lực về nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất và công nghệ. Các nguồn lực dưới hình thái phi vật chất như nhãn hiệu hàng hoá, uy tín doanh nghiệp, bản quyền, bí quyết công nghệ hay kỹ năng tiếp thị, kỹ năng điều hành sản xuất. Cụ thể là : 1. Nâng cao chất lượng sản phẩm cung cấp cho khách hàng, tạo lợi thế về chi phí và khả năng hạ giá thành sản phẩm, nâng cao vị thế cạnh tranh của công ty Chất lượng sản phẩm tác động trực tiếp đến người tiêu dùng, quyết định tới khả năng xuất khẩu của công ty. Để khách hàng có thể sẵn lòng trả giá cao hơn, đòi hỏi sản phẩm của công ty phải có giá trị cao hơn đối thủ cạnh tranh trên một phương diện nào đó : chất lượng hay thiết kế, thời gian cung ứng, dịch vụ hỗ trợ, dịch vụ sau khi bán. Hiện nay, công ty cổ phần da giày Việt Nam vẫn chủ yếu là gia công cho các đối tác nước ngoài, do vậy, hướng đi tốt nhất trong giai đoạn hiện nay là lựa chọn giải pháp nâng chất lượng sản phẩm. Công ty cần xây dựng cho mình một hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm và môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Tạo lợi thế về chi phí và khả năng hạ giá thành sản phẩm : giá thành là yếu tố đặc biệt quan trọng quyết định tới lợi nhuận của công ty và khả năng cạnh tranh về giá, nhất là cạnh tranh với sản phẩm của Trung Quốc. Nếu chênh lệch giữa giá bán và giá thành cá biệt của công ty càng cao so với đối thủ thì khả năng cạnh tranh của công ty so với đối thủ cạnh tranh càng lớn, hàng hoá của công ty sẽ càng có cơ hội thâm nhập sâu vào thị trường nước ngoài. Do đó, công ty cổ phần da giày Việt Nam cần phải coi cạnh tranh về giá cũng là một vũ khí lợi hại, là công cụ để công ty mở rộng thị phần tại thị trường EU. Nâng cao vị thế cạnh tranh của công ty : biểu hiện cụ thể của yếu tố này là thị phần mà công ty chiếm lĩnh, uy tín của công ty đối với khách hàng. bạn hàng, thậm chí cả đối với đối thủ cạnh tranh trên thị trường EU. Đây là một tài sản vô hình rất quan trọng, đặc biệt tại thị trường có mức độ canh tranh cao như EU. Nhân tố này cần được tích luỹ trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh của công ty. Trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, đặc biệt là với các đối thủ trong khu vực, công ty cổ phần da giày Việt Nam cần phải có kinh nghiệm, chiến thuật, thủ pháp để tận dụng những cơ hội có thể đem lại thành công cho công ty. Có kinh nghiệm trên thương trường thì mới duy trì và phát huy được khả năng hiện có của công ty. Đồng thời, ban giám đốc công ty cũng phải năng động và nhạy bén, chủ động đối phó với những vấn đề nảy sinh trong kinh doanh, điển hình như vụ kiện bán phá giá thời gian qua, để có thể giúp công ty đững vững và phát triển trên thị trường EU. 2. Nâng cao tính chủ động trong việc đảm bảo nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất Mặc dù hiện tại công ty cổ phần da giày Việt Nam đã đáp ứng được một phần nguyên vật liệu cho sản xuất nhưng nó vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ và là các nguyên vật liệu phụ. Công ty vẫn phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu từ các đối tác đặt gia công bên phía Hàn Quốc và Đài Loan. Do đó làm giảm tính chủ động của công ty trong hoạt động sản xuất. Trong thời gian tới, công ty cần có hướng đầu tư nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nguyên vật liệu trong sản xuất, nhằm làm giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Mặt khác, cần đưa ra những dự báo và chiến lược trong việc nhập khẩu nguyên vật liệu và lựa chọn những nhà cung cấp phù hợp nhằm tránh những biến động lớn trên thị trường thế giới có thể ảnh hưởng tởi hoạt động sản xuất và xuất khẩu của công ty. 3.3.2.3. Phát triển thị trường xuất khẩu của công ty, từng bước chuyển dần từ gia công xuẩt khẩu sang xuất khẩu trực tiếp Hiện nay, hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty cổ phần da giày Việt Nam chủ yếu vẫn tập trung vào một số thị trường của EU là Anh, Pháp, Đức, Italia và Hà Lan. Mặc dù đây là những thị trường lớn và tiềm năng nhưng cũng ẩn chứa những rủi ro khi có những biến động lớn về nhu cầu, thị hiếu… Do đó, công ty cũng cần phải phân tán những rủi ro đó bằng cách phát triển thị trường xuất khẩu của công ty sang những quốc gia khác, đồng thời cũng là cách thức để gia tăng kim ngạch xuất khẩu của công ty, chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. Để mở rộng thị trường thì bên cạnh những định hướng chung thì bản thân công ty cần phải có chiến lược để khắc phục những điểm yếu mình. Phải tìm mọi biện pháp để huy động các nguồn lực và động lực để nâng cao sức mạnh của doanh nghiệp. Công ty cần xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm, nghiên cứu và lựa chọn thị trường, cơ cấu vốn và tài chính, nhân sự, áp dụng khoa học và kỹ thuật để chủ động thâm nhập vào các thị trường khác. Để có thể thu thập các thông tin về thị trường mục tiêu như về giá cả, chất lượng hàng hoá, về các đối thủ cạnh tranh, công ty có thể đặt các văn phòng đại diện ở nước ngoài hoặc thông qua các đại sứ quãn, lãnh xứ quán của Việt Nam, văn phòng đại diện của địa phương tại nước ngoài hoặc các tổ chức, hiệp hội quốc tế mà công ty tham gia để có các quyết định kịp thời và chính xác trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Công ty cũng cần đào tạo đội ngũ cán bộ không những giỏi về nghiệp vụ mà phải có trình độ ngoại ngữ, vi tính, khả năng giao dịch tốt với nước ngoài, đội ngũ cán bộ thị trường phải hiểu và nắm rõ phong tục tập quán của từng thị trường xuất khẩu. Như thế, công ty mới có thể thâm nhập thành công vào những thị trường mới. Đồng thời, công ty cũng cần tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước nhằm đẩy mạnh công tác tiếp thị và xúc tiến xuất khẩu. Đây là bước đầu tiên để công ty chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. 3.3.2.4. Hình thành và xây dựng văn hoá công ty, văn hoá doanh nghiệp Đây là việc làm cần thiết đối với công ty. Trên thực tế, có rất nhiều công ty trở nên nổi tiếng vì đã xây dựng cho mình một văn hoá công ty phù hợp. Văn hoá công ty nhiều khi là một tài sản vô hình của doanh nghiệp và nó làm tăng khả năng cạnh tranh và tồn tại của doanh nghiệp. Nói đến văn hoá kinh doanh là nói đến mối quan hệ giữa các thành viên trong cùng một công ty, là phong cách lãnh đạo và phong cách ững xử. Văn hoá công ty luôn gắn với thương hiệu và uy tín của công ty. Do vậy, xây dựng văn hoá công ty tức là xây dựng công ty như một gia đình thứ hai của mỗi thành viên, phải có tinh thần đồng cam cộng khổ, gắn bó với nhau bằng tình thần cộng tác, tinh thần đồng đội. Văn hoá công ty muốn xây dựng được thì những yếu tố xã hội luôn cần được coi trọng. Vì vậy, ngoài những yếu tố về công khai, minh bach, thưởng phạt nghiêm minh thì nhận thức và quan hệ cá nhân giữa chủ và thợ cũng rất cần được chú ý. Văn hoá công ty thể hiện thái độ và hành vi của cán bộ, nhân viên trong công ty đối với công việc. Nó là một cơ cấu vô hình đủ mạnh để hình thành phong cách và lề lối làm việc mà mọi nhân viên phải tuân theo. Những phong cách và lề lối này sẽ quyết định hiệu quả, lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là tài sản vô hình quyết định tương lai và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, xây dựng văn hoá công ty là một hoạt động rất cần thiết để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu của công ty. 3.3.2.5. Tăng cường hợp tác, mở rộng liên kết với hiệp hôi da giày và các doanh nghiệp da giày khác Với xuất phát điểm thấp, năng lực cạnh tranh không cao, công ty cổ phần da giày Việt Nam chắc chắn sẽ không đủ khả năng chống chọi với lại những doanh nghiệp lớn, những công ty da giày của nước ngoài, đặc biệt là các công ty của Trung Quốc. Vì vậy, nếu muốn tồn tại và phát triển, công ty cần tăng cường các mối liên kết kinh tế. Phải chọn cách “chạy tiếp sức” chứ không nên mạnh ai nấy chạy. Tức là, công ty cần phải phối hợp với cách doanh nghiệp khác trong hoạt động sản xuất như trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ hoặc hợp tác với nhau cùng thực hiên một hợp đồng gia công cho nước ngoài, tức là thực hiện các hợp đồng gia công nhiều bên. Đặc biệt, các công ty có thể phối hợp với nhau trong khâu nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất như vậy có thể tạo nên các sức ép nhằm giảm giá thành nhập khẩu nguyên vật liệu. Ngoài ra, công ty cần phối hợp với hiệp hội da giày Việt Nam thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, đặc biệt là cùng chống lại các chính sách bảo hộ từ thị trương nước ngoài, điển hình là vụ kiến bán phá giá của liên minh châu Âu EU. 3.3.3. Một số kiến nghị 3.3.3.1. Đối với nhà nước Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách tài chính và tiền tệ để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu các sản phẩm da giày của doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU : 1. Cổ phần hoá là phải mở cửa cho doanh nghiệp Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cần triển khai khẩn trương, đồng bộ các giải pháp : Thứ nhất là tạo ra sự thông suốt, nhất trí cao trong các ngành, các cấp và các doanh nghiệp. Thứ hai là tạo đủ khung pháp lý Thứ ba là giảm thiểu tối đa phiền hà các thủ tục hành chính rườm rà cho doanh nghiệp Thứ tư là soát xét, hoàn chỉnh các chính sách tạo môi trường lành mạnh cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá hoạt động tốt hơn. 2. Bảo lãnh tín dụng và cung cấp tín dụng xuất khẩu Bảo lãnh tín dụng : Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài thì nhiều doanh nghiệp thực hiện việc bán chịu và trả chậm, hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hoá với lãi suất ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng như vậy thường có những rủi ro dẫn đến sự mất vốn. Trong trường hợp đó, để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng hoá bằng cách bán chịu, nhà nước có thể đứng ra bảo lãnh, đền bù nếu bị mất vốn. Tỉ lệ đền bù có thể lên đến 100% vốn bị mất, nhưng thường tỉ lệ đền bù là 60 – 70% khoản tín dụng để các nhà xuất khẩu phải quan tâm đến việc kiểm tra đến khả năng thanh toán của người nhập khẩu và quan tâm đến việc thu tiền bán hàng sau khi hết thời hạn tín dụng. Mặt khác, nếu áp dụng biện pháp này, nhà nước cần có các xác minh chặt chẽ nhằm tránh trường hợp các doanh nghiệp trong nước móc nối với các nhà nhập khẩu nước ngoài để rút tiền của nhà nước. Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu : có 2 hình thức cấp tín dụng xuất khẩu mà nhà nước có thể áp dụng nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp : Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó để mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách nhà nước và thường kèm theo các điều kiện kinh tế, chính trị có lợi cho nước cho vay. Nhà nước ta chưa thể có vốn để cho nước ngoài vay với khối lượng lớn. Tuy nhiên, khi có điều kiện, nhà nước ta không nên bỏ qua hình thức cấp tín dụng gắn với việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá này. Nhà nước cấp tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước : cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu khác, vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện hợp đồng xuất khẩu của các công ty sản xuất và xuất khẩu sản phầm da giày là rất lớn. Người xuất khẩu cần có được một số vốn cả trước và sau khi giao hàng để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu. Nhà nước có thể hỗ trợ các chương trình xuất khẩu bằng cách thông qua hệ thống ngân hàng mà nhà nước có quyền chi phối, các quỹ hỗ trợ xuất khẩu… nhằm cung cấp tín dụng ngắn hạn với lãi suất ưu đãi trong giai đoạn trước và sau khi giao hàng cho các doanh nghiệp xuất khẩu. 3. Áp dụng các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu phù hợp với luật pháp quốc tế Trợ cấp xuất khẩu có 2 hình thức đó là : trợ cấp xuất khẩu trực tiếp và trợ cấp xuất khẩu gián tiếp. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, do đó các biện pháp trợ cấp xuất khẩu trực tiếp không còn được phép sử dụng. Nhà nước ta có thể thông qua hình thức trợ cấp xuất khẩu gián tiếp để thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày ra thị trường nước ngoài miễn thuế, giảm thuế đối với hàng xuất khẩu, dùng ngân sách nhà nước để giới thiểu, triển lãm, quảng cáo về sản phầm da giày của Việt Nam với bạn hàng quốc tế nhằm tạo điều kiện cho các giao dịch xuất khẩu. Một hình thức khác đó là nhà nước có thể giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên gia cho ngành hàng da giày, hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu da giày xây dựng lực lượng cán bộ, nhân viên giỏi nghiệp vụ xuất khẩu và có trình độ quản lý cao nhằm đáp ứng được nhu câu xâm nhập thị trường EU. Giải pháp này gồm các nội dung chủ yếu sau : Tăng cường hơn nữa đào tạo nguồn lao động cơ bản cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm da giày bằng ngân sách nhà nước. Khuyến khích các doanh nghiệp da giày xuất khẩu đầu tư kinh phí và phối hợp với các trường đại học, trường đạo tạo nghề … để đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Đa dạng hoá các phương thức tổ chức đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ cho lực lượng lao động đang tại nghiệp ở các doanh nghiệp xuất khẩu da giày. 4. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sản phẩm da giày sang thị trường EU Xúc tiến xuất khẩu là một bộ phận quan trọng của xúc tiến thương mại, đó là các hoạt động để tăng xuất khẩu của một quốc gia hay một công ty. Hiện nay, cạnh tranh trên thị trường thế giới rất gay gắt, hơn nữa, hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các đối cạnh tranh về xuât khẩu mặt hàng da giày của chúng ta được thực hiện rất tốt, đặc biệt là Trung Quốc. Do đó, chính phủ Việt Nam cần tăng cường hơn nữa hoạt động thúc tiến xuất khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu da giày của Việt Nam ra thị trương thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Các hoạt động này bao gồm Tham gia vào các hội chợ thương mại về da giày, cử các phái đoàn thương mại ra nước ngoài , tiến hành quảng cáo cho sản phẩm da giày của Việt Nam… Thiết lập chiến lược phát triển xuất khẩu cho sản phẩm da giày sang các thị trường trong tương lai. 3.3.3.2. Đối với hiệp hội da giày Việt Nam Tăng cường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu như tổ chức và tham gia các hội chợ triển lãm chuyên ngành, tổ chức các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài. Tuyên truyền hưỡng dẫn cho các doanh nghiệp về các qui định mới có liên quan đến thị trường thế giới, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc chống lại các vụ kiện bán phá giá tại thị trường nước ngoài Tăng cường cung cấp thông tin phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, thông tin về sự thay đổi nhu cầu, thị hiệu, xu hướng sản phẩm trên thị trường thế giói, xu hướng cạnh tranh đang diễn ra, thông tin về kênh phân phối… Giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc hoạch định và thực hiện các phương hướng, chiến lược xuất khẩu. KẾT LUẬN EU, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới với 27 quốc gia thành viên với sức tiêu thụ khổng lồ là một thị trường xuất khẩu hấp dẫn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Trong thời gian trước kia, da giày Việt Nam đã đạt được những thành công lớn tại thị trường EU, xuất khẩu mặt hàng da giày của Việt Nam vào thị trường này thường xuyên đạt được tốc độ tăng trưởng cao, mang lại nguồn thu lớn cho đất nước. Tuy nhiên, từ năm 2006, khi Việt Nam bị liên minh châu Âu EU chính thức áp mức thuế chống bán phá giá 10% đối với các sản phẩm giày mũ da, một sản phẩm chủ lực của ngành công nghiệp da giày Việt Nam, thì hoạt động xuất khẩu da giày của Việt Nam vào thị trường này đã giảm sút rõ rệt. Là một doanh nghiệp chuyên sản xuất và xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU, công ty cổ phần da giày Việt Nam cũng không tránh khỏi thách thức này. Hơn nữa, cùng thời gian đó, công ty còn phải đối mặt với những khó khăn vướng mắc gặp phải sau quá trình cổ phần hoá. Chính những điều này đã làm cho hoạt động kinh doanh của công ty có dấu hiệu sa xút nghiêm trọng, cần có những biện pháp thích hợp để khôi phục và gia tăng hiệu qua kinh doanh của công ty và hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giàu sang thị trường EU. Một mặt, công ty nên chuyển hướng hoạt động xuất khẩu của mình sang các thị trường lớn khác như Mỹ, Nhật Bản… nhằm giảm thiểu những rủi ro khi có biến động xảy ra. Mặt khác, công ty vẫn cần phải có các giải pháp phù hợp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình sang thị trường EU, bởi đây vẫn là một thị trường giàu tiềm năng, hơn nữa, công ty lại có kinh nghiệm nhiều năm trong việc xuất khẩu sang thị trường này, do vậy không thể vì những khó khăn trước mắt gặp phải mà có thể từ bỏ nó. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thị Hường, “ Giáo trình kinh doanh quốc tế “, trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, khoa Kinh Tế và Kinh Donh Quốc Tế, nhà xuất bản Lao Động – Xã Hội Hà Nội (2003), tr 271 – 277. Trần Chí Thành, “ Giáo trình quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu “, nhà xuất bản Thống Kê (2000), tr 24 – 158. Vũ Hữu Tửu, “ Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương “ , trường đại học Ngoại Thương, nhà xuất bản Giáo Dục (1998) , tr 5 – 45. Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải, ” Giáo trình Kinh tế ngoại thương “ , Nhà xuất bản Lao Động – Xã Hội (2006), tr 141 – 178. Công ty cổ phần kinh tế đối ngoại, “ Da giày Việt Nam - truyền thống và hiện đại “ , Nhà xuất bản Chính Trị - Quốc Gia (2002 ), 91 – 102. Vũ Trọng Lâm, “ Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế “ , nhà xuất bản Chính Trị - Quốc Gia (2006), tr 39 – 49, tr 310 – 320. Nguyễn Duy Bột, “ Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu “ , nhà xuất bản Thống Kê (2003), tr 98 – 100. Vũ Chí Lộc, “ Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường châu Âu”, Nhà xuất bản Lý Luận Chính Trị (2004), tr 252 – 284. , “Giải pháp nào cho thúc đẩy xuất khẩu?” ,“Ngành da giày Việt Nam trước những xu hướng cạnh tranh mới “ “Những cơ hội và thách thức đối với Ngành Da - Giầy Việt Nam trong quá trình hội nhập” “Xuất khẩu giày da: Khắc phục yếu điểm, tăng tính bền vững” “Thực trạng và phương hướng phát triển ngành da giày Việt Nam trong thời gian tới “ “Thị trường da giày Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo” “Sắp hết thời hạn áp thuế bán phá giá giày mũ da”. “cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26452.doc
Tài liệu liên quan