Trong điều kiện kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, BHXH có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm đời sống cho người lao động, ổn định mọi mặt đời sống kinh tế xã hôi. Những chính sách BHXH thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người lao động, giúp họ yên tâm làm việc, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước giầu đẹp văn minh. Khẳng định được vai trò không thể thiều trong hệ thống chính sách xã hội của Nhà nước ta-nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Qua tìm hiểu về thực trạng chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh ta thấy được công tác chi trả đối với mỗi đơn vị cơ sở của toàn ngành BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như thời điểm, phương thức thanh toán, số tiền chi trả và thái độ làm việc của cán bộ chi trả. Tất cả những yếu tố trên đều ảnh hưởng nhất định đến sự thành công của công tác chi trả. Qua quá trình thực tập và tìm hiểu công tác của BHXH tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2005-2008, em nhận thấy được tầm quan trọng của công tác chi trả các chế độ BHXH nói riêng và của hệ thống BHXH nói chung.
99 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3292 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đem lại thu nhập cho gia đình họ, nuôi dưỡng những người ăn theo (nếu có) trong gia đình như: người quá tuổi lao động, người chưa đến tuổi lao động hoặc người không đủ hành vi và năng lực để làm việc để nuôi sống bản thân nên họ có vai trò quan trọng trong gia đình họ. Chính vì vậy, nếu như người lao động không may bị mất đi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến vật chất, tinh thần cho người thân của họ. Cho nên việc trợ cấp cho thân nhân người lao động có tham gia BHXH khi họ chết là một chính sách sách mang tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta. Các chế độ trên thì đối tượng hưởng là NLĐ, còn trong chế độ tử tuất đối tượng hưởng lại là thân nhân của NLĐ tham gia BHXH không may bị tử vong. Mục đích của chế độ này là trợ giúp về tài chính cho gia đình NLĐ bị tử vong, góp phần khắc phục những khó khăn tức thời để ổn định cuộc sống cho các thành viên trong gia đình họ. Mức hưởng của chế độ này dựa trên mức tiền lương tối thiểu.
a. Trợ cấp mai táng
Đây là khoản trợ cấp cho gia đình để lo việc tang lễ cho người lao động khi họ bị chết. Theo quy định của Khoản 2, Điều 63 của Luật BHXH thì : “Trợ cấp mai táng phí bằng 10 tháng tiền lương tối thiểu”. Được áp dụng cho những người tham gia BHXH bắt buộc. Chế độ này được thực hiện tại BHXH tỉnh Bắc Ninh như sau:
Bảng 2.10: Tình hình chi trả trợ cấp mai táng của BHXH tỉnh Bắc Ninh
giai đoạn 2005-2008
Năm
2005
2006
2007
2008
Số đối tượng(người)
Quỹ BHXH
18
20
17
22
NSNN
80
76
84
79
Số tiền
( triệu đồng)
Qũy BHXH
54
60
61,2
79,20
NSNN
224
228
302,4
184,40
Số tiền BQ 1 người (triệu đồng)
Qũy BHXH
2,8
3,0
3,6
3,6
NSNN
2.,8
3,0
3,6
3,6
Tốc độ tăng số tiền chi trả (%)
Qũy BHXH
-
11.1
0.2
29.4
NSNN
-
1.8
32.6
-39
Tốc độ tăng số tiền BQ 1 người(%)
Qũy BHXH
-
7.1
20,0
0
NSNN
-
7,1
20,0
0
(Nguồn:Báo cáo tổng hợp chi hàng năm của BHXH tỉnh Bắc Ninh)
Bảng số liệu trên thể hiện: Số người hưởng và số tiền chi cho chế độ mai táng phí tăng, giảm qua các năm không đều nhau, nhất là số người được hưởng luôn biến động lên, xuống. Vì tử vong là một rủi ro ngẫu nhiên nên số đối tượng hưởng biến động không theo một quy tắc nào, số đối tượng do NSNN chi trả cao hơn nhiều so với số đối tượng do Qũy BHXH chi trả. Số tiền chi trả phụ thuộc vào đối tượng tử vong và mức lương tối thiểu và thời gian đóng BHXH nên cũng biến động liên tục nhưng chủ yếu là tăng lên do mức tăng của lương tối thiểu ảnh hưởng lớn hơn so với sự giảm đi của đối tượng. Tổng số tiền chi trả của quỹ BHXH luôn tăng năm 2006 là 60 triệu đồng (tăng 11.1% so với năm 2005) đến năm 2007 tăng chậm hơn tăng 0,2% so với năm 2006. Nhưng đến năm 2008 mức trợ cấp là 79.2 triệu đồng (tăng 29.4% so với năm 2007) nguyên nhân chính vẫn là do trong giai đoạn này Nhà nước liên tục tăng lương tối thiểu. Nhưng mức trợ cấp do NSNN chi trả thì tăng từ năm 2005-2007 nhưng đến năm 2008 thì giảm. Nguyên nhân là do đối tượng hưởng giảm đi. Năm 2006 mức tiền trợ cấp do NSNN chi trả là 228 triệu đồng (tăng 1.8% so với năm 2005). Năm 2007 tăng 32,6% so với năm 2006. Riêng đến năm 2008 mức trợ cấp là 184 triệu đồng (giảm 39% so với năm 2007) do số đối tượng hưởng giảm
Số tiền BQ do quỹ BHXH và NSNN chi trả tăng dần theo sự tăng lên của mức lương tối thiểu với tốc độ tăng bằng nhau; năm 2006 tăng 7,1% so với năm 2005. Nhưng đến năm 2008 mức hưởng BQ giữ nguyên bằng năm 2007.
Trợ cấp mai táng phí được xây dựng dựa trên cơ sở mức phí cho 1 tang lễ thông thường nên mức trợ cấp không cao nhưng đó là lòng thành kính đối với những người đã khuất. Và khích lệ nhưng người còn sống hăng hái tham gia BHXH.
b. Trợ cấp tuất định suất cơ bản
Theo Luật BHXH áp dụng từ năm 2007 thì khi NLĐ có đủ điều kiện hưởng chế độ BHXH không may bị tử vong thì thân nhân do họ trực tiếp nuôi dưỡng sẽ được hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 50% mức lương tối thiểu chung, trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp hàng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu chung, còn từ năm 2006 trở về trước thì mức hưởng là 40% mức lương tối thiểu theo luật BHXH quy định. Thực tế chi trả chế độ này tại BHXH tỉnh Bắc Ninh trong những năm gần đây như sau:
Bảng 2.11: Tình hình chi trả trợ cấp tuất định suất cơ bản của BHXH
tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008
Năm
2005
2006
2007
2008
Số đối tượng BQ (người)
Quỹ BHXH
407
420
448
454
NSNN
2.437
2.497
2.582
2.618
Số tiền
(triệu đồng)
Qũy BHXH
682,275
909,40
983,29
1.228,34
NSNN
4.095,94
5.400,71
5.662,75
7.037,749
Số tiền BQ 1 người
(triệu đồng)
Qũy BHXH
1,678
2,16
2,19
2,70
NSNN
1,68
2,16
2,19
2,68
Số tiền BQ 1 người 1 tháng (đồng/người)
Qũy BHXH
139.869
180.437
182.904
225.467
NSNN
140.061
180.240
182.764
224.018
Tốc độ tăng số tiền chi trả (%)
Qũy BHXH
-
33.3
8.1
24.9
NSNN
-
31.8
4.9
24.3
Tốc độ tăng số tiền BQ 1 người (%)
Qũy BHXH
-
39.0
1.4
23.3
NSNN
-
28.7
1.4
22.5
Tốc đô tăng số tiền BQ 1 người 1 tháng (%)
Qũy BHXH
-
39.0
1.4
23.3
NSNN
-
28.7
1.4
22.5
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp chi hàng năm của BHXH tỉnh Bắc Ninh)
Nhìn vào bảng thống kê 2.12 ta thấy. Đây là một chế độ dài hạn nên số đối tượng tăng dần qua từng năm. Số đối tượng do NSNN đảm nhận cao hơn nhiều so với do quỹ BHXH đảm nhận. Số đối hưởng đa phần là con cái, bố mẹ, trường hợp vợ hoặc chồng chiếm rất ít nên thời gian hưởng trợ cấp khá dài, thường là 10 đến 25 năm. Mức hưởng từ 40% đến 50% mức lương tối thiểu nên tổng số tiền chi không lớn lắm, mức chi NSNN lớn hơn nhiều so với qũy BHXH. Năm 2006 mức tiền chi của quỹ BHXH là 909,40 triệu đồng (tăng 33,3% so với năm 2005), số tiền chi do NSNN chi là 5.400,711 triệu đồng (tăng 31,8% so với năm 2005). Đến năm 2008 thì mức chi do quỹ BHXH chi là 1.228,344 triệu đồng (tăng 24,9% so với năm 2007), số tiền chi do NSNN chi là 7.037,74 triệu đồng (tăng 24,4% so với năm 2007) nguyên nhân chính vẫn là trong mấy năm gần đây Nhà nước liên tục tăng mức tiền lương cơ bản và số đối tượng hưởng cũng tăng lên. Số tiền chi BQ 1 người và số tiền chi BQ 1 người 1 tháng cũng tăng dần theo các năm, tăng cùng với mức lương cơ bản. Năm 2006 do quỹ BHXH chi thì mức tiền BQ 1 người 2,165 triệu đồng, số tiền BQ 1 người 1 tháng là 180.437 đ (tăng 39,0% so với năm 2005). Số tiền BQ 1 người và BQ 1 người 1 tháng do NSNN chi trả cũng tăng lên. Năm 2006 tăng 28,7% so với năm 2005. Năm 2008 tăng 22,5% so với năm 2007. Nguyên nhân chính của sự tăng này là do tiền lương tối thiểu tăng dần qua các năm.
So sánh số đối tượng hưởng trợ cấp tăng thêm với số lao động tử vong từng năm ta thấy số thân nhân hưởng trợ cấp từ 1 đến 2 người đối với mỗi lao động tử vong. Điều đó thể hiện đối tượng tử vong chủ yếu là những người đang trong độ tuổi lao động, tuổi đời chưa cao nên có con nhỏ và bố mẹ già cần được trợ cấp.
Chế độ này trả lời cho câu hỏi nan giải: Những người sống phụ thuộc vào người thân sẽ tiếp tục sống ra sao khi người thân của mình qua đời? Từ đó thấy được tính ưu việt, bản chất nhân văn, nhân đạo của BHXH.
c. Trợ cấp tuất định suất nuôi dưỡng
Đây là chế độ trợ cấp cho thân nhân của người bị tử vong không có nguồn thu nhập nào khác và không còn người thân trực tiếp nuôi dưỡng, Số tiền hàng tháng đối tượng này được nhận bằng 70% mức lương tối thiểu. Trong những năm qua BHXH tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện chi trả trợ cấp tuất định suất nuôi dưỡng cho các đối tượng như sau:
Bảng 2.12: Tình hình chi trả trợ cấp tuất nuôi dưỡng của BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008
Năm
2005
2006
2007
2008
Số đối tương BQ (người)
Quỹ BHXH
3
4
5
5
NSNN
25
20
18
17
Số tiền
(triệu đồng)
Qũy BHXH
8,82
15,12
18,90
22,68
NSNN
73,03
75,90
67,72
77,11
Số tiền BQ 1 người (triệu đồng)
Qũy BHXH
2,94
3,78
3,78
4,53
NSNN
2,92
3,79
3,76
4,53
Số tiền BQ 1 người 1 tháng (đồng/tháng)
Qũy BHXH
245.000
315.000
315.000
378.000
NSNN
243.459
316.250
313.544
378.000
Tốc độ tăng số tiền chi trả (%)
Qũy BHXH
-
71.4
25.0
20.0
NSNN
-
3.9
-10.8
13.9
Tốc độ tăng số tiền hưởng BQ 1 người (%)
Qũy BHXH
-
28.5
0
20.0
NSNN
-
29.90
-0.85
15.77
Tốc độ tăng số tiền hưởng BQ 1 người 1 tháng (%)
Qũy BHXH
-
28.5
0
20.0
NSNN
-
29.9
-0.85
15.77
(Nguồn:Báo cáo tổng hợp chi hàng năm của BHXH tỉnh Bắc Ninh)
Số đối tượng hưởng trợ cấp do quỹ BHXH chi trả rất thấp năm 2005 có 3 người. Năm 2006 là 4 người và năm 2007 và năm 2008 là 5 người. Do NSNN chi trả thì cao hơn nhiều so với quỹ BHXH chi, năm 2005 là 25 người và số đối tượng hưởng giảm dần năm 2008 là 17 người vì đối tượng chính mà BHXH phải chi trả trợ cấp tuất là những người đang hưởng lương hưởng lương hưu và qua đời; Những năm gần đây điều kiện y tế ngày càng được chú ý nên tuổi thọ được nâng cao cho nên số người chết ngày càng giảm. Số tiền chi do NSNN chi lớn hơn rất nhiều so với Qũy BHXH chi. Năm 2006 số chi do Qũy BHXH chi tăng lên 71,4% so với năm 2005 và do NSNN chi tăng 3.9% so với năm 2005. Năm 2008 số chi do Qũy BHXH chi là 22.680.000 đ(tăng 20,0% so với năm 2007), số chi do NSNN chi cũng tăng lên 13,9% so với năm 2007 nguyên nhân là mức lương tối thiểu tăng, mặt khác do sự chi trả cho con cái của người lao động chưa đủ 15 tuổi hoặc bố mẹ người nuôi dưỡng hợp pháp đã hết tuổi lao động cũng nhiều hơn.. Số tiền hưởng BQ 1 người và số tiền hưởng BQ 1 người 1 tháng cũng tăng lên qua các năm. Do sự tăng lên của mức tiền lương cơ bản nên, Năm 2006 số tiền hưởng BQ 1 người do quỹ BHXH chi là 2,94 triệu đồng (tăng 28.8% so với năm 2005); do NSNN chi là 2,92 triệu đồng (tăng 29.9% so với năm 2005). Đến năm 2008 số tiền chi BQ 1 người là do quỹ BHXH chi là 4,53 triệu đồng (tăng 20.0% so với năm 2007), số chi do NSNN chi là 4,53 triệu đồng (tăng 15.77% so với năm 2007). Do mức hưởng đều căn cứ vào mức lương tối thiểu nên mức hưởng BQ của các đối tượng do NSNN và quỹ BHXH chi là tương đương nhau, chênh lệch là không đáng kể.
d. Trợ cấp tuất một lần
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 65 của Luật BHXH “ Mức trợ cấp tuất hàng tháng đối với mỗi thân nhân của người lao động đang làm việc hoặc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH được tính theo số năm đóng BHXH, cứ mỗi năm bảo lưu tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công đóng BHXH; mức thấp nhất bằng 3 tháng mức bình quân liền lương, tiền công tháng. Nhiều đối tượng tham gia BHXH khi tử vong thân nhân không thuộc diện hưởng chế độ tuất hàng tháng, và để công bằng, BHXH vẫn hỗ trợ cho gia đình những đối tượng này một khoản tiền phụ thuộc vào thời gian đóng BHXH (đã hưởng lương hưu). Tại BHXH tỉnh Bắc Ninh việc chi trả chế độ này như sau:
Bảng 2.13: Tình hình chi trả trợ cấp tuất một lần của BHXH tỉnh Bắc Ninh
giai đoạn 2005-2008
Năm
2005
2006
2007
2008
Số ĐT (người)
Quỹ BHXH
2
3
5
6
NSNN
10
8
13
11
Số tiền (triệu đồng)
Quỹ BHXH
5,26
7,80
20,63
28,74
NSNN
24,07
20,0
52,15
49,76
Số tiền BQ 1 người
(triệu đồng)
Quỹ BHXH
2,51
2,60
4,12
4,79
NSNN
2,40
2,50
4,01
4,52
Tốc độ tăng số tiền chi trả (%)
Quỹ BHXH
-
54,1
164,4
39,3
NSNN
-
-16,8
160,6
-4,3
Tốc độ tăng số tiền chi trả BQ 1 người (%)
Qũy BHXH
-
3,5
58,7
16,1
NSNN
-
3,9
60,4
12,8
(Nguồn:Báo cáo tổng hợp chi hàng năm của BHXH tỉnh Bắc Ninh)
Số đối tượng hưởng trợ cấp tuất một lần khá thấp: năm 2005 số đối tượng hưởng của quỹ BHXH là 2 người và tăng dần qua các năm và đến năm 2008 tăng lên là 6 người. Số đối tượng do NSNN chi lớn hơn so với số đối tượng Qũy BHXH chi, năm 2005 số đối tượng do NSNN chi là 10 người nhưng đến năm 2006 là 8 người, đến năm 2008 số đối tượng do NSNN chi là 13 người. Số tiền chi cũng tăng dần theo số đối tượng hưởng và sự điều chỉnh mức hưởng của các đối tượng. Đối với quỹ BHXH thì mức chi tăng dần (tăng 2005 chi hết 5,02 triệu đồng. Đến năm 2006 là 7,8 triệu đồng (tăng 54,1% so với năm 2005), năm 2008 mức chi là 28,746 triệu đồng (tăng 39.3% so với năm 2007). Nguyên nhân tăng số tiền chi trả là do số đối tượng hưởng tăng lên. Nhưng mức chi do NSNN chi lại giảm đi vào năm 2006 (giảm 16,8% so với năm 2005) và năm 2008 (giảm 4,3% so với năm 2007). Điều này cho thấy Qũy BHXH dần dần giảm bớt gánh nặng cho NSNN. Tuy vậy, mức hưởng BQ vẫn tăng nhưng không đều; năm 2006 mức hưởng BQ do quỹ BHXH và NSNN chi đều tăng. Năm 2006 mức chi BQ do NSNN chi là 2,5 triệu đồng (tăng3.9% so với năm 2005), do Qũy BHXH chi BQ là 2,5 triệu đồng (tăng 3,5%), đến năm 2008 mức chi BQ do quỹ BHXH chi là 4,79 triệu đồng (tăng 16,1% so với năm 2007), do NSNN chi là 4,54 triệu đồng (tăng12.8% so với năm 2007).
Mức hưởng theo mức lương đóng BHXH và mức trợ cấp đang hưởng nhằm đảm bảo công bằng cho các đối tượng và đảm bảo được lợi ích cao nhất cho người tham gia BHXH, tránh thiệt thòi cho gia đình họ.
2.3. Đánh giá thực trạng công tác chi trả các chế độ BHXH tại BHXH tỉnh Bắc Ninh
2.3.1. Ưu điểm
Mặc dù mới được thành lập và hoạt động được hơn 10 năm nhưng BHXH tỉnh Bắc Ninh ngày càng thực hiện tốt hơn vai trò của mình là một tổ chức xã hội cần thiết, thực thi vai trò và ý nghĩa của ngành BHXHVN nói chung và công tác chi trả các chế độ BHXH của BHXH tỉnh Bắc Ninh có những ưu điểm cơ bản sau đây:
- Phương thức chi trả trực tiếp kết hợp với chi trả qua các đại lý đảm bảo sự nhanh gọn, kịp thời, đáp ứng được yêu cầu nguyện vọng của người được hưởng trợ cấp BHXH đồng thời đảm bảo tính kinh tế tiết kiệm được những chi phí quản lý cho từng đơn vị.
- Thời điểm chi trả được áp dụng một cách khoa học rõ ràng, cụ thể. Thời điểm chi trả kết hợp với phương thức chi trả tạo cho việc chi trả được tiến hành thuận lợi, tạo điều kiện cho bên quản lý và tạo điều kiện cho đối tượng hưởng BHXH. Phương thức chi trả và thời điểm chi trả quyết định đến tốc độ từng khâu trong quá trình chi trả.
- Quá trình giải quyết các chế độ từ quá trình xét duyệt các chế độ của cán bộ chính sách, kế toán, thủ quỹ thông qua sự xét duyệt của giám đốc đều nhanh chóng, nhưng vẫn luôn đảm bảo chính xác, an toàn…
- Quyết toán chi trả các chế độ rất rõ ràng, báo cáo chi hàng quý, hàng tháng, hàng năm lên BHXHVN nhanh chóng đúng lịch.
- Sự thống nhất cao về số liệu, danh sách, số tiền được chú trọng rất lớn trong công tác chi trả.
- Cán bộ thực hiện chi trả thực sự có năng lực, đặc biệt của khả năng cán bộ chính sách. Bởi vậy, mỗi chế độ áp dụng một loại văn bản quy định khác nhau mà BHXHVN có nhiều chế độ với nhiều loại văn bản, vì vậy đòi hỏi các cán bộ BHXH phải am hiểu các văn bản quy định về BHXH. Phải căn cứ vào điều kiện, tính chân thực… cán bộ chính sách có nhiệm vụ xác định đúng đối tượng có được hưởng trợ cấp hay không, hưởng chế độ nào? mức hưởng trợ cấp là bao nhiêu? Hiệu quả của công tác này được thể hiện trên số lượng đơn từ khiếu nại về việc giải quyết chế độ BHXH tại tỉnh Bắc Ninh hầu như là rất ít.
- Cán bộ cơ quan BHXH tỉnh Bắc Ninh đã sử dụng máy tính vào xét duyệt các chế độ, theo dõi đối tượng, theo dõi sự tăng giảm… cũng như lập các báo cáo trình cấp trên, từ đó tăng cường tính chính xác trong chi trả, chi trả kịp thời. Số đối tượng hưởng trợ cấp tăng hay giảm cũng được cập nhật kịp thời để tránh thâm hụt quỹ BHXH và đảm bảo tính nguyên tắc trong công tác chi trả
- BHXH các huyện thực hiện đúng thời gian xét duyệt các chế độ BHXH đưa lên BHXH tỉnh. Giúp BHXH tỉnh Bắc Ninh chi trả đúng thời gian. Có một đội ngũ đại lý chi trả nhanh chóng, hiệu quả. Nhờ các đại lý chi trả này quản lý tăng giảm các đối tượng tại địa bàn họ phụ trách, giúp cán bộ BHXH tỉnh nắm bắt thông tin về đối tượng một cách nhanh nhất.
- Cán bộ BHXH tỉnh Bắc Ninh nhiệt tình trong công việc, tạo tâm lý thoải mái cho đối tượng được hưởng trợ cấp. Giúp cho công tác chi trả được thuận tiện, nhanh chóng. Sự đoàn kết, đồng lòng của tập thể cán bộ, công chức, viên chức của BHXH tỉnh Bắc Ninh.
- Những đường lối chỉ đạo sát thực, kịp thời, đúng cách của BHXH tỉnh, đã làm cho công tác BHXH nói chung và công tác chi trả các chế độ BHXH nói riêng hoạt động theo đúng khuôn khổ, mong muốn của mọi người.
2.3.2 Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, do nhiều nhân tố khác nhau mà công tác chi trả các chế độ BHXH tại BHXH tỉnh Bắc Ninh còn có những mặt hạn chế:
- Công tác chi trả các chế độ, giải quyết quyền lợi BHXH tỉnh đối với các đơn vị, với người lao động còn nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Bởi vì, quá trình chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường làm kéo dài sự chuyển đổi của cơ chế BHXH. Sự chuyển đổi này gây ra một số vướng mắc trong việc giải quyết một số quyền lợi, chính sách cũ và chính sách mới; giữa thời gian đóng và thời gian hưởng BHXH. Mặt khác, trong quy định về BHXH còn những điểm chưa phù hợp như : tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ, giữa các nhóm lao động.
- Sự tăng nhanh về số lượng người trên địa bàn tỉnh nhưng số người tham gia BHXH chưa cao, phần lớn những người tham gia chủ yếu là những đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc. Các chủ sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn tìm cách tránh né hoặc cố tình vi phạm Luật Lao động như ký hợp đồng mức lương thấp hơn mức hưởng. Gây ảnh hưởng đến sự tăng giảm đối tượng hưởng BHXH mức tiền chi trợ cấp cho đối tượng hưởng.
- Nhiều đơn vị ngoài quốc doanh vẫn tìm mọi cách để lách luật như: tuyển người lao động có thai vào làm được ít tháng đã làm thủ tục trợ cấp thai sản, nâng lương cao hơn trước khi nghỉ trợ cấp thai sản. Điều này góp phần không nhỏ vào tăng chi BHXH tỉnh Bắc Ninh.
- Công tác thanh, quyết toán, báo cáo tăng, giảm đối tượng hưởng thường hay chậm bởi đa số cán bộ chi trả đều làm công tác kiêm nhiệm, họ còn phải thực hiện chuyên môn khác.
- Tình trạng lĩnh thay lĩnh hộ vẫn con diễn ra ở một số huyện, địa phương trong địa bàn tỉnh quản lý, nhất là việc lĩnh hộ, lĩnh thay bằng giấy ủy quyền không đúng quy định. Đây là hạn chế phổ biến làm cho BHXH không nắm bắt được đúng đối tượng.
- Việc chi trả trực tiếp của BHXH tỉnh còn có ngày chậm để người được hưởng phải chờ. Có thể trậm chễ trong việc chi trả đối tượng hưởng trợ cấp một lần và trực tiếp ngay tại trụ sở cơ quan, như vậy gây cho đối tượng tâm lý rất khó chịu-thực tế là sự nghi ngờ về tính ưu việt của chế độ, cũng có thể chậm đối với các khoản chi trả thường xuyên.
- Vẫn còn một số trường hợp các đại lý chi trả thu lệ phí của người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH. Tuy lệ phí không nhiều nhưng không đảm bảo bản chất tốt đẹp của chính sách BHXH.
- Cơ sở vật chất phục vụ công tác chi trả còn rất hạn chế, cần được tăng thêm, như dụng cụ để bảo vệ tiền khi chi trả, phương tiện đi lại phục vụ công tác chi trả.
- Đội ngũ chi trả còn chưa đồng bộ, nhiều người thực sự chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, từ đó làm giảm hiệu quả của công tác chi trả. Trong những năm qua tình hình tham gia BHXH ở tỉnh Bắc Ninh tăng nhanh, trong khi đó, số cán bộ làm việc tại BHXH tỉnh còn thiếu sót với yêu cầu và đòi hỏi của công việc nhất là bộ phận xét duyệt hồ sơ và chi trả trợ cấp, do đó nhiều lúc gây nên môi trường làm việc căng thẳng, dễ dẫn đến thiếu chính xác trong công việc.
- Việc phối hợp với các cơ quan, đơn vị khác để thực hiện chi trả còn hạn chế. Như trong quá trình vận chuyển tiền đến nơi chi trả thì cần phải phối hợp với cơ quan Công an để đảm bảo an toàn vận chuyển tiền và bảo quản tiền mặt. Phối hợp với Ngân hàng thực hiện cấp tiền từng ngày theo kế hoạch của mỗi đợt chi trả. Và phối hợp với chính quyền địa phương và UBND xã, phường tạo điều kiện bố trí địa điểm chi trả cho đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH nhận an toàn và thuận tiện.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHI TRẢ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH
3.1. Phương hướng hoạt động của Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới
3.1.1 Nhiệm vụ chủ yếu
Bám sát nhiệm vụ kinh tế xã hội của tỉnh và quan điểm lãnh đạo của BHXHVN, triển khai đồng bộ, toàn diện BHXH, BHYT với chất lượng cao. Cụ thể:
- Tập trung mở rộng đối tượng tham gia BHXH theo luật BHXH với mức tăng trưởng là 10% trở lên đối với BHXH bắc buộc với tất cả các xã, phường thị trấn, các doanh nghiệp mà tỉnh quản lý đều tham gia BHXH tự nguyện. Mở rộng đối tượng tham gia BHYT cả hai hình thức bắt buộc và tự nguyện, đảm bảo tăng cường số lượng đi đôi với chất lượng để phát triển toàn diện công tác BHXH.
- Chuẩn bị nội dung để thực hiện tốt BHTN theo luật BHXH, triển khai luật BHYT có văn bản hướng dẫn các bộ ngành trung ương.
- Thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của ngành, quản lý sử dụng quỹ BHXH, BHYT hợp lý, hiệu quả và an toàn.
3.1.2 Nhiệm vụ trọng tâm
- Ngành sẽ tập trung công tác đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng quỹ, việc chi trả các chế độ BHXH, phối hợp chặt chẽ giữa các ngành đơn vị hữu quan nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHXH, BHYT, chuẩn bị mọi điều kiện để triển khai thực hiện BHYT tự nguyện và BHTN một cách tốt nhất vào năm 2009.
- Mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT ở khu vực ngoài quốc doanh, ngoài công lập và khu vực nông nghiệp nông thôn. Đối với BHYT tập trung vào BHYT hộ gia đình, giữ vững BHYT học sinh, đảm bảo tăng số lượng đi đôi với chất lượng. Tạo đà cho bước phát triển BHYT toàn dân theo tinh thần nghị quyết Đaị hội của Đảng.
- Việc giải quyết các chế độ BHXH được thực hiện theo hướng giảm bớt đầu mối, người sử dụng lao động và người thụ hưởng các chế độ BHXH không phải qua nhiều khâu.
- Tăng cường phối hợp giữa các đơn vị trong và ngoài ngành để thực hiện tốt các chế độ BHXH. Nêu cao ý thức trách nhiệm và tinh thần chuyên môn nghiệp vụ, và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ thực hiện có hiệu quả cơ chế quản lý mới của BHXHVN và luật BHXH.
- Năm 2009 thực hiện theo chỉ thị của BHXHVN là chuyển xét duyệt các chế độ BHXH ngắn hạn xuống BHXH các huyện. Hướng dẫn cho BHXH huyện thực hiện tốt nhiệm vụ này.
-Phối hợp chặt chẽ với ngành y tế tổ chức tốt công tác kiểm tra, thanh tra liên ngành nhằm nâng cao hiêu quả trong việc quản lý, sử dụng quỹ BHYT. Tăng cường công tác giám định chi phí KCB, thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra cơ sở KCB thực hiện chế độ KCB BHYT, có các biện pháp kiềm chế bội chi quỹ KCB, phát hiện và xử lý kịp thời các biểu hiện lạm dụng, đảm bảo sử dụng quỹ an toàn và hiệu quả; tiếp tục hướng dẫn, điều chỉnh chuyển đổi thẻ cho các đối tượng đăng ký KCB ban đầu từ bệnh viện đa khoa tỉnh sang các cơ sở KCB trên địa bàn thành phố .
- Thực hiện tốt các công tác quản lí tài chính, kế toán và nâng cao năng lực trình độ chuyên môn, phục vụ ngày càng tốt hơn người hưởng lương hưu và các chế độ BHXH, BHYT. Thực hành tiết kiệm và phòng chống tham nhũng trong công tác của ngành .
- Làm tốt công tác kiểm tra và tự kiểm tra của BHXH cấp huyện và các phòng nghiệp vụ, phối hợp với thanh tra liên ngành, chủ động tổ chức thực hiện việc kiểm tra theo chương trình, kế hoạch cũng như các yêu cầu đột xuất của ngành.
- Tích cực nghiên cứu, từng bước áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý các mặt hoạt động nghiệp vụ; tiếp tục triển khai cài đặt và hướng dẫn sử dụng các chương trình phần mềm CNTT theo chỉ đạo của BHXH Việt Nam, xây dựng hệ thống mạng LAN cho BHXH các huyện thành phố.
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, tập trung vào Luật BHXH làm cho các cấp, các ngành, chỉ sử dụng lao động và người tham gia nhận rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình để chủ động tham gia . Tích cực phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng, đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, làm cho công cụ tuyên truyền thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự nghiệp BHXH, BHYT phát triển.
- Kiện toàn công tác tổ chức cán bộ, chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công chức, phấn đấu xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm và có thái độ phục vụ nhân dân tốt. Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, chuyển nhanh chuyển mạnh sang phương thức phục vụ đối tượng và cơ sở, thực hiện tốt cơ chế “một cửa” trong toàn ngành . Tổ chức và đẩy mạnh các phong trào thi đua, mỗi cán bộ công chức cần nêu cao ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất vì lợi ích chung, đảm bảo cho cả hệ thống hoạt động có chất lượng và hiệu quả cao, phấn đấu thực hiện tốt mục tiêu theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Luật BHXH.
3.2 Thuận lợi và khó khăn trong quá trình tổ chức chi trả các chế độ BHXH tỉnh Bắc Ninh
3.2.1 Thuận lợi
Kể từ khi đi vào hoạt động (trên cơ sở tách từ BHXH Hà Bắc cũ) BHXH tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện tốt nhệm vụ do BHXHVN giao cho, cho đến nay luôn có nhiều điều kiện thuận lợi cho BHXH tỉnh Bắc Ninh thực hiện tốt nhiệm vụ, có thể thấy những nhân tố đó là:
- Luôn được sự hướng dẫn một cách chủ động của BHXHVN, và được quy định rõ nhiệm vụ, chức năng lâu dài cũng như trong từng giai đoạn cụ thể giúp BHXH tỉnh Bắc Ninh có được định hướng hoạt động cho mình một cách có hiệu quả.
- Bên cạnh được sự quan tâm của BHXHVN thì BHXH tỉnh Bắc Ninh còn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của quận Ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự chỉ đạo của ban Giám đốc, các phòng nghiệp vụ của BHXH tỉnh Bắc Ninh; sự phối hợp chặt chẽ của ban ngành lãnh đạo cac huyện, thị xã, các cơ quan đơn vị trên địa bàn tỉnh nên năm 2008 BHXH tỉnh Bắc Ninh đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt trong việc thực hiện chi trả BHXH và trợ cấp hàng tháng cho các đối tượng hưởng.
- Ngay từ khi bắt đầu hoạt động BHXH tỉnh Bắc Ninh đã có số đối tượng quản lý rất rõ ràng, rành mạch, số tiền trợ cấp cho từng loại đối tượng, các thông tin liên quan rất cụ thể, chi tiết tạo cho công tác của BHXH tỉnh được thực hiện rõ ràng hơn.
- Mọi thủ tục hành chính ngày càng nhanh chóng, ngắn gọn, công tác thực hiện nhiệm vụ ngày càng được rút gọn mà vẫn đảm bảo hiệu quả.
- Sự hiểu biết của người lao động trên địa bàn tỉnh ngày càng được nâng cao, thuận lợi hơn cho công tác mở rộng phạm vi đối tượng tham gia BHXH tại đơn vị.
- Đầu tư trang thiết bị ngày càng được hiện đại, áp dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý, đội ngũ cán bộ nhiệt tình, có trách nhiệm, hăng hái trong công việc.
- Kinh tế nước ta ngày càng phát triển, thu nhập người dân ngày một được nâng cao, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH cũng tăng do đó số thu cũng tăng theo. Đồng thời, các thành phần kinh tế ngày càng đa dạng, ngày càng có nhiều có nhiều công ty ra đời làm cho số lao động cũng tăng. Điều này giúp cho ngành BHXH nói chung và BHXH tỉnh Bắc Ninh nói riêng không ngừng mở rộng đối tượng tham gia và tăng nguồn thu cho quỹ BHXH, từ đó làm tăng khả năng chi trả của quỹ, tránh tình trạng vỡ quỹ.
3.2.2 Khó khăn
Bất kể thực thi một nhiệm vụ nào, đảm đương một chức năng nào hay làm một công việc gì, đi liền với thuận lợi bao giờ cũng có những khó khăn. Tuy nhiên căn cứ vào mức độ khác nhau mà khó khăn nhiều hay ít. BHXH tỉnh Bắc Ninh trong quá trình tổ chức chi trả các chế độ BHXH đã gặp phải những khó khăn như sau:
- Khó khăn đầu tiên mà bất kể cơ quan BHXH nào cũng gặp phải đó là đối tượng quản lý phức tạp. Kể từ khi có chính sách BHXH áp dụng cho người lao động, cho đến nay không ngừng sửa đối, mở rộng đối tượng có thể tham gia. Khi kinh tế càng phát triển thì đối tượng của BHXH càng nhiều hơn, theo đó càng có nhiều chế độ, mức chi trả sẽ rất linh động và đòi hỏi chính xác càng cao hơn. Tỉnh Bắc Ninh có nhiều khu công nghiệp nên đối tượng ngoài quốc doanh lại càng nhiều, việc quản lý đối tượng cũng gặp nhiều khó khăn.
- Khó khăn thứ hai là về phương tiện và chi phí thực hiện chi trả. Mặc dù, BHXH tỉnh đã có những đầu tư về phương tiện đi lại, vận chuyển kinh phí chi trả nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nên nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc an toàn trong quá trình vận chuyển. Chi phí phục vụ chi trả không thể thiếu, hơn nữa khi ký hợp đồng với các đại lý chi trả đã xác định khoản tiền mà BHXH tỉnh Bắc Ninh trả cho họ. Khi hoạt động đầu tư quỹ BHXH còn hạn chế nên không có khoản nào để bù đắp chi phí chi trả ngoài sự cấp kinh phí từ cấp trên.
- Khó khăn thứ ba là Nguồn kinh phí chi trả phức tạp, yêu cầu phải chính xác. Có đối tượng nhận tiền trợ cấp từ ngân sách nhà nước nhưng có đối tượng lại hưởng từ quỹ BHXH, có những chế độ hai nguồn cùng chi. Bởi thực tế quỹ BHXH đang dần đảm nhiệm vai trò của mình mà bớt gánh năng cho NSNN, đây là khó khăn của BHXHVN nên BHXH tỉnh Bắc Ninh không thể tránh khỏi.
- Khó khăn thứ tư là nhiều chính sách không đồng bộ liên quan đến nhiều chính sách khác. Hệ thống chính sách quy định về BHXH do Chính phủ ban hành, bộ Lao đông Thương binh và xã hội hướng dẫn, thông tư liên ngành, rồi hướng dẫn của BHXHVN… khiến cán bộ BHXH phải tiếp nhận một khối lượng lớn các văn bản. Hơn nữa chính sách BHXH liên quan đến nhiều chính sách khác, đôi khi những chính sách này mâu thuẫn, chồng chéo nhau khiến cán bộ BHXH khó khăn trong quá trình xét duyệt chi trả trợ cấp cho đối tượng hưởng.
- Trong các khó khăn mà BHXH tỉnh Bắc Ninh gặp phải có một khó khăn từ phía các doanh nghiệp và người sử dụng lao động. Đó là tình trạng nợ phí BHXH cho người lao động của doanh nghiệp, có một số doanh nghiệp chưa tích cực tham gia BHXH. Thậm trí có tình trạng lẩn tránh đóng BHXH của người lao động. Số nợ BHXH của một số doanh nghiệp vẫn còn để đến cuối quý, cuối năm gây khó khăn trong quá trình chi trả các chế độ BHXH cho người lao động. Nhận thức của một số bộ phận người lao động chưa đầy đủ về quyền lợi và lợi ích của BHXH khi họ tham gia đối với cuộc sống của họ và gia đình không chỉ trong hiện tại và tương lai nên nhiều lao động không tham gia hoặc không muốn tham gia.
- Tình trạng bội chi quỹ BHXH, BHYT gây khó khăn trong công tác chi trả. Ngoài những khó khăn trên BHXH tỉnh Bắc Ninh còn gặp phải những khó khăn khác nhưng BHXH tỉnh đã cố gắng khắc phục.
3.3 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác chi trả các chế độ BHXH tại BHXH tỉnh Bắc Ninh.
Qua sự đánh giá công tác chi trả các chế độ BHXH tỉnh Bắc Ninh cũng như những mặt thuận lợi và khó khăn em đưa ra những kiến nghị và giải pháp dưới đây với mục đích nâng cao hiệu quả của công tác chi trả các chế độ BHXH tại BHXH tỉnh Bắc Ninh.
3.3.1 Kiến nghị
- Kiến nghị chung
+ Tiếp tục củng cố và hoàn thiện nội dung công tác chi trả mà đơn vị đang thực hiện. Nhìn chung, BHXH tỉnh Bắc Ninh đang thực hiện tốt công tác chi trả các chế độ BHXH.
+ Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác chi trả. Tuy trình độ cán bộ chi trả đã đảm bảo tốt công việc chi trả, xong luôn có những văn bản mới, những quy định mới đòi hỏi phải được cập nhật và tập huấn.
+ Tăng cường thông tin tuyên truyền. Đây là cách mà cơ quan BHXH tác động vào tâm lý nhân dân nói chung, những người tham gia BHXH nói riêng để họ nhận ra ý nghĩa của chính sách BHXH.
+ Đầu tư phương tiện tin hoc, có trang web của BHXH tỉnh thật đầy đủ, nối mạng với BHXH các huyện và BHXHVN để được hướng dẫn, giải thích, chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ.
+ Đầu tư đầy đủ phương tiện đi lại để đảm bảo an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả.
+ Phối hợp với các cấp các ngành trong tổ chức thực hiện, sự giúp đỡ của các tổ chức có thẩm quyền để việc chi trả được thực hiện một cách thuận lợi.
- Kiến nghị với BHXH các cấp
1) Kiến nghị đối với BHXH Việt Nam
Hiện nay số người tham gia BHXH ở nước ta vẫn còn ít. Theo thống kê, năm 2005 ở Việt Nam số lao động tham gia BHXH mới chiếm khoảng 15%, còn lại 85% lực lượng lao động chưa được tham gia BHXH, như vậy tiềm năng mở rộng đối tượng tham gia BHXH còn nhiều.
Mở rộng đối tượng tham gia BHXH là nhân tố trực tiếp tác động đến cân đối quỹ, trước hết là tăng thu cho quỹ. Đối với các chế độ dài hạn người lao động đóng BHXH nhưng phải sau 1 thời gian thì mới được hưởng trợ cấp của chế độ đó. Tăng số người tham gia đối với chế độ này có tác dụng đến tăng thu của quỹ, vì vậy nó là nhân tố trực tiếp tác động đến cân đối của quỹ BHXH. Muốn tăng số người tham gia phải có nhiều giải pháp, nhiều điều kiện. Nhưng giải pháp quan trọng nhất có tính chất cơ sở pháp lý đó là người lao động chỉ được phép tham gia BHXH khi văn bản pháp luật của Nhà nước cho phép. Như vậy, muốn tăng số người tham gia BHXH , trước hết phải mở rộng đối tượng tham gia BHXH, tức là mở rộng điều kiện để người lao động được tham gia BHXH. Ở nước ta hiện nay, theo quy định của luật BHXH thì điều kiện để được tham gia BHXH cũng đã được mở rộng đến mọi người lao động có quan hệ lao động; có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên hoặc hợp đồng lao động không xác định thời hạn và áp dụng với các đơn vị có sử dụng từ 1 lao động trở lên.
+ Cần sớm nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp quy quy định về điều kiện hưởng, mức hưởng các chế độ BHXH bắt buộc cũng như việc hướng dẫn tổ chức chi trả và quản lý chi trả các chế độ sao cho phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo tốt nhất cho quyền lợi người lao động.
+ Tăng cường kiểm tra và xử lý các trường hợp giả mạo hồ sơ, khai man tuổi đời, khai man thời gian công tác và làm giả giấy tờ của cơ quan y tế nhằm hưởng lợi từ chế độ; giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo…
+ Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng và ứng dụng hệ thống thông tin hiện đại, ứng dụng phần mềm vào công tác quản lý chi trả; luôn đảm bảo cho việc quản lý, điều hành, thống kê, lưu trữ được chính xác… để từ đó có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành
+ Đẩy mạnh hơn nữa công tác triển khai thực hiện mô hình “ một cửa liên thông”, áp dụng linh hoạt các mô hình thí điểm hiệu quả vào từng địa phương sao cho phù hợp.
+ Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ ngành.
+ Tăng cường công tác quản lý đối tượng tham gia và đối tượng hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn. Cần có các chính sách mở rộng, động viên thêm đối tượng tham gia BHXH, không chỉ đối với lao động thuộc khu vực Nhà nước, các doanh nghiệp mà cả đối với lao động ở các thành phần kinh tế khác.
+ Sớm triển khai và hoàn thiện ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác chi trả trong toàn Ngành như: xây dựng website; sử dụng phầm mềm quản lý thu, chi, phần mềm kế toán cho Ngành BHXH nhằm quản lý tốt đối tượng tham gia, tình hình chi trả… nhằm đem lại hiệu quả cao, giúp bộ máy tổ chức quản lý trở lên gon nhẹ hơn.
+ Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của từng đơn vị, từng cá nhân; có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời đến các địa phương. Trong xây dựng văn bản, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cần có sự đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, đơn vị sử dụng lao động và mọi người dân khi tham gia BHXH.
+ Cần phối hợp với BHXH các tỉnh, thành phố thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra nhằm kịp thời phát hiện và chấn chỉnh các sai phạm trong công tác chi trả, xử lý nghiêm với các trường hợp vi phạm.
2) Đối với BHXH tỉnh Bắc Ninh
+ Tăng cường sự phối hợp chỉ đạo, quản lý cấp ủy, cấp chính quyền các cấp trong tổ chức chi trả, quản lý đối tượng hưởng; tiếp tục chỉ thị 15- CT/TW ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH.
+ Xây dựng, chỉ đạo BHXH các huyện thực hiện tốt công tác chi trả BHXH. Tổng hợp số liệu chi trả các chế độ BHXH bắt buộc theo định kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm. Giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện chế độ kịp thời báo cáo lên BHXH Việt Nam.
+ Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng cần thiết cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
+ Thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, nắm bắt tình hình tổ chức thực hiện công tác chi trả của BHXH các quận, huyện; kịp thời xử lý các vướng mắc phát sinh. Kỷ luật nghiêm với những hiện tượng tiêu cực lạm dụng quỹ BHXH, đồng thời nhanh chóng chuyển đổi tác phong làm việc, thực hiện “cơ chế một cửa” tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng tham gia BHXH.
+ Đầu tư trang thiết bị, phương tiện một cách hợp lý, tạo điều kiện làm việc và kỹ năng sử dụng vi tính một cách thành thạo nhằm nâng cao hiệu quả làm việc; từng bước đưa công nghệ thông tin vào quản lý, thay thế dần các phương thức quản lý truyền thống đã lỗi thời.
3) Đối với BHXH huyện
+ Tăng cường phối hợp với các đơn vị sử dụng lao động do mình trực tiếp quản lý trong khâu tổ chức chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức – phục hồi sức khỏe và TNLĐ-BNN. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ việc thực hiện các chế độ BHXH tại đơn vị sử dụng lao động; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
+ Lựa chọn phương thức chi trả hợp lý, phù hợp với tình hình thực tiễn và điều kiện cụ thể tại địa bàn quản lý, sao cho luôn đảm bảo nguyên tắc chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và đảm bảo an toàn tiền mặt.
+ Thực hiện cải cách hành chính trong công tác chi trả, công khai quy trình, thủ tục, hồ sơ; quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cán bộ, đơn vị.
3.3.2. Giải pháp
Đi liền với kiến nghị em xin đề ra những giải pháp cụ thể để thực hiện tốt những kiến nghị đó.
- Tiếp tục củng cố và hoàn thiện nội dung công tác chi trả mà đơn vị đang thực hiện
Để tiếp tục thực hiện những gì mà BHXH tỉnh Bắc Ninh đã và đang làm về thực hiện công tác chi trả bằng cách sử dụng hai phương thức là chi trả trực tiếp và chi trả gián tiếp thông qua các đại lý chi trả, thông qua hệ thống Ngân hàng và bưu điện, vẫn giữ nguyên tiến độ giải quyết các chế độ BHXH cho đối tượng hưởng, tiếp nhận tiền từ BHXH VN nhanh chóng. Tuy nhiên, với đòi hỏi của công việc ngày càng cao, vấn đề ở đây là củng cố hoàn thiện những gì mà BHXH tỉnh Bắc Ninh đã làm được. Như vậy, đây không phải là một vấn đề đơn giản. Hàng năm, BHXH tỉnh phải ký hợp đồng với các đại lý mới, giữ lại các đại lý làm ăn có hiệu quả, nhưng đại lý nào làm ăn không có hiệu quả nên chấm dứt hợp đồng, bởi năng lực của các đại lý này cũng hết sức quan trọng, ảnh hưởng tới quá trình chi trả cho các đối tượng. Bên cạnh đó xắp xếp lại lịch chi trả hợp lý hơn, khoa học hơn, thuận tiện cho đối tượng hưởng lại vừa thuận tiện cho cán bộ chi trả.
- Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác chi trả
Để thực hiện chi trả có hiệu quả, tuy hiện tại khả năng của cán bộ đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, nhưng thực tế luôn đặt ra những đòi hỏi mới đòi hỏi cán bộ BHXH luôn phải chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, thông qua quá trình tự học hoặc thông qua quá trình tập huấn của BHXHVN.
Thực chất, để làm được nội dung này đòi hỏi sự nổ lực không chỉ của của cá nhân cán bộ chi trả chế độ BHXH mà nó còn là nhiệm vụ của BHXH cấp trên. Đối với BHXH cấp trên phải nêu cao vai trò cán bộ chi trả thấy rõ được vai trò quan trọng của họ, trang bị cho họ sự nhiệt huyết và lòng yêu nghề. Đây là điều kiện tiên quyết đến sự thành công của bước tiếp theo để đào tạo chuyên môn. Các văn bản mới, những sửa đổi, hướng dẫn thực hiện công việc tốt hơn… Qúa trình đào tạo có thể diễn ra ngay tại cơ quan BHXH tỉnh Bắc Ninh và cũng có thể ở BHXHVN. Ngoài ra cán bộ chi trả BHXH cần nâng cao trình độ bản thân bằng cách tự tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm của cán bộ chi trả của các tỉnh khác, những nơi điển hình để làm tốt công tác chi trả.
- Tăng cường thông tin tuyên truyền
Công tác chi trả BHXH rất cần được sự thông cảm hiểu biết của đối tượng. Thông tin tuyên truyền không chỉ có vai trò quan trọng đối với toàn bộ nghiệp vụ BHXH mà nó còn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công tác chi trả các chế độ BHXH. Vì vậy, nên thực hiện hoạt động tuyên truyền, nhưng trong quá trình phải xác định nội dung tuyên truyền là gì? thông thường, khi tuyên truyền về công tác chi trả cần phải làm cho người tham gia BHXH hiểu được những chính sách BHXH, sau đó tuyên truyền về nghiệp vụ chi trả. Để thực hiện tốt công tác này, trước tiên phải chuẩn bị đầy đủ, chính xác nội dung tuyên truyền. Tiếp theo là lựa chọn phương pháp tuyên truyền. Phương pháp tuyên truyền hợp lý thì việc tuyên truyền mới thực sự có hiệu quả. Tại BHXH tỉnh Bắc Ninh thực hiện một số biện pháp tuyên truyền như: đài phát thanh, đài truyền hình, thông qua công đoàn cơ sở hoặc thông qua các đại lý chi trả BHXH để giúp người tham gia BHXH hiểu được công tác chi trả hoặc tổ chức các đợt tuyên truyền và cổ động về BHXH và thực hiện tốt công tác tuyên truyền cần phải có kinh phí thực hiện, đội ngũ tuyên truyền thực sự có năng lực, có hiểu biết về công tác chi trả và phải có phương tiện phục vụ việc tuyên truyền. Việc tuyên truyền phải diễn ra thường xuyên đều đặn mới đạt hiệu quả cao.
Mặc dù tham gia BHXH là đảm bảo quyền lợi của người lao động nhưng không phải người lao động nào cũng hiểu được đầy đủ tính chất và chức năng của nó. Vì vậy, nâng cao nhận thức về các chính sách BHXH của Nhà nước ta cho người lao động đặc biệt là những lao động phổ thông có trình độ còn hạn chế là điều kiện cần thiết để chính sách BHXH đi vào cuộc sống. Đồng thời, thông qua sự hiểu biết một cách đúng đắn về tác dụng cũng như lợi ích của BHXH đối với người lao động và gia đình họ sẽ giúp BHXH có điều kiện thực hiện và phát triển rộng rãi trong từng đối tượng dân cư.
Hiện nay, nhiều lao động trong các doanh nghiệp tư nhân đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các công ty trách nhiệm hữu hạn chưa tham gia BHXH cho người lao động hoặc còn trốn nộp BHXH. Do nhận thức của người lao động còn hạn chế, họ chưa thấy được lợi ích khi được tham gia BHXH nên họ không đòi hỏi quyền lợi được tham gia. Chính vì vậy, hoạt động tuyên truyền là vô cùng quan trong với nhiều hình thức gián tiếp như: báo chí, internet, sách báo... đồng thời các cán bộ BHXH có thể trực tiếp xuống các đơn vị sử dụng lao động. Một mặt, tuyên truyền, phổ biến kiến thức chính sách BHXH, mặt khác vận động mọi người lao động và các chủ sử dụng lao động tham gia BHXH vì lợi ích lâu dài của người lao động.
BHXH Việt Nam nói chung và BHXH tỉnh Bắc Ninh nói riêng cần tổ chức tuyên truyền phổ biến chính sách BHXH dưới hình thức các cuộc thi như: thi tuyên truyền viên giỏi, thi tìm hiểu về luật BHXH, chính sách BHXH hay đơn giản chỉ là tìm hiểu một chế độ BHXH nào đó trong hệ thống 6 chế độ BHXH mà Việt Nam đang áp dụng hiện nay, hoặc một cuộc thi sáng tác văn học hay các bài hát về BHXH ở Việt Nam. Có như vậy thì BHXH mới được tuyên truyền và tác động đến người dân một cách thường xuyên và liên tục hơn, từ đó mới có tác dụng đến sự ham hiểu biết về BHXH làm cho BHXH được tìm hiểu một cách sâu rộng hơn, gây sự chú ý của nhiều đối tượng, nhiều tầng lớp xã hội hơn. Góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về BHXH một cách chính xác và hiệu quả nhất.
- Đầu tư phương tiện tin học
Khi mà công nghệ thông tin đại chúng đang bùng nổ, khoa học được áp dụng rộng rãi để giảm chi phí xã hội, ngành BHXH cũng không nằm ngoài quy luật này
Hiện nay, BHXH tỉnh Bắc Ninh đã được trang bị máy vi tính hiện đại, mọi sổ sách chứng từ đều được quản lý và sử lý trên máy vi tính, hoàn thiện việc áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động BHXH theo chỉ đạo của BHXHVN là xây dựng hệ thống mạng LAN cho BHXH huyện, thành phố.
- Đầu tư cho phương tiện đi lại và công tác đảm bảo an toàn về tiền mặt trong quá trình chi trả.
Cần đầu tư phương tiện đặc chủng phục vụ công tác chi trả như két an toàn, xe chuyên dụng cho quá trình vận chuyển tiền, sự phối hợp của các đơn vị hữu quan trong việc vận chuyển kinh phí, thái độ làm việc nghiêm túc, trung thực của cán bộ chi trả, không để xây ra hiện tượng tiêu cực thất thoát.
- Phối hợp với các cấp các ngành trong tổ chức thực hiện chi trả
Đây là biện pháp rất hiệu quả khi thực hiện chi trả các chế độ BHXH. Để thực hiện tốt biện pháp này, trước tiên bản thân BHXH tỉnh phải làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với các đơn vị đó, trên cơ sơ xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau giữa BHXH tỉnh và các cơ quan tổ chức có liên quan. Các cơ quan này như UBND huyện, phòng giáo dục và đào tạo, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, kho bạc nhà nước, công an nhân dân …
Ngoài việc thực hiện tốt các giải pháp trên BHXH tỉnh Bắc Ninh cần sự giúp đỡ quan tâm của các cấp lãnh đạo, các ban ngành đoàn thể cũng như sự tin tưởng của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh để có thể đạt kết quả tốt nhất trong việc chi trả các chế độ BHXH nói riêng cũng như công tác BHXH nói chung.
- Nâng cao công tác thanh tra, kiểm tra.
Thanh tra, kiểm tra BHXH là hoạt động không thể thiếu, về bản chất cũng là việc xem xét, đánh giá việc tuân thủ pháp luật cũng như tính hiệu quả trong vận hành của nội bộ hệ thống.
Công tác thanh, kiểm tra là hết sức quan trọng trong khi quản lý việc tham gia BHXH của chủ sử dụng lao động cho lao động mà họ sử dụng. Cơ quan BHXH cần phối hợp với các ban ngành chức năng có liên quan thực hiện các cuộc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với các đơn vị, doanh nghiệp nhằm hạn chế trường hợp như: nộp chậm hay chốn đóng BHXH của các chủ sử dụng lao động, đảm bảo quyền lợi BHXH cho người lao động.
Một mặt công tác thanh tra, kiểm tra yêu cầu người chủ sử dụng lao động phải đóng BHXH đầy đủ cho người lao động mà họ thuê mướn, mặt khác, thanh kiểm tra còn giúp người lao động được hưởng một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời những quyền lợi BHXH mà họ được hưởng khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tuổi già...
Ngoài ra công tác thanh tra, kiểm tra còn đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện chính sách BHXH, đặc biệt là giữa những chủ sử dụng lao động với nhau. Để tránh tình trạng chủ sử dụng lao động này đóng mà chủ sử dụng lao động kia lại không đóng.
Công tác thanh, kiểm tra là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo cho các kế hoạch BHXH đặt ra như kế hoạch thu, chi BHXH, kế hoạch đầu tư tiền nhàn dỗi từ quỹ BHXH. Bởi vì trong quá trình thực hiện chính sách BHXH chỉ thông qua công tác thanh tra mới có thể phát hiện ra được những sai sót để có thể điều chỉnh kịp thời, đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch. Công tác thanh kiểm tra, nhằm hoàn thiện các quyết định quản lý trong việc thực hiện chính sách BHXH, thẩm định tính đúng, sai của đường lối chiến lược, kế hoạch, tính phù hợp của phương pháp quản lý đang áp dụng từ đó có những điều chỉnh kịp thời.
Chính vì vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra là vô cùng quan trọng nên việc thực hiện thanh tra, kiểm tra trong việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH là rất quan trọng trong các vấn đề như: cân đối thu – chi quỹ, đối tượng hưởng, thời gian thụ hưởng... tất cả những vấn đề này nhằm hoàn thiện và điều chỉnh sao cho chế độ hưu trí được thực hiện một cách đúng đắn và phù hợp với định hướng, chính sách của nhà nước.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, BHXH có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm đời sống cho người lao động, ổn định mọi mặt đời sống kinh tế xã hôi. Những chính sách BHXH thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người lao động, giúp họ yên tâm làm việc, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước giầu đẹp văn minh. Khẳng định được vai trò không thể thiều trong hệ thống chính sách xã hội của Nhà nước ta-nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Qua tìm hiểu về thực trạng chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh ta thấy được công tác chi trả đối với mỗi đơn vị cơ sở của toàn ngành BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như thời điểm, phương thức thanh toán, số tiền chi trả và thái độ làm việc của cán bộ chi trả. Tất cả những yếu tố trên đều ảnh hưởng nhất định đến sự thành công của công tác chi trả. Qua quá trình thực tập và tìm hiểu công tác của BHXH tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2005-2008, em nhận thấy được tầm quan trọng của công tác chi trả các chế độ BHXH nói riêng và của hệ thống BHXH nói chung.
Với phạm vi của chuyên đề cũng như thời gian thực tập không nhiều, em đã cố gắng thể hiện chính xác và rõ ràng nhất công tác chi trả tại BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự chỉ bảo của các thày cô giáo và các bạn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Th.S Nguyễn Thị Chính và sự giúp đỡ tạo điều kiện của BHXH tỉnh Bắc Ninh đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2009
Sinh viên thực tập
Trần Thị Lan
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê – Trường Đại học Kinh tế quốc dân năm 2008.
Tạp chí về Bảo hiểm xã hội
Giáo trình An sinh xã hội, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân năm 2008.
Điều lệ BHYT năm 2005 ban hành kèm theo Nghị định 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ.
Điều lệ BHXH năm 2005 ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ.
Luật BHXH ban hành ngày 29/6/2006 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quyết định 815/QĐ-BHXH ngày 6/6/2007 của BHXH Việt Nam và một số Quy định kèm theo.
Quyết định 845/QĐ- BHXH ngày 18/6/2007 của BHXH Việt Nam và một số Quy định kèm theo.
Báo cáo tổng kết chi hàng năm giai đoạn 2005-2008 của BHXH tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo tình hình hoạt động các năm 2005-2008 của BHXH tỉnh Bắc Ninh
Và một số tài liệu tham khảo khác.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH : An sinh xã hôi
BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHYT : Bảo hiểm y tế
BQ : Bình quân
HĐND : Hội đồng nhân dân
NSNN : Ngân sách Nhà nước
NLĐ : Người lao động
TNLĐ-BNN : Tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp
UBNN : Uỷ ban nhân dân
BHXHVN : Bảo hiểm xã hội Việt Nam
ASXH : An sinh xã hội
ĐT : Đối tượng
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình chi trả trợ cấp ốm đau ở BHXH tỉnh Bắc Ninh 53
giai đoạn 2005-2008 53
Bảng 2.2: Tình hình chi trả trợ cấp thai sản của BHXH tỉnh Bắc Ninh 55
Bảng 2.3 Tình hình chi trả trợ cấp chế độ TNLĐ-BNN 58
Bảng 2.4: Mức hưởng trợ cấp TNLĐ-BNN bình quân một tháng cho một 60
đối tượng tại BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 60
Bảng 2.5 : Tình hình chi trả trợ cấp hưu quân đội của BHXH tỉnh 61
Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 61
Bảng 2.6: Tình hình chi trả trợ cấp hưu công nhân, viên chức của BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008. 64
Bảng 2.7: Tình hình chi trả trợ cấp cho cán bộ xã phường của BHXH 66
tỉnh Bắc Ninh 66
Bảng 2.8 Tình hình chi trả trợ cấp mất sức lao động của BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 67
Bảng 2.9: Chi trợ cấp 91 của BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 68
Bảng 2.10: Tình hình chi trả trợ cấp mai táng của BHXH tỉnh Bắc Ninh 70
giai đoạn 2005-2008 70
Bảng 2.11: Tình hình chi trả trợ cấp tuất định suất cơ bản của BHXH 71
tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 71
Bảng 2.12: Tình hình chi trả trợ cấp tuất nuôi dưởng của BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 73
Bảng 2.13: Tình hình chi trả trợ cấp tuất một lần của BHXH tỉnh Bắc Ninh 75
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ngày tháng năm 2009
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31474.doc