Thực trạng công tác quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội Quận Đống ĐaMỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THU QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỔNG QUAN VỀ BHXH
1. Vài nét về khái niệm và đối tượng BHXH
2. Sự cần thiết phải có hệ thống BHXH
3. Các mối quan hệ bên trong của BHXH
4. Bản chất của BHXH
5. Chức năng cơ bản của BHXH
6. Hệ thống các chế độ BHXH.
7. Vai trò của BHXH đối với người lao động và đối với xã hội
a. Đối với người lao động
b. Đối với xã hội
II. QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Khái niệm và đặc điểm
2. Nguồn hình thành quỹ BHXH
3. Sử dụng quỹ BHXH
4. Phân loại quỹ BHXH
a. Phân loại theo tính chất sử dụng
b. Phân loại theo các chế độ BHXH
c. Phân loại theo đối tượng
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC THU BHXH
II. NỘI DUNG CÔNG TÁC THU BHXH
1. Đối tượng đóng BHXH
2. Căn cứ xác định mức đóng BHXH
3. Cách xác định tổng quỹ tiền lương
4. Thời gian và phương thức đóng BHXH
5. Tính đặc thù của công tác thu BHXH
III. QUY TRÌNH QUẢN LÝ THU BHXH
Bước 1: Lập kế hoạch thu BHXH
Bước 2: Phát hiện thêm các đối tượng phải tham gia BHXH trên địa bàn quản lý của các cơ quan BHXH địa phương
Bước 3: Phân cấp quản lý thu
Bước 4: Tiếp xúc với các đơn vị sử dụng lao động
Bước 5: Thu và ghi sổ BHXH
Bước 6: Chuyển tiền thu BHXH vê cơ quan BHXH cấp trên
Bước 7: Thống kê, tổng hợp số liệu, lập và gửi báo cáo thu về cơ quan BHXH cấp trên
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI BHXH BẢO HIỂM XÃ HỘI QUẬN ĐỐNG ĐA
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BHXH HÀ NỘI VÀ BHXH QUẬN ĐỐNG ĐA
1. BHXH Thành phố Hà Nội
2. BHXH Quận Đống Đa
2.1. Chức năng, nhiệm vụ
2.2. Cơ cấu tổ chức
2.3. Những kết quả đạt được của BHXH Quận Quận Đống Đa trong năm 2004
2.3.1. Về công tác thu BHXH
2.3.2. Về công tác chi BHXH
2.3.3. Công tác cấp sổ BHXH - thẻ khám chữa bệnh
2.3.4. Công tác chính sách
2.4. Đánh giá chung
2.4.1. Mặt được
2.4.2. Tồn tại
2.5. Phương hướng nhiệm vụ thời gian tới
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH TẠI CƠ QUAN BHXH QUẬN ĐỐNG ĐA
1. Những hình thức, biện pháp triển khai thu BHXH ở Quận Đống Đa
2. Kết quả công tác quản lý thu quỹ BHXH ở cơ quan BHXH Quận Đống Đa
2.1. Thu bảo hiểm bắt buộc
a. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
b. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (NQD)
c. Khối hành chính sự nghiệp (HCSN)
d. Khối ngoài công lập (NCL)
e. Khối xã phường
2.2. Thu bảo hiểm tự nguyện
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA
I. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Về hình thức và đối tượng tham gia
2. Về mức đóng BHXH
II. CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY CÔNG TÁC THU BHXH Ở CƠ QUAN BHXH QUẬN ĐỐNG ĐA
1. Đối với các cơ quan chức năng
1.1. Mở rộng nguồn thu
1.2. Bảo toàn, tăng trưởng quỹ
2. Về phía cơ quan BHXH Quận Đống Đa
2.1. Tăng cường, thúc đẩy hoạt động thu
2.2. Tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng khác
2.3. Tăng cường hỗ trợ cán bộ thu trong cơ quan BHXH
KẾT LUẬN
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1969 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng công tác quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội Quận Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g 01 tháng. Hồ sơ đến đâu giải quyết gọn và dứt điểm đến đó, bước đầu tạo được lòng tin của đơn vị BHXH Quận với đối tượng hưởng.
Công tác quản lý đối tượng và quản lý hồ sơ.
Thực hiện sự chỉ đạo của BHXH Thành phố Hà Nội, việc sắp xếp và quản lý hồ sơ của đối tượng hưu trí, mất sức, tai nạn lao động, tuất của Qiận Đống Đa là khó khăn, phức tạo và số lượng lớn, hồ sơ đã quá nhiều thế hệ tồn đọng chưa được củng cố, sắp xếp. Trong những năm qua và đặc biệt năm 2004, BHXH Quận đã có nhiều cố gắng hoàn thiện khắc phục tồn đọng cũ. Kết quả năm 2004 là:
Đã sắp xếp hồ sơ hưởng hưu trí, mất sắc, tuất, tai nạn lao động theo từng phường, từng tổ.
Đã phân tích và chọn số hồ sơ hưởng MC khi còn thiếu dữ liệu.
Rà soát hồ sơ kiểm tra việc giải quyết điều chỉnh phụ cấp 2% theo Nghị định 31/CP của Ngành Công an, quận đội và cơ yếu với trên 1000 hồ sơ kịp thời cho đối tượng hưởng. Rà soát trên 1000 hồ sơ phục vụ cho việc kiểm tra và đối chiếu của Thành phố yêu cầu kịp thời.
Đi đối với việc sắp xếp, rà soát hồ sơ thì việc xác nhận năm công tác giải quyết chế độ theo Nghị định 64/CP của Chính phủ được kịp thời, đặc biệt là việc sao lục hồ sơ giải quyết chế độ ưu đãi theo Nghị định 28/CP cho đối tượng trên địa bàn quận, góp phần động viên những người có công xây dựng đất nước, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại của năm 2004 được tiếp tục duy trì, sự phối hợp của 03 ngành là Lao động thương binh xã hội, Liên đoàn lao động, BHXH đã tổ chức kiểm tra Luật lao động ở 25 đơn vị. Đã nhận và trả lời 04 ý kiến khiếu nại của cán bộ hưu trí.
2.4. Đánh giá chung
2.4.1. Mặt được
Thông qua công tác tuyên truyền, vận động đơn vị tham gia BHXH cho người lao động theo Nghị định 012003 ngày 09/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ nên số đơn vị mới tham gia năm 2004 là 200, số lao động mới tham gia là 7.000 người.
Thông qua công tác tuyên truyền, trên cơ sở Nghị định 01, 02 của Chính phủ, những nét mới về chính sách BHXH đã đến với lãnh đạo, các phòng nghiệp vụ, cán bộ nghiệp vụ làm công tác BHXH của cơ sở.
Nhận thức của cán bộ các cấp, công nhân lao động tại đơn vị về chính sách BHXH, về nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia BHXH được nâng lên nên hiện tượng nợ đọng quỹ BHXH dài ngày cũng giảm, việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH cho người lao động được thực hiện kịp thời hơn.
Công tác quản lý đối tượng, quản lý hồ sơ được kiện toàn và nâng lên một bước, góp phần phục vụ các đối tượng khi có nhu cầu thuận lợi và chính xác hơn.
Công tác cấp sổ BHXH, thẻ khám chữa bệnh cho đối tượng (công nhân lao động, hưu trí, chính sách xã hội, học sinh, sinh viên) chính xác, kịp thời.
Công tác tổ chức chi trả lương hưu, trợ cấp xã hội, thanh toán ốm đâu, thai sản, điều dưỡng tại chỗ cho người lao động khi tham gia BHXH kịp thời, đúng chính sách, đúng chế độ Nhà nước ban hành.
Công tác chính sách như tiếp nhận hưu trí, mất sức, tuất, tai nạn lao động đến sinh hoạt tại quânụ và chuyển đi khi có nhu cầu hợp lý hoá gia đình bảo đảm đầy đủ, kịp thời với tinh thần tận tuỵ nhất, bước đầu thực hiện cải cách hành chính trong lề lối phục vụ người hưởng.
Công tác giám định đã thực hiện theo đúng quy trình giám định, quản lý chặt chẽ các đơn vị tham gia BHXH, BHYT, đặc biệt là đối tượng hưởng chế độ điều trị dài ngày. Bước đầu cùng đơn vị thực hiện cải cách hành chính và nâng cao điều kiện khám cho người bệnh.
2.4.2. Tồn tại
Kinh phí để phục vụ cho công tác tuyên truyền, triển khai và hướng dẫn các văn bản, chính sách mới tới cơ sở chưa có nên hiệu quả của vận động tuyên truyền còn hạn chế trong việc tham gia BHXH.
Cơ sở làm việc, phương tiện trang bị chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc.
Đội ngũ cán bộ để đảm nhận công việc còn thiếu nên đôi khi công việc bị tồn đọng, chưa giải quyết kịp thời được cho đối tượng, cường độ lao động của cán bộ viên chức quá căng thẳng.
2.5. Phương hướng nhiệm vụ thời gian tới
Tiếp tục tổ chức tuyên truyển các chính sách của BHXH nhằm thực hiện có kết quả cao nhất trong việc khai thác số đơn vị, số lao động mới được tham gia BHXH.
Tổ chức triển khai thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu nhiệm vụ thu BHXH (bắt buộc và tự nguyện) khi Thành phố giao cho Quận.
Phối kết hợp với cơ sở thực hiện cấp sổ BXHH mới, ghi bổ sung sổ BHXH cho người lao động khi tham gia BHXH kịp thời, phát hành thẻ khám chữa bệnh cho người lao động ngay từ những ngày đầu năm để người lao động được chăm sóc sức khoẻ kịp thời.
Tiếp tục tổ chức kiện toàn Ban chỉ trả các phường, thực hiện chi trả lương hưu, trợ cấp xã hội đúng, đủ, an toàn và kịp thời các quyền lợi của người hưởng đúng chính sách phát luật Nhà nước, đúng quy định của ngành.
Công tác chính sách phục vụ kịp thời khi cán bộ hưu trí hưởng chính sách xã hội có nhu cầu đến và chuyển đi, có biện pháp cải cách hành chính, tạo thuận lợi nhất cho đối tượng.
Công tác giám định và thanh toán cho người có thẻ BHYT nhanh, chính xác, đúng quy định, tăng cương công tác quản lý, kiểm tra, uốn nắn những sai lệch tại y tế cơ quan theo quy định của ngành.
Tăng cương tổ chức các hình thức sinh hoạt trao đổi nghiệp vụ trong cơ quan nhằm giúp nhau cùng thực hiện có hiệu quả công việc của ngành giao cho Quận.
Trên cơ sở các văn bản và hướng dẫn của ngành, của địa phương, Ban Giám đốc, Ban chấp hành công đoàn cơ quan xây dựng kế hoạch cho từng tháng, quý, có biện pháp tổ chức phát động thi đua nhằm khai thác mọi khả năng của tập thể cán bộ viên chức cơ quan cùng nhau phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của Thành phố giao cho Quận.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH TẠI CƠ QUAN BHXH QUẬN ĐỐNG ĐA
1. Những hình thức, biện pháp triển khai thu BHXH ở Quận Đống Đa
Theo điều lệ BHXH thì việc đóng BHXH phải được theo dõi, ghi chép kết quả đóng của từng cá nhân, đơn vị trong từng tháng với mức đóng là 20% so với tổng quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động, trong đó người lao động đóng 5% và chủ sử dụng lao động đóng 15%. Đơn vị sử dụng lao động phải tập trung đủ 20% quỹ lương để nộp cho cơ quan BHXH.
Để đạt mục tiêu thu BHXH đầy đủ, kịp thời, đúng luật cho các đối tượng thuộc diện đóng BHXH bắt buộc và thực hiện chính sách BHXH một cách công bằng thì công tác đối chiếu, xác định số lượng lao động, quỹ tiền lương hàng tháng của từng cơ sở tham gia BHXH trên địa bàn quận là một công việc có vai trò hết sức quan trọng, không thể thiếu được trong khi thực hiện công tác thu. Chính vì vậy, để hoàn thành chỉ tiêu thu BHXH do BHXH Thành phố Hà Nội giao cho, cơ quan BHXH Quận Đống Đa đã có các biện pháp để thực hiện tốt công tác thu như phân công mỗi cán bộ viên chức của BHXH quận phụ trách quản lý số cơ sở nhất định để đôn đốc và nằm tình hình thực hiện việc trích đóng BHXH của đơn vị tham gia BHXH theo luật định. Bên cạnh đó, BHXH quận đã kiện toàn lại các nhóm cán bộ đối chiếu (hiện có 04 nhóm, mỗi nhóm có từ 2 đến 3 cán bộ) đến từng cơ quan, đơn vị tham gia BHXH để đối chiếu danh sách từng người lao động với bậc lương hiện đang được hưởng, đối chiếu phần đã đóng, số còn nợ đọng từ các năm trước được chuyển sang năm hiện hành và được đôn đốc nhắc nhở bằng công văn. Trong trường hợp cần thiết, có thể hẹn gặp trực tiếp lãnh đạo đơn vị để có biện pháp thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH, làm cơ sở giải quyết quyền lợi cho người lao động. Cùng với các biện pháp ttên, BHXH quận tổ chức vào sổ cập nhật theo dõi đối chiếu việc trích đóng BHXH của từng đơn vị một cách kịp thời. BHXH quận có kế hoạch tổ chức phối kết hợp với các ngành để tổ chức kiểm tra việc thực hiện điều lệ BHXH theo chỉ thị 15 của Bộ Chính trị, chỉ thị 17 của Thường vụ Thành uỷ Hà Nội về tăng cường công tác lãnh đạo thực hiện các chính sách BHXH đối với người lao động.
BHXH Quận Đống Đa cũng đã triển khia tổ chức vận động các doanh nghiệp tư nhân thực hiện đăng ký đóng BHXH cho người lao động, hướng dẫn cơ sở tổ chức thực hiện tốt các quyền lợi cho người lao động theo luật và điều lệ BHXH.
Cho tới nay, qua các hình thức, biện pháp tổ chức chỉ đạo của BHXH Quận Đống Đa với sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp lãnh đạo từ cơ sở đến quận, thành phố cùng với hệ thống thông tin tuyên truyền nên nhận thức của người lao động, các đơn vị sử dụng lao động được nâng cao hơn, làm cho tác trích nộp BHXH, việc kiện toàn củng cố hồ sơ, danh sách người lao động ở các đơn vị, cơ quan được thực hiện tốt hơn. Đây là cơ sở để thực hiện tốt các công tác khác như đối chiếu thu, quỹ tiền lương tháng giữa cơ quan BHXH với các đơn vị sử dụng lao động.
2. Kết quả công tác quản lý thu quỹ BHXH ở cơ quan BHXH Quận Đống Đa
Công tác thu BHXH ở cơ quan BHXH Quận Đống Đa chính thức đi vào hoạt động từ năm 1995. Ngay từ khi mới thành lập, cán bộ, công nhân viên trong cơ quan BHXH Quận Đống Da đã luôn tập trung chú trọng đến việc hoàn thành tốt và ngày càng nâng cao kết quả thực hiện mọi mặt công tác BHXH. Công tác thu BHXH dó đó cũng đã được tập thể cán bộ trong cơ quan nói chung và tập thể cán bộ thu BHXH Quận Đống Đa chú trọng đúng mức. Chính vì vậy, các chỉ tiêu thu theo kế hoạch Thành phố Hà Nội giao cho cơ quan vào các năm đều được hoàn thành xuất sắc với kết quả thu năm sau cao hơn năm trước, thu hút ngày càng nhiều đối tượng tham gia đóng góp BHXH trên địa bàn.
Trong giai đoạn đầu mới thành lập, các mặt công tác BHXH cũng như công tác thu nói chung gặp phải những khó khăn nhất định, song với những nỗ lực của cả cơ quan BHXH Quận Đống Đa cùng với các cơ quan ban ngành có liên quan, hoạt động BHXH giờ đây cũng có những thuận lợi đáng kể, góp phần thúc đẩy kết quả thu.
Trong 5 năm gần đây, công tác thu BHXH đã có nhiều chuyển biến so với thời gian trước đây. Số đơn vị, số người lao động tham gia đóng BHXH cũng như số tiền thu BHXH liên tục tăng lên, năm sau cao hơn năm trước, hoàn thành và vượt kế hoạch. Bên cạnh đó, công tác thu BHXH đã đi vào nề nếp hơn, các đơn vị tham gia thực hiện đóng BHXH đúng kỳ hạn, giảm được đáng kể số nợ đọng.
Có thể xét theo từng loại hình,BHXH Quận Đống Đa đã thu được kết quả của quá trình thực hiện thu BHXH như sau:
2.1. Thu bảo hiểm bắt buộc
a. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
Là thành phần đóng vai trò quan trọng trong tổng thu, tạo nên khoản thu khá lớn cho BHXH, chính vì vậy để thực hiện nhiệm vụ đặt ra trong công tác thu, BHXH Quận Đống Đa đã không ngừng mở rộng các đối tượng tham gia BHXH. Mặt khác, các cán bộ BHXH nhanh chóng thực hiện cấp sổ BHXH cho người lao động kịp thời, đầy đủ. Năm 200 chỉ mới cấp sổ được 14.765 đối tượng nhưng đến năm 2004 đã cấp 35.126 đối tượng. Sau kho cấp sổ, BHXH Quận Đống Đa đã tiến hành thanh tra, kiểm tra, rà soát lại việc ghi, ký chốt sổ BHXH được cấp nhằm kịp thời sữa chữa, khắc phục những sổ BHXH ghi sai, ghi hỏng. Chính sự quản lý chặt chẽ kết hợp với việc thực hiện tốt các chế độ đối với người lao động nên trong khu vực này không ngừng thu được những kết quả đáng khích lệ. Cụ thể:
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Số lao động (người)
35.252
37.586
40.069
43.071
45.817
Kết cấu lao động (%)
63,71
63,21
64,87
57,09
55,68
Số thu (triệu đồng)
43.285
52.099
51.435
80.594
92.156
Kết cấu thu (%)
61,1
61,14
59,12
59,12
57,62
(Nguồn số liệu: BHXH Quận Đống Đa)
Nhìn vào bảng trên cho thấy đây là khu vực có số lao động tham gia cao so với tổng số lao động tham gia BHXH trong các năm. Số lao động của năm sau đều cao hơn năm trước, nhưng mức tăng không đáng kể mà có tính chất ổn định. Sỡ dĩ có được điều này là vì khu vực này chịu sự quản lý chặt chẽ. Năm 2002, số lao động tham gia chiếm lớn nhất so với tổng số lao động tham gia trong năm (chiếm 64,87% so với tổng số lao động tham gia). Mặc dù số lao động chiếm tỷ lệ lớn nhưng số tiền thu được so với các năm trước lại thấp hơn (chiếm 59,12% tổng thu). Bên cạnh đó, mặc dù số thu của các năm sau đều cao hơn so với các năm trước nhưng kết cấu thu lại có xu hướng giảm dần. Cụ thể: năm 2000 số thu chiếm 61,1% so với tổng thu nhưng đến năm 2004 giảm xuống còn 57,62%. Như vậy có thể thấy thị phần khu vực DNNN giảm dần so với tổng tất cả các khối. Nguyên nhân là do càng ngày doanh nghiệp ngoài quốc doanh càng được tăng cường khai thác vì ở khu vực này có quy mô sản xuất kinh doanh và sử dụng lao động càng phát triển, do đó tập trung khai thác thu BHXH ở đây sẽ làm tăng tổng thu BHXH rất cao. Bên cạnh đó, số lao động ở DNNN có xu hướng giảm vì các DNNN bắt đầu có sự cổ phần hoá, biên chế Nhà nước giảm nên số lao động có sự thay đổi mạnh. Tuy vậy tổng thu của khối DNNN vẫn là khu vực có vị trí quan trọng trong các khối quản lý.
Việc tổ chức hoạt động thu trong khối DNNN gặp nhiều thuận lợi hơn các đơn vị khác bởi vì đây là khối có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước trong công tác quản lý, việc theo dõi tiền lương của lao động tương đối đơn giản do đó trong quá trình thu các đơn vị sử dụng lao động luôn có ý thức đóng góp. Chính vì vậy, trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH chỉ tập trung phục vụ công tác cấp sổ kịp thời cho các đối tượng theo đúng quy định, theo dõi sự biến động tiền lương và tăng giảm, di chuyển của các đối tượng.
Công tác thu trong khu vực DNNN không chỉ đánh giá qua số đơn vị, số lao động tham gia và tổng thu mà còn được phản ánh rõ hơn về số tiền phải thu BHXH, số đã thu và còn nợ chuyển sang năm sau. Tình hình nợ đọng tiền BHXH của khu vực này được thể hiện qua bảng sau:
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Số phải thu (triệu đồng)
48.739
52.312
53.504
83.297
92.821
Số đã thu (triệu đồng)
43.285
52.099
51.435
80.594
92.156
Số còn nợ (triệu đồng)
5.454
3.213
2.069
2.703
2.665
Tỷ lệ nợ (%)
11,19
6,14
5,83
3,25
2,87
Tỷ lệ số đã thu so với phải thu (%)
88,81
93,86
94,17
96,75
97,13
Tỷ lệ nợ năm sau so với năm trước (%)
-
58,91
64,39
130,64
98,59
(Nguồn số liệu: BHXH Quận Đống Đa)
Kết quả cho thấy, cùng với số tiền phải thu tăng lên không ngừng thì số tiền đã đóng cho cơ quan cũng tăng không ngừng. Số tiền đã thu chiếm tỷ lệ rất cao so với số phải thu, điều đó cho thấy ý thức trách nhiệm của các đơn vị trong khu vực này rất cao, cũng có nghĩa là số tiền nợ của các đơn vị theo thời gian giảm dần và chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số tiền phải thu. Năm 2000, tổng số tiền nợ chiếm tỷ lệ 11,19% so với tổng số tiền phải thu nhưng đến năm 2004 xuống chỉ còn 2,87%. Điều đó cho thấy, khu vực DNNN là khu vực có số tiền thu BHXH rất cao trong tổng thu BHXH, tình trạng nợ đọng của các doanh nghiệp không nhiều.
b. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (NQD)
Trong quá trình phát triển của đất nước, khu vực NQD là khu vực có nhiều tiềm năng nhất, số doanh nghiệp tăng mạnh nên thu hút được nhiều lao động tham gia làm việc, điều đó sẽ tạo điều kiện tăng nguồn thu rất lớn từ việc thực hiện tổ chức tham gia BHXH cho người lao động.
BHXH Quận Đống Đa đã thực hiện rà soát, lập danh sách các doanh nghiệp NQD đang hoạt động trên địa bàn, phân loại doanh nghiệp, xác định đầy đủ các đơn vị sử dụng lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bát buộc, kết hợp với các cơ quan hữu quan để nắm chắc số doanh nghiệp NQD có đăng ký kinh doanh, tình hình chấp hành nghĩa vụ thuế và hiệu quả kinh doanh. Đây là khối có tiềm năng lâu dài, mới đầu còn có nhiều khó khăn trong công tác thu BHXH, chính vì vậy để người lao động hiểu rõ được trách nhiệm cũng như quyền lợi mà họ đạt được thì công tác cấp sổ BHXH phải được thực hiện một cách nhanh chóng và đầy đủ để bảo đảm quyền lợi của người lao động.
Qua số liệu ghi nhận được cho thấy tình hình tham gia BHXH của các doanh nghiệp NQD có xu hướng như sau:
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Số đơn vị tham gia BHXH (đơn vị)
104
176
276
453
645
Tỷ lệ tăng (%)
-
11,54
56,82
64,13
42,38
Số lao động tham gia BHXH (người)
2.133
2.472
4.551
8.129
10.725
Tỷ lệ tăng (%)
-
15,89
39,64
78,62
31,94
Tổng thu BHXH (triệu đồng)
3.285
4.060
5.592
11.055
18.292
Tỷ lệ tăng (%)
-
23,59
37,73
97,69
51,24
(Nguồn số liệu: BHXH Quận Đống Đa)
Qua đây ta có thể nhận xét:
Năm 2000, số đơn vị tham gia chỉ đạt được 104 đơn vị tham gia với 2133 lao động, thu được 3.285 triệu đồng. Các năm tiếp theo số đơn vị, số lao động tham gia tăng lên nhờ đó mà số tiền thu được cũng tăng lên rất nhanh, trong đó đặc biệt là năm 2003 có sự tăng rất nhanh, số đơn vị cao hơn năm 2002 là 177 đơn vị, tăng tương đối là 64,13%, số lao động tăng 3.578 lao động, tăng tương đối là 78,62%. Có sự tăng cao như vậy là do chính sách của Nhà nước cũng như cố gắng không ngừng của tập thể cán bộ trong việc cải thiện thực hiện các chế độ, trình độ học vấn của cán bộ cũng như trình độ quản lý đối tượng tham gia cũng phát triển không ngừng. Theo phương pháp, tinh thần đó mà năm 2004 BHXH Quận Đống Đa cũng không ngừng tăng cường công tác thu ở khu vực này và đã thu được kết quả khả quan sau: với số đơn vị tăng lên 645 đơn vị tham gia, tăng 42,38%, số lao động tăng 2.596 lao động tăng tương đối 31,94% so với năm 2003, nhờ đó số tiền thu được cũng tăng lên 18.292 triệu đồng tăng 51,24%. Mặc dù tốc độ tăng so với năm 2003 không cao bằng nhưng kết quả đó rất khuyến khích, là kết quả cần phát huy hơn nữa.
Bên cạnh những kết quả thu được, trong quá trình thu BHXH trong khu vực NQD vẫn còn có những mặt hạn chế khó tránh khỏi. Những khó khăn được thể hiện rất rõ qua số lao động tham gia còn chiếm tỉ lệ thấp so với lao động ở diện đối tượng tham gia.
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Doanh nghiệp NQD thuộc diện tham gia BHXH (đơn vị)
288
438
570
1280
1667
Doanh nghiệp NQD đăng ký tham gia BHXH (đơn vị)
104
176
276
453
645
Tỷ lệ tham gia (%)
36,11
40,18
48,4
35,28
38,69
(Nguồn số liệu: BHXH Quận Đống Đa)
Từ tỷ lệ tham gia của doanh nghiệp NQD cho thấy số đơn vị tham gia có sự tăng lên nhưng so với doanh nghiệp thuộc diện tham gia vẫn còn chiếm tỷ lệ chưa cao, có nghĩa là việc khai thác đối tượng ở khu vực này còn thấp. Qua các năm, số lượng doanh nghiệp NQD hoạt động trên địa bàn tăng rất nhiều nhưng sự tăng doanh nghiệp tham gia BHXH thì rất nhỏ so với mức tăng đó, cụ thể năm 2000 tỷ lệ tham gia BHXH đạt 36,11%, đến năm 2004 tỷ lệ chỉ tăng được 38,69% tăng không đáng kể trong vòng 5 năm hoạt động. Số liệu này chỉ là con số mà BHXH quận nắm được, thực tế con số này còn lớn hơn rất nhiều. Một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là do tình trạng trốn tránh trách nhiệm tham gia BHXH cho người lao động ở khu vực này còn chiếm tỷ lệ cao.
Để thực hiện BHXH cho người lao động trong khu vực NQD đạt được kết quả tốt, thì công tác nắm và quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đóng vai trò quan trọng. Đối tượng người lao động trong các thành phần kinh tế NQD hay biến động, nên việc nắm và quản lý tốt các đối tượng này có ảnh hưởng nhiều tới công tác triển khai BHXH cho họ. Công tác này có làm tốt thì việc triển khai BHXH cho người lao động trong thành phần kinh tế NQD mới đạt được kết quả tốt. Nhận thức được điều này nên BHXH Quận Đống Đa luôn chăm lo công tác phối hợp với các tổ chức liên ngành, với các cấp uỷ Đảng, đoàn thể, tổ chức nhằm quản lý đối tượng người lao động tham gia BHXH bắt buộc, đồng thời không ngừng tăng cường kiểm tra, khảo sát từng cơ sở sản xuất kinh doanh để nắm số lượng lao động, quỹ tiền lương của từng đơn vị. Hàng năm BHXH quận tiến hành lập danh sách những đơn vị thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc.
Mặt khác, các doanh nghiệp NQD còn tồn tại tình trạng nợ tiền đóng BHXH cho cơ quan BHXH Quận Đống Đa, làm ảnh hưởng quyền lợi của người lao động, điều đó được thể hiện:
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Số phải thu BHXH (triệu đồng)
3.604
4.469
6.146
11.372
18.754
Số đã thu BHXH (triệu đồng)
3.285
4.060
5.592
11.055
18.292
Số nợ trong kỳ (triệu đồng)
318
409
554
317
462
Tỷ lệ nợ (%)
8,82
9,15
9,01
2,79
2,46
Tỷ lệ thu (%)
91,18
90,85
90,99
97,21
97,54
Tỷ lệ nợ năm sau cao hơn năm trước (%)
-
28,62
73,82
-58,27
45,74
(Nguồn số liệu: BHXH Quận Đống Đa)
Dựa vào kết quả thực hiện có thể nói tình trạng nợ đóng BHXH ở khu vực doanh nghiệp NQD được khắc phục rất nhiều, số tiền nợ trong vòng 5 năm qua đã giảm rất nhanh. Cùng với sự tăng lên số tiền phải thu BHXH thì số tiền đã đóng góp BHXH cho người lao động cũng tăng lên. Năm 2000, số tiền nợ của các doanh nghiệp chiếm 8,82% với số nợ là 318 triệu và tỷ lệ nợ cao nhất là năm 2001 chiếm 9,15% với số nợ là 409 triệu đồng thì năm 2004 tỷ lệ nợ đã giảm đi rất nhiều xuống còn 2,46%, số nợ là 462 triệu đồng. Như vậy, tình trạng nợ càng ngày được khắc phục rất nhiều, chứng tỏ rằng công tác thu có bước tiến bộ rất nhiều, các quy định của Nhà nước được thực hiện nghiêm túc hơn, các chủ sở hữu trong khu vực này cũng có ý thức hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Tuy số nợ của các năm sau còn cao hơn năm trước nhưng có thể nói kết quả này đánh dấu bước tiến bộ rất lớn của BHXH Quận Đống Đa trong việc triển khai công tác thu khu vực NQD.
c. Khối hành chính sự nghiệp (HCSN)
Nguồn thu từ khối HCSN chiếm tỉ lệ cao sau khối DNNN và là khối mang tính ổn định nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý đối tượng tham gia BHXH. Không như các khối doanh nghiệp khác, công tác thu BHXH ở khối này được thực hiện một cách dễ dàng. Việc tham gia BHXH cũng không phải thực hiện qua nhiều khâu phức tạp vì hầu như họ ý thức được vai trò cũng như trách nhiệm của mình.
Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH ở khối HCSN đã được thực hiện rất tốt qua các năm, điều đó được thể hiện qua việc tham gia của các đơn vị, số lao động và số tiền thu BHXH. Nghiên cứu tình hình triển khai khu vực này qua 5 năm thực hiện cho thấy một sự tăng lên về số đơn vị tham gia, số lao động và số tiền thu được từ các đối tượng, tuy nhiên sự tăng lên tương đối chậm so với các khu vực khác. Tình hình khai thác được biểu hiện rõ qua các số liệu sau:
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Số lao động tham gia BHXH (người)
17.945
18.474
19.587
21.185
22.061
Kết cấu lao động (%)
32,43
31,07
31,71
28,08
26,81
Số thu BHXH (triệu đồng)
24.318
26.255
29.637
42.878
48.814
Kết cấu thu (%)
34,30
30,81
34,06
31,48
30,32
(Nguồn số liệu: BHXH Quận Đống Đa)
Qua số liệu cho thấy, mặc dù số lao động tham gia, số thu BHXH tăng dần trong các năm nhưng kết cấu lao động tham gia và kết cấu thu có xu hướng giảm dần. Năm 2000, kết cấu lao động tham gia đạt 32,43% với số lao động 17.945 người nhưng đến năm 2004 giảm xuống còn 26,81% với số lao động là 22.061 người. Như vậy, có thể nói tổng số lao động ngày càng tăng nhưng đối với khu vực HCSN thì tỷ lệ tăng là rất nhỏ so với các khu vực khác. Xét về kết cấu thu thì số thu có tăng nhưng tăng chậm và chiếm tỷ lệ không ổn định trong tổng thu. Năm 2000 đạt tỷ lệ là 34,06% nhưng các năm sau lại giảm xuống và năm 2004 còn 30,32%. Sự thay đổi này có thể nói do xu hướng càng ngày khối doanh nghiệp NQD càng phát triển và thu hút lực lượng lao động đông đảo, chính vì thế số lao động tăng nhanh, trong khi đó mặc dù số thu BHXH từ khu vực quốc doanh là chủ yếu nhưng nguyên nhân này làm cho kết cấu lao động cũng như về thu của khu vực HCSN có sự biến động. Một nguyên nhân khiến cho kết cấu thu của khu vực này không cao cũng do tình trạng trốn tránh trách nhiệm, nợ tiền đóng BHXH. Để năng cao tỷ trọng tiền thu của khu vực HCSN thì cần phải tích cực hơn trong việc hạn chế tình trạng nợ đóng BHXH.
Trong các năm qua, mặc dù là khối dễ kiểm soát tình hình thực hiện tham gia BHXH nhưng nợ BHXH đang là bài toán khó cho các cán bộ BHXH. Kết quả thu BHXH ở khối HCSN cũng cho thấy số nợ qua các năm:
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Số phải thu BHXH (triệu đồng)
24.499
26.605
29.647
42.885
48.820
Số đã thu BHXH (triệu đồng)
24.318
26.255
29.637
42.878
48.814
Số nợ BHXH (triệu đồng)
181
350
10
7
6
Tỷ lệ thu (%)
99,26
98,68
99,97
99,98
99,99
Tỷ lệ nợ (%)
0,74
1,32
0,03
0,02
0,01
Tỷ lệ nợ năm sau cao hơn năm trước (%)
-
193,37
2,86
70
85,71
(Nguồn số liệu: BHXH Quận Đống Đa)
Có thể nói đây là một kết quả khả quan trong quá trình thu BHXH, tuy mới đầu có sự tăng về số nợ vào năm 2001 nhưng số nợ đó không chiếm tỷ lệ cao trong tổng số phải thu. Dường như ở khu vực này tình trạng nợ dần được xoá đi, chỉ chiếm 0,01% trong năm 2004. Đây là dấu hiệu tốt và phải phát huy hơn nữa không những ở khu vực này mà còn đối với khu vực khác cần khai thác.
d. Khối ngoài công lập (NCL)
Chính sách của Nhà nước đặt ra phải khai thác mọi thành phần kinh tế để tạo nên nguồn quỹ BHXH lớn mạnh, đảm bảo quyền lợi lâu dài của công nhân lao động. Trên tinh thần mở rộng mọi đối tượng thuộc diện tham gia BHXH, BHXH Quận Đống Đa cũng khai thác không ngừng mọi thành phần kinh tế trong quận. Đối với khu vực NCL cũng vậy, từ khi thành lập đến nay khối này luôn đóng góp một phần tạo nên nguồn thu cho BHXH quận. Việc triển khai thực hiện BHXH đối với người lao động làm việc trong các cơ sở NCL thuộc các ngành giáo dục, y tế, văn hoá và thể thao. Việc triển khai thực hiện BHXH đối với người lao động trong thời gian đầu còn nhiều khó khăn nên đối tượng tham gia BHXH khu vực NCL chưa phát triển. Chính vì vậy BHXH quận Đống Đa từng bước khai thác mở rộng đối tượng ở khu vực này. Trong thời gian từ năm 2000 - 2004 việc thực hiện thu BHXH đã thu được những kết quả sau:
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Số đơn vị tham gia BHXH (đơn vị)
2
8
13
20
22
Số lao động tham gia BHXH (người)
2
172
250
297
322
Số thu BHXH (triệu đồng)
1
461
243
327
455
Số nợ BHXH (triệu đồng)
0
19
3
1
6
(Nguồn số liệu: BHXH Quận Đống Đa)
Đánh giá kết quả thu của khu vực NCL cho thấy số đơn vị, số lao động tham gia và số thu BHXH qua các năm có tăng nhưng không cao và không đều. Số thu BHXH chiếm rất nhỏ so với tổng thu của quận, năm 2000 mới có triển khai ở khu vực NCL do đó chỉ mới có 2 đơn vị tham gia BHXH. Các năm tiếp theo mặc dù các đơn vị tham gia nhiều hơn nhưng vì đặc điểm ở khu vực này hầu như thu nhập của người dân thấp, không ổn định do đó sự tham gia BHXH còn nhiều hạn chế. Mặc dù là chiếm tỷ lệ nhỏ trong số thu nhưng thực hiện chính sách của Đảng là mở rộng đối tượng tham gia mọi người lao động trong xã hội nên BHXH quận không ngừng triểnkhai thực hiện bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tuy nhiên trong thời gian tới xu hướng khu vực này có nhiều thế mạnh cần khai thác.
e. Khối xã phường
Trong thời gian đầu mới triển khai còn nhiều hạn chế vì đây là khối có thu nhập cũng thấp và không ổn định do đó không khích lệ trong việc thực hiện chế độ BHXH. Tuy nhiên càng ngày thì khối này cũng tích cực tham gia vì họ cũng thấy vai trò của BHXH, quyền lợi của họ cũng được đáp ứng. Chính sự tham gia của họ cho thấy được chính sách BHXH càng ngày càng được tuyên truyền vận động một cách sâu rộng và người dân đã hiểu được tác dụng mà BHXH đưa lại cho họ.
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Số đơn vị tham gia BHXH (đơn vị)
2
21
22
22
24
Số lao động tham gia BHXH (người)
2
177
180
200
235
Số thu BHXH (triệu đồng)
1
75
80
90
224
(Nguồn số liệu: BHXH Quận Đống Đa)
Năm 2000 con số lao động tham gia còn hạn chế nhưng khi tích cực triển khai thì năm 2004 số người lao động tham gia ở khu vực này đã tăng khá nhanh. Mặc dù so với khu vực khác còn rất ít nhưng so với thu nhập cũng như điều kiện phát triển kinh tế của họ còn rất thấp, không ổn định. Năm 2001 có 21 đơn vị tham gia, 177 lao động và số thu được là 75 triệu đồng, đến năm 2004 số đơn vị tăng ít chỉ tăng được 3 đơn vị nhưng số lao động tăng lên 235 người và thu được 224 triệu đồng. Khu vực này có sự tăng lên như vậy cũng là dấu hiệu đáng mừng đối với việc thực hiện chính sách BHXH của quận. Và trong thời gian tới BHXH quận Đống Đa luôn phấn đấu thực hiện BHXH cho người dân không những khu vực có tiềm năng kinh tế phát triển mà ở khu vực này để khai thác hết tạo nguồn thu lớn mạnh.
2.2. Thu bảo hiểm tự nguyện
Bên cạnh việc thực hiện thu BHXH ở hình thức bắt buộc, trong các năm gần đây, BHXH Quận Đống Đa đang thực hiện chính sách BHXH tự nguyện cho người dân và bước đầu đã thu được một số kết quả khích lệ.
Năm 2004, BHXH Quận Đống Đa đã phối hợp cùng với Phòng Giáo dục quận xây dựng kế hoạch báo cáo Quận uỷ, Uỷ ban tổ chức hội nghị triển khai tới lãnh đạo, cán bộ y tế của 82 trường trên địa bàn quận. Sau hội nghị của Quận tổ chức, các trường đã triển khai hướng dẫn và thu tiền BHYT nên năm 2004 có 82/82 trường tham gia, đạt 100%, số tiền thu đạt 3.102 tỷ đồng, đạt 88,6% kế hoạch giao.
BHXH Quận Đống Đa đang cố gắng thực hiện tích cực hơn trong các năm tới để mong muốn được thực hiện đối với mọi người dân đều được hưởng quyền lợi của mình.
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA
I. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Về hình thức và đối tượng tham gia
Đề nghị áp dụng song hành 2 hình thức tham gia BHXH: bắt buộc và tự nguyện; trong đó đặc biệt chú ý đến cơ chế chuyển đổi giữa hai hình thức này, khi người lao động di chuyển từ khu vực bắt buộc sang khu vực tự nguyện và ngược lại.
Đối tượng tham gia hình thức BHXH bắt buộc:
Là những người lao động ở tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp có sử dụng 10 lao động trở lên không phân biệt loại hình đơn vị (hiện không phải là doanh nghiệp). Không nên hạ thấp hơn nữa quy mô lao động vì kinh nghiệm cho thấy ở những đơn vị này quan hệ lao động còn lỏng lẻo, chưa xác lập theo đúng chuẩn mực quy định, dễ phát sinh nhiều vướng mắc, ảnh hưởng đến kết quả thực hiện BHXH.
Đối tượng tham gia hình thức BHXH tự nguyện:
Là tất cả những người trong độ tuổi lao động không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và những người lao động tuy thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc nhưng muốn tự nguyện đóng thêm để hưởng mức cao hơn. Ở hình thức này về nguyên tắc vẫn xác lập quan hệ đóng hưởng tương tự như đối với BHXH bắt buộc; lấy lương tối thiểu do Nhà nước công bố để xác định mức đóng tối thiểu.Việc thực hiện đóng góp có thể là hàng tháng, quý, năm tuỳ theo điều kiện thực tế. Mỗi cách đóng sẽ có mức ảnh hưởng tương ứng thông qua việc quy đổi về cách đóng tiêu chuẩn (là đóng theo tháng).
2. Về mức đóng BHXH
Luật cần có quy định giới hạn mức đóng tối thiểu và tối đa để đảm bảo sự cân đối hợp lý trong cộng đồng những người thụ hưởng và quan hệ giữa lương đương chức và tiền hưu trí. Mức đóng góp tối thiểu có thể xác định theo mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố ở từng giai đoạn. Mức đóng tối đa có thể được quy định sao cho khi nghỉ hưu tiền lương hưu chỉ bằng hoặc nhỏ hơn mức thu nhập chịu thuế thu nhập cao.
Đối tượng để thực hiện các mức đóng cần phân ra làm 2 loại:
+ Người lao động thuộc khối HCSN Nhà nước, Đảng, Đoàn thể, Lực lượng vũ trang (hưởng lương từ ngân sách nhà nước) đóng theo thang bảng lương Nhà nước quy định.
+ Người lao động thuộc các thành phần kinh tế (kể cả doanh nghiệp Nhà nước) đóng theo lương thực trả. Không đóng theo tiền lương danh nghĩa, lương hợp đồng vì dễ tạo điều kiện cho sự né tránh, lách luật, đồng thời đảm bảo để mức trợ cấp đáp ứng được nhu cầu thực tế của cuộc sống. Khi làm việc có quan hệ tiền lương thì phải nộp BHXH, khi không có quan hệ tiền lương thì không nộp BHXH (kể cả khi ngừng việc phải hưởng lương ngừng việc).
Về tỷ lệ đóng:
Trong luật cần xác định từng giai đoạn sẽ có tỷ lệ trích nộp BHXH phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội, thu nhập, đời sống và nhu cầu bảo toàn, cân đối quỹ. Giao Chính phủ quy định các tỷ lệ này trên cơ sở các chế độ chi trả và có phương án tính toán rõ ràng, khoa học, đặc biệt là tỷ lệ trích nộp để hình thành quỹ hưu trí. Sở dĩ cần chú ý đặc biệt vấn đề này vì nhận thấy với mức nộp 15% tiền lương hiện nay và mức tăng trưởng kinh tế, đời sống tại Việt Nam trong thời gian tới, nhất định quỹ BHXH sẽ không tự cân đối được.
II. CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY CÔNG TÁC THU BHXH Ở CƠ QUAN BHXH QUẬN ĐỐNG ĐA
BHXH là một bộ phận quan trong trong hệ thống các chính sách xã hội của mọi quốc gia trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. BHXH là một chính sách có ảnh hưởng trực tiếp tới sự ổn định của cán bộ công nhân viên nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, người lao động trong các thành phần kinh tế. Đồng thời các chính sách BHXH còn góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa người lao động - người sử dụng lao động và nhà nước từ đó khuyến khích người lao động tích cực, hăng hái trong lao động sản xuất tăng năng suất và hiệu quả công việc. Điều này là cơ sở cho sự ổn định kinh tế chính trị xã hội chung của đất nước. Do vậy, bất cứ sự thay đổi nào trong các chế độ, chính sách BHXH và trong công tác thực hiện các chế độ, chính sách ấy đều có sự ảnh hưởng to lớn đến sự ổn định chung của toàn xã hội và của mỗi cá nhân người lao động. Rõ ràng là những thay đổi bổ sung, đổi mới công tác BHXH là một vấn đề hết sức nhạy cảm đòi hỏi sự quan tâm của các cấp, các ngành và của toàn xã hội. Hiện nay công tác BHXH cũng đã thu hút sự chú ý của nhiều cá nhân, tổ chức trong việc đưa ra những ý kiến đóng góp để ngày càng hoàn thiện và phát triển ngành BHXH, phục vụ tốt hơn trong việc thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động. Vì thế, quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các chế độ, chính sách BHXH và luật BHXH phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản của BHXH đã được nghiên cứu qua các công trình khoa học về BHXH và được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh tính đúng đắn của nó.
Theo quy định về BHXH thì hoạt động BHXH được tổ chức một cách thống nhất theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương. Theo đó, BHXH cấp huyện là cấp nhỏ nhất trong hệ thống BHXH Việt Nam, hoạt động dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cơ quan BHXH cấp tỉnh, cơ quan này không có thẩm quyền trong việc ban hành, sửa đổi các chính sách BHXH cũng như các văn bản luật về BHXH mà chỉ có thể đưa ra các kiến nghị, yêu cầu đối với các cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, trong vấn đề hoàn thiện công tác thu BHXH ở cơ quan BHXH Quận Đống Đa nói riêng và các cơ quan BHXH cấp huyện nói chung đòi hỏi phải có những sự thay đổi đồng bộ từ phía các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
1. Đối với các cơ quan chức năng
1.1. Mở rộng nguồn thu
Với đối tượng bắt buộc:
Có thể mở rộng nguồn thu với đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thông qua các biện pháp khác nhau. Mức thu, như đã phân tích chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có mức lương của người lao động. Việc tăng nguồn thu từ đối tượng tham gia BHXH bắt buộc có thể thông qua tác động vào mức lương của người lao động, kiểm tra kiểm soát chặt chẽ mức lương của người lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tránh tình trạng chủ sử dụng lao động đóng BHXH cho người lao động với mức lương căn cứ thấp hơn mức lương thực hưởng. Hiện nay ở VIệt Nam, số doanh nghiệp có quy mô nhỏ với số lao động dưới 5, 10 lao động là rất nhiều. Việckhông bắt buộc tham gia BHXH đối với doanh nghiệp này là đã bỏ qua một nguồn thu to lớn, gây thiệt thòi cho người lao động hoạt động trong các doanh nghiệp này. Để đẩy mạnh công tác thu BHXH khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần có các văn bản luật điều tiết các đối tượng này như bắt buộc mọi lao động có thuê mướn nhân công, ký kết hợp đồng lao động phải tham gia BHXH cho người lao động mà mình sử dụng, có thể quy định một trong những điều kiện để được cấp giấy phép kinh doanh là người sử dụng lao động phải được cơ quan BHXH có thẩm quyền chứng nhận họ có đăng ký tham gia BHXH cho người lao động tại cơ quan.
Hiện nay với đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thì mức đóng góp của họ được dựa trên tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp đắt đỏ, các khoản phụ cấp theo quy định được tính vào lương căn cứ đóng BHXH. Trong khi đó, từ nhiều nguồn khác nhau, thu nhập thực tế của ngươi lao động ngày càng tăng lên. Vì vậy có nhiều lao động muốn được đóng BHXH theo một mức lương căn cứ cao hơn để có thể hưởng một mức trợ cấp và mức lương hưu trí cao hơn đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu trong cuộc sống sau này. Do đó, nên chăng có hình thức đóng BHXH bổ sung cho người lao động có nhu cầu đóng BHXH với mức lương căn cứ tương đương thu nhập thực tế của họ. Từ đó xem xét mức hưởng đối với các đối tượng này sao cho có thể đảm bảo an toàn quỹ và đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Với đối tượng tự nguyện:
Ở Việt Nam tính đến năm 2001 mới chỉ có 4,2 trong số 38 triệu lao động tham gia đóng BHXH. Một phần là do các doanh nghiệp trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động và một phần lớn khác là những người lao động chưa biết hoặc chưa có điều kiện tham gia BHXH. Việt Nam là một nước nông nghiệp với trên 70% lao động hoạt động trong khu vực kinh tế nông thôn (khoảng 28 triệu lao động) và hầu như chưa có điều kiện tham gia BHXH, chỉ trừ một số ít đang tham gia BHXH tự nguyện ở một vài khu vực. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở khu vực nông thông khá cao, khoảng 4,3%/năm, chiếm khoảng 40% GDP và 40% kim ngạch xuất nhập khẩu. Việc bỏ qua đối tượng này là đã bỏ mất một nguồn thu quan trọng cho quỹ BHXH. Tuy nhiên để có thể triển khai hình thức BHXH tự nguyện đòi hỏi có một sự nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt lý luận và thực tiễn. Hiện nay, BHXH Việt Nam đã có ban BHXH tự nguyện và trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH là hai phòng ban quan trọng có thể phối kết hợp chặt chẽ trong công tác nghiên cứu, triển khai hình thức BHXH này một cách rộng rãi tới mọi đối tượng người lao động có nhu cầu. Trong công tác triển khai nghiệp vụ BHXH này cần có tính linh hoạt vì người lao động tham gia BHXH tự nguyện trong nhiều trường hợp có thể gặp những sự cố khách quan mà không có điều kiện đóng BHXH thường xuyên, liên tục như hạn hán, lũ lụt gây mất mùa, với người buôn bán nhỏ có thể làm ăn thua lỗ... Trong các trường hợp đó, người lao động đã tham gia BHXH tự nguyện phải được xét hưởng trợ cấp một lần hoặc bảo lưu thời gian đóng BHXH cho đến khi có khả năng tiếp tục đóng BHXH. Số tiền đóng góp và số năm tham gia sẽ được cộng dồn khi xét hưởng chế độ cho người lao động. Việc xét trợ cấp một lần, trợ cấp hàng tháng, mức hưởng trong mỗi trường hợp phải căn cứ thời gian tham gia, mức đóng góp, độ tuổi của người lao động tham gia BHXH tự nguyện.
Quỹ BHXH tự nguyện phải là một quỹ hoàn toàn độc lập, tự cân đối thu chi. Theo đó người tham gia BHXH có đóng mới được hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít để tránh tạo ra một gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Tuy nhiên trong những trường hợp có những sự cố bất ngờ gây ảnh hưởng lớn tới đời sống của người lao động thì cần phải có sự trợ giúp của Nhà nước vì khi đó suy cho cùng việc trợ giúp cũng nằm trong chính sách xã hội chung của Nhà nước.
Để khuyến khích BHXH tự nguyện cần thiết phải làm tốt các mặt công tác như thông tin tuyên truyền giúp người dân hiểu rõ lợi ích của việc tham gia BHXH, cải cách các thủ tục hành chính rườm rà tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia và khi giải quyến chế độ cho người dân giúp họ tăng khả năng ổn định và nâng cao đời sống của bản thân và gia đình. Với người lao động có mức thu nhập không ổn định cần nghiên cứu đưa ra được các biểu phí phù hợp với mức hưởng được xem xét một cách kỹ lưỡng để giúp họ thuận lợi hơn trong việc tham gia, đồng thời tạo điều kiện cho cơ quan BHXH trong công tác thu, khuyến khích tham gia BHXH tự nguyện. Hơn thế, do đặc điểm của đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là có thời gian lao động và địa điểm làm việc không ổn định nên việc yêu cầu họ trực tiếp đến cơ quan BHXH để nộp phí là không khả thi. Do đó, trong công tác thu phí bảo hiểm của đối tượng này có thể phân chia họ theo các khu vực, cử người đại diện thu phí có trợ cấp lương hoặc tổ chức một mạng lưới thu BHXH trực tiếp từ người lao động.
Bên cạnh đó, việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và tự nguyện sẽ góp phần giảm thiểu tỷ lệ người lao động hết tuổi lao động, ốm đau... cần đến sự trợ giúp của hệ thống cứu trợ xã hội, giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách quốc gia, đảm bảo được nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm là nguyên tắc số đông bù số ít.
1.2. Bảo toàn, tăng trưởng quỹ
Quỹ BHXH có khả năng cân đối lâu dài hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó công tác đầu tư để bảo toàn tăng trưởng quỹ là một mặt công tác không thể bỏ qua. Đối với vấn đề này đòi hỏi đặt ra với các cơ quan BHXH cấp dưới là thực hiện công tác thu, đôn đốc thu ngày càng hiệu quả, thực hiện chi trả đúng, đủ, kịp thời số tiền BHXH thu được phải nộp về cơ quan BHXH cấp trên đúng ngày tháng quy định tránh tình trạng chiếm dụng vốn.
Đối với các đơn vị sử dụng lao động nộp BHXH muộn hơn so với quy định từ 30 ngày trở lên (theo quy định các cơ quan này phải nộp BHXH về cơ quan BHXH ngay sau khi trả lương cho người lao động hàng tháng) thì ngoài khoản tiền BHXH nộp chậm còn phải nộp phạt theo quy định và nộp thêm một khoản tiền bằng mức lãi suất của số tiền BHXH nộp chậm với lãi suất tính theo mức lãi quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm truy nộp. Trừ các cơ quan, đơn vị được Chính phủ cho phép nộp chậm, đối với các cơ quan, đơn vị khác cố tình chây ì thì cơ quan BHXH được quyền đề nghị ngân hàng hoặc kho bạc nơi cơ quan đó mở tài khoản trích số tiền BHXH nộp chậm từ tài khoản của cơ quan đó chuyển sang tài khoản của cơ quan BHXH mà không cần có sự đồng ý thanh toán của chủ tài khoản. Hiện nay với mức phạt quy định là 2 triệu đồng cho một lần vi phạm bị xử lý nhìn chung là chưa hợp lý vì với một mức phạt tương đối thấp như vậy thì với mức lợi thu được từ việc cố tình chiếm dụng vốn người sử dụng lao động có thể chấp nhận phạt và tiếp tục chậm đóng BHXH trong các lần tiếp theo. Nên chăng tăng mức phạt này theo một tỉ lệ nhất định so với số tiền bảo hiểm phải nộp để việc áp dụng hình thức phạt đối với người vi phạm có thể phát huy hiệu quả như mong muốn.
Với cơ quan BHXH cấp trên để có thể bảo tồn và tăng trưởng quỹ thì cần phải đầu tư quỹ BHXH vào các lĩnh vực theo quy định, có độ rủi ro thấp, khả năng hoàn vốn cao. Đồng thời có các biện pháp khuyến khích thích hợp để đôn đốc thu góp phần tăng thu cho quỹ BHXH. Các lĩnh vực đầu tư theo quy định bao gồm mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái của kho bạc nhà nước và các ngân hàng thương mại nhà nước, cho ngân sách nhà nước, quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng chính sách vay và các dự án đầu tư mà Thủ tướng Chính phủ quy định. Bên cạnh đó để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH đỏi hỏi công tác thành lập các quỹ dành riêng cho quản lý sự nghiệp, khen thưởng, phúc lợi, đầu tư cơ sở hạ tầng... của BHXH phải tuân theo đúng các quy định của ngành.
Trong công tác bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH còn phải chú ý đến việc bổ sung hoàn thiện công tác thu, chống thất thu, giảm thiểu nợ đọng BHXH. Như vậy, ngoài công tác thu, đôn đốc thu trực tiếp của các cơ quan BHXH cấp dưới, cơ quan BHXH cấp trên còn phải có những nghiên cứu về thực tiễn và lý luận để đưa ra các biện pháp thúc đẩy công tác thu một cách phù hợp với biến động giá cả và khả năng cân đối quỹ BHXH. Hiện nay BHYT đã sát nhập với BHXH với mức đóng BHXH là 23%. BHXH Việt Nam giờ đây đã thực hiện được 6/9 chế độ BHXH, do đó mức độ phức tạp khó khăn của công việc càng trở nên nặng nề hơn. Hơn nữa với mức đóng 23% lương căn cứ và hưởng 75% lương trung bình 5 năm cuối khi về hưu thì khả năng nhà nước phải bù thiếu vẫn còn rất rõ rệt. Bởi vì với mức đóng và mức hưởng như vậy thì trong 30 năm tham gia BHXH người lao động mới đóng được 83 tháng lương căn cứ và chỉ chưa đến 10 năm nhận lương hưu thì đã nhận gần 90 tháng lương căn cứ, trong khi mức lương làm căn cứ hưởng thường cao hơn mức lương trung bình chung đã đóng trong suốt thời gian tham gia BHXH vì mức lương hưởng thường tính theo lương trung bình của một số năm cuối là những năm mức lương của người lao động thường cao hơn trước đó. Hơn thế nữa, theo xu hướng chung của thế giới tuổi thọ trung bình của người lao động Việt Nam ngày càng tăng lên đe doạ khả năng cân đối lâu dài quỹ. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong công tác bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH là trả lời câu hỏi nên chăng tăng mức đóng, điều chỉnh mức hưởng và tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động. Tuy vậy việc tăng mức thu xem ra là một phương án chưa khả thi trong điều kiện hiện nay vì với một mức thu tăng lên chưa chắc mục tiêu không cần đến sự hỗ trợ của ngân sách đã đạt được mà có thể gây ra những biến động về giá cả tiêu dùng do chi phí của đơn vị sử dụng lao động tăng lên, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động.
Việc áp dụng các biện pháp giảm chi cũng là hết sức cần thiết cho ngành BHXH trong ngành công tác này. Để thực hiện các biện pháp giảm chi, BHXH cần thực hiện tốt các biện pháp chăm sóc sức khoẻ cho người lao động trong khi tiến hành các nghiệp vụ BHXH bởi vì điều này góp phần làm giảm các chi phí cho các chế độ ngắn hạn: ốm đau, thai sản, bệnh nghề nghiệp. Việc chăm sóc sức khoẻ người lao động thể hiện qua hình thức thông tin, tuyên truyền về môi trường làm việc, về sinh đẻ có kế hoạch, việc phối hợp với đơn vị sử dụng lao động, với các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp bảo hộ cho người lao động.
Hiện nay việc chi trả BHXH còn gắn với các chính sách xã hội khác do đó, để dảm bảo đúng nguyên tác cân bằng thu chi, có đóng góp có hưởng... thì việc tách các chế độ khác như chế độ với lực lượng vũ trang... ra khỏi BHXH là một việc làm cần thiết nhằm đảm bảo sự công bằng cho người tham gia BHXH.
Các biện pháp trên đây được thực hiện sẽ giúp cho công tác BHXH được thực hiện với kết quả cao hơn. Đây cũng là những biện pháp cần thiết thúc đẩy hoạt động thu quỹ BHXH nói chung.
2. Về phía cơ quan BHXH Quận Đống Đa
2.1. Tăng cường, thúc đẩy hoạt động thu
Cơ quan BHXH Quận Đống Đa trước đây có 20 cán bộ nhân viên, trong đó chỉ có 7 cán bộ thu. Hiện nay, sau sự sát nhập về nhân sự giữa hai cơ quan BHXH và BHYT Quận Đống Đa thì số cán bộ được tăng cường thêm 3 cán bộ nữa. Tuy nhiên, với số đơn vị bắt buộc tham gia BHXH lớn, mức thu cao hơn (23% so với trước kia là 20%) thì để hoàn thành chỉ tiêu thu được giao cán bộ thu ở cơ quan BHXH Quận Đống Đa phải hết sức vất vả, đặc biệt là trong việc đôn đốc thu đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Chính vì vậy, để đẩy mạnh công tác thu, cơ quan BHXH Quận Đống Đa cũng có thể lập riêng nhóm cán bộ chuyên thu BHXH ở khu vực này. Nhóm cán bộ này có thể lập kế hoạch, thay phiên nhau đến các cơ sở tìm hiểu, giải thích, khuyến khích hoặc khi cần có thể bắt buộc tham gia BHXH vì lợi ích của bản thân người lao động. Trong công tác này cần có sự phối hợp với các ban ngành chức năng có liên quan để thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ cho người lao động ở các cơ quan đơn vị sử dụng lao động, việc trích nộp BHXH, phát hiện các sai phạm để có biện pháp thuyết phục và xử phạt thích hợp. Trong quá trình này cũng cần chú ý xem xét các khó khăn, vướng mắc thực sự của các cơ quan, đơn vị này để có các biện pháp trợ giúp khi khó khăn. Bên cạnh đó, các cán bộ thu, đặc biệt là các cán bộ chuyên thu từ cơ quan BHYT sang cần có những phương pháp để tự học hỏi, trao đổi kinh nghiệm để đáp ứng được yêu cầu của nghiệp vụ thu trong thời kỳ mới.
2.2. Tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng khác
Cơ quan BHXH Quận Đống Đa chịu sự quản lý trực tiếp của BHXH Thành phố Hà Nội và sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng trên địa bàn quận. Do đó, trong các mặt công tác phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bên liên quan để giải quyết các khúc mắc khi cần thiết. Ngoài ra, cơ quan BHXH Quận Đống Đa đặt trên địa bàn Phường Thổ Quan, do đó cần phải tích cực tham gia vào các công tác cũng như các phong trào do Đoàn thể, hội… phát động. Thực ra sự kết hợp này cũng là một hình thức tuyên truyền hiệu quả cho các chính sách BHXH. Sự phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan sẽ giúp cơ quan BHXH xác minh được đúng đắn các trường hợp được hay không được hưởng chế độ BHXH, tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân. Các cơ quan chức năng khác như UBND Quận Đống Đa là nơi cung cấp cho cơ quan BHXH quận các đơn vị kinh tế - xã hội nào hoạt động trên địa bàn thuộc diện đóng BHXH bắt buộc. Cùng với các cơ quan này, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm được tiến hành nhanh chóng, đúng luật, từ đó giảm dần số doanh nghiệp trốn tránh BHXH, mở rộng hiểu biết của quần chúng về BHXH, thúc đẩy hoạt động thu của cơ quan.
2.3. Tăng cường hỗ trợ cán bộ thu trong cơ quan BHXH
Hiện nay, với số lượng cán bộ thu là 10 cán bộ và mức đóng góp BHXH cao hơn so với trước kia thì việc thực hiện tốt công tác thu là một vấn đề khó khăn đối với cán bộ thu trong cơ quan. Do đó, để việc giúp cán bộ thu hoàn thành tốt nhiệm vụ củamình cần có các điều kiện trợ giúp về kinh phí đi đường, mức thưởng, trợ cấp… để khuyến khích cán bộ thu tích cực trong công tác tuyên truyền, vận động đối với các đơn vị sử dụng lao động chưa đăng ký tham gia BHXH cho người lao động. Thực tế cho thấy, hiện nay các sinh viên được đào tạo về chuyên ngành bảo hiểm tuy chưa nhiều song vẫn có những sinh viên tốt nghiệp ra không phục vụ trong ngành bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng. Do đó, cơ quan BHXH cấp quận có thể đề nghị cơ quan BHXH cấp trên bổ sung thêm các cán bộ trẻ có năng lực và trình độ chuyên môn bên cạnh việc bổ sung các điều kiện khác phục vụ cho công tác BHXH và công tác thu BHXH của cơ quan.
KẾT LUẬN
Trong chiến lược phát triển BHXH Việt Nam nói chung và BHXH Thành phố Hà Nội, BHXH Quận Đống Đa nói riêng , việc đẩy mạnh công tác thu là một trong những nhiệm vụ mang tính trọng tâm, lâu dài của ngành. Để thực hiện được chiến lược đó cần phải có những hướng đi đúng đắn, những giải pháp trong việc tổ chức, thực hiện để nhằm hoàn thiện chính sách BHXH ngày càng tốt hơn.
Việc phân tích tình hình quản lý thu quỹ BHXH đã khẳng định được vai trò của chính sách BHXH. Để thực hiện được vấn đề đó được tốt hơn cần thiết phải làm công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách BHXH, đồng thời cần sự hỗ trợ tích cực của các ban ngành liên quan, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động BHXH, công tác thu, góp phần ổn định và phát triển quỹ BHXH, ổn định kinh tế - xã hội, trật tự và an toàn xã hội.
Đề tài “Thực trạng công tác quản lý thu tại cơ quan bảo hiểm xã hội Quận Đống Đa” đã phân tích một số thực trạng trong công tác quản lý thu ở cơ quan BHXH Quận Đống Đa và đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao kết quả thu. Những giải pháp kiến nghị đưa ra khó tránh khỏi thiếu sót do điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế, kính mong thầy cô và các anh chị trong cơ quan góp ý để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Thực trạng công tác quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội Quận Đống Đa
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TBH1021.DOC