Trong nền kinh tế cạnh tranh như hiện nay thì việc mở rộng, nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho các doanh nghiệp xin vay vốn là một điều tất yếu. Việc nâng cao công tác thẩm định vừa có lợi cho doanh nghiệp lại vừa có lợi cho ngân hàng. Bởi vì, việc thẩm định giúp cho ngân hàng xác định được khách hàng tiềm năng của mình, giảm được rủi ro khi cho vay vốn, nâng cao khả năng thu hồi nợ vay. Việc thẩm định giúp cho doanh nghiệp nhận thấy được những sai sót, nhược điểm của mình trong quá trình lập dự án. Vì thế có biện pháp khắc phục chỉnh sửa để đầu tư một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên hoạt động thẩm định và chất lượng hoạt động thẩm định là vấn đề không chỉ giới hạn trong một phạm vi một ngân hàng, một doanh nghiệp mà còn gắn liền với nhiều nhân tố khác như các vấn đề pháp lý, môi trường vĩ mô. Vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định không chỉ phụ thuộc vào chính ngân hàng mà còn phải có sự phối hợp , hỗ trợ của nhà nước, của các cơ quan hữu quan và các tầng lớp xã hội.
106 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1793 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng công tác thẩm định khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn trung và dài hạn tại sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ngày càng cao trong tổng doanh thu.
Hiện nay Công ty còn nắm giữ 60 triệu mệnh giá cổ phiếu Exim Bank đã mua từ những năm trước.
Tuy nhiên, nguồn thu thứ 3 này cũng là một phương án dự phòng. Dựa trên việc tính toán khả năng trả nợ từ tính khả thi của dự án đầu tư đã cho thấy rằng, công ty hoàn toàn có khả năng trả nợ dựa vào lợi nhuận và khấu hao hàng năm của dự án trong thời gian vay vốn mà không cần đến nguồn nào khác.
Những yếu tố bên ngoài tác động tới khả năng trả nợ của dự án :
Cán bộ thẩm định đã thẩm định nội dung này rất rõ ràng cụ thể. Phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích độ nhạy, phương pháp dự báo. Trong trường hợp xấu nhất là giá giảm 20%, biến phí tăng 20% dự án vẫn có khả năng trả nợ đúng hạn mà vẫn có hiệu quả kinh tế.
4.2. Nguyên nhân của những thành quả đó:
4.2.1. Uy tín và lợi thế của toàn hệ thống NHNT
Thuộc một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh ra đời sớm nhất và đã hoạt động được gần 45 năm. Năm 2007, NHNT được trao tặng giải thưởng Thương hiệu mạnh Việt Nam 2006 do Thời báo Kinh tế và Cục xúc tiến Bộ Thương mại tổ chức. Đặc biệt thương hiệu Vietcombank lọt vào Top Ten (mười thương hiệu mạnh nhất) trong số 98 thương hiệu đạt giải. Đây là lần thứ 3 liên tiếp Vietcombank được trao tặng giải thưởng này. Cũng trong năm này, NHNT được bầu chọn là "Ngân hàng cung cấp dịch vụ ngoại hối cho doanh nghiệp tốt nhất năm 2007" do tạp chí Asia Money bình chọn. Thương hiệu Vietcombank không chỉ được khách hàng trong nước tin tưởng mà cả bạn bè quốc tế cũng biết đến. Kế thừa thương hiệu sẵn có là một lợi thế rất lớn cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động thẩm định nói riêng khi SGD tách ra hoạt động độc lập. Các khách hàng lớn, lâu năm sẽ tìm đến xin vay vốn với những dự án thường có tính khả thi cao, tuân thủ đầy đủ các quy định về chính sách pháp luật của nhà nước, vì vậy khả năng trả nợ của các dự án đó sẽ cao.
4.2.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ của Ngân hàng ngoại thương.
NHNT có khoảng 6.500 lao động trong toàn hệ thống vào năm 2006. Trong năm 2007, NHNT đã tăng thêm khoảng 1.300 cán bộ (24 %) để phục vụ cho yêu cầu phát triển các nghiệp vụ kinh doanh, tăng cường chất lượng dịch vụ.
Song song với việc gia tăng số lượng lao động, NHNT đảm bảo cho việc tăng cường chất lượng lao động. Hàng năm, NHNT đã tuyển dụng các cán bộ trình độ đại học và trên đại học chuyên ngành, có trình độ ngoại ngữ tốt để đáp ứng yêu cầu hội nhập khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, đồng thời chú trọng đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ cho cán bộ, cử cán bộ tham gia học tập, tham quan khảo sát trong và ngoài nước. Do đó, NHNT đã xây dựng được đội ngũ cán bộ có tuổi đời bình quân trẻ, được đào tạo bài bản về lĩnh vực tài chính ngân hàng, có kiến thức về kinh tế thị trường tương đối toàn diện, có trình độ ngoại ngữ, có khả năng thích nghi nhạy bén với môi trường kinh doanh hiện đại và mang tính hội nhập cao.
Một sự kiện quan trọng trong công tác đào tạo nguồn nhân lực là sự ra đời của Trung tâm đào tạo, được khai trương và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2006. Trung tâm đã tổ chức thành công các khóa học về các nội dung phổ biến kiến thức pháp luật mới, đào tạo nhân viên mới… và trong thời gian tới sẽ thường xuyên tiến hành các khóa đào tạo cho cán bộ của ngân hàng.
Một điểm đáng lưu ý nữa là đội ngũ cán bộ tín dụng hiện nay đang được trẻ hóa dần dần. Đây là hướng đi đúng đắn của ngân hàng vì sự kết hợp giữa những nhân viên dày dạn kinh nghiệm và những nhân viên trẻ tuổi, nhiệt tình, khả năng nắm bắt thông tin nhanh chóng đã tạo nên đội ngũ tín dụng tiến hành công tác thẩm định khá hiệu quả.
4.2.3. Cơ sở vật chất phục vụ công tác thẩm định
Việc thẩm định khả năng trả nợ được cải thiện một bước khi SGD đổi mới hệ thống cơ sở vật chất ngày càng hiện đại. Tất cả các cán bộ thẩm định đều được trang bị máy tính có kết nối Internet và có trang thiết bị khác như điện thoại, máy in, máy photocopy. Sử dụng các phần mềm tin học tiên tiến về văn phòng như Microsoft Word, Excel,…, microsoft Project trong quản lý dự án. Đặc biệt, là không gian của phòng đã được mở rộng thêm do sự chuyển đổi địa điểm công tác từ tòa nhà 198 Trần Quang Khải sang 31 – 33 Ngô Quyền. Hoạt động của sở được độc lập hơn do đã tách biệt với không gian hoạt động của Hội Sở Chính.
Thông tin do khách hàng cung cấp, các báo, tạp chí chuyên ngành, internet, trung tâm thông tin tín dụng CIC, cơ quan quản lý nhà nước, các đối tác làm ăn với khách hàng…
4.2.4. Chất lượng tín dụng tại SGD không ngừng được nâng cao
Điều này được thể hiện qua doanh số cho vay, doanh số thu nợ, tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi.
Năm 2006 cho vay được 11 dự án, tổng giá trị cam kết đạt 1,359 tỷ quy đồng, một con số không nhỏ. Có được thành tích này một phần do sự hỗ trợ của HSC đối với 02 dự án nhà máy thuỷ điện và sự quan tâm phát triển sản phẩm này của Ban Giám đốc SGD. Tuy nhiên, nợ quá hạn năm 2006 xấp xỉ 1.160,00 ngàn USD, vẫn còn cao so với năm 2007 ( 0 USD ).
Tính đến cuối tháng 11/2007, Phòng đang quản lý 31 khoản vay trung dài hạn với tổng trị giá cam kết quy VND là hơn 2.000 tỷ quy VND, với tổng dư nợ đạt hơn 700 tỷ quy VND.
Số liệu 11 tháng đầu năm 2007:
- Doanh số cho vay:
957,09 ngàn USD
352,08 ngàn EUR,
và
26.357,44 triệu VND
- Doanh số thu nợ:
190,00 ngàn USD,
3.000 ngàn JPY
và
1.282,00 triệu VND
- Tổng dư nợ:
20.943,94 ngàn USD,
1.977.71 ngàn EUR,
121.532,99 ngàn JPY
và
320.616,39 triệu VND
- Nợ quá hạn:
0,00 triệu VND
Nguồn : phòng ĐTDA - SGD
Dự kiến số liệu năm 2007 như sau :
- Doanh số cho vay:
957,09 ngàn USD
352,08 ngàn EUR,
và
26.357,44 triệu VND
- Doanh số thu nợ:
190,00 ngàn USD,
3.000 ngàn JPY
và
1.282,00 triệu VND
- Tổng dư nợ:
20.943,94 ngàn USD,
1.977.71 ngàn EUR,
121.532,99 ngàn JPY
và
320.616,39 triệu VND
- Nợ quá hạn:
0,00 triệu VND
4.2.5. Thực hiện tốt công tác báo cáo tổng hợp và lưu trữ dữ liệu
Phòng ĐTDA đã chủ động phối hợp tốt với phòng quản lý nợ để nhập dữ liệu vào hệ thống cũng như lưu trữ hồ sơ vay an toàn ( những hồ sơ đã được thẩm định và phê duyệt khoản vay ). Hồ sơ được lưu trữ dưới hai hình thức là lưu trữ bằng văn bản và lưu trữ vào hệ thống máy tính. Do vậy rất dễ đối chiếu cũng như kiểm tra khách hàng khi cần thiết một cách kịp thời, nhanh chóng.
Hơn nữa, phòng ĐTDA trong 2 năm qua đã làm nhiệm vụ tổng hợp, phân tích, báo cáo thống kê tình hình hoạt động của phòng trình lên Ban Giám đốc. Đưa ra được một số kiến nghị nhằm khắc phục những khó khăn của phòng, nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án.
4.3. Những mặt hạn chế trong công tác thẩm định khả năng trả nợ nói riêng và công tác thẩm định nói chung.
4.3.1. Nội dung thẩm định khả năng trả nợ :
Điều ngân hàng quan tâm là lợi nhuận từ đồng vốn bỏ ra. Chính vì thế mà công tác thẩm định không chú ý đến khía cạnh kinh tế xã hội của dự án.
Việc thẩm định dự án đều dựa trên Báo cáo thẩm định dự án trung dài hạn cho tất cả các dự án đầu tư thuộc ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Nên nhiều khi số liệu để thẩm định dự án chỉ mang tính chất ước lượng, chung chung mà không đi sâu vào phân tích cụ thể ngành nghề. Vì vậy, kết quả thẩm định không phản ánh chính xác khả năng trả nợ của khách hàng.
Đánh giá năng lực quản trị của ban lãnh đạo doanh nghiệp : nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Tuy nhiên khi đánh giá nguồn nhân lực, ngân hàng chủ yếu đánh giá bằng cách liệt kê các bằng cấp. Vì thế đôi khi việc đánh giá này mang tính hình thức, không đánh giá được thực chất năng lực của khách hàng.
Về đánh giá năng lực tài chính, phi tài chính và xếp hạng tín dụng : Đánh giá năng lực tài chính dựa vào báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, các kế hoạch, dự toán tài chính, tình hình thực tế so với kế hoạch thời gian qua…trên giấy tờ, sổ sách. Đôi khi vẫn chưa đủ độ tin cậy. Số liệu trong quá khứ chưa hẳn là cơ sở tin cậy cho dự báo tương lai. Do vậy, phải theo sát những thay đổi của doanh nghiệp để có các biện pháp phòng ngừa rủi ro kịp thời.
Cán bộ tín dụng đi sâu xem xét từng khía cạnh một của doanh nghiệp. Vì thế kết quả của việc xếp hạng tín dụng khá là chính xác. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng nên định kỳ xem xét lại kết quả này, bởi vì tình hình hoạt động của doanh nghiệp luôn thay đổi theo thời gian.
Đánh giá uy tín, lịch sử tín dụng của khách hàng : Đây là một nhược điểm của ngân hàng nếu khách hàng là doanh nghiệp mới thành lập, lịch sử hoạt động chưa có gì đáng kể. Việc đánh giá lúc này phụ thuộc nhiều vào ý chủ quan của cán bộ nghiệp vụ, vì vậy đôi khi việc đánh giá này thiếu chính xác, Ngân hàng bỏ lỡ khách hàng tiềm năng hoặc chấp nhận cho khách hàng có khả năng trả nợ kém vay vốn.
Việc thẩm định khả năng trả nợ của dự án : Qua ví dụ trên, nói chung việc thẩm định khả năng trả nợ là khá chi tiết, tuy nhiên vẫn cần phải lưu ý một số vấn đề sau đây :
1, Các chỉ tiêu dùng để thẩm định khả năng trả nợ còn thiếu chỉ tiêu tỷ số khả năng trả nợ của dự án ( Việc tính toán chi tiết trong bảng phụ lục )
Trong đó :
Nguồn nợ hàng năm của dự án
Tỷ số khả năng trả nợ của dự án = --------------------------------------------
Nợ phải trả hàng năm ( gốc và lãi )
Nguồn trả nợ hàng năm bao gồm : lợi nhuận ( sau khi trừ thuế thu nhập), khấu hao cơ bản và lãi phải trả hàng năm.
Tỷ số này được so sánh với mức quy định chuẩn. Mức này được xác định theo từng ngành nghề. Dựa án được đánh giá có khả năng trả nợ khi tỷ số khả năng trả nợ của dự án phải đạt được mức quy định chuẩn. Thông thường tỷ số này > 1 thì dự án có khả năng trả nợ.
2, Thời gian thu hồi vốn vay và thời gian thu hồi vốn đầu tư được tính trong dự án là thời gian thu hồi vốn giản đơn có nghĩa là chưa tính đến yếu tố thời gian của tiền.
Vì tiền có giá trị về mặt thời gian, các khoản thu hồi của dự án ( lợi nhuận thuần và khấu hao ) lại xuất hiện ở những năm khác nhau nên thời gian thu hồi vốn vay và thời gian thu hồi vốn đầu tư chưa phản ánh chính xác hiệu quả đầu tư của dự án. Để khắc phục hạn chế này, người ta phải xác định chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn vay thời gian thu hồi vốn đầu tư có tính đến yếu tố thời gian của tiền. Để tính thời gian thu hồi vốn này, có hai phương pháp chung : cộng dồn và trừ dần.
Phương pháp cộng dồn : Thời gian thu hồi vốn theo phương pháp cộng dồn được tính như sau :
n
å ( W + D )iPV >= Iv0
i=1
T là năm thu hồi vốn
Phương pháp trừ dần : Thời gian thu hồi vốn tính theo phương pháp trừ dần như sau :
Nếu Ivi là vốn đầu tư phải thu hồi ở năm i.
(W + D)i là lợi nhuận thuần và khấu hao năm i.
∆i = Ivi – ( W – D)i là số vốn đầu tư còn lại chưa thu hồi được của năm I, phai chuyển sang năm (i+1) để thu hồi tiếp.
Ta có : Ivi+1=∆i(1+r) hay Ivi = ∆i-1(1+r)
Khi ∆i 0 thì i T.
Dựa trên phương án cơ sở của dự án, nếu tính lại thời gian thu hồi vốn vay và thời gian thu hồi vốn đầu tư có tính đến giá trị thời gian của tiền thì thời gian thu hồi vốn vay và vốn đầu tư có sự thay đổ. Cụ thể thời gian thu hồi vốn vay sẽ là 8 năm 9 tháng thay vì 6 năm 2 tháng, thời gian thu hồi vốn đầu tư là 14 năm 5 tháng thay vì 8 năm 2 tháng. Dự án vẫn có hiệu quả kinh tế nhưng thời gian hoàn vốn lâu. ( tính toán trong bảng phụ lục ).
3, Theo hướng dẫn lập báo cáo thẩm định dự án, còn một phương pháp tính thời gian thu hồi vốn vay và thời gian thu hồi vốn đầu tư là phương pháp tĩnh.
Tổng số vốn vay cho vào dự án
Thời gian thu hồi vốn vay = -----------------------------------------------------------------
KHCB năm + phần lợi nhuận để trả nợ + nguồn khác
Số vốn vay
= ----------------------
( W + D )iPV
Tổng số vốn đầu tư vào dự án
Thời gian thu hồi vốn đầu tư = ---------------------------------------------------------------
KHCB năm + Phần lợi nhuận để trả nợ + nguồn khác
Iv0
= -------------
( W + D )iPV
Thời gian thu hồi vốn vay và thời gian thu hồi vốn đầu tư tính theo tình hình hoạt động từng năm. ( chi tiết trong bảng phụ lục )
4, Việc đánh giá khả năng trả nợ của dự án còn được dựa trên việc tính toán điểm hòa vốn trả nợ của dự án. Tuy nhiên, trong dự án này, cán bộ thẩm định cũng chưa xét đến điểm hòa vốn này.
Tổng định phí - KHCB + Nợ phải trả + Thuế lợi tức
Doanh thu tại
điểm hoà vốn trả nợ = --------------------------------------------------------
1- Tổng biến phí/ Tổng doanh thu
Điểm hoà vốn là giao điểm của đường biểu diễn doanh thu và đường biểu diễn chi phí. Tại điểm hoà vốn, tổng doanh thu bằng tổng chi phí, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có lãi nhưng cũng không lỗ. Doanh nghiệp muốn có lãi phải tổ chức sản xuất đạt trên điểm hoà vốn. Điểm hoà vốn càng thấp thì dự án càng có hiệu quả và tính rủi ro càng thấp. Nhìn chung, các dự án đầu tư có điểm hoà vốn đạt dưới 60% là chấp nhận được.
Doanh thu tại điểm hòa vốn trả nợ là tại đó dự án có đủ tiền để trả nợ vốn vay và đóng thuế thu nhập ( chi tiết tại phụ lục ).
Năm hoạt động thứ 1, dự án bị lỗ nên được miễn thuế thu nhập. Doanh thu hòa vốn tại năm thứ 1 (năm 2008) là 6498.98 triệu đồng > doanh thu dự án đạt được năm thứ 1. Điều này phản ánh được rằng năm thứ 1 dự án hoạt động chưa có hiệu quả, tuy nhiên được miễn thuế thu nhập nên chỉ phải trả nợ vốn vay bằng nguồn khấu hao cơ bản năm đó là 3453 triệu đồng. Nợ gốc năm 1 phải trả là 3400 triệu đồng. Vậy chênh lệch dòng tiền trong năm đó là 53 triệu đồng. Vậy năm thứ 1 này doanh nghiệp vẫn có thể trả được nợ gốc từ phương án sản xuất kinh doanh của dự án mà không cần huy động thêm nguồn nào khác.
4.3.2. Cơ chế chính sách còn chồng chéo:
Còn có những quy định không rõ ràng, nhiều quy định còn vô lý, nhất là trong chính sách đất đai, thế chấp, cầm cố... gây nhiều cản trở trong công tác tín dụng, đặc biệt trong vấn đề thế chấp tài sản gắn liền với đất.
4.3.3. Công tác khách hàng:
Công tác khách hàng của SGD chưa hỗ trợ được nhiều cho công tác phát triển tín dụng trung dài hạn. Số lượng dự án trung dài hạn hiệu quả, khả thi mà Phòng Quan hệ Khách hàng tiếp cận được còn rất hạn chế. Thực tế Phòng ĐTDA-SGD đã trực tiếp tiếp cận khách hàng, thu hút các dự án khả thi, hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng dư nợ tín dụng của SGD.
4.3.4. Nguồn thông tin để thẩm định còn hạn chế
Việc thu thập thông tin được thực hiện qua phỏng vấn, sổ sách, báo cáo của khách hàng cung cấp cho cán bộ thẩm định chứ chưa tìm hiểu kỹ nguồn thông tin tín dụng bên ngoài như qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan quản lý nhà nước… Nguồn thông tin trên báo chí, internet đôi khi còn trái ngược nhau. Thông tin khai thác từ trung tâm thông tin tín dụng CIC còn hạn chế. Việc phỏng vấn trực tiếp với khách hàng cũng được thực hiện nhưng chưa thường xuyên.
Việc sai thông tin còn có thể do khách hàng cố tình làm sai lệch thông tin thực tế để vay được vốn. Nếu cán bộ thẩm định không có kinh nghiệm, xem xét kỹ càng thì sẽ dẫn đến tình trạng chấp nhận dự án không tốt, gây ảnh hưởng đến ngân hàng và nền kinh tế.
Chưa có bộ phận chức năng đứng ra thu thập, xác minh thông tin.
4.3.5. Công tác tổ chức thẩm định
Công việc thẩm định khách hàng được giao cho một số cán bộ thực hiện toàn bộ các nội dung phân tích. Cán bộ thẩm định làm việc chủ yếu theo kiểu đa năng, tích lũy được nhiều kinh nghiệm song không đi sâu vào một ngành cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành, không hiểu rõ thực trạng của doanh nghiệp.
Các cán bộ thẩm định phải thực hiện tất cả các khâu trong quá trình thẩm định. Điều đó nhiều khi gây quá tải với cán bộ dẫn đến tình trạng nhiều khâu chỉ được thực hiện sơ sài, có tính hình thức.
4.3.6. Khó khăn trong hoạt động trên địa bàn:
Hà Nội là địa bàn có tính cạnh tranh cao, thể hiện ở một số đặc điểm sau: số lượng ngân hàng qua nhiều; số lượng các doanh nghiệp sản xuất lớn tập trung không đông bằng các tỉnh lân cận ngoại trừ các một số doanh nghiệp nước ngoài lớn lại không có nhiều nhu cầu đối với nguồn vốn trong nước hoặc đề nghị mức lãi suất thấp ngoài khả năng cung cấp của NHNT; các doanh nghiệp nhỏ có các dự án có quy mô nhỏ nên yêu cầu giải quyết các thủ tục cung cấp vốn nhanh chóng trong khi việc thẩm định tính khả thi và hiệu quả của các dự án nhỏ cũng cần theo quy trình 3 khâu của NHNT và các dự án nhỏ lại thường không có nhiều ưu điểm nổi trội.
CHƯƠNG II – MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH KHẢ NĂNG TRẢ NỢ CỦA DOANH NGHIỆP VAY VỐN TRUNG DÀI HẠN TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM.
2.1. Phương hướng, nhiệm vụ hoạt động phát triển nói chung và hoạt động thẩm định dự án nói riêng của Sở Giao Dịch trong thời gian tới.
2.1.1. Phương hướng của Ngân hàng Ngoại Thương trong thời gian tới.
Với mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính hàng đầu Việt Nam và trở thành ngân hàng tầm cỡ quốc tế ở khu vực trong thập kỷ tới, hoạt động đa năng, kết hợp với điều kiện kinh tế thị trường, thực hiện tốt phương châm “Luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt” trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói riêng đang trong quá trình hội nhập, Ngân hàng Ngoại thương đã xây dựng cho mình một chiến lược phát triển từ nay đến 2010 với những nội dung chính như sau:
Nâng cao năng lực, nâng cao sức cạnh tranh bằng việc phấn đấu nâng chỉ số CAR đạt 10-12% và các chỉ số tài chính quan trọng khác theo chuẩn quốc tế, phấn đấu đạt mức xếp hạng “AA” theo chuẩn mực của các tổ chức xếp hạng quốc tế.
Hoàn thành quá trình tái cơ cấu ngân hàng để có một mô hình tổ chức hiện đại, khoa học, phù hợp với mục tiêu và bảo đảm hiệu quả kinh doanh, kiểm soát được rủi ro, có khả năng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng, tổng hợp, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thị trường và nhu cầu của khách hàng thuộc mọi thành phần.
Phấn đấu đạt, duy trì ( và phấn đấu vượt ) một số chỉ tiêu cơ bản đến năm 2015 :
Vốn chủ sở hữu đạt mức từ 2,5 – 3 tỷ USD
Tổng tài sản tăng trung bình 15 – 20 %/năm.
Tỷ lệ trung bình hàng năm ROAE là trên 15%;
Tỷ lệ trung bình hàng năm ROAA là 1,2%
2.1.2. Những nhiệm vụ cụ thể cho NHNT VN
Tập trung cao độ mọi nguồn lực để xây dựng phương án thực hiện thành công chương trình Cổ phần hóa, bao gồm phát hành cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán; chọn đối tác chiến lược; xây dựng quy chế thích hợp để chuyển đổi cơ chế quản trị điều hành từ doanh nghiệp Nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần, tạo động lực phát triển quan trọng nhằm nâng cao sức cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại Thương.
Tiếp tục tiến hành đổi mới cơ cấu tổ chức và áp dụng mô thức quản trị điều hành theo thông lệ quốc tế; nâng cao một bước quản trị hệ thống, hoàn thiện công tác quản trị rủi ro, kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ.
Thay đổi, điều chỉnh một cách cơ bản cơ cấu đối tượng khách hàng theo hướng đa dạng hóa và hướng tới khách hàng mục tiêu : phát triển khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng bán lẻ thông qua cơ cấu lại tổ chức, phát triển mạng lưới, xây dựng hệ thống chính sách thích hợp cho từng đối tượng khách hàng mục tiêu, thiết kế và đưa vào áp dụng các sản phẩm mới phù hợp với yêu cầu của nhóm khách hàng.
Đa dạng hóa các sản phẩm huy động vốn; tăng cường và đẩy mạnh các giải pháp nhằm triển khai ứng dụng một cách có hiệu quả các sản phẩm mới, đặc biệt các sản phẩm đi kèm khuyến mại. Đổi mới công tác khách hàng, trước hết là phong cách giao tiếp.
Tập trung đẩy mạnh hoạt động dịch vụ đầu tư và chứng khoán – coi đây vừa là hoạt động kinh doanh vừa là bước đi mang tính chất chiến lược, để tạo cơ sở cho việc cải cách hệ thống sau này.
Nghiên cứu các giải pháp để xây dựng một nền tảng công nghệ mới, bao gồm cả hệ thống cơ sở ( core banking ), chuẩn bị cho bước cải cách cơ bản phù hợp với quy mô phát triển ngân hàng, phương thức quản lý mới và cấu trúc ngân hàng mới sau khi đã cổ phần hóa và hình thành tập đoàn.
2.1.3. Định hướng phát triển của SGD NHNT và định hướng phát triển tín dụng trung dài hạn.
2.1.3.1.. Định hướng phát triển của SGD
SGD ngoại thương phấn đấu trong năm 2008 :
Tổng tài sản tăng 40%,
Dư nợ tăng 20%,
Huy động vốn tăng 40%
so với năm 2007. Ngân hàng sẽ thẩm định các dự án có hiệu quả hơn, vì vậy sẽ chỉ cấp tín dụng cho những dự án thực sự có hiệu quả và có khả năng trả nợ.
2.1.3.2. Định hướng phát triển tín dụng trung dài hạn.
Định hướng tín dụng năm 2008 là nâng cao vị thế của Sở Giao Dịch nói riêng và vị thế của Ngân hàng ngoại thương nói chung trong lĩnh vực tài trợ dự án, tăng cường thu hút các dự án nhỏ để mở rộng cơ sở khách hàng bên cạnh việc tiếp tục tìm kiếm các dự án lớn có hiệu quả hơn để tăng dư nợ tại địa bàn Hà Nội và các địa bàn khác được Hội sở chính cho phép đầu tư.
Kế hoạch tín dụng trung dài hạn trong năm 2008 là :
Trong năm tới phòng ĐTDA vẫn chủ trương kế thừa phát triển tinh thần kinh doanh của năm 2007; phối hợp với phòng Quan hệ khách hàng để tìm các dự án tốt, hiệu quả để cho vay đồng tài trợ.
Về tín dụng trung và dài hạn dự kiến tổng giá trị đã rút và cam kết đến cuối năm 2008 đạt khoảng 3000 tỷ quy VND và tổng dư nợ đạt 1.200 tỷ quy VND; tiếp tục theo dõi các khoản nợ quá hạn và có các biện pháp thu hồi ngay khi có điều kiện.
2.2. Những giải pháp đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả thẩm định dự án và thẩm định khả năng trả nợ tại SGD NHNT.
2.2.1. Những giải pháp chung.
2.2.1.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đạo đức cán bộ thẩm định.
Chất lượng nguồn nhân lực có thể coi là một trong những yếu tố chủ quan quan trọng nhất tác động đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Một nhân viên tín dụng có trình độ nghiệp vụ cao, có trách nhiệm và đạo đức nghề nhiệp tốt không những sẽ tạo ra những khoản tín dụng có chất lượng mà còn tạo ra sự tin tưởng của của khách hàng đối với ngân hàng. Do đó, NHNT cần phải chú trọng đến việc xây dựng một đội ngũ nhân viên giỏi chuyên môn, nghiệp vụ và có đạo đức nghề nghiệp.
Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng cán bộ :
Ngân hàng phải chuẩn hóa cán bộ tín dụng : cán bộ tín dụng có vai trò quan trọng đối với hoạt động ngân hàng, có thể mang lại lợi nhuận cũng như rủi ro nên cán bộ tín dụng phải có một số tiêu chuẩn sau :
Được đào tạo đúng chuyên ngành ở các trường đại học.
Có khả năng ngoại ngữ tin học, đủ điều kiện để phục vụ cho việc nghiên cứu tài liệu giao dịch và sử dụng máy tính trong tính toán, thẩm định dự án đầu tư
Có phẩm chất đạo đức tốt.
Có hiểu biết xã hội, khả năng giao tiếp tốt.
Ngân hàng phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ và các kiến thức liên quan khác cho cán bộ thẩm định. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên được coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ngân hàng để nâng cao năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần đẩy mạnh công tác trên bằng các hình thức :
Đào tạo trong nước : NH tổ chức nhiều khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, với các chủ đề chính như : pháp luật, kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế, quản trị công ty và tuân thủ pháp luật, quản trị tài sản nợ, tài sản có, quản lý rủi ro doanh nghiệp…Để thực hiện công tác đào tạo cán bộ đạt được kết quả tốt, NH có thể mời các giảng viên từ các trường đại học về chuyên ngành ngân hàng, đầu tư như trường Đại học kinh tế quốc dân, Học viện ngân hàng… Hoặc phối hợp với các vụ chức năng của Ngân hàng tổ chức các khóa đào tạo về các nghiệp vụ liên quan đến thẩm định khách hàng vay vốn ngân hàng.
Thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học
Tổ chức các khóa học thêm về công nghệ thông tin : cán bộ phải biết sử dụng thành thạo hệ thống máy tính phục vụ tốt hơn cho việc tìm kiếm thông tin, thẩm định, giảm tải công việc phải làm.
Khảo sát tại nước ngoài : Tổ chức các đoàn khảo sát học tập kinh nghiệm của các nước trong khu vực.
Hạn chế rủi ro đạo đức cán bộ thẩm định : giải pháp này có tính xuyên suốt hoạt động tín dụng nói chung và công tác thẩm định nói riêng.
2.2.1.2. Nâng cao công tác phục vụ khách hàng.
Trong hoạt động của mình, các ngân hàng đều mong muốn có thể thoả mãn tất cả các yêu cầu của khách hàng. Mong muốn trên là hợp lý nhưng để thực hiện được lại không hề đơn giản. Không phải khách hàng nào đến với ngân hàng là đã đủ các điều kiện cần thiết để quan hệ với ngân hàng, NHNT cần phải giúp họ một cách tận tình để đạt những điều kiện cần thiết. Thực tế đặt ra nhiều trường hợp khách hàng thấy các thủ tục ngân hàng quá rườm rà đã phát sinh tâm lý ngại vay vốn dẫn tới ngân hàng mất đi các khách hàng. Do vậy, NHNT cần phải chú ý tới việc hướng dẫn khách hàng làm sao ngay trong lần tiếp xúc đầu tiên với cán bộ ngân hàng đã để lại cho khách hàng sự yên tâm và tin tưởng. Tiếp đó, trong quá trình phục vụ khách hàng, các nhân viên phải luôn hiểu khách hàng kể cả những khó khăn của họ. Điều này sẽ giúp ngân hàng không chỉ giữ được những khách hàng truyền thống mà còn có khả năng thu hút thêm nhiều khách hàng mới.
2.2.1.3. Nên có chính sách lương, đãi ngộ hợp lý cho cán bộ.
NHNT phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhân viên trung thành với ngân hàng của mình. Đây là một vấn đề không hề đơn giản đối với tất cả các ngân hàng thương mại nói chung. Nếu nhân viên của ngân hàng không thích ngân hàng và ra đi thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ngân hàng. Vì vậy NHNT cần phải tăng cường chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân viên ngân hàng để họ có thể an tâm cống hiến cho ngân hàng. Điều này rất cần thiết đối với NHNT để xây dựng ngân hàng ngày một thịnh vượng và phát triển.
Công tác thi đua khen thưởng là động lực, động viên khơi dậy tiềm năng nội lực của mỗi đơn vị cá nhân hăng hái vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chuyên môn, góp phần xây dựng đơn vị, cơ quan vững mạnh. Nên có chế độ thưởng phạt rõ ràng do cán bộ tín dụng luôn luôn phải đối mặt với rủi ro, cần có chế độ tiền lương đặc biệt để khuyến khích người làm tín dụng xảy ra rủi ro đạo đức. Có chế độ thưởng cho những người thu hút được nhiều khách hàng, thẩm định có hiệu quả khách hàng.
Lấy các ngày kỷ niệm lớn để tổ chức phong trào thi đua, ngoại khóa để nâng cao tinh thần thi đua, đoàn kết, gắn bó.
Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến tư tưởng cho người làm tín dụng để họ chấp hành đúng quy trình nghiệp vụ.
2.2.1.4. Nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức điều hành
Hiện nay, công ty thực hiện việc quy trách nhiệm về từng nhân viên tín dụng. Điều này có nghĩa là mỗi khi công ty nhận được hồ sơ dự án xin thuê của khách hàng, dự án này sẽ được giao cho 1 nhân viên tín dụng và người này sẽ phải tiến hành độc lập từ việc hướng dẫn làm hồ sơ hợp lệ đến việc thẩm định dự án và giám sát việc thực hiện dự án. Việc này có ưu điểm nâng cao tinh thần trách nhiệm của nhân viên công ty. Tuy nhiên, việc này cũng có bất lợi vì một nhân viên kinh doanh không thể kiêm quá nhiều công việc và đương nhiên kết quả thẩm định sẽ sơ sài.
Vì vậy, ngoài việc thực hiện phân quyền phán quyết như quy định của ngân hàng nông nghiệp đối với những dự án đầu tư; giải pháp khuyến nghị là công ty nên chuyên môn hoá công tác thẩm định dự án bằng một bộ phận nhân viên riêng. Những nhân viên chuyên trách công việc này phải là những người có phẩm chất cũng như trình độ. Như vậy, thời gian tiến hành thẩm định là đủ ngắn, chi phí thẩm định không quá lớn để có thể thực hiện đồng thời do chuyên trách nên công tác này sẽ được những nhân viên tiến hành kĩ lưỡng.
2.2.1.5. Đầu tư hiện đại hóa ngân hàng.
Cũng như các tổ chức tín dụng khác đang trong giai đoạn hội nhập sâu rộng với cộng đồng quốc tế, để có thể đáp ứng yêu cầu hội nhập, quản lý rủi ro tín dụng, SGD NHNT nên tiếp tục triển khai chương trình hiện đại hóa ngân hàng nhanh và mạnh hơn nữa.
Yêu cầu của xu thế cạnh tranh và ưu thế của thông tin trong cạnh tranh đòi hỏi ngân hàng phải đảm bảo hệ thống máy tính kết nối sẵn có hoạt động có hiệu quả, đồng thời phải nâng cấp để tránh lạc hậu. Tiếp tục ứng dụng những phần mềm tin học quản lý, lưu trữ để có thể truy cập khi cần, tính toán số liệu, chỉ tiêu tài chính và đưa vào những chương trình tin học để giảm những công đoạn tính toán thủ công cho những nhân viên thẩm định.
Hơn nữa, các chi nhánh trong cùng hệ thống có thể thông tin cho nhau về tình hình hoạt động của khách hàng có quan hệ tín dụng trong hệ thống một cách nhanh chóng nhất. Các ngân hàng có thể phối hợp để cho vay và quản lý đối với một khách hàng, tránh việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một công trình dẫn đến rủi ro trong hoàn trả nợ.
2.2.2. Những giải pháp về nghiệp vụ.
2.2.2.1. Giải pháp về quy trình thẩm định.
Hiện nay quy trình thẩm định của Ngân hàng Ngoại Thương đã được nghiên cứu và áp dụng thống nhất trên toàn bộ hệ thống. Quy trình này được xây dựng một cách khá hoàn chỉnh, khoa học, rõ ràng và dễ hiểu; tuy nhiên không phải là không có những hạn chế. Trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định tùy theo dự án khác nhau có thể linh hoạt áp dụng quy trình này để làm sao phù hợp nhất nhưng vẫn phải dựa trên các ý chính của quy trình chuẩn. Nếu thấy có sai sót, cán bộ có thể đề nghị sửa đổi bổ sung để hoàn thiện quy trình hơn nữa.
2.2.2.2. Phương pháp thẩm định khả năng trả nợ.
Về phương pháp, công ty hiện nay chủ yếu sử dụng những phương pháp phân tích khả năng trả nợ theo trạng thái "tĩnh" của tiền, hệ thống chỉ tiêu áp dụng chủ yếu là những số liệu tính gộp. Ngân hàng cần phải sử dụng những phương pháp thẩm định khả năng trả nợ dựa vào giá trị thời gian của tiền - là những phương pháp phổ biến trong nền kinh tế hiện đại - kết hợp với những phương pháp hiện đại đang được thực hiện tại công ty để thẩm định một cách chính xác.
Sử dụng kết hợp được các phương pháp này, hệ thống chỉ tiêu thẩm định bao gồm cả những số liệu tương đối - là kết quả của việc phân tích tài chính, chấm điểm tín dụng - và những số liệu tuyệt đối - kết quả của các phương pháp thời gian hoàn vốn vay, thời gian hoàn vốn đầu tư, giá trị hiện tại ròng, điểm hòa vốn. Những kết luận rút ra từ hệ thống chỉ tiêu đó sẽ tránh được những khiếm khuyết của từng phương pháp phân tích riêng biệt.
Riêng đối với phương pháp phân tích dựa vào giá trị thời gian của tiền, cần chú ý đến sự thay đổi của chi phí cũng như lợi ích trong suốt thời kỳ thực hiện dự án.
Yếu tố cần quan tâm nhất ở đây là việc xác định dòng tiền và tỷ suất chiết khấu hợp lý.
Dòng tiền thường được xem xét như sự chênh lệch của tổng doanh thu và tổng chi phí của dự án. Trong trường hợp xác định được chính xác chi phí và lợi ích, dòng tiền đó có thể chấp nhận. Tuy nhiên, đứng trên góc độ nhà tài trợ, doanh nghiệp nên xác định dòng tiền gồm cả dòng tiền của chủ đầu tư và dòng nợ của người thuê - là dòng thanh toán lãi thuê và nợ gốc.
Về việc xác định tỷ suất chiết khấu, đây không phải là việc dễ dàng và thực tế là cũng chưa có một quy định nào giúp xác định một tỷ lệ chiết khấu chính xác. Tuỳ vào chi phí vốn đối với từng chủ thể tiến hành phân tích mà tỷ lệ chiết khấu được tính khác nhau với mỗi dự án cụ thể. chi phí vốn đối với công ty không hề giống nhau ở mọi thời điểm cũng như trong mọi dự án. Vì vậy, thiết nghĩ, tuỳ vào dự án cụ thể và khả năng huy động vốn trong mỗi thời điểm của công ty để có những lựa chọn thích hợp về tỷ suất chiết khấu. Việc lựa chọn này hoàn toàn không được dựa vào sự quyết định chủ quan của nhân viên tín dụng cũng như không nên cố định theo các văn bản của cơ quan cấp trên. Công ty có thể áp dụng mô hình định giá tài sản vốn để có những tính toán tương đối chính xác hoặc dựa vào chi phí trung bình của vốn để rút ra tỷ suất chiết khấu thích hợp.
Sau khi đã có những tính toán chính xác về dòng tiền và tỷ suất chiết khấu, công ty nên tính đến độ nhạy của dự án. Đây là điều cần thiết vì các giá trị hiện tại và tỷ suất nội hoàn được tính toán dù là đã tính đến giá trị thời gian của tiền nhưng vẫn sử dụng những yếu tố có tính thời điểm. Các yếu tố này mỗi khi thay đổi trong khi dự án được tiến hành có thể sẽ dẫn đến những thay đổi bất lợi của các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư. Cũng tuỳ vào những nhân tố mà mức thay đổi so với tính toán sẽ khác nhau như giá cả, tỷ giá… Việc áp dụng riêng từng khoảng biến động sẽ có được những kết luận chính xác về ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu hiệu quả dự án.
2.2.2.3.Về nội dung thẩm định khả năng trả nợ :
Thứ nhất, thu từ tính khả thi của dự án kinh doanh: Khi thẩm định cán bộ tín dụng đã cùng khách hàng tính toán xác định chu kỳ kinh doanh, dòng tiền của phương án, dự án hoặc nguồn trả nợ khác để thống nhất thời hạn cho vay, kỳ hạn nợ. Từ cái gốc khi thẩm định chúng ta phải cùng khách hàng ngồi lại để làm rõ nguyên nhân tại đâu? Nếu do năng lực thẩm định của cán bộ yếu kém dẫn đến xác định thời hạn cho vay sai hoặc do nguyên nhân khách quan thì Ngân hàng cùng Doanh nghiệp bàn bạc điều chỉnh hoặc gia hạn nợ cho phù hợp. Nếu không vì lý do trên, cán bộ tín dụng phải cùng đơn vị đối chiếu dòng tiền giải ngân để xác định cụ thể hình thái biểu hiện của tiền vay. Các đối tượng cho vay là Chi phí sản xuất chung, chi phí quản lý doanh nghiệp... các khoản chi phí này được tập hợp lại sau đó phân bổ cho các sản phẩm, dự án hoặc các công trình. Dù khó nhưng đây là điều bắt buộc vì chỉ có như vậy mới xác định được nguồn để đánh giá khả năng thu nợ chính xác. Trong quá trình đối chiếu nếu:
* Vốn nằm ở khâu nguyên vật liệu: phải xác định rõ nguyên nhân: Trường hợp nguyên vật liệu nhập về không sử dụng được do kém, mất phẩm chất, do không đồng bộ... phải yêu cầu khách hàng tính toán, xác định lại nếu thấy không cần thiết sử dụng hoặc không thể sử dụng được phải bán để trả nợ Ngân hàng, nếu càng để lâu càng phát sinh thêm chi phí, doanh nghiệp càng lỗ;
* Vốn vay đang nằm trên dây chuyền sản xuất : đây là sản phẩm dở dang, số vốn này cũng không lớn, nếu so sánh với 1 vài năm thấy có sự tăng đột biến cần phải làm rõ vì lý do gì? do chi phí đầu vào tăng hay do mở rộng sản xuất để xem xét có hợp lý không? Nếu do chi phí đầu vào tăng hay do mở rộng sản xuất hoặc có dấu hiệu không minh bạch trong hạch toán kế toán phải phân tích từng trường hợp cụ thể để có biện pháp quản lý và kế hoạch đầu tư thích hợp.
* Vốn vay ở khâu thành phẩm, hàng hoá phải xem xét lại khâu tiêu thụ như: Phương thức bán hàng, giá cả, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường, mạng lưới tiêu thụ, công tác quảng cáo, chính sách khuyến mại… Yêu cầu khách hàng giải trình biện pháp tháo gỡ, bán hàng trả nợ;
* Vốn đang nằm khâu hàng gửi bán đề nghị khách hàng kiểm tra, đối chiếu lại vì rất nhiều trường hợp các khách hàng, các đại lý, cửa hàng đã bán hàng nhưng không hạch toán tiêu thụ để chiếm dụng vốn.
* Vốn vay đang ở công nợ phải thu : Yêu cầu khách hàng rà soát đối chiếu với hợp đồng mua bán để biết được khoản nợ đã quá hạn hay chưa? có khả năng thu hồi hay không?
Trong quá trình xác định nguồn thu, đánh giá khả năng thu, làm cam kết với khách hàng về tiến độ trả nợ cán bộ cần kết hợp đánh giá, kiểm tra tính chính xác của các số liệu, xu hướng phát triển (xấu đi hay tốt dần) để có kế hoạch đầu tư đúng đắn đảm bảo an toàn, hiệu quả.
Như vậy, sau khi đối chiếu xác định hình thái vốn vay sẽ có một bộ phận vốn vay không thể xác định được, nói cách khác không có vật tư, hàng hoá... tương đương làm đảm bảo, ngoài lý do số vốn vay phục vụ chi phí sản xuất chung , chi phí quản lý doanh nghiệp hay chi phí bán hàng phải phân bổ như nói trên còn một bộ phận vốn có thể do sử dụng vốn sai mục đích (dùng vốn ngắn hạn mua sắm tài sản cố định và đầu tư dài hạn) và vốn thất thoát do kinh doanh thua lỗ. Để phân tích đánh giá tình hình sử dụng vốn ngắn hạn vào mua sắm tài sản cố định và đầu tư dài hạn nhất thiết phải dựa vào tình trạng tài chính và phương trình kế toán sau:TSCĐ Vốn Nợ Nhận ký quỹ, và đầu tư dài hạn = cố định + dài hạn + ký cược dài hạn (1) (2) Nếu (1) > (2) doanh nghiệp đã sử dụng vốn sai mục đích: Lấy vốn ngắn hạn mua sắm TSCĐ và đầu tư dài hạn. Trường hợp này cán bộ phải làm rõ tài sản, công trình nào và nếu đó là vốn Ngân hàng cho vay thì đã chuyển nợ quá hạn hay chưa? đồng thời yêu cầu doanh nghiệp có biện pháp tháo gỡ, khắc phục. Số vốn thất thoát chính là toàn bộ số lỗ luỹ kế, cần đối chiếu với số được cấp bù (nếu doanh nghiệp được cấp bù) để xem số thực lỗ và đối chiếu với số vốn chủ sở hữu (sau khi đã trừ phần vốn dùng mua sắm TSCĐ và đầu tư dài hạn) để biết số lỗ đã vượt quá vốn chủ sở hữu chưa?
Đối với số nợ vay sử dụng sai thoả thuận, nợ thất thoát do kinh doanh thua lỗ, phải yêu cầu doanh nghiệp làm cam kết trả nợ trước hạn theo đúng quy định của quy chế bảo đảm nợ vay của Chính Phủ và khẩn trương nắm, bắt tài sản để xử lý thu hồi tránh khả năng mất vốn.
Thứ hai, thu từ tài sản bảo đảm: ở trên ta đã xác định được giá trị vật tư, hàng hoá và công nợ tương đương đảm bảo cho khoản vay. Ngoài hướng giải quyết các đối tượng này để thu nợ có thể còn có nguồn thu dự phòng từ tài sản bảo đảm. Để đánh giá nguồn thu này, cán bộ phải cùng khách hàng rà soát lại tính pháp lý của tài sản, thực trạng tài sản, thủ tục và khả năng bán, chuyển nhượng... và tranh thủ sự ủng hộ của các cơ quan chức năng xử lý thu hồi nợ vì càng để lâu càng khó xử lý, tài sản càng xuống cấp mất giá trị.
Thứ ba, thu từ nguồn khác:
* Thu từ sản xuất kinh doanh: Doanh nghiệp chỉ có thể lấy một phần lợi nhuận trả nợ còn vốn quay vòng tái sản xuất đảm bảo hoạt động bình thường. Đối với doanh nghiệp còn quan hệ tín dụng thì dùng để trả nợ cũ vay mới, đối với doanh nghiệp đã cắt quan hệ tín dụng với Ngân hàng thì bằng mọi cách họ không thể trả nợ. Tuy nhiên, cán bộ vẫn phải tính toán để biết được doanh nghiệp còn sản xuất hay không? và sản xuất có lãi hay lỗ? Để đánh giá chính xác doanh nghiệp sản xuất lỗ hay lãi và khẳng định có lợi nhuận để trả nợ hay không? cần lưu ý một số khoản chi phí mà doanh nghiệp hay trốn như khấu hao tài sản cố định, lãi vay ngân hàng... Đặc biệt chú ý phải hạch toán, phân bổ số phải trích, phải trả theo quy định chứ không phải hạch toán, phân bổ số đã trích, đã trả như rất nhiều doanh nghiệp hiện đang làm vì mục đích làm sai lệch kết quả kinh doanh. Hình thức tiếp tục cho vay nuôi nợ, phải được thẩm định rất thận trọng cho từng phương án và khi đã cho vay cần phải tăng cường công tác quản lý để đạt mục đích giảm nợ.
* Thu từ nguồn khác (nếu có): Ngoài các khoản thu trên có thể doanh nghiệp còn một số khoản khác có thể thu được như các nguồn kinh phí hỗ trợ từ đơn vị chủ quản, các khoản đầu tư đến hạn, bán các tài sản khác, phát hành cổ phiếu... cần phải được thẩm định, đánh giá cụ thể cho từng trường hợp.
2.2.2.4. Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin.
Cán bộ tín dụng cần nghiên cứu, khảo sát tình hình thực tế tại cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thấy rõ tình trạng hiện thời của doanh nghiệp cũng như quan sát tình hình hoạt động ở văn phòng, kho bãi. Nhân viên thẩm định nên chú ý xem doanh nghiệp được tổ chức như thế nào, kho bãi, tác phong làm việc, tiếp xúc với ban lãnh đạo… Khi thu thập thông tin về doanh nghiệp, cán bộ tín dụng nên chú ý tới các doanh nghiệp khi họ không sẵn sàng cung cấp các thông tin theo yêu cầu.
Mở rộng nguồn thu thập thông tin : từ nước ngoài, có quan thông tin tín dụng Asean, hiệp hội thông tin tín dụng Châu Á…
Sau khi thu thập thông tin cán bộ tín dụng cần phân loại thông tin, đánh giá độ chính xác của thông tin, tầm quan trọng của thông tin với việc đánh giá doanh nghiệp và dự án xin vay vốn. Cách xử lý thông tin đơn giản là xếp loại từng tiêu thức đánh giá và lập bảng theo dõi từng khách hàng.
Nhu cầu thông tin về khách hàng của các ngân hàng thương mại là rất lớn và nó có ảnh hưởng rất nhiều đến quyết định cho vay của các ngân hàng. Hiện nay, Ngân hàng nhà nước cũng đã có Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) và trung tâm này hoạt động cũng tương đối hiệu quả. Tuy nhiên trung tâm chủ yếu cập nhật các thông tin về các doanh nghiệp còn các cá nhân thì hầu như không có. Hơn nữa, những thông tin của trung tâm này chỉ dừng ở mức độ tham khảo cho mỗi ngân hàng thương mại. Hoạt động của trung tâm này bằng cách Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng báo cáo những món vay qua đó sẽ đáp ứng nhu cầu thông tin cho các ngân hàng thương mại khác khi họ có nhu cầu. Thời gian tới đây, Ngân hàng nhà nước cần phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của trung tâm này ; đồng thời cũng cần hoàn thiện hành lang pháp lý về thu thập, xử lý, phân tích, cung cấp thông tin để phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ của các ngân hàng.
2.2.2.5. Giải pháp về hoàn thiện công tác thẩm định
Cán bộ thẩm định nên chuyên môn hóa các nội dung phân tích và giao cho những chuyên gia đảm trách phân tích từng màng chuyên môn riêng của mình. Cách này có ưu điểm là chuyên môn hóa cao, tránh được những sai sót do khiếm khuyết trong nghiệp vụ, đặc biệt như các mảng phân tích thủ tục pháp lý của hồ sơ vay và tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó, việc thực hiện này đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cá nhân hoặc phòng, ban tham gia phân tích để đảm bảo tính hệ thống và kịp thời. Để có hình thức tổ chức phân tích hợp lý các nhà quản trị phải biết cách vận dụng trong từng điều kiện cụ thể. Tình huống nào áp dụng, hoặc đối với loại khách hàng nào sẽ được ghi rõ trong chính sách tín dụng của mỗi ngân hàng. Việc một nhân viên hay nhiều người đồng thời thực hiện một nội dung phân tích tùy thuộc vào quy mô của nhu cầu đề nghị cấp tín dụng, cũng như mức độ phức tạp của việc phân tích.
Những nhu cầu tài trợ dài hạn thường xuyên phải đòi hỏi độ an toàn cao hơn khoản ngắn hạn nên cần thiết phải xử lý một lượng lớn thông tin. Do đó có sự tham gia của nhiều người thẩm định là rất cần thiết, đảm bảo tính chính xác, khách quan và nhanh chóng.
2.2.2.6.Giải pháp về chính sách tín dụng.
Xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý giúp ngân hàng thực hiện được những mục tiêu kinh doanh và hạn chế được rủi ro. Chính sách tín dụng cần phải có quy định rõ ràng và phải được truyền đạt đến các bộ phận liên quan tại ngân hàng dưới hình thức những văn bản cụ thể. Chính sách tín dụng cần phải chi tiết hơn về từng loại khách hàng, cần có các văn bản hướng dẫn chi tiết về lập tờ trình, hướng dẫn phân tích bảng lưu chuyển tiền tệ, nên có những quy định rõ nội dung của từng khâu công việc, trách nhiệm cụ thể của cán bộ tín dụng nói chung và cán bộ thẩm định nói riêng. Chính sách tín dụng cũng cần đưa ra các hình thức chế tài hợp lý để xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, làm trái quy trình thẩm định, dẫn tới không đảm bảo chất lượng tín dụng, tăng nguy cơ rủi ro.
2.2.3. Một số kiến nghị về công tác thẩm định.
2.2.3.1. Kiến nghị đối với nhà nước.
Đề nghị NHNN phối hợp với các Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Tổng cục Thống kê... xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực cùng các ngưỡng đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản... làm cơ sở để so sánh, đánh giá dự án.
Đề nghị các bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư, nâng cao trình độ, chất lượng thẩm định dự án.
Cần hỗ trợ thông tin hơn nữa về thị trường : nhà nước cần tích cực xây dựng và có biện pháp khuyến khích việc phát triển thể chế nhằm hỗ trợ thông tin về thị trường. Nhà nước có thể đưa ra các ưu thế để phát triển các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thông tin, cung cấp dịch vụ đánh giá xếp hạng doanh nghiệp, định giá tài sản…Mặc dù hiện nay ở Việt Nam đã có một số tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao. Đây là một lĩnh vực khá mới cần có sự hỗ trợ của nhà nước trong giai đoạn đầu tiếp cận khách hàng, thu thập thông tin.
Mô hình trung tâm thông tin tín dụng (TTTD)/(CIC) tại Việt Nam hiện còn rất mới. Trung tâm thông tin tín dụng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mới được thành lập từ năm 1999. Trung tâm này là một tổ chức hành chính sự nghiệp, thực hiện việc cung cấp thông tin tín dụng cho hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, các thông tin do Trung tâm cung cấp vẫn chưa đảm bảo tính cập nhật và chính xác cao. Để trung tâm này hoạt động có hiệu quả thì Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra các chế tài nhằm nâng cao trách nhiệm của các ngân hàng trong việc cung cấp thông tin khách hàng có quan hệ tín dụng một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác. Từ đó, các ngân hàng có thể khai thác thông tin từ hệ thống này, làm cơ sở đánh giá năng lực và uy tín của khách hàng khi họ có nhu cầu vay vốn.
Đẩy nhanh việc thành lập trung tâm tín dụng tư nhân. Tốc độ tăng trưởng tín dụng đang tạo ra một nhu cầu rất lớn về thông tin tín dụng mà khả năng và nguồn lực của CIC không thể đáp ứng hết. Hơn nữa, nước ta chưa có TTTD tư nhân. Do hạn chế này mà phạm vi thu thập thông tin tín dụng còn rất hạn hẹp. Việc nhà nước hỗ trợ thành lập các trung tâm tín dụng tư nhân là rất cần thiết. Trong gần bốn năm qua, NHNN đã quan tâm tới vấn đề này và tham vấn sự hỗ trợ kỹ thuật từ công ty tài chính quốc tế IFC. Những nỗ lực này cần được đẩy nhanh hơn nữa để TTTD tư nhân có thể sớm ra đời và hoạt động hiệu quả tại Việt Nam.
Nhà nước cần quy định rõ hơn trách nhiệm của chủ đầu tư và người có thẩm quyền quyết định đầu tư, trách nhiệm của các bên đối với các kết quả thẩm định trong nội dung dự án đầu tư. Đã là chủ đầu tư thì thoát ly khỏi chức năng quản lý Nhà nước để tập trung vào công tác quản lý xây dựng, tổ chức hạch toán, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư.
Triển khai đề án hỗ trợ nâng cao năng lực các doanh nghiệp vừa và nhỏ để doanh nghiệp có đủ điều kiện tiếp cận các khoản vay của ngân hàng. Hiện ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì đa số các doanh nghiệp thuộc đối tượng này không đủ điều kiện vay vốn ngân hàng. Mặt khác sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang trong giai đoạn khởi đầu nên còn chưa ổn định và vững chắc. Đặc biệt là việc thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phương đặc biệt là ở Hà Nội triển khai còn chậm, ảnh hưởng đến việc bảo lãnh vay của ngân hàng.
Nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo theo đúng quy định, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc tạo điều kiện giúp ngân hàng trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, tài chính dự án.
Có chính sách bảo vệ người cho vay ( ngân hàng ) vì theo nguyên tắc thông thường thì khi người vay không hoàn trả được nợ, ngân hàng có quyền bán các tài sản bảo đảm, thế chấp để thanh lý các khoản nợ đó mà không phải thông qua một cơ quan tài phán nào, ngoại trừ trường hợp tín dụng có tranh chấp.
Chỉ đạo các bộ, ngành ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật cần kịp thời, đồng bộ rõ ràng, thống nhất và sát thực tế hơn, loại bỏ những bất cập và chồng chéo; tránh tình trạng Luật đã có hiệu lực thi hành mà vẫn chưa có văn bản hướng dẫn. Điều này giúp cho cán bộ thẩm định có thể tiếp cận dễ dàng hơn với những văn bản pháp quy của nhà nước để thuận lợi hơn trong quá trình thẩm định khách hàng.
2.2.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước.
NHNN cần hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, hỗ trợ cho các NHTM và nâng cao nghiệp vụ thẩm định đồng thời mở rộng phạm vi, nội dung và tăng tính cập nhật của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng. Hàng năm, NHNN cần tổ chức các hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các NHTM trong công tác thẩm định.
Đề nghị bộ phận thẩm định các NHTM Việt Nam phối hợp với nhau để trao đổi kinh nghiệm và thông tin. Đặc biệt, xu hướng hiện nay là các ngân hàng cho vay đồng tài trợ những dự án quy mô lớn, việc hợp tác sẽ tận dụng được thế mạnh của mỗi ngân hàng trong việc thẩm định.
2.2.3.4. Về phía các doanh nghiệp
Đề nghị các chủ đầu tư nâng cao năng lực lập và thẩm định các dự án đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định trong thông tư số 09/BKH/VPTĐ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về xây dựng và thẩm định dự án.
Các chủ đầu tư cần phải nhận thức đúng vai trò, vị trí của công tác thẩm định dự án trước khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả. Các dự án phải được xác định đầu tư đúng tổng số vốn theo thời điểm xây dựng, khắc phục tình trạng làm khối lượng nhiều nhưng tính toán ít để dễ phê duyệt.
Các doanh nghiệp nên tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng tiếp cận thông tin về chính doanh nghiệp của mình khi muốn có nhu cầu vay vốn. Doanh nghiệp có thể phát tín hiệu đến ngân hàng thông qua các cuộc bình chọn doanh nghiệp của các tổ chức uy tín, sử dụng kiểm toán kiểm tra báo cáo tài chính hàng năm để ngân hàng thấy được uy tín và năng lực của mình.
Doanh nghiệp phải thu xếp đơn xin vay của mình như thế nào để ngân hàng có đủ thời gian xem xét theo đúng thủ tục, kể cả việc chuẩn bị về mặt giấy tờ, phân tích tài chính, kiểm tra độ tin cậy. Vì vậy phải chuẩn bị tối đa để đảm bảo đơn xin vay trình bày đầy đủ cho ủy ban tín dụng, tránh để đến phút chót có thể ảnh hưởng đến sự chấp thuận vay, nhất là khi phải bổ sung thông tin.
Kết luận.
Trong nền kinh tế cạnh tranh như hiện nay thì việc mở rộng, nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho các doanh nghiệp xin vay vốn là một điều tất yếu. Việc nâng cao công tác thẩm định vừa có lợi cho doanh nghiệp lại vừa có lợi cho ngân hàng. Bởi vì, việc thẩm định giúp cho ngân hàng xác định được khách hàng tiềm năng của mình, giảm được rủi ro khi cho vay vốn, nâng cao khả năng thu hồi nợ vay. Việc thẩm định giúp cho doanh nghiệp nhận thấy được những sai sót, nhược điểm của mình trong quá trình lập dự án. Vì thế có biện pháp khắc phục chỉnh sửa để đầu tư một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên hoạt động thẩm định và chất lượng hoạt động thẩm định là vấn đề không chỉ giới hạn trong một phạm vi một ngân hàng, một doanh nghiệp mà còn gắn liền với nhiều nhân tố khác như các vấn đề pháp lý, môi trường vĩ mô. Vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định không chỉ phụ thuộc vào chính ngân hàng mà còn phải có sự phối hợp , hỗ trợ của nhà nước, của các cơ quan hữu quan và các tầng lớp xã hội.
Những giải pháp em nêu trong đề tài chỉ là một chút góp sức nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng thẩm định tại SGD NHNT. Hơn nữa trong thời gian thực tập và trình độ có hạn nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong sự chỉ bảo góp ý của cô giáo và người đọc.
Em xin chân thành cảm ơn !
PHỤ LỤC
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi, không sao chép bất kỳ một công trình hay một chuyên đề, luận văn của tác giả nào khác. Các số liệu, kết quả trong chuyên đề này là trung thực, các tài liệu tham khảo có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Tác giả chuyên đề
Vũ Thùy Dương.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20787.doc