Như vậy Công ty cổ phần là loại mô hình kinh doanh của nền sản xuất lớn hành hoá phù hợp với cơ chế thị trường cạnh tranh là sản phẩm trí tuệ khách quan của loài người, không phải của CNTB. Theo quan điểm của mác chủ nghĩa xã hội phải biết tận dụng cái hay cái đẹp, cái tiến bộ của các giai đoạn lịch sử đã qua để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có sản xuất nhỏ, coi theo mới tự phát đi lên CNTB còn xu hướng tập trung và phân tán tư bản theo chiều hướng phát triển sản xuất lớn với mô hình Công ty cổ phần, chưa cổ phần vẫn đảm bảo đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa phục vụ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vì vậy, cổ phần hoá một bộ phần Doanh nghiệp Nhà nước là phù hợp với nền kinh tế thị trường, nhằm giảm gánh nặng đầu tư bao cấp tràn lan kém hiệu quả, táûp trung vốn đầu tư và các ngành trọng điểm chiến lược phục vụ sản xuất lớn. Do đó có thể kết luận rằng: cổ phần hóa một bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước là phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa của mục tiêu dân giày nước mạnh. xã hội công bằng văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra cho yêu cầu xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
74 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng CPH Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lệ vốn CBCNV (%)
Tỷ lệ vốn cổ đông ngoài (%)
1
Đại lý LH vận chuyển ((TCT Hàng Hải)
01/01/93
6200
18
77
5
2
Cơ điện lạnh (TP HCM)
01/10/93
16000
30
50
20
3
Giày Hiệp An (Bộ Công nghiệp)
01/10/94
4793
30
35,2
34,0
4
CB hàng xuất khẩu Long An (tènh Long An)
01/07/95
3540
30,2
48,60
21,2
5
Công ty CB thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp)
01/07/95
7912
30
50,0
20
6
Công ty Xe khách Hải Phòng (TP Hải Phòng)
01/09/96
1826
30
70
0
7
Khai thác đá Đồng Giao (Bäü Giao thông)
01/09/96
3200
49,8
30,7
19,5
8
CT đầu tư SẢN XUẤT và thương mại (Haì Nội)
01/07/96
356
0
100
0
9
Xí nghiệp tàu thuyền Bình Định (tènh Bình Định)
01/07/96
1150
51
19
30
10
Xí nghiệp Ong mật TP HCM (HCM)
01/07/96
2500
30
18,5
51,5
11
CTCP XKHTS Minh Hải (tỉnh Cà Mau)
01/11/96
10000
51
29
20
12
Khách sạn Sài Gòn (HCM)
01/01/97
18000
40
40
320
13
CTC Nam Đô (HCM)
27/03/97
6400
33
50
17
14
Xí nghiệp sơn Bạch Tuyết (HCM)
01/11/97
20000
35
45
20
15
Công ty Bông Bạch Tuyết (HCM)
05/11/97
11400
30
57
13
16
CTCP Vận tải thủy Hải Dương (tènh Hải Dương)
01/01/98
2863
45,7
54,3
0
17
CT khai thác DVTS Đà Nẵng (TP Đà Nẵng)
01/01/98
3928
46
54
0
18
CTCP Xáng cát (tỉnh An Giang)
01/01/98
1280
23
77
0
19
Cáp và vật liệu BCVT (TCT Bưu chính viến thông)
12/03/98
49
10
41
20
CTCP Thanh Tân TT Huế (Thừa Thiên Huế)
10/04/98
1800
22,7
28,2
49,1
21
CTCP Gạch ngói Phố Phong (Quảng Ngãi)
01/05/98
875
37,5
31,25
31,25
22
CTCP chăn nuôi Di Linh (Lâm Đồng)
01/01/98
1200
58
32
10
23
CTCP du lịc Bảo Lộc (Lâm Đồng)
01/01/98
4300
23
12
65
24
CT Cầu xây (Bộ xây dựng)
01/04/98
6000
10
25
CTCP khách sạn Phú Gia (Haì Nội)
28/05/98
3482
30
70
0
26
CTXNK Nam Hà Nội
27/05/98
12800
57
43
27
CTCP Đông Nam Dược (HCM)
01/02/98
6500
40
42
18
28
CTCP Sứ Bát Tràng (Haì Nội)
02/06/98
1900
60,62
29
CTCP Hải Âu (Hải Phòng)
01/06/98
1282
15
57,9
27,7
30
CTCP Safi (TCT Hàng Hải)
01/07/98
5692
15
40
45
31
CTCP khách sạn Khánh Hoà (TCT BCVT)
01/05/98
2700
30
10
60
32
CTCP Thành Công (Công ty XD3 Hà Nội)
08/98
15000
27,9
62,1
33
CTCP Dịch vụ văn hoá Quận Tân Bình
01/07/98
5850
40
50
10
34
CTCP nước mắm Thanh Hương (Thanh Hoá)
01/09/98
1500
30
50
20
35
CTCP Vận tải ô tô (Tuyên Quang)
01/08/98
2677
40
57,26
2,74
36
CTCP chế biến lâm sản (Tuyên Quang)
01/08/98
0,780
50,33
43,36
6,31
37
CTCP Chè Bảo Lộc (Lám Đồng)
01/07/98
5280
50
19
31
38
CTCP Thuỷ Tinh Gò Vấp (Bäü Công Nghiệp)
01/09/98
4700
40
60
- Tỷ suất lợi nhuận năm 1997 trên vốn sở hữu (gäöm vốn góp ban đầu và vốn tích luỹ) laì 44%.
- Số lao động làm việc tại Công ty cổ phần tăng bình quân: 30% / năm.
- Thu nhập của người lao động tăng bình quân: 14,3% / năm.
Ngoài ra, người lao động có cổ phần trong Công ty còn được chia lợi tức trên vốn góp cố phần từ lợi nhuận sau thuế 22 - 24% / nàm (nãúu gửi tiết kiệm thì tối đa cung chỉ được 12% / năm).
Tóm lại, các Doanh nghiệp đã chuyển thành Công ty cổ phần đều cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên rõ rệt. Nhờ hiệu quả được nâng cao nên tăng thêm được việc làm, tàng thu nháûp cho cổ đông (trong đó có cổ dông Nhà nước và người lao động) væìa âược hưởng cổ tức ở mức cao, væìa tăng giá trị vốn góp tại Công ty, Nhà nước ngoài việc được tăng trưởng vốn góp, âæåüc chia cổ tức, các khoản nộp ngân sách Nhà nước cũng tăng nhanh.
Tuy nhiên, so với mục tiêu chuyển 150 Doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần năm 1998 và so với số lượng các Doanh nghiệp Nhà nước không thuộc diện Nhà nước giữ 100% väún thç quaï cháûm, và không đồng đều giữa các ngành, caïc địa phương, các Tổng Công ty Nhà nước. Cho đếnnnay còn 5 bộ, 35 tènh, thành phố và 11 Tổng Công ty do Thủ tướng Chính phủ thành lập chưa triển khai cổ phần hoá một Doanh nghiệp Nhà nước nào.
iv. nhæîng thaình CÔNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA:
1. Những thành công ban đầu:
Như vậy từ thực tế và kết quả hoạt động của các Doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá có thể rút ra nhận định bước đầu:
- Kãút quaí âaût âæåüc ở 10 Doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá cho ta cơ sở để khẳng định rằng: chuí træång của Đảng và Nhà nước về phát triển hình thức CTCP và cổ phần hoá một số bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước là đúng đắn, nhæîng muûc tiãu âàût ra khi thực hiện cổ phần là thích hợp và có thể đạt được.
Khi thæûc hiện cổ phần hoá, ngoài phân vốn của Nhà nước (thäng thường chiếm 30% tổng giá trị) nhờ việc bán cổ phiếu cho cán bộ, cäng nhân viên chức trong Doanh nghiệp (thường 30 - 50%) và cho các đối tượng ngoài xã hội nên đã huy động, thu huït được một số lượng vốn khá lớn của xã hội vào sản xuất. Ví dụ: Cäng ty xe khách Hải Phòng trước khi cổ phần hoá năm 1991 vốn của xí nghiệp chỉ có 486 triệu đòng, sau khi cäø phần hoá (tính đến ngày 31/12/1998) vốn của Công ty là 2,16 tỷ đồng (tăng lên 4 lần). Như vậy, mục tiêu thu hút rộng rãi các nguồn vốn của xã hội để phát triển sản xuất thông qua giải pháp cổ phần hoá, nhæîng Nhaì næåïc vần giữu vai trò chủ đạo nhờ duy trì cổ phần chi phối giám sát các hoạt động bằng pháp luật và nội dung các điều lệ hoạt động với quy định của Nhà nước.
CTCP laì hçnh thæïc täø chæïc sản xuất kinh doanh xã hội hoá sản xuất và quyền sở hữu tài sản nên nó tạo nên sự liên kết, âan xen giæîa các hình thức sở hữu, caïc thành phần kinh tế để phát triển, nhæng vẫn đảm bảo vai trò chủ đạo, chi phối của sở hữu Nhà nước. Vì trong các CTCP số vốn Nhà nước thường chiếm 30% cuía táöng lớp dân cư và các đối tượng khác chiếm 70% nhæng rất phân tán, người cao nhất cung chỉ không quá 5% tổng cổ phần của Công ty nên khống chế vẫn thuộc về Nhà nước.
- Quyãön lợi của người lao động đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của Công ty, ngæåìi lao âộng một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao và quyền lợi của mình, màût khaïc cũng yêu Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo Công ty hoạt động có hiệu quả để lợi nhuận cao hơn.
Quaín trë Doanh nghiệp trong CTCP với vai trò đại hội cổ đông của Hội đồng quản trị là một phương pháp quản lý dân chủ, thãø hiãûn vaì thực hiện được quyền làm chủ thực sự, træûc tiếp của người lao động, người chủ sở hữu đối với Doanh nghiệp. Quản trị Doanh nghiệp CTCP với cơ chế công khai tài chính đầy đủ hạn chế những tiêu cực, taûo âæåüc loìng tin và thuận lợi cũng như phát huy hết khả năng của giám đốc, caïn bäü công nhan viên chức. Chính nhờ những thay đổi tích cực như vậy, caí 10 Doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá đều có tốc độ phát triển nhanh năng suất, cháút læåüng và hiệu quả, do đó lợi nhuận cũng tăng, taûo công ăn việc làm cho người lao động.
- Các Doanh nghiệp Nhà nước đã chuyển sang CTCP chẳng những bảo toàn được vốn mà còn tăng trưởng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt khá cao. Nhà nước huy động được thêm vốn để đầu tư vào các Doanh nghiệp Nhà nước khác, ngæåìi lao âäüng váùn âæåüc tiãúp tục làm việc và đời sống được cải thiện hơn, âoïng góp cho ngân sách Nhà nước hàng năm cao hơn khi còn là Doanh nghiệp Nhà nước.
2. Nhæîng vấn đề đặt ra:
Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước đang trở nên phổ biến, âem laûi hiệu quả rõ rệt ở hầu hết các nước đã và đang phát triển để hoàn thiện. Do đó những khó khăn, täön taûi âàût ra là tất yếu. ở nước ta hiện công tác cổ phần hoá triển khai còn chậm so với yêu cầu của Đảng và Nhà nước . Từ khảo sát thực tiễn các đơn vị trên cho thấy rằng để tăng tốc độ cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước cần thiết phải giải quyết tốt một số vấn đề sau:
- Træåïc hãút trong nháûn thæïc vaì chuí træång:
+ Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn, nhæng caïc văn bản chỉ đạo chưa rõ ràng, chưa đủ tầm cỡ về mặt pháp lý. Để thực hiện đại trà chủ trương chung thành các văn bản pháp quy làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện. Chủ trương này được đại hội VII của Đảng khẳng định, âãún nhæîng nàm 1992 - 1993 có chỉ thị triển khai thí điểm và mãi đến 5/1996 mới có văn bản pháp toàn diện về cổ phần hoá.
+ Trong nhận thức và hành động: Caïc ngành, các cấp, cơ quan đoàn thể và xã hội nói chung chưa quán triệt hết sự cần thiết phải chuyển một bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước sang CTCP. Bên cạnh quan điểm chưa đúng cho rằng "chuyển sang cơ chế thị trường phải tư nhân hoá TLSX" còn không ít quan điểm khác nhau: cäø pháön hoaï Doanh nghiãûp Nhà nước là mất đi quyền sở hữu TLSX của Nhà nước, máút kinh tế quốc doanh có nguy cơ chệch hướng XHCN do đó rất e ngại, deì chừng trong quá trình cải cách cơ cấu Doanh nghiệp Nhà nước, trong đó chủ trương chuyển một bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước sang CTCP.
Trong haình động, các bộ, các ngành, tỉnh thành phố chưa mạnh dạn đưa các Doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có lãi, coï sæïc hấp dẫn đối với người mua cổ phiếu và không nhất thiết duy trì Doanh nghiệp có 100% väún Nhaì nước để thí điểm cổ phần hoá. Vẫn có tâm lý dùng hình thức cổ phần hoá để thực hiện các Doanh nghiệp đang khó khăn, thua läù keïo daìi. Các Doanh nghiệp có nguồn thu lớn của ngân sách (thuäúc lá, rượu, bia ...) thì giữ nguyên Doanh nghiệp Nhà nước. Do đó công tác thí điểm cổ phần hoá của chính phủ đề ra chưa có sự hưởng ứng tích cực của chính quyền trong các cơ quan Nhà nước.
Huy âäüng väún toaìn xã hội là mục tiêu chủ yếu của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước những tỷ lệ cổ phần dành cho xã hội còn quá thấp. Việc tuyên truyền phổ biến chủ trương, chênh saïch vãö thê âiãøm cổ phần hoá chưa được tiến hành đến mức cần thiết trong dân, cäng nhán viên chức của Doanh nghiệp kể cả trong số các Doanh nghiệp Nhà nước dự định làm.
- Caïc chênh sách đối với người lao động và với Doanh nghiệp được cổ phần hoá: Chuyãøn Doanh nghiệp Nhà nước sang CTCP cần có các chính sách và chế độ cụ thể đối với các đối tượng tham gia thí điểm cổ phần hoá để tạo động lực thúc đẩy thực hiện. Các chính sách thực hiện có nhưng chưa đủ hấp dẫn và lợi ích cụ thể đối với các bên tham gia thí điểm cổ phần hoá.
+ Våïi caïc bäü, Ngaình chuí quaín Doanh nghiãûp, phần tiền (thu về do bán cổ phiếu vẫn chưa có chính sách khuyến khích sử dụng có hiệu quả để đầu tư chiều sâu mở rộng Doanh nghiệp hiện tại tiền thu về do cổ phần hoá đang để ở kho bạc chưa được sử dụng tăng nhanh vòng quay vốn.
+ Âäúi våïi giaïm âäúc Doanh nghiệp: Giám đốc Doanh nghiệp Nhà nước à do cơ quan chủ quản cấp trên bổ nhiệm, tiãu chuáøn và trình độ chưa được định rõ. Không ít giám đốc hiện nay chưa thích ứng với kinh tế thị trường, chæa âäüc lập trong cạnh tranh, chuyển Doanh nghiệp Nhà nước sang CTCP có thể các giám đốc không giữ được vị trí, do âoï nhiều giám đốc Doanh nghiệp Nhà nước vừa quen, væìa thuận lợi được bao cấp một phần của Doanh nghiệp Nhà nước không chịu rủi ro như giám đốc CTCP.
+ Âäúi våïi tập thể công nhân viên chức: Công nhân viên chức trong Doanh nghiệp Nhà nước không phải góp vốn, khäng chịu rủi ro kinh doanh, nhưng ở nhiều Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, ngoaìi lương theo chức danh theo công việc, nhiều nơi còn được phần thu nhập khác thông qua các quĩ. Còn trong CTCP thì công nhân viên chức chỉ được hưởng lương và lợi tức cổ phần (nãúu coï).
- Vãö tài chính:
+ Các do Doanh nghiệp Nhà nước trước khi cổ phần hoá còn có nhiều điểm chưa xác định rõ và không muốn công khai hoàn toàn, vç cäng khai seî không thuyết phục được cổ đông. Việc xác định giá trị của Doanh nghiệp cũng rất khó khăn, väún bàòng tiền và hiện vật (thiết bị hàng hoá, nhà xưởng) còn dễ dàng nhưng giá đất, vë trí kinh doanh, uy tín sản phẩm và Doanh nghiệp, giá trị cu thế phát triển chỉ là những ước đoán thiếu hệ số định lượng rõ ràng. Đây là vấn đề cần làm rõ trong các dự án cổ phần hoá, vaì caïc cäø âäng (kãø cả người nước ngoài gián tiếp mua qua thân nhân) ráút quan tâm tìm hiểu.
+ Môi trường tài chính hỗ trợ cho quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước có nhiều thiếu hụt. Các ngân hàng và Công ty tài chính có thể chấp nhận làm dịch vụ bán cổ phiếu hưởng phí phát hành. Nhưng là người đứng ra mua cổ phiếu với tư cách là cổ đông khiến họ phải suy nghĩ. Các đơn vị đó đang kinh doanh tiền tệ, hoü so saïnh låüi nhuáûn cuía kinh doanh tiãön tệ, họ so sánh lợi nhuận của kinh doanh tiền tệ với cổ tức do mua cổ phần mang lại. Hơn nữa, viãûc sæí duûng vốn huy động của người gửi để mua cổ phần là bài toán quá khó, liãûu coï cơ chế khuyến khích mua cổ phiếu bằng cách trả cổ phiếu cho người gửi tiền và cho vay bừng cổ phiếu?
Nhæîng váún âãö nêu trên không còn là những giả định mà đã và đang là thực tế đòi hỏi Nhà nước và các Doanh nghiệp suy nghĩ, thaïo gåî tæìng khó khăn, tổng hợp đầy đủ, hån nữa những nguyện vọng của các Doanh nghiệp và mọi người trong xã hội, giao nhiãûm vụ cho các nhóm chuyên gia trong và ngoài nước nghiên cứu. Cái mới bao giờ cũng là cái chưa nhìn thấy, nãúu chuïng ta ngại làm, làm chậm chễ sẽ không thể có, hoàûc cứ làm mà không cân nhắc kỹ cũng không thành và dễ đổ vỡ. Điểm cuối cùng cần lưu ý là ở nhiều nước và ngay ở Việt Nam khi hình thành và phát triển các CTCP thường có hiện tượng ghi cổ phần không chuyển tài sản Nhà nước thành sở hữu cá nhân, hoàûc nhæîng caïn bäü nhán viãn coï traïch nhiệm trong các cơ quan quản lý Nhà nước, caïc trung tâm chứng khoán, các Công ty cổ phiếu tiết lộ bí mật hoặc đưa tin sai lệch trước khi mở thị trường chứng khoán làm ảnh hưởng xấu đến CTCP và các cổ đông.
3. Nguyãn nhán:
Nhæîng vấn đề trên nảy sinh là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
Mäüt là: Cơ chế chính sách cổ phần hoá chậm được ban hành đồng bộ, thiãúu cụ thể, qui trình xác định giá trị Doanh nghiệp quá phức tạo, coìn nhiều mặt chưa thật phù hợp. Trong thời gian dài chậm qui định phạm vi Doanh nghiệp Nhà nước được phép cổ phần hoá, chæa âãö ra muûc tiêu hoàn thành cổ phần hoá hàng năm để phấn đấu thực hiện.
Hai laì: Trước yêu cầu mới, các Doanh nghiệp đều bỡ ngỡ, luïng túng nhưng phần lớn cán bộ trong ban chỉ đạo công tác này đêu kiêm nhiệm nên ít có điều kiện để thường xuyên đôn đốc hướng dẫn, thaïo gåî këp thời những vướng mắc cho Doanh nghiệp.
Ba làì: Một số Bộ và địa phương, Täøng Công ty Nhà nước chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa chủ trương cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước là nhằm huy động vốn toàn xã hội để tạo thêm việc làm, phaït triãøn saín xuáút náng cao sức cạnh tranh, đổi mới cơ cấu Doanh nghiệp đồng thời tạo điều kiện để người lao động trong Doanh nghiệp có cổ phần và những người góp vốn được làm chủ thật sự, thay âäøi phæång thæïc quản lý, tạo động lực thúc đẩy Doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tàng taìi sản của Nhà nước, náng cao thu nhập của người lao động và góp phần thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do đó thiếu chủ động và chưa kiên quyết tổ chức triển khai.
Thæûc tãú âaî cho tháúy cùng trong những điều kiện tương tự, nåi nào được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo thì nơi đó triển khai tốt, ngæợc lại những Bộ, âëa phương, Tổng Công ty tuy có điều kiện khá thuận lợi nhưng kết quả cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước, nhæng nãúu âæợc thủ trưởng cơ quan quyết định thanh lập Doanh nghiệp có biện pháp tích cực vận động thuyết phục thì họ sẽ có chuyển biến. Có nơi khi đề xuất chủ trương ban đầu chỉ có 25% cäng nhán viãn chæïc tham gia đăng ký mua cổ phần nhưng nhờ có sự chỉ đạo ở trên nên khi bán chính thức thì 100% ngæåìi lao động trong Doanh nghiệp đều mua cổ phần.
Bäún là: Công tác triển khai, tuyên truyền giáo dục từ trong đảng, trong Bộ máy Nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa được đẩy mạnh. Việc thực hiện các qui định công tài chính của Doanh nghiệp Nhà nước chưa thanhg nền nếp thường xuyên. Các thông tin về kết quả của những Doanh nghiệp đã cổ phần hoá chưa được phổ biến sâu rộng trong nhân dân và người lao động trong các Doanh nghiệp Nhà nước. Mặt khác, tæ tæåíng bao cáúp, yí laûi chæa âæåüc phã phán triệt để nên còn có hiện tượng chần chừ do dự hoặc né tránh không muốn triển khai cổ phần hoá.
Nàm laì: Mäi træåìng kinh tế chưa thật sự bình đẳng chưa tạo được mặt bằng thống nhất về cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế cùng cạnh tranh phát triển. Trong những năm gần đây chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp cải cách Doanh nghiệp Nhà nước theo hướng nâng cao quyền chủ động kinh doanh, tæû chuí vaì tæû chëu traïch hiãûm vãö tài chính. Tuy nhiên vẫn còn một số ưu đãi, mæïc vay và lãi suất cho vay, khoản nợ và xoá nợ tại ngân hàng thương mại quốc doanh, chæa phải nộp tiền thuê đất, âæợc miễn thế chấp khi vay ngân hàng ... còn một số cán bộ coi Doanh nghiệp cổ phần hoá như loại hình Doanh nghiệp phi XHCN làm cho một số Doanh nghiệp Nhà nước e ngại khi chuyển sang CTCP sẽ bị thiệt hại, giaím caûnh tranh so våïi Doanh nghiệp Nhà nước.
Saïu là: Thị trường vốn chưa phát triển, chưa có thị trường chứng khoán nên chưa có phương thức thích hợp để giao dịch cổ phiếu và từ đó chưa tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy cổ phần hoá.
Chæång iii
Caïc giaÍI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
Sæû hình thành và phát triển CTCP ở Việt Nam tiến hành trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, caïc thaình pháön kinh tế phi Nhà nước nói chung còn nhỏ bé, âang ở gia đoạn đầu của sự phát triển, chæa phát huy được tiềm năng về vốn, cäng nghệ, lao động. Đối với Doanh nghiệp Nhà nước đã có nhiều biến đổi: Âa säú caïc Doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện được chế độ hợp tác kinh doanh, chuí âäüng tìm vốn, vật tư, lao động, kể cả lao động kỹ thuật và chuyên gia theo yêu cầu của công việc, khäng trông chờ, ỷ lại vào cấp trên, vaìo Nhà nước. Nhiều Doanh nghiệp đã có biện pháp tích cực tổ chức lại sản xuất kinh doanh, âäøi måi thiết bị, công nghệ, bố trí lại bộmáy quản lý theo hướng gọn nhẹ có hiệu quả, bæåïc âáöu tếp cận và thích nghi với cơ chế thị trường, cháúp nhận cạnh tranh. Vì thế, nhiều Doanh nghiệp Nhà nước, nhất là các Doanh nghiệp trung ương đã đứng vững, bàõt đầu ổn định và phát triển.
Màûc dù có những đồi mới quan trọng, coï những bước tiến đáng kể trong nhiều lĩnh vực, nhæng hiện tại hệ thống Doanh nghiệp Nhà nước vẫn gặp nhiều khó khăn. Thực tiễn đang đòi hỏi phải đổi mới căn bản Doanh nghiệp Nhà nước, nhàòm náng cao hiãûu quả kinh tế xã hội.
Tæì phân tích, những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển CTCP, cuäüc hçnh thành và phát triển CTCP ở nước ta theo hai hướng: Hçnh thành CTCP mới và cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước, nhæng trước hết ta sem sẽt lại mục tiêu của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước.
i. muûc tiãU CỦA CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC:
Ngæåìi ta cũng tranh cãi về những mục tiêu gì và xếp chúng ra sao? Naìo laì hiệu quả kinh tế cao hơn, nào là người lao động làm chủ hơn, naìo là huy động được vốn nước ngoài ...
1. Muûc tiêu lâu dài:
Có lẽ không ai diễn đạt hay hơn cương lĩnh và chiến lược của Đảng đến năm 2000. Muốn sản phẩm xã hội gấp đôi, gáúp ba, thu nhập bình quân đầu người vượt ra khỏi mức nước đói nghèo (bçnh quán 400 - 500 USD/người/ năm) đòi hỏi nền sản xuất xã hội phả phát triển và các gốc là giải phóng lực lượng sản xuất, kêch thêch loìng ham muốn làm giàu cho mình và cho xã hội. Như vậy Nhà nước có điều kiện tập trung giải quyết các vấn đề vĩ mô cho nền kinh tế và điều khiển Doanh nghiệp Nhà nước 100% hoaût âäüng coï hiãûu quả cao hơn, thực sự bảo đảm được vai trò chỉ đạo của nó trong nền kinh tế quốc dân và đóng góp vào mục tiêu trên nhiều hơn tốt hơn. Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước là để tạo nguồn lực để phát triển kinh tế, âáøy nhanh täúc âäü phaït triãøn.
2. Mục tiêu trước mắt:
- Giải quyết các vấn đề của ngân sách là điểm mấu chốt để thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tê - xaî häüi hiãûn nay. Một mặt Nhà nước không bao cấp bằng vốn ngân sách Nhà nước cho các Doanh nghiệp Nhà nước yếu kém nữa, khäng phaíi laìm cái việc “bỏ thì thương, vương thì nặng” nữa. Mặt khác Nhà nước bán được một số tài sản bằng cách cổ phần hoá sẽ có thêm nguồn thu cho ngân sách và đưa các tài sản đó vào sử dụng có hiệu quả cao hơn cho xã hội, cäø pháön hoaï mäüt säú Doanh nghiệp Nhà nước có lợi cả 2 phía để chống lạm phát, giaím bäüi chi ngân sách, ổn định kinh tế xã hội.
- Âa sở hữu hoá một số Doanh nghiệp Nhà nước vừa xoá bỏ bài “đơn ca” trên thị trường, væìa taûo môi trường đầu tư để khơi dậy các nguồn vốn, caïc tài năng quản lý kinh doanh, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển đúng với bản chất và đòi hỏi phải có nhiều thành phần kinh tế, nhiãöu hçnh thæïc sở hữu đan xen, đấu tranh, tồn tại và hợp tác. Mục tiêu này là tạo động lực làm cho vốn được khơi dậy, tiãöm nàng âæợc bật lên, tài năng có đất trưng dụng, taûo đà cho vệc thực hiện mục tiêu chiến lược: cäø phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước tạo đòn bẩy cho các ngành, caïc lénh vực khác cùng phát triển.
II. CÁC GIẢI PHÁP:
Từ phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển CTCP, viãûc hçnh thành và phát triển CTCP ở nước theo hai hướng: Hçnh thành CTCP mới và cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở đây xin nêu một số giải pháp lâudài (chung) vaì giaíi pháp trước mắt. Các giải pháp được nêu lên vẫn chỉ mang tính chất lý thuyết mà việc thực hiện nó phải được thực hiện dần từng bước.
1. Giaïi phaïp láu daìi:
a) Ban hành đồng bộ và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật:
Xáydæûng cơ chế pháp lý phù hợp để đảm bảo tự do cạnh tranhm phá sản, ngàn ngæìa độc quyền, chống tàn phá tài nguyên và ô nhiễm môi trường, chäúng tệ nạn xã hội và các hệ quả khác của nền kinh tế thị trường. Đặc biệt là bảo đảm cho ngân hàng Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tê, tên duûng. Ban haình vaì hoaìn thiện một hệ thống căn bản Pháp luật về thuế, âãø thuế trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tråí thaình nguồn thu chủ yếu cho ngân sách và là bộ phận cơ bản của chính sách tài chính quốc gia lành mạnh đồng thời góp phần tích cực thực hiện công bằng xã hội giữa các thành phần kinh tế. Để đảm bảo tính pháp lý cao do quốc hội ban hành, khäng thãø do báút cæï cå quan naìo của Nhà nước ban hành.
Hiãûn nay, những văn bản pháp lý này liên quan đến sự ra đời, täø chức và hoạt động của CTCP ở Việt Nam còn thiếu đồng bộ. Mặc dù đến này đã có luật Công ty, luáût Doanh nghiệp tư nhân, luật phá sản, ngoài ra luật thương mại, luật khuyến khích đầu tư trong nước đã được thông qua, nhæng việc sửa đổi bổ sung ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến các luật, nháút laì luật Công ty còn chưa được đầy đủ, mäüt số điểm còn chưa rõ ràng còn mâu thuẫn và thiếu đồng bộ về mặt pháp lý. Trong luật Công ty, nhæîng quy âënh về liên quan đến việc thành lập, hoaût động của một số loại CTCP còn chưa đề cập tới .. Vì vậy cần phải tiếp tục sử đổi đồng bộ, âáøy âuí, cuû thểø, không mâu thuẫn, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho quá trình hình thành CTCP và cổ phần hoá. Bên cạnh đó việc ra đời và hoàn thiện tường bước toá án kinh tế cũng góp phần quan trọng vào việc bảo đảm giềng mối luật pháp, giæî gçn cho moüi hoaût âäüng kinh tế, vừa ngăn chặn, vừa chế tài các hành vi phạm pháp luật, baío âảm trật tự pháp lý cho các hoạt động kinh tế. Chỉ như vậy mới tạo ra được môi trường pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của CTCP.
b) Taûo láûp mäi træåìng thuận lợi cho việc hình thành và phát triển CTCP:
* ÄØn định tiền tệ, giảm tốc độ lạm phtá là điều kiện quan trọng nhất. Tiền tệ ổn định là một điều kiện quan trọng cho sự ra đời của CTCP, tiãön tãû laì yãúu tố tác động đến nền kinh tế. Về thực chất người mua cổ phiếu là đầu tư tài chính với mục đích lợi nhuận cao hơn và đều có yêu cầu chung là phải an toàn cho khoản đầu tư đó. Nếu lạm phát cao họ sẽ không muốn giữ các khoản tiết kiệm dưới dạng tiền tệ và do đó không ai săn lòng mua cổ phiếu của CTCP.
Våïi tçnh hçnh nhæ hiãûn nay åí næåïc ta, måïi chỉ đủ cải thiện một phần đời sống, têch luỹ, tiết kiệm còn rất íït chính vì lý do này nên họ rất e ngại trong việc bỏ tiền ra để đầu tư vào sản xuất kinh doanh cũng như việc mua cổ phiếu. Do đó để có vốn vào đầu tư sản xuất thường được Nhà nước tập trung vốn nhà rỗi trong dân chúng băng việc đặt lãi xuất cao (laûm phaït) nhæng keïo theo noï laì caïc Doanh nghiệp phải trả ngân hàng lãi suất cao điều này lại gây khó khăn cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, lạm phát cao hạn chế trong việc phát hành cổ phiếu, traïi phiếu Doanh nghiệp vì họ phải trả lợi tức cổ phiếu, traïi phiếu cao, do đó lạm phát ở mức thấp vừa phải sẽ thúc đẩy nhanh, sæû ra âåìi và phát triển thị trường vốn trong nước. Lạm phát ổn định vừa phải, giaï caí ổn định nó sẽ tạo điều kiện tính toán và hoạch định các phương án kinh doanh một cách tương đối chính xác, âäöng thåìi nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu và cả những người đầu tư lĩnh vực này. Đồng thời với nó phải có chính sách tài chính phù hợp tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển CTCP.
* Chênh saïch taìi chênh thãø hiãûn chủ yếu ở 2 nội dung thu và chi của chính phủ. Về chi của ngân sách cần ưu tiên cho các khoản đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, váût cháút xaî häüi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cấp phát cho hoạt động kinh tế (xáy dæûng caïc khu chế xuất, khu đô thị ...) chi cho hoạt động thông tin dự báo, mäi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt độn sản xuất, kinh doanh nhất là hoạt động CTCP vì đây là loại hình sản xuất tập trung vốn của nhiều người vì mục đích của họ là lợi nhuận. Ngoài ra chính sách thuế của Nhà nước có tác động rất lớn đến hoạt động CTCP. Thông qua thuế, Nhaì næåïc âiãöu chènh cå cáúu hoạt động kinh tế, kích thích hoặc hạn chế hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành lĩnh vực. Theo đánh giá của các chuyên giá, chênh saïch thuế của ta hiện nay còn nhiều bất hợp ký, væìa thất thu vừa lạm thu chưa thực sự công bằng giữa các loại hình Doanh nghiệp, giæîa caïc thành phần kinh tế, giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhaập khẩu .. Do đó việc sử đổi bổ sung và hoản chỉnh chính sách thuế, taûo láûp sæû cäng bằng hợp lý trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế hiện nay là vấn đề cấp bách Nhà nước cần quan tâm.Để đẩy mạnh việc hình thành CTCP Nhà nước nên có những chính sách thuế để khuyến khích các nhà đầu tư hình thành và phát triển.
* Ngán haìng Nhaì næåïc Viãût Nam thực hiện vai trò điều tiết quản lý vĩ mô về mặt tiền tệ. Nhưng sự can thiệp của ngân hàng trên thị trường sẽ quyết định việc tăng hay thu hẹp khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế, tuy theo yãu cáöu cuía nãön kinh tế vào các thời điểm nhất định các chính sách của NHTW tác động đến sự hình thành và phát triển thị trường vốn.
Ngán haìng thæång mại có vai trò theo chốt trong việc hình thành và phát triển thị trường vốn, quaín lyï chứng khoán cho khách hàng kế hoạch và việv tổ chức các thị trường chứng khoán. Khi xí nghiệp muốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu họ có thể nhờ dịch vụ phát hành của một ngân hàng, ngán haìng naìy seî giuïp hoü lựa chọn loại chứng khoán, thåìi hạn chứng khoán và các vấn đề kinh tế khác. Các ngân hàng thương mại có thể mua toàn bộ tổ cổ phiếu phát hành mới và sau đó bán lại cho công chúng. Trong những trường hợp đặc biệt như số phát hành khá lớn, nhiãöu ngán haìng coï thãø chia seí dự định phát hành này nhằm giảm đi tối thiểu rủi ro. Như vậy, caïc ngán hàng thương mại có thể hành động với tư cách là trung gian tài chính mua bán chứng khoán, âáy laì dëch vụ ngân hàng phát triển (dëch vụ trung gian chứng khoán) với ưu điểm kinh nghiệm và chuyên môn của họ. Như vậy, ngán hàng có vị trí quan trọng trong việc hình thành và phát triển CTCP. Ngoài ra nó còn tăng cường công tác kiểm toán trong nền kinh tế.
c) Tàng cæåìng và hoàn thiện công tác kiểm toán:
Phaíi làm cho mọi người, mọi Doanh nghiệp, mọi tổ chức thấy được kiểm toán là công cụ hết sức quan trọng trong cơ chế kinh tế thị trường, nháút laï khi các CTCP đã trở nên phổ biến trong nền kinh tế để đáp ứng lợi ích của nhiều phía:
+ Cuía Nhaì nước để quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên.
+ Cuía caïc Doanh nghiệp, các Công ty để kiểm soát vốn liếng doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh và hiệu quả hoạt động nhất là việc hoạt động của cổ phần vì daonh lợi lời lãi của Công ty ảnh hưởng đến lợi tức của cổ phần. Đồng thời nó thể hiện trị giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, do âoï viãûc kiãøm soaït väún liãúng, doanh thu, hiệu quả sẽ tác động cho những nhà đầu tư, taûo âiều kiện huy động nguồn vốn trong sản xuất.
+ Cuía các nhà đầu tư, cho vay liên doanh, liên kết, khách hàng để kiểm tra việc bảo đẩm và hiệu quả sinh lợi của các khoản đầu tư, cho vay cuía các hoạt động liên doanh, liên kết, các quan hệ mua bán. Qua kiểm soát của các nhà đầu tư sẽ biết rừng Doanh nghiệp làm ăn như thế nào để đầu tư và mua bán cổ phiếu.
Phaíi tàng cæåìng vaì hoàn thiện công tác kiểm toán đồng thời hình thành các hình thức kiểm toán: kiãøm toaïn Nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán theo chức năng quản lý và kiểm toán nội bộ để phối hợp và hỗ trợ.
* Hçnh thaình thị trường chứng khoán để tác động tích cực góp vốn đầu tư phát triển CTCP:
Våïi sæû ra đời của thị trường chứng khoán đã khuyến khích tiết kiệm và đầu tư của dân chúng. Theo tổng cục thống kê số vốn còn trong dân 20.000 tỷ đồng chưa đưa vào sản xuất kinh doanh. Theo một số nhà kinh tế thì chỉ riêng số vốn bằng vàng trong dân cư hiện nay có thể lên đến 15 - 20 triãûu læåüng (7 - 10 tyí USD). Như vậy nguồn vốn nhàn rỗi trong dân ở nước ta còn rất lớn. Sự hoạt động của thị trường chứng khoán sẽ thu hút nguồn vốn trên.
Thë træåìng chæïng khoán và CTCP có tác dụng tương hỗ tích cực cho nhau, thë trường chứng khoán là "chợ trao đổi hàng hoá cổ phiếu" cho CTCP. CTCP là tiền đề đáp ứng hàng hoá cổ phiếu cho yêu cầu của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán có tổ chức sẽ cung cấp mọi thông tin cần thiết về các loại cổ phiếu, chæïng khoaïn cuîng nhæ moë khaí nàng sinh lời của từng loại trong tương lai. Thị trường chứng khoán thu nhập và phân tích các nguồn thông tin cần thiết như thành tích trong quá khứ và mọi đơn vi kinh tế, triãøn voüng trong tương lai của đơn vị đó cũng như trong đối chiếu với các loại chứng khoán khác.
Ngoaìi ra thị trường chứng khoán tạo thói quen đầu tư. Nguồn tiết kiệm tiềm tàng trong dân chúng cũng chưa phân biệt rõ ràng thế nào là hùn vốn. Thị trường chứng khoán với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu, seî laì mäi træåìng thuáûn låüi cho việc phát hành cổ phiếu và các loại chứng khoán cũng như mọi nghiệp vụ mua ở thị trường. Với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi, ngæåìi dán seî sæí duûng nguồn tiết kiệm của mình để mua cổ phiếu hay chứng khoán với niềm tin về thuận lợi hay tiền lãi bảo đảm.
Thë træåìng chæïng khoán điều tiết việc phát hành cổ phiếu. Thị trường chứng khoán sẽ là nơi bảo đảm an toàn cho các nhà đầu tưu bằng cách sem xét, âaïnh giaï caïc loaûi cổ phiếu trước khi cho phép đem ra mua bán. Ngoài ra thị trường chứng khoán còn có thể hướng các đơn vị kinh tế đầu tư vào các ngành hay lĩnh vực được khuyến khích, cuîng nhæ thuïc âáøy chương trình cổ phần hoá của Nhà nước bằng cách phát hành cổ phiếu của những đơn vị đã được đánh giá tương đối chính xác.
Nhæ váûy, thë træåìng chứng khoán cho phép người dân có điều kiện được thông tin đầy đủ hơn kể cả điều kiện phân tích sàng lọc thông tin để xác định CTCP hay Doanh nghiệp cổ phần hoá làm ăn lành mạnh có hiệu quả để có lòng ham muốn tích cực tham gia mua cổ phiếu để góp vốn vào sản xuất kinh doanh cho yêu cầu ích nước lợi nhà. Thị trường chứng khoán vừa giúp sàng lọc các Công ty làm ăn không lành mạnh, keïm hiãûu quaí âãø âaím baío yãn tám cho ngæåìi mua cổ phiếu đóng góp vốn, væìa tạo điều kiện luân chuyển, læu động nhanh vòng quay vốn của các cổ đông và thông qua thị trường chứng khoán các cổ đông có quyền bán nhượng lại cổ phiếu để thu hồi vốn cho các yêu cầu khác cấp bách hơn hoặc yêu cầu do cần đầu tư có lợi nhuận cao hơn. Với ý nghĩa của thị trường chứng khoán như vậy, ngaìy 11/7/1998 Chênh phuí âaî ban haình Nghị định số 48/1998/NĐ - CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán và Quyết định số 127/1998/TTg cùng ngày 11/7/1998 cho phép thành lập 2 trung tâm chứng khoán tại thành phố Hà Nôiü và Hồ Chí Minh, âáy laì cơ sở pháp lý đầu tiên của hoạt động thị trường chứng khoán ở Việt Nam, trong nàm tới các trung tâm chứng khoán sẽ đi vào hoạt động là môi trường thuận lợi tác động tích cực đến pch các Doanh nghiệp Nhà nước và hoạt động của CTCP.
e) Âäøi måïi vaì hoaìn thiện hạch toán và hệ thống kế toán gọn nhẹ khoá học và hoàn thiện lại để đáp ứng yêu, nhu cáöu hoaût âäüng của các Công ty, xí nghiệp cổ phần.
2. Giải pháp cơ bản để thúc đẩy cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước.
a) Taûo sán chơi bình đẳng giữa các Doanh nghiệp Nhà nước và Công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh.
Båíi vç chênh sách đối với Doanh nghiệp Nhà nước khấu hao thấp, vay väún ngân hàng Nhà nước dễ dàng hơn. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không có hiệu quả thì đã có Nhà nước chịu do đó họ vay vốn của ngân hàng rất dễ dàng bởi có gì Nhà nước chịu. Mặc dù nghị định 28/CP cuía chênh phuí ban haình (7/5/1996) đã quy định Doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá vẫn được vay vốn như các Doanh nghiệp Nhà nước. Một số giám đốc cho rằng quy định này chỉ có ý nghĩa khách lệ tinh thần cho các Doanh nghiệp cổ phần hoá, coìn ngán haìng coï quyãön từ chối cho vay. Đối với công nhân khi chuyển sang cổ phần hoá thì họ lo lắng liệu rồi đời sống bản thân và gia đình có được bảo đảm không và nhất là họ sợ mất việc làm. Hơn nữa toàn bộ lợi nhuận sau thuế Doanh nghiệp Nhà nước đều được để lại. Sau khi trích 35% laìm quyî phaït triãøn saín xuáút coìn lại 65% chia cho 2 quỹ khen thưởng và phục lợi. Rõ ràng là không cần phải góp vốn mua cổ phiếu, ngæåìi cäng nhân vẫn được chia 65% lãi ròng.
Do đó để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá, Nhaì nước cần tạo ra sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, âäöng thåìi tiếp tục xoá bỏ bao cấp cho kinh tế quốc doanh.
b) Læûa chọn Doanh nghiệp Nhà nước và loại hình Công ty cổ phần đề cổ phần hoá.
Cäø pháön hoá là chuyển sở hữu Nhà nước vào tay các cổ đông thuộc thành phần kinh tế. Quá trình này đụng chạm đến một vấn đề mấu chốt trong kinh tế đó là sở hữu. Từ đó đặt ra 2 vấn đề:
Thæï nháút: chuyãøn toaìn bäü hay chỉ chuyển một bộ phận các Doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần? Nãúu chè là một bộ phận thì đó là bộ phận nào?
Thæï hai: Tổ chức Công ty cổ phần như thế nào để phát huy được ưu thế của hình thức này, âäöng thåìi nâng cao được hiệu quả kinh tế - xaî hội.
Vấn đề thứ nhất đòi hỏi việc lựa chọn Doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hoá phụ thuộc vào quan niệm về vai trò của Doanh nghiệp Nhà nước trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Quan niệm này bắt nguồn từ mục tiêu kinh tế - chênh trë âæåüc læûa choün trçnh âäü phát triển của nền kinh tế, truyền thống và hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia khi tiến hành cổ phần hoá.
Trong nãön kinh tế thị trường, các Doanh nghiệp được thành lập đều gắn với mục tiêu sinh lời kể cả các Doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, trong säú caïc Doanh nghiệp Nhà nước được thành lập cũng có những Doanh nghiệp mà mục tiêu sinh lời một cách trực tiếp. Theo cách tiếp cận đó, coï thãø phán chia các Doanh nghiệp Nhà nước thành 2 loại: Loaûi tồn tại với mức đích sinh lời trực tiếp; Loaûi tồn tại với những mục tiêu kinh tế, chênh trị, xã hội khác.
Như vậy, việc chuyển Doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần không phải là mục đích tự thân, maì xuáút phát từ mục tiêu kinh tế, chính trị xã hội do Nhà nước lựa chọn. Giải pháp chuyển Doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần trong giai đoạn hiện nay có thể thực hiện ở một số Doanh nghiệp Nhà nước mà mục tiêu trước hết là sinh lợi nhuận.
Viãûc læûa choün Doanh nghiãûp Nhà nước sang Công ty cổ phần cũng phải tính đến khả năng tham gia của cá nhân và tổ chức có vốn. Người bỏ tiền ra mua một phần vốn của Doanh nghiệp Nhà nước thực chất là người đi tìm cơ hội đầu tư tài chính vì mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động đầu tư này chứa đựng sự rủi ro mạo hiểm cao hơn việc gửi tiết kiệm. Vì thế, khäng ai mua cäø phiãúu åí caïc Doanh nghiãûp âang bị thua lỗ hay thấy trước nguy cơ bị thua lỗ. Do đó trước mắt phải nhằm các Doanh nghiệp làm ăn có lãi và tương đối có uy tín trong kinh doanh.
Viãûc læûa choün Doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hoá còn liên quan đến điều kiện kinh tế - xaî häüi hiện nay của đất nước. Nhưng Doanh nghiệp có quy mô lớn đòi hỏi phải có vốn lớn và nhà kinh doanh tương ứng, trong khi thu nhập thấp và hạn chế nhiều về khả năng quản lý các Doanh nghiệp lớn, viãûc cäø phần hoá các Doanh nghiệp như vậy là không thực tế. Những Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ trái lại có thể bán cho tư nhân, hoàûc baïn cho mäüt số người có vốn là biết kinh doanh để biến thành Công ty trách nhiệm hữu hạn nếu thấy cần thiết sẽ hợp lý hơn. Vì vậy chọn Doanh nghiệp có quy mô vừa để cổ phần hoá là phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay nhưng phải phù hợp với danh mục các loại Doanh nghiệp Nhà nước để lựa chọn cổ phần hoá. Ban hành kèm theo Nghi định 44/1998/NÂ - CP ngaìy 29/6/1998 cuía Chênh phuí.
Våïi muûc tiêu cổ phần hoá hiện nay, cáön chú trọng cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước theo hướng chuyển nhượng một phần quyền sở hữu Nhà nước sang các thành phần kinh tế. Trường hợp Nhà nước ít cần can thiệp đều có thể chuyển sang Công ty cổ phần trong đó Nhà nước ít hoặc thậm chí không tham gia ở các Công ty cổ phần đó.
c. Nhaì næåïc cáön coï caïc chênh saïch häù trợ về tài chính:
Như miễn thuế lợi tức, thuế thu nhập trong thời gian đầu của Doanh nghiệp cổ phần để kích thích các thành phần kinh tế tham gia mua cổ phiếu.
Theo Âiãöu 13 Nghị Định 44/1998/NĐ - CP ngày 29/6/1998 về chuyển Doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần khi cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước được hưởng 6 ưu đãi chính.
Thæûc tãú, tiãún hành cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước cho thấy những ưu tiên là hợp lý là phù hợp với thực tiễn của công tác cổ phần hoá và được sự đồng tình của các Doanh nghiệp.
d. Nhaì næåïc cáön coï chênh sách giúp đỡ để công nhân viên chức có tiền mua cổ phần ở các Doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá:
Nhæ cho vay tên dụng với lãi suất thấp, thåìi hạn dài, tương tự như Nhà nước cho nông dân vay vốn để sản xuất. Đây là kinh nghiệm tốt mà một số nước đã thực hiện trong quá trình cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước.
Âäúi våïi ngæåìi lao âäüng thì 2 vấn đề đáng quan tâm và lo ngại nhất khi cổ phần hoá là việc làm và thu nhập trong Công ty cổ phần có bằng hoặc cao hơn trong Doanh nghiệp Nhà nước không?
Vãö quyãön låüi cuía người lao động trong Doanh nghiệp cổ phần hoá điều 14 Nghị định 44/1998/NĐ - CP ngày 29/6/1998 quy định được hưởng những ưu đãi.
â. Định giá cổ phiếu và mức độ bán cổ phần, cäø phiếu:
- Bộ tài chính thống nhất quản lý mẫu in ấn và cung cấp tờ cổ phiếu ở các Doanh nghiệp cổ phần hoá; baío âaím cho caïc cổ đông nhận được cổ phiếu chậm nhất là 30 ngày kể từ thời hạn phát hành của Doanh nghiệp cổ phần hoá. Cụ thể Tổng cục quản lý vốn tài sản Nhà nước tại Doanh nghiệp tiếp nhận đơn xin mua tờ cổ phiếu và hồ sơ liên quan của Công ty để trình Bộ trưởng tài chính quyết định.
Kho baûc Nhaì næåïc chëu traïch nhiãûm, in quản lý tờ cổ phiếu "trắng" và cung cấp cho từng Công ty cổ phần theo Quyết định của Bộ trưởng tài chính.
Cå quan taìi chính các cấp phổ biến, hæớng dẫn các Công ty cổ phần thực hiện.
Tåì cäø phiếu lưu hành dùng trong các Công ty cổ phần có 3 mẫu như sau:
+ Cäø phiếu ghi danh không chuyển nhượng màu xanh vàng dùng cho cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị; Cäø âäng mua chịu cổ phiếu của Nhà nước và những người được Nhà nước cấp cổ phiếu hưởng cổ tức; cäø phiãúu cuía Nhà nước.
+ Cổ phiếu ghi danh màu vàng tím dùng cho cổ đông thường là thể nhân và pháp nhân, cäø âäng khác hoặc có nguyện vọng nhận cổ phiếu ghi danh.
+ Cäø phiếu vô danh màu vàng tím dùng cho tất cả các cổ đông trừ các đối tượng đã nói ở trên hoặc Điều lệ Công ty không quy định khác.
Cäø phiãúu cuía Cäng ty cổ phần có 10 loại gồm 1 cổ phiếu, 2 cäø phần, 5 cổ phần, 10 cổ phần, 20 cổ phần, 50 cổ phần, 100 cổ phần, 200 cổ phần, 500 cổ phần và 1000 cổ phần. Giá trị một cổ phần là 100000 đồng thống nhất trên toàn quốc cho các Công ty cổ phần.
- Quyãön âæåüc mua cổ phiếu lần đầu Điều 8 của Nghị định 44/1998NĐ - CP quy định như sau:
+ Loại Doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối cổ phần đặc biệt:
Mäüt phaïp nhân được mua không quá 5% tổng số cổ phần của Doanh nghiệp.
+ Loaûi Doanh nghiệp Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, cäø phần đặc biệt:
Một pháp nhân được mua không quá 20% tổng số cố phần của Doanh nghiệp.
Mäüt cá nhân không được mua quá 10% tổng số cổ phần của Doanh nghiệp.
+ Loaûi Doanh nghiệp Nhà nước không tham gia nắm cổ phần:
Khäng hạn chế số lượng cổ phần mỗi pháp nhân và cá nhân được mua nhưng phải đảm bảo số cổ đông tối thiểu theo đúng quy định của Luật Công ty.
+ Pháön väún Doanh nghiệp đã vay của người lao động trước khi cổ phần hoá nếu người lao động chấp thuận thì được chuyển thành cổ phần của Công ty.
+ Caïc âäúi tæåüng quy định tại khoản 2 Điều 13 Pháp lệnh chống tham nhũng chỉ được mua cổ phần gia ưu đãi không vượt quá mức cổ phần bình quân của các cổ đông trong Doanh nghiệp.
e . Âaìo taûo chuyãn môn để có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi về cổ phần hoá:
Nhaì kinh doanh có một năng khiếu đặc thù so với nhiều nghề khác, hoü häüi đủ cả 2 yếu tố khoa học và nghệ thuật quản trị trong một con người. Doanh nhân làn một cái gạch nối giữa vốn và lao động, yãúu täú saín xuáút không thể thiếu, để biến các tiềm năng sản xuất thành sản phẩm cho xã hội. Trong một quốc gia, viãûc phaït triển các Doanh nghiệp tuy thuộc vào tốc độ phát triển của đội ngũ doanh nhân và những lao động chuyên môn thuộc về kỹ năng trong các hoạt động kinh doanh. Nhất là các Doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang Công ty cổ phần, âoìi hoíi nhaì kinh doanh coï những điểm khác với việc quản lý Doanh nghiệp trước đây. Ngoài phẩm chất đạo đức, coìn phaíi có hàng loạt tiêu chuẩn khác như trình độ chuyên môn, nàng khiếu ứng xử nhanh, nhạy bén, sáng tạo ... Có được những tiêu chuẩn đó thì nhà kinh doanh mới hy vọng chiếm lĩnh được thị trường, måïi âem laûi lợi nhuận cho Công ty. Giám đốc kinh doanh là 1 nghề mà muốn làm tốt phái suốt đời tu nghiệp. Đây là một nghề độc đáo, mäüt nghãö hãû trọng và phức tạp, kinh doanh là 1 loại lao động sáng tạo gắn liền với mạo hiểm và rủi ro. "Có chí làm quan, coï gan laìm giàu", muốn kinh doanh thành công phải dám chấp nhận mạo hiểm rủi ro. Kinh nghiệm cho thấy, muäún kinh tế phát triển năng động có hiệu quả trước hết phái có chiến lược con người, xáy dæûng mäüt đội ngũ cán bộ có khả năng điều hành nên kinh tế và một đội ngũ các nhà kinh doanh nhất là đối với Công ty cổ phần mới hình thành, giaïm âäúc âiãöu haình giỏi là hết sức cần thiết.
III: CÁC KIẾN NGHỊ
Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước đang trở nên phổ biến, âem laûi hiãûu quaí roî rã hiệu quả rõ rệt ở hầu hết các nước đã và đang phát triển trên thế giới. Sang ở nước ta hiện nay cái khó là chưa có môi trường thuận lợi ổn địnhùn coìn laûm phaït vaì khuíng hoảng, số đông công nhân viên chức không có vốn để mua cổ phần và nếu có, cuîng coìn sự rủi ro không giám đầu tư vào sản xuất mà chủ yếu là đo buôn, laìm dëch vụ, hoặc gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng để lẫy lãi, goïp pháön bảo đảm vốn hàng ngày.
Træåïc tình hình này Nhà nước đã có những giải pháp để thúc đẩy quá trình cổ phần hoá, sàõp xãúp, täø chức lại căn bản các Doanh nghiệp Nhà nước song thật không đơn giản, thuáûn buồm xuôi gió như chúng ta mong muốn. Bởi vì, cäø phần hoá này ngoài những trở ngại như đã trình bày ở trên còn là một quá trình đấu tranh, xoaï boí bao cấp một cách triệt để quá trình này đòi hỏi Doanh nghiệp phải đổi mới căn bản về chế độ sở hữu, phæång thæïc âáöu tư, cơ chế tổ chức và quản lý phương thức hạch toán và phân phối...Do vậy không thể tiến hành suôi sẻ những giải pháp này nếu chỉ thông qua các chính sách mang tính chất chung, lyï thuyãút. Âiãöu âaïng quan tâm là Nhà nước cần có chính sách giải quyết thoả đáng lợi ích của người lao động ở các Doanh nghiệp dự định cổ phần hoá và những chính sách cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc cổ phần hoá. Dưới đây xin kiến nghị một số chính sách cụ thể.
1. Vãö väún tæû bäø sung cuía Doanh nghiãûp.
Do cơ chế quản lý tài chính và cả yếu tố khách quan đối với xí nghiệp quốc doanh của nước ta lâu nay, nháút laì tæì khi chuyển đổi cơ chế mới (tæì 10 - 15 năm trở lại đây) tỷ lệ và số lượng tuyệt đối của vốn này trong tổng số vốn của Doanh nghiệp cùng ngành rất khác nhau. Thông thường tỷ lệ này khoảng 20 - 25%. Trong khi chuáøn bị cổ phần hoá có một vẫn đề nổi lên khá phổ biến là hầu hết các Doanh nghiệp đều yêu cầu Nhà nước chia cho công nhân viên toàn bộ hay một phần đáng kể (40 - 60%) säú väún tæû bäø sung của Doanh nghiệp.
Về nguyên tắc, chúng ta thấy rằng, số vốn tự bổ sung được hình thành ở các Doanh nghiệp thuần tuỳ là quốc doanh thì vẫn thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Quy mô và tỷ lệ vốn này cao hay thấp không hoàn toàn do sự phấn đấu của Doanh nghiệp mà còn do những nhân tổ khách quan tạo nên như chênh lệch giá, caïc khoaín nhæ: kháúu hao cå baín, thuế lợi nhuận.... không nộp thuế theo quy định vào ngân sách. Tuy nhiên, âaûi bộ phận công nhân việc chức gặp khó khăn về vốn để mua cổ phần. Do vậy, khi cäø phần hoá Nhà nước nên dành lại khoảng 30% säú vốn tự bổ sung nhưng giới hạn tối đa không quá mức nào đó (chàóng haûn bình quân đầu người khoảng 7 triệu đồng). Cäng nhân việc chức chó được hưởng lợi tức cổ phần trên số vốn đó trong khoảng thời gian nhất định (3 - 5nàm) vaì không được nhượng bán cổ phiếu, khäng được lấy ra sử dụng riêng. Số vốn này vẫn thuộc sở hữu Nhà nước. Sau thời gian nói trên, Nhaì næåïc seî có chính sách hoặc thu về một phần hay toàn bộ số vốn trên vào ngân sách, cäng nhán viên sẽ mua đầu cổ phiếu bằng vốn của mình để thay thế, âäúi våïi trường hợp không thể mua được cũng không bắt buộc.
2. Vãö quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng còn lại trước khi cổ phần hoá.
Vãö nguyãn tắc số dư bằng tiền của hai quỹ trên của công nhân việc chức Doanh nghiệp, Nhaì næåïc không can thiệp mà do Doanh nghiệp quyết định chia cho mỗi người thu về sử dụng riêng hoặc để mua cổ phần. Đối với những tài sản thuộc phúc lợi công cộng như tập thể, nhaì àn, traûm xaï...nếu dùng chung không hiệu quả, thì bán hoà giá hoặc cho thêm dài hạn lấy tiền cho công nhân viên chức để tham gia mua cổ phần. Những công trình phúc lợi còn dùng được chung cho tập thể thì cần được bảo vệ, täön taûo âãø phuûc vuû chung cho xã hội, trước hết là tập thể công nhân viên của Doanh nghiệp.
3. Về tính giá trị đất đai Doanh nghiệp.
Về nguyên tắc khi đánh giá tài sản Doanh nghiệp để cổ phần hoá phải phân định lại đất cần thiết theo luật chứng phát triển của Doanh nghiệp. Số đất cần dùng cho Công ty cổ phần sẽ được Nhà nước giao quyền sử dụng và phải được quy định đúng giá trị làm căn cứ để nộp một khoản tiền lần đầu vào ngàn sách và nộp tiền thuế sử dụng đất hàng năm theo luật định, trước mắt, đã tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích đối với những Doanh nghiệp cổ phần hoá, Nhaì nước chỉ nên tạm thu một tỷ lệ nhất định (khoaíng 60 - 70%) số tiền nộp lần đầu và giảm tỷ lệ thuế đất nhất định (50%) hay 3 ¸ 5 năm đầu.
4. Về lao động xã hội và tiền lương.
Vãö nguyên tắc, trước khi cổ phần hoá, Nhà nước cần giải quyết chế độ thoả đáng để chuyển tất cả các công nhân viên chức ở Doanh nghiệp ra khỏi biên chế Nhà nước. Tuy nhiên, nếu làm như thì một mặt, Nhà nước phải chi một khoảng tiền khá lớn, màût khác có yếu tố không thuận về tâm lý đối với công nhân viên chức phải chuyển đột ngột ra khỏi biên chế Nhà nước. Do vậy nên chăng, chè phán loaûi lao động, giải quyết độ về hưu mất sức lao động. Những công nhân viên chức được tiếp tục ở lại Doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá thì làm việc theo chế độ hợp đồng lao động, hưởng phù lao theo quy chế của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện nộp bãi biển xã hội theo quy định chung của Nhà nước. Khi thôi việc hoặc mất sức lao động, ngæåìi lao âäüng vẫn được tính thời gian tổng biến chế Nhà nước trước đây để hưởng chế độ hưu trí, mất sức như những công nhân viên chức khác.
5. Về bán cổ phiếu cho người nước ngoài.
Nói chung là cần bán cổ phiếu rộng rãi cho cá nhân và tổ chức ở nước ngoài nhằm huy động vốn, động thái kích thích cá nhân, tổ chức tỏng nước mua cổ phiếu, qua đó tạo điều kiện sớm hình thành thị trường chứng khoán ở nước ta, nhanh choïng hoà nhập với thị trường thế giới. Muốn vậy, Nhaì nước cần sớm bổ sung luật đầu tư, nhæîng quy định về mua, nhượng bán cổ phiếu, vãö tham gia quản lý Doanh nghiệp, về chuyển lợi tức cổ phần ra nước ngoài đối với cổ đông là cá nhân và tổ chức nước ngoài một cách rõ ràng và cụ thể hơn nữa.
Sớm ban hành những chính sách về những vấn đề nêu ở trên, chắc chắn sẽ giải quyết được những quy tắc nhất đang đặt ra tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
LỜI KẾT
Như vậy Công ty cổ phần là loại mô hình kinh doanh của nền sản xuất lớn hành hoá phù hợp với cơ chế thị trường cạnh tranh là sản phẩm trí tuệ khách quan của loài người, không phải của CNTB. Theo quan điểm của mác chủ nghĩa xã hội phải biết tận dụng cái hay cái đẹp, cái tiến bộ của các giai đoạn lịch sử đã qua để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có sản xuất nhỏ, coi theo mới tự phát đi lên CNTB còn xu hướng tập trung và phân tán tư bản theo chiều hướng phát triển sản xuất lớn với mô hình Công ty cổ phần, chưa cổ phần vẫn đảm bảo đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa phục vụ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vì vậy, cổ phần hoá một bộ phần Doanh nghiệp Nhà nước là phù hợp với nền kinh tế thị trường, nhằm giảm gánh nặng đầu tư bao cấp tràn lan kém hiệu quả, táûp trung vốn đầu tư và các ngành trọng điểm chiến lược phục vụ sản xuất lớn. Do đó có thể kết luận rằng: cổ phần hóa một bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước là phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa của mục tiêu dân giày nước mạnh. xã hội công bằng văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra cho yêu cầu xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PTS Đoàn Văn Hạnh: Công ty cổ phần và chuyển Doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần - NXB thống kê - 1998.
2. GS.PTS Vũ Đình Bách - Ngô Đình Giao: phát triển các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh ở nước ta hiện nay Nhà xuất bản chính trị quốc gia - HN - 1997.
3. Nguyễn Đăng Liêm: Một số vấn đề cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trong cơ chế của nền kinh tế thị trường hiện nay - NXB trẻ - 1996
4. Nghị định 44/1998/ NĐ - CP ngày 29/6/1998 của chính phủ về chuyển một số Doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần.
5. Các bài báo và tạp chí.
MỤC LỤC.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0639.doc