Chuyên đề Thực trạng giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở Thành phố Hà Nội

Tóm lại công tác giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông là một việc rất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều người. Công việc này trở lên phức tạp hơn nữa khi tiến hành trong một đô thị mà điển hình là đô thị Hà Nội. Với rất nhiều dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông trong thời gian tới thì công tác giải phóng mặt bằng gặp rất nhiều khó khăn, nhất là việc ban hành các chính sách sao cho phù hợp với công tác giải phóng mặt bằng hiện nay và phù hợp với lợi ích của người dân. Đề tài với mục đích hướng tới là việc giảm chi phí giải phóng mặt bằng nhằm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội, mong rằng những đề suất nhỏ này sẽ đáp ứng được phần nào việc giảm chi phí giải phóng mặt bằng và tăng cường nguồn vốn cho phát triển giao thông Thành phố Hà Nội, để Hà Nội sớm đạt được các chỉ tiêu trong chiến lược phát triển giao thông của Thành phố đã đề ra. Để Hà Nội không những trở thành đô thị hiện đại và văn minh mà nó còn mang tầm cỡ của một đô thị quốc tế.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1798 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cư chi tiết Sau khi niêm yết và tổng hợp ý kiên của các hộ dân nơi bị thu hồi đất. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư sẽ thẩm định và hoàn chỉnh phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư. Bước 6: Phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư chi tiết Sau khi Hội đồng bồi thường hỗ trợ và tái định cư thẩm định và hoàn chỉnh phương án bồi thường và tái định cư thì UBND cấp quận, huyện có trách nhiệm xem xét và phê duyệt. Bước 7: Niêm yết công khai phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư chi tiết đã được UBND cấp quận, huyện phê duyệt; thông báo thời gian nhận tiền bồi thường hỗ trợ, thời gian nhận nhà, nhận đất tái định cư, thời hạn bàn giao mặt bằng; phát quyết định kèm theo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Bước 8: Thực hiện chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư 1.2.3 Hiệu quả thực hiện GPMB Có thể đánh giá hiệu quả thực hiện giải phóng mặt bằng qua các tiêu chí sau: Thứ nhất: hiệu quả về mặt thời gian Tiêu chí này đánh giá việc giải phóng mặt bằng và bàn giao mặt bằng cho các dự án có giải phóng mặt bằng có đúng tiến độ về thời gian quy định hay không? và số lượng các công trình phải giải phóng trong một thời gian quy định là bao nhiêu? số lượng nhân công, máy móc huy động để giải phóng mặt bằng trong một thời gian nhất định. Thứ hai: hiệu quả về mặt chi phí Tiêu chí này đánh giá lượng tiền bỏ ra để giải phóng mặt bằng trong tổng số vốn đầu tư của dự án là bao nhiêu? Và tiêu chí này rất được các nhà quản lý đô thị chú ý tới bởi việc giải phóng mặt bằng trong các đô thị rất tốn kém do giá đất trong đô thị thường rất cao, và họ tìm cách hạ thấp nhất chi phí này xuống. Thứ ba: Hiệu quả về mặt tổ chức giải phóng mặt bằng Tiêu chí thể hiện cơ quan đứng ra tổ chức giải phóng mặt bằng là ai? Cách thức tổ chức giải phóng mặt bằng? Hình thức giải phóng mặt bằng? 1.2.4 Chính sách GPMB Giải phóng mặt bằng là một trong lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến nhiều ngành nhiều lĩnh vực, nó có thể tạo nên sự ổn định kinh tế xã hội của của một đô thị hoặc ngược lại nếu chính sách GPMB không thoả đáng và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đô thị thì nó sẽ tạo nên những sáo trộn trong đời sống của nhiều người tạo nên sự bất ổn về kinh tế chính trị trong khu vực đô thị đó. Do GPMB là việc thu hồi đất đai của các tổ chức và người dân, mà đất đai lại là tư liệu sản xuất của họ nên việc Nhà nước thu hồi đất đai sẽ ảnh hưởng đến nhiều tổ chức và cá nhân trong xã hội nên việc ban hành những chính sách về GPMB là việc rất cần thiết trong một đô thị. Để đáp ứng các yêu cầu GPMB phục vụ phát triển kinh tế xã hội trong các đô thị Nhà nước ta đã có rất nhiều các chính sách về việc đền bù GPMB cho các tổ chức cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất. Luật đất đai năm 2003, Nghị định 181/2004/NĐ- CP, Nghị định 197/2004/NĐ- CP của chính phủ quy định rất rõ việc giải phóng mặt bằng và chi phí hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Những chính sách này tạo điều kiện cho người dân được ổn định đời sống và tạo điều kiện cho họ phát triển kinh tế của bản thân tổ chức, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất. Để triển khai hiệu quả công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố Hà Nội, UBND Thành phố đã có rất nhiều chính sách để quản lý và làm tốt công tác giải phóng mặt bằng; cụ thể là việc thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định của Thành phố, Các văn bản pháp luật như Quyết định 137/2007/QĐ- UBND về ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Thành phố, và việc ban hành các khung giá đất hàng năm, giá đất mới sẽ được áp dụng để tính tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất… Vậy chính sách giải phóng mặt bằng là việc cơ quan nhà nước ban hành các quy định, các văn bản pháp pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng mặt bằng và đảm bảo lợi ích của người bị thu hồi đất khi nhà nước giải phóng mặt bằng. 1.2.5 Chi phí đền bù phục vụ GPMB phục vụ phát triển CSHTGT đô thị 1.2.5.1 Khái niệm về chi phí đền bù GPMB Theo Nghị định 197/2004/NĐ- CP của chính phủ thì bồi thường, hỗ trợ cho người sử dụng đất được quy định như sau: - Bồi thường hoặc hỗ trợ đối với toàn bộ diện tích đất Nhà nước thu hồi. - Bồi thường hoặc hỗ trợ về tài sản hiện có gắn liền với đất và các chi phí đầu tư vào đất bị Nhà nước thu hồi. - Hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và hỗ trợ khác cho người bị thu hồi đất. - Hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời sống tại khu tái định cư. Theo quy định này ta có thể hiểu rằng khoản bồi thường, hỗ trợ cho người sử dụng đất là khoản chi phí đền bù giải phóng mặt bằng khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất. Ngoài ra theo điều 48 của Nghị định 197/2004/NĐ- CP thì chi phí giải phóng mặt bằng còn bao gồm chi phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư - Tổ chức chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư có trách nhiệm lập dự toán chi phí cho công tác này của từng dự án như sau; + Đối với các khoản chi đã có định mức, tiêu chuẩn, đơn giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định thì thực hiện theo quy định hiện hành. + Đối với các khoản chi chưa hoặc không có định mức, tiêu chuẩn đơn giá thì lập dự toán theo thực tế cho phù hợp với đặc điểm của từng dự án và của từng địa phương; + Chi in ấn tài liệu, văn phòng phẩm, xăng xe, hậu cần phục vụ và các khoản phục cho bộ máy quản lý được tính theo nhu cầu thực tế của từng dự án; - Kinh phí đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được trích không quá 2% tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của dự án; mức cụ thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phù hợp với thực tế địa phương và tuỳ theo quy mô, tính chất đặc điểm của từng loại dự án; việc chi tiêu thanh quyết toán được thực hiện theo quy định của pháp luật. Vậy chi phí đền bù GPMB phục vụ phát triển CSHTGT là khoản chi phí bỏ ra để có phần diện tích đất để phục vụ cho xây dựng các công trình giao thông, nó bao gồm các khoản; chi phí bồi thường diện tích đất bị thu hồi, các tài sản gắn liền với với đất dị thu hồi, các khoản hỗ trợ di chuyển, ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi nghề, ổn định sản xuất và đời sống và chi phí cho việc tổ chức thực hiện giải phóng mặt bằng. 1.2.5.2 Các khoản mục chi phí giải phóng mặt bằng Có rất nhiều khoản mục trong chi phí giải phóng mặt bằng nhưng có thể chia thành các khoản mục sau: Thứ nhất: Chi phí bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất mà nhà nước có quyết định thu hồi. Thứ hai: Chi phí về bồi thường, hỗ trợ các tài sản gắn liền với diện tích đất mà nhà nước thu hồi và các khoản chi phí đầu tư vào đất đai. Thứ ba: Chi phí hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ việc đào tạo chuyển đổi nghề và các khoản hỗ trợ khác cho người bị thu hồi. Thứ tư: Chi phí cho việc ổn định sản xuất và đời sống tại khu tái định cư. Thứ năm: Chi phí cho việc tổ chức giải phóng mặt bằng 1.3. Kinh nghiệm GPMB phục vụ phát triển CSHTGT đô thị ở một số nước trên thế giới. Kinh nghiệm của Trung Quốc Ở Trung Quốc đã áp dụng rất thành công việc giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông rất thành công cho tới nay cách nay. Cụ thể là, để giải phóng mặt bằng làm một con đường rộng 50m, họ đã giải tỏa đền bù diện tích 100m; 25m đất mỗi bên đường được chia lô và đấu giá. Những hộ dân trong diện phải di dời được ưu tiên đấu thầu, nếu không có đủ điều kiện đấu thầu thì Nhà nước hỗ trợ nhà ở theo quy hoạch. Việc làm này bảo đảm công bằng cho người dân, bởi không có hiện tượng các hộ dân hai bên đường mới mở được hưởng tất cả các khoản do gia tăng giá trị nhà đất mà Nhà nước đã phải bỏ ra rất nhiều tiền đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng. Số tiền rất lớn từ  nguồn đấu thầu nhà đất được bổ sung vào ngân sách quốc gia để chỉnh trang và phát triển đô thị, trong đó có cả việc đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp phù hợp cho những đối tượng trong diện di dời. Do vậy cách làm này đã làm giảm chi phí cho việc xây dựng các tuyến đường ở đô thị. Không những ở Trung Quốc áp dụng thành công trong cách làm này mà đã có rất nhiều nước như Malaysia, Singapore, Indonesia.. đã áp dụng thành công biện pháp này vào giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển kinh tế xã hội của các Thành phố lớn và việc làm này đã được Thành phố Đà Nẵng áp dụng vào việc giải phóng mặt bằng trong việc mở rộng đường của Thành phố. Điểm mạnh của phương pháp này là tạo được vốn đầu tự tại chỗ nhờ việc đấu giá quyền sử dụng đất hai bên đường và việc quy hoạch cảnh quan hai bên đường được thuận lợi hơn khi tất cả các phần đất hai bên đều được chính quyền địa phương quy hoạch trước. Chương 2 Thực trạng giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở Thành phố Hà Nội 2.1 Giới thiệu tình hình phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội của cả nước, là một trong hai đô thị đặc biệt của nước ta, với dân số là 3,2167 triệu người, diện tích là 921,8km2 và mật độ dân số là 3490 người/km2 (nguồn Tổng cục thống kê năm 2006). Trong những năm qua Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế xã hội cụ thể trong 5 năm 2001- 2005, kinh tế - xã hội của Hà Nội đã có bước phát triển nhanh và toàn diện, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 11,25%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn vượt dự toán được giao; đầu tư xã hội tăng khá, bình quân 17,6%/năm, riêng năm 2007 GDP Thành phố Hà Nội tăng 12,07%. Với những thành tựu đã đạt được Hà Nội đang dần khẳng định mình là Thủ đô của một nước, là một trong hai trung tâm kinh tế xã hội lớn của cả nước và đang bước vào thời kỳ hội nhập sâu vào nền kinh tế Thế giới. Tuy đạt được những thành tựu trong việc phát triển kinh tế và xã hội nhưng Hà Nội cũng đang đứng trước những thách thức của việc đô thị hoá nhanh và hội nhập kinh tế quốc tế; vấn đề thất nghiệp và việc làm, ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông… Những vấn đề này ngày càng trở thành những thách thức khi nền kinh tế phát triển nhanh. Trong đó giao thông đô thị là một trong những vấn đề đang trở nên khó kiểm soát, ùn tắc có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu trong nội thành, điều này ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kinh tế và xã hội của thủ đô. Do vậy vấn đề này được Đảng, Nhà nước và chính quyền Thành phố đặc biệt quan tâm giải quyết, bởi giao thông trong đô thị Hà Nội đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của thủ đô và vấn đề này đã được cụ thể hoá bằng chiến lược phát triển giao thông Hà Nội từ nay đến năm 2020 nhằm đưa Hà Nội trở thành một đô thị hiện đại, văn minh và không những là một trung tâm kinh tế của cả nước mà còn có tầm cỡ quốc tế. 2.2 Thực trạng phát triển CSHTGT của Thành phố Hà Nội Hiện trạng giao thông Hà Nội hình thành bởi một mạng lưới khá đa dạng nhưng tồn tại nhiều bất cập. Giao thông đường bộ cấu thành bởi các quốc lộ hướng tâm, các đường vành đai, các trục chính đô thị và các đường phố đang bộc lộ sự yếu kém: quỹ đất quá thấp, ở nội thành có 343 km đường, diện tích mặt 5,25 km2, chiếm 6,18% diện tích đất đô thị. Khu vực ngoại thành có 770 km, chiếm khoảng 0,88% diện tích đất. Mạng lưới đường bộ phân bố không đồng đều. Khu phố cũ hoặc trung tâm có mạng đường tương đối phù hợp nhưng mật độ dân cư cao, mật độ tham gia giao thông quá lớn. ở khu vực mới xây dựng thì chưa có mạng đường hoàn chỉnh, thiếu nhiều đường nối giữa các trục chính quan trọng. Xu hướng "phố hoá" các quốc lộ gây nguy cơ mất an toàn và ùn tắc giao thông. Giao thông tĩnh (bến, bãi đỗ xe, trạm dừng...) còn thiếu và không tiện lợi. Trong khi đó, mạng đường có quá nhiều giao cắt (khu vực phía trong vành đai 2 bình quân 380m có một giao cắt). Các nút giao thông quan trọng hiện tại hầu hết đều là nút giao bằng. Tương tự, giao thông đường sắt tại Hà Nội mới chỉ có các đường sắt quốc gia phục vụ giao thông liên tỉnh, chưa có đường sắt đô thị.Với 5 trục hướng tâm, nhiều đoạn chạy xuyên qua nội thành Hà Nội, giao cắt cùng mức với các đường nội đô tại 49 điểm, gây mất an toàn, ùn tắc giao thông và ảnh đến môi trường đô thị. Giao thông đường thủy chủ yếu tập trung trên sông Hồng, sông Đuống là các tuyến tự nhiên, không ổn định. Cụm cảng sông có năng lực thông qua 1,7 - 2,0 triệu tấn/năm, tiếp nhận tầu 1.000 - 2.000 tấn và tầu pha sông biển nhưng trên thực tế mới tiếp nhận tàu 500 - 700 tấn do hạn chế luồng vào. Giao thông hàng không Hà Nội hiện có 2 cảng hàng không: Nội Bài, Gia Lâm và sân bay Bạch Mai thì cảng Nội Bài mới đáp ứng nhu cầu 2,5 - 3,0 triệu khách/năm, các sân bay khác chỉ phục vụ nội địa và quốc phòng.Chiếm ưu thế trong hệ thống giao thông vận tải hiện nay của Hà Nội là các loại phương tiện giao thông đường bộ. Hiện Hà Nội có gần 200.0000 ôtô, 2 triệu xe máy, 1 triệu xe đạp và một lượng xe lớn ngoại tỉnh. Cùng với sự tăng trưởng lượng phương tiện giao thông cơ giới là sự thay đổi lớn về cơ cấu đi lại. So sánh tỷ phần đảm nhận của các phương thức vận tải chính cho thấy từ năm 1995 đến năm 2005: tỷ phần đảm nhận của xe đạp giảm từ 73,23% xuống còn 25,1% (2,9 lần); tỷ phần đảm nhận của xe máy tăng từ 20,51% lên 63,8% (3,1 lần); tỷ phần đảm nhận của xe buýt tăng từ 0,68% lên 6,7% (9,6 lần). Dù được tập trung đầu tư nhưng vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt của Hà Nội vẫn còn thiếu hụt khi mới đạt 58 tuyến với gần 1.000 xe, đạt 900.000 lượt khách/ngày. Với hiện trạng cơ sở hạ tầng giao thông không thể đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và sự lưu thông của các phương tiện giao thông. Theo tiêu chí mà một đô thị có cơ sở hạ tầng giao thông đáp ứng được sự phát triển của đô thị thì phần diện tích đất đô thị dành cho xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông là từ 20- 25%. Để xây dựng Hà Nội thành một đô thị có tầm cỡ quốc tế, chính quyền Thành phố đã có rất nhiều lỗ lực trong giảm ùn tắc, nhất là việc xây dựng thêm các con đường, các công trình giao thông trong Thành phố nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Việc này đã được cụ thể hoá khi Bộ Giao thông Vận tải và UBND thành phố Hà Nội vừa có tờ trình Chính phủ Quy hoạch phát triển giao thông vận tải Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020 với nhiều điểm mới nhằm cụ thể hóa các hợp phần trong Quy hoạch chung của Thủ đô. Theo lộ trình đề ra thì từ nay đến năm 2010 thì Thành phố cần khoảng 41.115 tỷ đồng cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông và lộ trình đến năm 2020 số vốn cần đầu tư là 208.954 tỉ đồng. Với chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng này thì đến năm 2010 thì cơ sở hạ tầng giao thông chiếm từ 11- 15% diện tích đất đô thị và con số này đến năm 2020 là từ 20- 25% đất đô thị. Nhưng để đạt được những con số này quả thật không dễ khi ngân sách Thành phố chỉ đáp ứng được khoảng 20% số vốn đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông. Vậy để đạt được điều này thì Thành phố phải có những chính sách nhằm thu hút và tạo vốn để đầu tư xây dựng các công trình giao thông theo chiến lược 2.3 Thực trạng GPMB phục vụ phát triển CSHTGT của Thành phố Hà Nội Giải phóng mặt bằng phục vụ xây dựng sơ sở hạ tầng giao thông đô thị là một trong những lĩnh vực khó khăn nhất trong việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị bởi vì: - Các công trình giao thông thường chiếm một diện tích lớn trên bề mặt đô thị và nhất là các công trình về đường xá thường kéo dài. Điều này dẫn đến tình trạng là khối lượng giải phóng mặt bằng lớn, số lượng đất thu hồi nhiều, chi phí cho giải phóng mặt bằng cũng lớn (xem bảng 1). Do vậy đòi hỏi việc giải phóng mặt bằng phải tiến hành một cách bài bản và khoa học. - Giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông liên quan đến nhiều hộ gia đình và các tổ chức kinh tế xã hội và nó thường kéo dài nên ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế xã hội của nhiều người trong xã hội. Do vậy việc giải phóng mặt bằng phải đảm bảo tính công bằng và thoả mãn lợi ích của các cá nhân và tổ chức bị thu hồi đất. Bảng 1 Tên dự án Vốn đầu tư Số hộ tiến hành GPMB Số tiền chi cho GPMB Cải tạo nút giao thông Ngã tư sở 1.140.496 (Triệu đồng) 956 ( hộ) 793.806 (Triệu đồng) Đoạn đường Kim Liên- Ô Chợ Dừa Trên 800 tỷ đồng Trên 1000 hộ Trên 600 tỷ đồng Nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo quyền hạn và nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức trên địa bàn Thành phố Hà Nội khi Thành phố tiến hành thu hồi đất. Chính quyền Thành phố đã ban hành nhiều các văn bản pháp luật quy định về giải phóng mặt bằng hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Thành phố cụ thể là việc ban hành quyết định 137/2004/QĐ- UBND và việc ban hành khung giá đất Thành phố hàng năm đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc GPMB trên địa bàn Thành phố. Tuy đã ban hành nhiều chính sách về giải phóng mặt bằng nhưng việc giải phóng mặt bằng phục vụ cho xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông tại Thành phố Hà Nội gặp rất nhiều khó khăn: - Nhiều công tiến độ giải phóng mặt bằng chậm thậm trí có công trình kéo dài nhiều năm đã gây lãng phí lớn và làm chậm tiến độ thi công của công trình chẳng hạn như hai dự án quan trọng thuộc đường vành đai III gồm: đoạn Mai Dịch - Pháp Vân có tổng chiều dài 10,2km (trong đó, đoạn Mai Dịch - Trung Hoà dài 4,3km, qua quận Thanh Xuân 2,5km, đoạn còn lại 3,4km); dự án cầu Thanh Trì và đoạn tuyến Nam vành đai III Hà Nội có chiều dài 6,2 km qua 5 phường: Hoàng Liệt, Thịnh Liệt, Yên Sở, Trần Phú và Lĩnh Nam. Công tác giải phóng mặt bằng (GPMB) đường vành đai III bị Thanh tra Chính phủ nhận định là ''chậm'', dù các cơ sở pháp lý ban đầu để chuẩn bị cho công tác này rất kịp thời. Tính đến 30/8/2006, còn 1.379 hộ chưa được thực hiện đền bù, hỗ trợ xong - trong đó, quận Thanh Xuân còn khoảng 1.200 hộ, quận Cầu Giấy 150 hộ, huyện Thanh Trì 29 hộ. V ậy trong vòng 5 năm kể từ khi tiến hành giải phóng mặt bằng từ năm 2001 - Chính sách đền bù giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố còn bất cập nhất là việc áp dụng khung giá đất của Thành phố để đền bù giải phóng mặt bằng, giá áp dụng thường thấp hơn nhiều so với giá thị trường của đất đai dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài của người dân. - Nhiều dự án tuy đã được quy hoạch và đã triển khai giải phóng mặt bằng nhưng tình trạng lấn chiếm vẫn xảy ra và gây ra tình trạng giải phóng mặt bằng nhiều lần. 2.4 Chính sách GPMB phục vụ phát triển CSHTGT của Thành phố Hà Nội Triển khai Nghị định 181/2004/NĐ- CP và Nghị định 197/2004/NĐ- CP của chính phủ về việc xác định chi phí đền bù giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố Hà Nội. UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành nhiều chính sách trên địa bàn Thành phố nhằm thực hiện hiệu quả việc giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố trong đó đặc biệt là việc giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông trên địa bàn Thành phố. UBND Thành phố đã ban hành khung giá đất trên Thành phố hàng năm đây là khung giá đất để tính chi phí cho việc đền bù giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố. Và Quyết định 137/2007/QĐ- UBND của UBND Thành phố quy về định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Thành phố Hà Nội là những khung pháp lý cần thiết nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước cũng như của cá nhân khi UBND Thành phố tiến hành thu hồi đất của người dân, cụ thể là: Theo điều 31 Quyết định 137/2007/QĐ- UBND của UBND Thành phố quy định về việc bồi thường đối với nhà, công trình xây dựng có phép thì việc xác định chi phí đền bù được tính như sau: a. Bồi thường nhà ở, công trình phục vụ nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình các nhân bằng 100% đơn giá xây dựng mới do UBND Thành phố ban hành. b. Bồi thường đối với nhà, công trình không thuộc quy định tại khoản 1 điều này không di chuyển được phải phá vỡ: b.1 Xác định mức bồi thường: Mức bồi thường = Giá hiện có của nhà, + (Giá trị xây mới – Giá trị Công trình bị thiệt hại hiện có)*60% Các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật không còn sử dụng được hoặc thực tế không sử dụng thì không được bồi thường. Nhà tạm, công trình xây dựng phục vụ sản xuất nông nghiệp trên đất nông nghiệp, kể cả trên đất nông nghiệp tạm giao, cho thuê, đấu thầu được UBND cấp xã cho phép bằng văn bản thì được bồi thường bằng 100% đơn giá xây dựng mới do UBND Thành phố ban hành. b.2 Đơn giá xây dựng mới đối với nhà, công trình: - Áp dụng theo đơn giá do UBND Thành phố ban hành. - Đối với trụ sở làm việc, văn phòng, trung tâm thương mại, trường học, nhà sản xuất có cấp hạng, kết cấu tương đương với nhà ở thì được phép vận dụng đơn giá xây dựng mới do UBND Thành phố ban hành. - Đối với nhà, công trình không áp dụng được hoặc không vận dụng được đơn giá xây dựng mới của UBND Thành phố ban hành thì tuỳ thuộc tính chất công trình, Hội đồng bồi thường hỗ trợ tái định cư cấp huyện xác định đơn giá theo quy định sau: - Đối với nhà xưởng, nhà sản xuất, các công trình văn hoá, thể thao, các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật đang sử dụng thì được phép vận dụng chi phí xây dựng trong bảng suất vốn đầu tư xây dựng công trình do Bộ Xây dựng công bố; - Đối với nhà xưởng, nhà sản xuất, các công trình văn hoá, thể thao, các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật đang sử dụng nếu không vận dụng được đơn giá xây dựng mới theo quy định trên thì người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất căn cứ biên bản điều tra của Tổ công tác có xác nhận của UBND cấp xã nơi thu hồi đất để thuê đơn vị tư vấn có tư cách pháp nhân căn cứ vào hồ sơ hoàn công, quyết toán công trình hoặc lập lại thiết kế, dự toán công trình mới có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương ( trường hợp không có hồ sơ hoàn công, quyết toán ) để báo cáo Hội đồng bồi thường hỗ trợ tái định cư chỉ đạo Phòng Xây dựng – Đô thị thẩm định, trình UBND quận, huyện phê duyệt. b.3 Xác định tỷ lệ chất lượng còn lại của nhà, công trình: Căn cứ vào niên hạn sử dụng, thời gian đã sử dụng nhà, công trình; tỷ lệ chất lượng còn lại của nhà, công trình được xác định bằng công thức sau: Tcl = 100% - t/T(%) Trong đó; Tcl : tỷ lệ chất lượng còn lại của nhà, công trình t : thời gian đã sử dụng nhà, công trình T : niên hạn sử dụng của nhà, công trình Niên hạn của nhà, công trình được xác định như sau: + 20 năm đối với nhà một tầng mái ngói hoặc mái tôn (không áp dụng cho nhà xưởng và kho thông dụng quy định tại bảng sản xuất vốn đầu tư xây dựng công trình do Bộ Xây dựng công bố) tường bao quanh xây gạch chiều cao lớn hơn 3m (không tính chiều cao tường thu hồi); + 30 năm đối với nhà một tầng mái bê tông cốt thép hoặc mái bằng bê tông cốt thép trên lợp tôn, lợp ngói; + 30 năm đối với nhà xưởng và kho thông dụng quy định tại bảng suất vốn đầu tư xây dựng công trình do Bộ Xây dựng công bố; + 50 năm đối với nhà 2 – 3 tầng tường xây gạch, mái bê tông cốt thép hoặc mái bê tông cốt thép trên lợp tôn, lợp ngói; + 60 năm đối với nhà 4 – 5 tầng trở lên; + 100 năm đối với nhà biệt thự. b.4 Giá trị hiện có của nhà, công trình được xác định theo công thức sau: Ghc = Mkl * Gxd * Tcl Trong đó: + Ghc là giá trị hiện có của nhà, công trình + Mkl là diện tích sàn xây dựng hoặc đơn vị thể tích, đơn vị đo chiều dài nhà, công trình + Gxd là đơn giá xây dựng mới + Tcl là tỷ lệ chất lượng còn lại của nhà, công trình c. Đối với hệ thống máy móc thiết bị, nhà xưởng, công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật có thể tháo dỡ, di chuyển được Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất căn cứ biên bản điều tra hiện trạng của Tổ công tác có xác nhận của UBND cấp xã để thuê đơn vị tư vấn có tư cách pháp nhân lập dự toán tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt lại phù hợp với quy hoạch để báo cáo Hội đồng bồi thường hỗ trợ tái định cư chỉ đạo Phòng Xây dựng – Đô thị thẩm định trình UBND quận, huyện phê duyệt. d. Bồi thường đối với nhà, công trình bị cắt xén một phần d.1. Nhà, công trình bị cắt xén, tháo dỡ một phần mà còn lại không đảm bảo khả năng chịu lực thì được bồi thường toàn bộ nhà công trình. d.2. Nhà sau khi cắt xén, phá dỡ một phần theo chỉ giới quy hoạch mà phần diện tích sàn xây dựng còn lại của tầng 1 nhỏ hơn hoặc bằng 15m2 có chiều rộng mặt tiền tại chỉ giới cắt xén theo quy hoạch nhỏ hơn hoặc bằng 3m, nếu chủ tài sản cam kết phá dỡ toàn bộ sẽ được bồi thường toàn bộ diện tích xây dựng nhà. d.3. Nhà bị cắt xén phá dỡ mà không thuộc quy định tại điểm a, điểm b của khoản này mà diện tích còn lại chỉ còn cầu thang, nhà vệ sinh thì được bồi thường toàn bộ diện tích nhà. Trường hợp nhà bị cắt xén, phá dỡ trong đó nếu có một phần cầu thang bị dỡ thì được bồi thường toàn bộ cầu thang. d.4. Bồi thường bổ sung phần nhà, công trình bị ảnh hưởng do cắt xén, phá dỡ: Nhà, công trình bị cắt xén, phá dỡ một phần thì ngoài phần bồi thường diện tích phá dỡ đến chỉ giới cắt xén theo quy hoạch, còn được bồi thường bổ sung theo quy định sau: - Đối với nhà khung cốt thép hoặc kết cấu khung thép thì diện tích sàn xây dựng được bồi thường bổ sung tính từ chỉ giới cắt xén theo quy hoạch đến khung kết cấu chịu lực gần nhất; - Đối với nhà kết cấu xây gạch chịu lực bị cắt xén một phần, không ảnh hưởng đến án toàn của cả nhà thì diện tích sàn xây dựng được bồi thường bổ sung được xác định bằng chiều rộng mặt tiền nhà tại chỉ giới cắt xén theo quy hoạch nhân với chiều sâu 1m và nhân với số tầng nhà bị cắt xén theo quy hoạch. d.5. Bồi thường hoàn trả mặt tiền ngôi nhà; Đối với nhà, công trình bị cắt xén, phá dỡ một phần mà phần còn lại vẫn sử dụng được thì ngoài việc bồi thường theo quy định còn được bồi thường hoàn trả mặt tiền nhà, công trình theo công thức sau: Gmt = Bmt * Gxd * Smt * T Trong đó: Gmt: Giá trị phần mặt tiền được bồi thường hoàn trả Bmt: Chiều rộng mặt tiền tại chỉ giới cắt xén theo quy hoạch Gxd: Đơn giá xây dựng mới tính trên một mét vuông sàn xây dựng Smt: Chiều sâu nhà được tính bằng 1m T : Số lượng tầng bị cắt xén. Đây là các căn cứ ban đầu để tính chi phí đền bù giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố ngoài ra còn các khoản hỗ trợ để di dời các tài sản và các công trình khác gắn liền với đất đai tại các điều 33, điều 34, điều 35, điều 36 và điều 37 tại quyết định 137/2007/QĐ- UBND của UBND Thành phố Hà Nội. 2.5 Chi phí đền bù GPMB phục vụ phát triển CSHTGT của Thành phố Hà Nội. Để thực hiện các mục tiêu xây dựng và phát triển Thủ đô theo Qui hoạch đến năm 2020, đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư khổng lồ (JICA ước tính riêng hệ thống giao thông mỗi năm cần khoảng 2 tỷ USD). Câu hỏi đặt ra là: Tạo nguồn vốn bằng cách nào trong khi cân đối từ vốn ngân sách địa phương chỉ đảm bảo 20% nhu cầu trên? Một trong những yếu tố quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông hiện nay tại Thành phố Hà Nội là công tác giải phóng mặt bằng để triển khai xây dựng các công trình giao thông. Công tác gặp rất nhiều khó khăn trong những năm gần đây do giá đất ở Thành phố Hà Nội gia tăng nhanh chóng. Cụ thể để giải phóng mặt bằng xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông thì số tiền chi cho việc giải phóng mặt bằng thường chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng mức đầu tư vào công trình. Cụ thể là Đối dự án mở đường mới đoạn vành đai I Kim Liên- Ô Chợ Dừa với tổng mức đầu tư trên 800 tỷ đồng cho 1.000 m đường, đường Kim Liên- Ô Chợ Dừa hoàn thành và đưa vào đưa vào sử dụng Tháng 5/2007. Có trên 1.000 hộ trong diện giải phóng mặt bằng dự án (khoảng 5,6 ha đất), với số tiền GPMB lên đến trên 600 tỷ đồng. Trong khi đó, giá trị xây lắp của 1km đường vào khoảng 100 tỷ đồng. Đường Kim Liên - Ô Chợ Dừa có mặt cắt 50 m với 6 làn xe cơ giới, 4 làn xe thô sơ được coi là con đường hiện đại nhất Hà Nội. Con đường hoàn thành và cũng có gần 1.000 hộ từ ngõ ngách không tên bỗng trở thành mặt tiền phố lớn. Giá đất của khu vực tăng đột biến. Có những vị trí trước khi làm đường, giá 1 m2 đất chỉ 40 triệu đồng thì nay đã được đẩy lên trên 100 triệu đồng/m2. Sơ bộ, giá trị đất của khu vực tăng lên sau khi có đường cũng bằng đủ số tiền xây dựng tuyến đường. Khoản lợi này rơi vào tay những hộ dân may mắn,  Nhà nước không thu được một xu. Khi con đường hoàn thành thì tuyến phố này được triển khai xây dựng với những ngôi nhà đủ các hình dạng nham nhở (tam giác, hình vuông, chữ nhật, hình bình hành, hình thang...) mọc lên. Và cũng đủ kích thước, rộng vài chục mét vuông, cả trăm mét vuông nhưng cũng có ngôi nhà chỉ rộng hai chục mét vuông. Đặc biệt, trên tuyến phố có dải đất dài 18 m (rộng một đầu 30cm, một đầu khoảng 1m) đã được chia làm 4 ô lắp mái tôn cửa khung nhôm kính. Đoạn phố còn là nơi thể hiện của hàng loạt kiểu dáng kiến trúc “đông - tây, kim - cổ” kết hợp, đủ màu sắc. Hơn thế, con đường mới không phải là con đường cũ mở rộng mà chạy song song với con đường cũ. Vậy là khoảng cách giữa hai con đường đã tạo thành một dãy phố. Tuyến phố bám con đường đắt nhất hành tinh có một diện mạo chẳng giống ai! Vì sao lại có tuyến phố lộn xộn như vậy? Trước đó, Hà Nội đã có chủ trương xây dựng tuyến phố hai bên con đường này. Có nghĩa là mỗi bên đường được mở rộng thêm 50 m, tạo thành quỹ đất khoảng 11 ha. Diện tích đất này sẽ được xây dựng những chung cư cao tầng, trung tâm thương mại dịch vụ phục vụ tái định cư tại chỗ và tạo nguồn kinh phí đầu tư cho con đường. Đặc biệt, sau khi tuyến đường hoàn thành Hà Nội sẽ có được một tuyến phố văn minh, hiện đại. Rất tiếc, điều này đã không thực hiện được. Và cùng chung một số phận với tuyến phố trên là việc xây dựng và cải tạo nút giao thông Ngã Tư Sở với tổng mức vốn đầu tư là 1.140.496 triệu đồng thì chi phí cho việc giải phóng mặt là 793.806 triệu đồng chiếm tới 69,6%. Hiện thành phố Hà Nội đang giao Ban Quản lý các dự án trọng điểm (Ban trọng điểm) chuẩn bị đầu tư đường vành đai 1 (đoạn từ Ô Chợ Dừa đến Voi Phục). Tuyến đường có chiều dài 2,7 km. Ba phương án (PA) được chủ đầu tư đưa ra. PA 1: Đường có quy hoạch 50 m (theo quy định 1998)- giống như đoạn Kim Liên- Ô Chợ Dừa. Trong đó khoảng 1,5 km tuyến chạy song song với đường La Thành, chiều dài còn lại chạy trùng với đường La Thành; PA2: Mặt cắt đường thu hẹp còn 32 m nhưng sẽ được xây dựng thêm đường bê tông trên cao nằm đúng tim đường quy hoạch; PA 3: Tận dụng đường La Thành, xây dựng đường mới và đường bê tông trên cao. Tổng mức đầu tư lần lượt cho 3 phương án là: 2.468 tỷ đồng; 2.695 tỷ đồng và 3.066 tỷ đồng. Trong các văn bản góp ý kiến cho việc xây dựng tuyến đường này, Bộ GTVT, Bộ Xây dựng, Sở GTCC Hà Nội, Sở QHKT... đều ngả theo phương án 1. Các cơ sở để đưa ra định hướng là: PA 1 đảm bảo quy hoạch được duyệt, đảm bảo tính kết nối, đồng bộ trên toàn tuyến, khai thác đơn giản, đảm bảo mỹ quan đô thị. Tuy nhiên, cũng như đường Kim Liên - Ô Chợ Dừa, phương án quy hoạch và xây dựng tuyến phố hai bên đường không được tính đến. Dự kiến có khoảng gần 3.000 hộ dân trong diện phải GPMB. Số tiền dành GPMB (theo phương án 1) dự kiến đắt gấp 8,3 lần số tiền xây lắp đường. Để làm con đường này, Hà Nội vẫn phải dùng vốn vay và vốn đối ứng trong khi đó, phương án phát  triển quỹ đất tạo vốn xây dựng đường, tạo khu tái định cư tại chỗ cho dân lại bị “bỏ quên”. Điều hiển nhiên là nếu thực hiện PA 1, Hà Nội lại có thêm những tuyến phố với hàng ngàn ngôi nhà lộn xộn, nham nhở mọc lên. Phải chăng Hà Nội quá nhiều tiền nên không tính đến việc tạo vốn từ quỹ đất hai bên đường? Nếu không thay đổi tư duy về việc phát triển đường gắn chỉnh trang, xây dựng tuyến phố, không biết đến bao giờ Hà Nội mới có được những tuyến phố văn minh, hiện đại xứng.Và theo chiến lược phát triển giao thông vận tải của Thành phố Hà Nội đến năm 2020 và trước mắt là các công trình phục vụ cho kỷ niệm 1000 Thăng Long- Hà Nội năm 2010 thì rất nhiều công trình giao thông lớn được triển khai như cải tạo, nâng cấp một số trục quốc lộ hướng tâm và cao tốc hướng tâm; xây dựng đường cao tốc hướng tâm: cao tốc Láng - Hòa Lạc, Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Bắc Ninh. Đồng thời xây dựng khép kín đường vành đai 2, đoạn Bưởi - Nhật Tân - Vĩnh Ngọc - Cầu Chui - Sài Đồng - Vĩnh Tuy - Minh Khai; khép kín đường vành đai 3, đoạn Sài Đồng - Ninh Hiệp - Nội Bài và đoạn tuyến cao tốc nối từ Ninh Hiệp tới đường cao tốc Nội Bài - Hạ Long. Bên cạnh đó sẽ triển khai xây dựng phần đường vành đai 3 cao tốc cho đoạn Nội Bài - Thăng Long - Mai Dịch - Thanh Trì. Đây điều là những công trình có khối lượng giải phóng mặt bằng lớn nếu cứ lam theo cách giải phóng mặt bằng như đã làm ở Ngã Tư Sở và đường Kim Liên- Ô Chợ Dừa thì một khoản tiền lớn phải chi cho việc GPMB trong khi vốn đầu tư từ ngân sách Thành phố cho cơ sở hạ tầng chỉ đáp ứng được khoảng 20%, do vậy các nguồn vốn để xây dựng các tuyến đường này chủ yếu là nguồn vốn ODA và các nguồn vốn đi vay. Từ các dự án trên ta có thể thấy rằng chi phí giải phóng mặt bằng để xây dựng các con đường rất là lớn điều này sẽ làm cho việc xây dựng các con đường trở lên tốn kém hơn nhiều so với giá xây dựng của con đường, trong khi nguồn vốn ngân sách chỉ đáp ứng được khoảng 20% việc xây dựng để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của Thành phố, đây sẽ là một trong những trở ngại để thực hiện việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông Thành phố Hà Nội trước mắt cũng như chiến lược phát triển dài hạn đến năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt. Vậy việc giảm chi phí giải phóng mặt bằng là một việc làm tất yếu hiện nay trên địa bàn Thành phố và đó cũng là cơ sở để tiết kiệm ngân sách dành cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của Thành phố. 2.6 Một số đánh giá về GPMB phục vụ phát triển CSHTGT của Thành phố Hà Nội 2.6.1 Về chính sách Để giải quyết tốt các vướng mắc và hoàn thành tốt việc GPMB phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông trên địa bàn Thành phố. Chính quyền Thành phố đã ban hành nhiều chính sách nhằm đáp ứng nhiêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của Thành phố như việc ban hành Quyết định 137/2007/QĐ- UBND của UBND Thành phố Hà Nội về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Thành phố Hà Nội và việc ban hành giá đất hàng năm nhằm phục vụ việc GPMB của Thành phố nói chung và phục vụ GPMB phục vụ phát triển CSHTGT nói riêng. Các chính sách này đã phần nào giải quyết được những khúc mắc của các tổ chức và cá nhân bị thu hồi đất, và đã đáp ứng phần nào nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của Thành phố. Nhưng các chính sách này vẫn bộc lộ những thiếu sót, chồng chéo dẫn đến tình trạng việc GPMB thường kéo dài dẫn đến việc khởi công và thi công các công trình giao thông kéo dài gây lãng phí và bức súc trong khu vực GPMB của công trình đó. Cụ thể là công tác GPMB phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông Thành phố còn một số tồn tại sau: - Công tác quy hoạch dài, trung, ngắn hạn, xác định mốc giới , chỉ giới của từng dự án chưa được triển khai kịp thời, đồng bộ. Cơ chế giải phóng mặt bằng theo quy hoạch chỉnh trang hai bên đường tạo cảnh quan đô thị còn chưa được triển khai có hiệu quả. - Cơ chế phối hợp, phát huy chức năng quyền hạn, nhiệm vụ của các tổ chức, của các đoàn thể nhân dân trong quá trình GPMB còn có một số hạn chế. - Thực hiện nguyên tắc: Dân chủ, công khai, công bằng, đúng pháp luật có nơi, có lúc, có dự án còn thiếu nghiêm túc, còn mang tính hình thức tạo nên sự bức xúc đối với người bị thu hồi đất. - Cơ chế chính sách hậu GPMB và đào tạo chuyển nghề chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được đòi hỏi bức xúc về giải quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp, nông thôn, các khu vực có thu hồi nhiều đất nông nghiệp và có tốc độ đô thị hoá nhanh. - Việc thực hiện đầu tư còn dàn trải ở nhiều dự án và thiếu tập trung chuẩn bị đồng bộ các điều kiện để GPMB, dẫn đến nhiều dự án bị kéo dài, ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả đầu tư. - Còn một số dự án sau GPMB triển khai đầu tư còn chậm, để đất hoang kéo dài gây lãng phí và bức xúc trong nhân dân do năng lực và tiềm lực cuả chủ đầu tư còn thấp. - Chủ trương xây dựng các khu tái định cư đồng bộ, hiện đại, đảm bảo cho các hộ dân đến nơi ở mới có điều kiện tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ nhưng ở một số dự án, có ngành chưa thực hiện nghiêm túc trách nhiệm, chất lượng nhà tái định cư hạ tầng kỹ thuật, xã hội, thiếu đồng bộ gây khó khăn cho công tác GPMB. - Về cải cách hành chính: Sự phối hợp các cấp, nghành, tổ chức chủ dự án có lúc, có nơi còn chưa đồng bộ, chặt chẽ, thiếu chuyên sâu dẫn đến kết quả chưa cao trong thực hiện GPMB có chế phân cấp trách nhiệm nhiều măt còn chưa rõ và chồng chéo về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các ngành các cấp trong công tác bồi thường và hỗ trợ tái định cư GPMP thủ tục hành chính còn phức tạp. Đội ngũ làm công tác GPMB chưa chuyên sâu. Trình độ năng lực ở một bộ phận cán bộ làm công tác GPMB còn hạn chế. Những khó khăn và thách thức trong thời gian tới do các nguyên nhân sau: Pháp luật và chính sách có liên quan đến bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của nhà nước, sẽ có tiếp tục được ban hành, bổ sung, sửa đổi sẽ nảy sinh những mâu thuẫn mới trong công tác GPMB. - Hà Nội đang trong quá trình phát triển mạnh, công tác GPMB với quy mô lớn trong những năm tới sẽ tiếp tục gia tăng, vấn đề dân số, tái định cư, giải quyết lao động, việc làm và chính sách hậu GPMB sẽ còn là vấn đề bức xúc, đặc biệt là hàng vạn lao động nông nghiệp, nông thôn thiếu việc làm sau khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. - Vấn đề cải cách hành chính và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý, đội ngũ chuyên môn tham gia công tác bồi thương, hỗ trợ, tái định cư các cấp nhất là cấp cơ sở đang còn nhiều tồn tại thiếu sót, năng lực hạn chế. - Đến năm 2010, Thành phố phải thực hiện nhiều dự án, công trình trọng điểm bao gồm: Các công trình phát triển hạ tầng đô thị Cầu Vĩnh Tuy, Cầu Nhật Tân, Đường 5 kéo dài, đường vành đai 1, đường vành đai 2, đường vành đai 3… Những hạn chế, yếu kém chủ yếu: Công tác quy hoạch triển khai chậm, chất lượng thấp, thiếu đồng bộ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; hiệu quả quản lý quy hoạch, quản lý đô thị, xử lý những vấn đề dân sinh bức xúc, quản lý và sử dụng đất đai nhiều mặt còn yếu kém; kết cấu hạ tầng đô thị nhìn chung còn lạc hậu chưa đáp ứng yêu cầu của một đô thị văn minh, hiện đại. Công tác giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn và tốn kém. 2.6.2 Về chi phí - Có thể thấy một điều rất rễ nhận thấy việc đền bù giải phóng mặt bằng phát triển cơ sở hạ tầng giao thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội là rất lớn trong tổng mức đầu tư vào các dự án xây dựng đường. Chi phí GPMB chiếm tới quá nửa vốn đầu tư - Và mức giá áp dụng cho việc đền bù đất đai khi Thành phố thu hồi đất là chưa sát với giá thị trường của đất đai, giá thị trường thường cao hơn rất nhiều so với giá mà Thành phố đền bù điều này ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của người bị thu hồi đất gây khó khăn cho công tác giải phóng mặt bằng Chương 3 Giải pháp thực hiện hiệu quả giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội 3.1 Định hướng phát triển CSHTGT của Thành phố Hà Nội Theo đánh giá của Bộ Xây dựng, do mức độ đầu tư phát triển ở Hà Nội vẫn chưa tương xứng với tốc độ phát triển của Thành phố nói chung, tốc độ đô thị hóa nói riêng, nên hệ thống giao thông vận tải của Thủ đô vẫn tồn tại nhiều yếu kém, thể hiện rõ ở trên các phương diện: kết cấu hạ tầng giao thông, hoạt động vận tải hành khách công cộng, quản lý phương tiện giao thông cá nhân...Hệ quả là tình trạng ách tắc giao thông ngày càng gia tăng, mất an toàn giao thông ngày càng nghiêm trọng, tiềm ẩn những nguy cơ hạn chế mức độ tăng trưởng kinh tế, xã hội của Thủ đô trong thời gian tới. Để khắc phục, Bộ Xây dựng đề xuất trước mắt từ nay đến 2010, cần tập trung đầu tư triển khai một số dự án trọng điểm nhằm giải quyết cơ bản tình trạng ách tắc giao thông và tôn tạo cảnh quan đô thị để phục vụ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Kinh phí thực hiện các dự án ưu tiên đến thời điểm trên dự kiến lên tới là 41.115 tỷ đồng. Các dự án ưu tiên đầu tư này bao gồm: Cải tạo, nâng cấp một số trục quốc lộ hướng tâm và cao tốc hướng tâm: quốc lộ 1 (phía Nam và phía Bắc), quốc lộ 2, quốc lộ 3, quốc lộ 32. Xây dựng đường cao tốc hướng tâm: cao tốc Láng - Hòa Lạc, cao tốc Hà Nội - Lào Cai, cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên, cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, cao tốc Hà Nội - Bắc Ninh; Xây dựng khép kín đường vành đai 2, đoạn Bưởi - Nhật Tân - Vĩnh Ngọc - Cầu Chui - Sài Đồng - Vĩnh Tuy - Minh Khai. Xây dựng khép kín đường vành đai 3, đoạn Sài Đồng - Ninh Hiệp - Nội Bài và đoạn tuyến cao tốc nối từ Ninh Hiệp tới đường cao tốc Nội Bài - Hạ Long. Triển khai xây dựng phần đường vành đai 3 cao tốc cho đoạn Nội Bài - Thăng Long - Mai Dịch - Thanh Trì.Nằm trong chuỗi dự án này bao gồm cả việc triển khai xây dựng tuyến đường sắt đô thị số 3; nghiên cứu, huy động vốn xây dựng tuyến đường sắt đô thị Hà Nội - Hà Đông, tuyến đường sắt đô thị số 1, tuyến đường sắt đô thị số 2 (đoạn trong nội thành Hà Nội); xây dựng thí điểm 2 tuyến xe buýt ưu tiên theo hành lang Nguyễn Trãi - Khuất Duy Tiến - Láng Hạ - Giảng Võ và hành lang Giải Phóng - Đại Cồ Việt - Hàng Bài (theo dự án phát triển giao thông Hà Nội đã được UBND Thành phố phê duyệt)... Và Bộ Xây dựng cũng đưa ra trong báo cáo thẩm định qui hoạch giao thông Hà Nội vừa trình Chính phủ. Theo đó, từ nay đến năm 2020, cần phải có nguồn vốn đầu tư khoảng 208.954 tỉ đồng (khoảng 12,98 tỉ USD) để có một hệ thống giao thông đáp ứng được yêu cầu phát triển của thủ đô. Trong đó, vốn cho các dự án đường bộ là 77.963 tỉ đồng, các dự án đường sắt 97.469 tỉ đồng, đường thủy 27.412 tỉ đồng, sân bay 8.100 tỉ đồng và 3.792 tỉ đồng cho công tác quản lý giao thông và an toàn giao thông, còn lại là 488 tỉ đồng cho công tác tăng cường thể chế chính sách. Dự kiến kinh phí thực hiện các dự án ưu tiên đầu tư đến năm 2010 là 41.115 tỉ đồng. Vậy theo các quy hoạch đã được UBND Thành phố phê duyệt và Bộ Xây dựng trình Chính phủ thì hệ thống giao thông Thành phố sẽ được quy hoạch một cách tổng thể và hiện đại đáp ứng đủ các điều kiện của một đô thị hiện đại và văn minh. 3.2 Giải pháp thực hiện hiệu quả GPMB phục vụ phát triển CSHTGT của Thành phố Hà Nội 3.2.1 Một số giải pháp chung Giải phóng mặt bằng là một lĩnh vực nhạy cảm và khó khăn trong phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị để lam tốt công tác này Thành phố cần triển khai các biện pháp sau: - Đẩy mạnh công tác lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất; tổ chức công bố quy hoạch, cắm chỉ giới, mốc giới theo quy định của Luật xây dựng; đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ. - Tổ chức thực hiện giải phóng mặt bằng theo quy hoạch, từng bước thay thế phương thức giải phóng mặt bằng theo từng dự án. Xây dựng cơ chế chính sách để các Tổ chức phát triển quỹ đất ( Trung tâm phát triển quỹ đất ) thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ quy định - Coi trọng công tác chính trị tư tưởng, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật bằng nhiều hình thức và ở các cấp, các ngành. - Huy động các nguồn vốn trong nước cũng như ngoài nước vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông trong Thành phố. - Thực hiện các chính sách ưu tiên đối với các tổ chức cá nhân đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông trên địa bàn Thành phố. Chẳng hạn như giảm thuế, hỗ trợ vay vốn đầu tư cơ sở hạ tầng. 3.2.2 Một số giải pháp về chính sách Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn, Thành phố sẽ tập trung chỉ đạo triển khai những giải pháp chủ yếu với các nội dung sau: - Vận dụng linh hoạt, ban hành đồng bộ cơ chế chính sách bồi thời, hỗ trợ và tái định cư cho phù hợp với quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Thủ đô. - Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, chú trọng công tác kiểm tra, thanh tra, kịp thời giải quyết các khiếu lại của công dân. - Tăng cường chuyên môn hoá( kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác GPMB ), công tác tham mưu, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các cấp. - Chính sách ưu tiên cho các tổ chức cá nhân đầu tư vào các cơ sở hạ tầng giao thông có thu phí của người sử dụng và các dự án này thực hiện dưới hình thức BOT, BT, BTO ưu tiên cho tổ chức cá nhân đầu tư vào hệ thống xe bus, hệ thống xe điện mà thành phố đã triển khai quy hoạch nhằm giảm ngân sách Thành phố đầu tư vào các dự án này. 3.2.3 Giải pháp về giảm chi phí đền bù trên địa bàn Thành phố Hà Nội Riêng vấn đề đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị thì khó khăn nhất vẫn là các vấn đề về vốn đầu tư và giải phóng mặt bằng. Nếu làm theo cách như từ trước đến nay thì những tuyến đường đô thị mới mở vừa không phát huy được hết tác dụng (vỉa hè lòng đường bị lấn chiếm ngay khi tuyến đường hoàn thành, bộ mặt đô thị nhếch nhác do người dân sử dụng hỗn tạp các loại kiến trúc) vừa không thể huy động được vốn đầu tư.Thành phố nên tham khảo phương thức đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị của một số nước trong khu vực. Thứ Nhất: Có thể đưa ra nguyên tắc dải băng rộng khi GPMB và Nhà nước sẽ sử dụng dải băng ngoài phạm vi tuyến đường để xây dựng theo quy hoạch và phát triển dịch vụ, cho thuê, kinh doanh để tạo vốn tái đầu tư cho cơ sở hạ tầng đô thị. Tất nhiên đi kèm theo đó là một chính sách đền bù thỏa đáng đối với người dân, trong đó có các ưu đãi cho các hộ dân bị giải tỏa mà vị trí nhà và cuộc sống của họ trước đây phụ thuộc vào mặt đường. Như vậy thành phố cũng phải chuẩn bị một quỹ nhà đủ để thực hiện theo phương án này. Nếu làm được như vậy thì không những sẽ có một nguồn kinh phí to lớn, ổn định để đầu tư mà còn tạo được một bộ mặt đô thị sáng sủa, văn minh hiện đại. Có thể làm thí điểm một số tuyến đường đầu tư cụ thể và đúc rút kinh nghiệm. - Phần điện tích đất hai bên đường có thể quy hoạch thành các ô sau đó bán đấu giá quyền sử dụng đất, khi đó cùng trên một diện tích đất thu hồi và bán đấu giá quyền sử dụng đất thì chính quyền địa phương sẽ thu được địa tô chênh lệch do những diện tích đất bên hai mặt đường sẽ có giá trị lớn hơn khi tiến hành đền bù phần diện tích hai bên đường đó. - Việc quy hoạch phần diện tích đất hai bên đường sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh hơn trong việc xây dựng các công trình hai bên đường sẽ tạo cho hai bên đường một cảnh quan đô thị đẹp và hiện đại - Khi thu hồi đất để GPMB bản thân người dân cũng được lợi nhờ chính sách này. Khi đó người dân sẽ được đền bù với một mức giá đền bù cao hơn, và giá đất trong khu vực thành thị sẽ gần với giá thị trường hơn. Làm cho thị trường bất động sản ít biến động hơn. Thứ hai: Nhà nước mà đại diện là các cơ quan có trách nhiệm của Thành phố Hà Nội sẽ tiến hành bố trí tái định cư ngay trên khu vực hai bên đường phố mới bằng việc xây dựng các hệ thống nhà cao tầng, trung tâm thương mại, công trình công cộng… sao cho phù hợp với quy hoạch của Thủ đô, để bố trí tái định cư cho người dân khi họ có nhu cầu ở lại khu phố mới để ở và kinh doanh; khi đó chính sách này sẽ giúp cho người dân được tạo được công ăn việc làm và chỗ ở ngay tại nơi họ sinh sống. Việc làm này sẽ làm cho chi phí GPMB giảm xuống do khi người dân muốn ở lại để ở và kinh doanh tại các khu nhà do Thành phố quy hoạch họ sẽ không được nhận tiền đền bù giải phóng mặt bằng mà họ phải chấp nhận ở tại các khu mà Thành phố đã bố trí xây dựng. Thứ ba: Ta cũng có thể mở rộng đường như hiện nay là việc GPMB chỉ vừa đủ phần diện tích lòng đường và các công trình phục vụ hai bên đường. Nhưng khi công trình xây dựng song việc chênh lệch địa tô khi các nhà mới được ra mặt đường hưởng mức chênh lệch này phải hoàn trả một phần trăm chênh lệch địa tô do nhà nước mở rộng đường. Hình thức thu địa tô chênh lệch này có thể thu trên hình thức cấp giấy phép xây dựng khi các công trình này tiến hành xây dựng mới, hoặc có thể thu qua hình thức chuyển giao quyền sử dụng đất khi có giao dịch giữa bên mua và bên bán quyền sử dụng đất hai bên đường. Nhưng để tạo ra những con phố có kiến trúc theo quy hoạch thì những nhà có diện tích hai bên không đủ để phục vụ xây dựng các công trình theo quy định thì kiên quyết đền bù hoàn toàn và sau đó mảnh đất đó sẽ được bán đấu giá cho những người có nhu cầu. 3.3 Một số kiến nghị khác - Hoàn chỉnh việc tính toán giá trị thực của đất đai tại các khu vực khác nhau trên địa bàn Thành phố từ đó ban hành khung giá đất sao cho sát với giá thực tế của đất đai nhằm phục vụ việc GPMB được thuận lợi hơn. - Thành lập riêng bộ phận lập dự án giải phóng mặt bằng nằm trong tổng thể dự án xây dựng, bộ phận này có nhiệm vụ thu thập số liệu, số lượng các công trình cần giải phóng mặt bằng, số lượng người cần di chuyển từ đó đề suất ra các phương án giải phóng mặt bằng và đánh giá tính khả thi của phương án và tìm ra phương án tốt nhất. Kết Luận Tóm lại công tác giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông là một việc rất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều người. Công việc này trở lên phức tạp hơn nữa khi tiến hành trong một đô thị mà điển hình là đô thị Hà Nội. Với rất nhiều dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông trong thời gian tới thì công tác giải phóng mặt bằng gặp rất nhiều khó khăn, nhất là việc ban hành các chính sách sao cho phù hợp với công tác giải phóng mặt bằng hiện nay và phù hợp với lợi ích của người dân. Đề tài với mục đích hướng tới là việc giảm chi phí giải phóng mặt bằng nhằm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của Thành phố Hà Nội, mong rằng những đề suất nhỏ này sẽ đáp ứng được phần nào việc giảm chi phí giải phóng mặt bằng và tăng cường nguồn vốn cho phát triển giao thông Thành phố Hà Nội, để Hà Nội sớm đạt được các chỉ tiêu trong chiến lược phát triển giao thông của Thành phố đã đề ra. Để Hà Nội không những trở thành đô thị hiện đại và văn minh mà nó còn mang tầm cỡ của một đô thị quốc tế. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Luật đất đai năm 2003 2. Nghị định số 197/2004/NĐ- CP của Chính phủ “ Về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. 3. Nghị định số 181/2004/NĐ- CP của chính phủ 4. Quyết định số 26/2005/QĐ- UB của UBND Thành phố Hà Nội về “ Quy định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thực hiện Nghị định 197/2004/NĐ- CP của Chính phủ khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội. 5. Quyết định 137/2007/QĐ- UBND của Uỷ ban nhân Thành phố Hà Nội về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Thành phố Hà Nội. 6. Tổng kết 6 năm thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TU của Thành uỷ Nghị quyết 09/2000/NQ- HĐ của Hội đồng Nhân dân Thành phố về công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố Hà Nội. 7. Giáo trình kinh tế đô thị; GS. TS Nguyễn Đình Hương, Th.S Nguyễn Hữu Đoàn; NXB Giáo Dục 8. Giáo trình quản lý đô thị; GS. TS Nguyễn Đình Hương, Th.S Nguyễn Hữu Đoàn; NXB Thống Kê 9. Bài giảng quy hoạch đô thị; Th.S Bùi Thị Hoàng Lan 10. Webside: www.http.moj.gov.vn 11. Webside: www.http.hanoi.gov.vn 12. Webside: www.http.vietnamnet.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34692.doc
Tài liệu liên quan