Vai trò của Con người trong công cuộc phát triển ngành Ngân hàng là không thể phủ nhận được bởi vì có hàng vạn những định chế quản lý kì diệu nhưng thiếu đi yếu tố con người thì những định chế đó cũng chỉ là con số không. Thực tế đã chứng minh rằng nếu một Ngân hàng nào đó có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy sáng tạo trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của Ngân hàng thì chắc chắn Ngân hàng đó có thể đứng vững và phát triển trước sóng gió thị trường.
Để có thể phát triển được hoạt động kinh doanh đối ngoại nói chung và hoạt động TTQT nói riêng, NHCT Ba Đình đã có một đội ngũ cán bộ nhiệt tình, giỏi chuyên môn và nghiệp vụ, am hiểu các lĩnh vực ngoại thương, am hiểu các luật lệ và tập quán quốc tế về ngoại thương và TTQT. Có khả năng tư vấn cho khách hàng trong các hợp đồng xuất nhập khẩu, giúp họ chọn lựa và áp dụng các phương thức và điều kiện thanh toán có lợi nhất nhằm tránh rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để có thể làm tốt hơn những điều đó đòi hỏi NHCT Ba Đình phải có chiến lược phát triển con người với các giải pháp sau:
+ Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ TTQT, các cuộc hội thảo về TTQT nhằm giúp các cán bộ trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ TTQT, học tập được kinh nghiệm xử lý các tình huống phát sinh trong hoạt động TTQT
+ Cử những cán bộ có năng lực đi học tập những kinh nghiệm của các Ngân hàng trên thế giới mà có quan hệ với NHCT để có thể tìm hiểu và đúc rút những ý kiến có lợi cho Ngân hàng, giúp hệ thống NHCT cũng như Chi nhánh NHCT Ba Đình tạo được niềm tin và uy tín đối với các khách hàng và bạn hàng trong nước cũng như trên thế giới.
+ Hàng năm nên tổ chức các kì thi sát hạch về nghiệp vụ và tổ chức thi tuyển công khai, nghiêm túc để có thể tuyển được những cán bộ mới có năng lực chuyên môn và giàu kinh nghiệm.
+ Không chỉ hoàn thiện về mặt tri thức, nghiệp vụ, cán bộ làm công tác TTQT cũng cần phải chú trọng đến phong cách giao dịch với khách hàng. Điều này sẽ giúp Ngân hàng thu hút thêm khách hàng mới và củng cố vững chắc hơn mối quan hệ với các khách hàng đã có.
87 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại nhct Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa hệ thống NHCT nói chung trên thương trường trong nước và quốc tế.
Trước đây hoạt động TTQT của hệ thống NHCT Việt Nam được thông qua 2 đầu mối là Hội sở NHCT Việt Nam (đối với các chi nhánh phía Bắc) và chi nhánh NHCT thành phố Hồ Chí Minh (đối với các chi nhánh phía Nam). Từ năm 1996 để đảm bảo sử dụng vốn ngoại tệ một cách tiết kiệm, có hiệu quả nhất đồng thời để phát huy được sức mạnh của cả hệ thống và đảm bảo vai trò kiểm soát của NHCT Việt Nam, hoạt động TTQT của cả hệ thống NHCT được tập trung vào 1 đầu mối là NHCT Việt Nam.
NHCT Việt Nam là 1 đầu mối duy nhất của cả hệ thống thực hiện nghiệp vụ TTQT, các Chi nhánh phụ thuộc của NHCT Việt Nam có đủ điều kiện tham gia TTQT đều thực hiện qua đầu mối duy nhất đó. Chỉ có NHCT Việt Nam mới được phép đặt quan hệ đại lý và mở tài khoản NOSTRO tại Ngân hàng đại lý ở nước ngoài, mở các tài khoản tiền gửi, tiền vay tại NHNN và các NHTM khác trên lãnh thổ Việt Nam.
NHCT Việt Nam mở tài khoản điều chuyển vốn ngoại tệ, tiền gửi DTBB... cho các Chi nhánh theo từng loại ngoại tệ và thực hiện tính lãi cho các Chi nhánh. Các Chi nhánh được yêu cầu NHCT Việt Nam chuyển đổi từ loại ngoại tệ này sang loại ngoại tệ khác. Hàng quý, NHCT Việt Nam thông báo hạn mức sử dụng ngoại tệ cho từng Chi nhánh (bao gồm hạn mức tối thiểu và hạn mức gia tăng) để Chi nhánh chủ động trong việc giải quyết các mối quan hệ với khách hàng. Nếu Chi nhánh có nhu cầu tăng thêm phải báo cáo ngay về NHCT Việt Nam. Việc thanh toán ngoại tệ trong nội bộ hệ thống NHCT Việt Nam, giữa hệ thống NHCT Việt Nam với các ngân hàng khác hệ thống và các ngân hàng nước ngoài, việc mở L/C và thông báo L/C đều được thực hiện trên máy vi tính theo một chương trình phần mềm thống nhất.
Mọi quy trình của nghiệp vụ TTQT đều được thực hiện theo quyết định số 26/NHCT - QĐ ngày 1/3/1997 của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, quyết định số 311/NHCT - KT ngày 23/3/1995 về việc hướng dẫn hạch toán kế toán ngoại tệ và bản “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” của Phòng thương mại quốc tế năm 1994 số 500 (UCP-500).
Sau một thời gian hoạt động với các nghiệp vụ TTQT, Chi nhánh đã đạt được một số thành tích đáng khích lệ như sau:
Biểu 2: Tình hình hoạt động TTQT tại NHCT Ba Đình
Đơn vị: 1000USD
Phương thức
1999
2000
2001
1. Thanh toán T/T
4.728
8.556
19.695
2. Thanh toán nhờ thu
1.391
1.940
2.516
3. Thanh toán L/C
44.331
41.829
36.052
Cộng
50.450
52.325
58.263
NSL: Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngoại năm 1999,2000,2001
Qua bảng số liệu trên ta thấy mặc dù nghiệp vụ TTQT mới được triển khai nhưng đã có bước phát triển đáng kể. Năm 1999 doanh số TTQT đạt được 50.450.000 USD thì sang năm 2000 doanh số đã lên tới 52.325.000 USD với tốc độ tăng +4%. Sang đến năm 2001 mặc dù vẫn còn dư âm của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á và một số diễn biến bất thường của nền kinh tế thế giới, bên cạnh đó là những khó khăn trong nước như thiên tai, hạn hán và tình trạng Việt Nam là nước nhập siêu dẫn đến mất cân đối cung cầu ngoại tệ nhưng vượt lên trên những khó khăn đó với sự nỗ lực của Chi nhánh và có những giải pháp, bước đi đúng đắn, doanh số TTQT không dừng lại mà còn tăng lên đạt 58.263.000 USD, tốc độ tăng +11% so với năm 2000 và +15% so với năm 1999. Chất lượng nghiệp vụ thanh toán ngày càng được nâng cao, tuy khối lượng TTQT lớn nhưng Chi nhánh không để xảy ra sai sót nào làm ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng cũng như của Ngân hàng. Uy tín của Ngân hàng ngày càng được nâng cao. Nhờ phát triển nghiệp vụ TTQT, NHCT Ba Đình đã thu hút thêm được nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu về giao dịch, vay vốn và TTQT qua Chi nhánh. Qua đó Ngân hàng thu được khối lượng phí lớn đóng góp một phần đáng kể vào kết quả kinh doanh của Chi nhánh. Năm 1999, phí thu được từ hoạt động kinh doanh đối ngoại đạt 4.367.000.000 VND, năm 2000 con số này là 5.125.000.000 VND với tốc độ tăng +17% so với năm 1999, và đến năm đạt được 7.600.000.000 VND với tốc độ tăng +48% so với năm 2000. Con số này không những phản ảnh sự tăng về mặt số học mà còn có ý nghĩa kinh tế là lợi nhuận của Ngân hàng cũng tăng theo, vị thế của NHCT Ba Đình đã từng bước được khẳng định, khách hàng đã “quen thân” với Ngân hàng.
4.2. Một số tồn tại và nguyên nhân
NHCT mới tham gia nghiệp vụ TTQT chưa lâu, vì vậy trong quá trình hoạt động có những hạn chế là không tránh khỏi. Qua thực tiễn hoạt động của Ngân hàng, chúng ta thấy nổi lên một số vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới nhằm tạo điều kiện cho Ngân hàng thực hiện tốt hơn nữa chức năng thanh toán.
*) Một số tồn tại chung
+ Chế độ chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các chính sách kinh tế sẽ tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và hoạt động của cả nền kinh tế nói chung. Song bên cạnh đó chính sách quản lý xuất khẩu còn một vài hạn chế, thể hiện sự chưa tập trung còn có tình trạng mạnh ai người đó xuất khẩu, cung cầu giả tạo... Mặt khác những thay đổi trong chính sách vốn chưa hoàn thiện cũng đã gây ra không ít thiệt hại cho các doanh nhân Việt Nam.
+ Hành lang pháp lý cho hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động TTQT nói riêng còn thiếu, bất cập. Chúng ta chưa có riêng một quy chế, văn bản pháp lý hướng dẫn giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu cho riêng ngành Ngân hàng và từng ngành chức năng liên quan, chưa có luật ngoại hối, luật hối phiếu, luật séc của riêng Việt Nam. Các văn bản hiện hành thì quy định chồng chéo, qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi nên khó áp dụng, hiệu quả pháp lý chưa cao.
+ Việt Nam chưa có thị trường hối đoái hoàn chỉnh, hiện nay mới có thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng nhưng hoạt động của thị trường còn kém sôi động, nghiệp vụ còn đơn giản, mới chỉ có hình thức mua bán trao ngay, đối tượng mua bán chủ yếu là USD (chưa thực hiện mua bán các phương tiện TTQT), thành viên tham gia thị trường còn hạn chế, chỉ có Hội sở các NHTM và NHNN. Việc điều hành tỷ giá của Nhà nước đã phản ảnh cung cầu ngoại tệ song việc thực hiện còn nhiều hạn chế, chưa kịp thời, có thời gian cầu rất lớn so với cung. Nhiều NHTM có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán ra nước ngoài nhưng không thể mua được trên thị trường này cũng như không mua được ngoại tệ từ quỹ điều hoà của NHNN. Điều này phần nào ảnh hưởng đến khả năng TTQT và uy tín của NHTM trên trường Quốc tế.
+ Cán cân vãng lai và cán cân thương mại Quốc tế còn thâm hụt nghiêm trọng dẫn đến mất cân đối cung cầu về ngoại tệ, ảnh hưởng đến khả năng mua bán ngoại tệ của các NHTM nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động TTQT.
*) Về phía Ngân hàng
+ Công nghệ thanh toán chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, hệ thống thanh toán ngoại tệ và TTQT của các Chi nhánh trong nội bộ hệ thống NHCT Việt Nam tuy đã thực hiện trên máy vi tính nhưng chương trình phần mềm chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, mức tự động chưa cao, việc truyền nhận tin vẫn do con người thực hiện thông qua hệ truyền tin Scom3. Vì vậy việc truyền tin chậm trễ, dễ mất mát tập tin trên đường truyền dẫn tới chậm trễ trong thanh toán làm ảnh hưởng đến uy tín của Ngân hàng. Thêm vào đó chương trình kế toán ngoại tệ trên máy tính chưa được thực hiện thống nhất nên vẫn xảy ra trường hợp thông báo về lượng ngoại tệ dùng để thanh toán L/C hoặc ký quỹ mở L/C từ bộ phận kho quỹ với bộ phận kế toán trong Ngân hàng còn nhiều chậm trễ, không cập nhật ngay được thông tin gây ách tắc trong quá trình thanh toán chứng từ tại Chi nhánh.
+ Quy mô hoạt động TTQT còn chưa rộng, lượng L/C xuất khẩu thông báo và chiết khấu qua Ngân hàng còn ít, trong khi đó lượng L/C nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn gây khó khăn cho Chi nhánh trong việc tự cân đối nhu cầu mua bán ngoại tệ. Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu chưa được đẩy mạnh.
+ Hình thức dịch vụ chưa đa dạng, hiện nay NHCT Ba Đình mới chỉ thực hiện và thanh toán 3 loại séc du lịch là Thomat Cook, Citi Corp, Amex, chưa có hệ thống rút tiền tự động.
+ Ngân hàng có thể chịu nhiều rủi ro trong trường hợp Ngân hàng bảo lãnh cho người nhập khẩu đi nhận hàng khi chứng từ chưa về đến, người nhập khẩu có thể gây khó khăn thậm chí không thanh toán cho Ngân hàng trong khi Ngân hàng chỉ nắm giữ một số tiền ký quỹ không lớn. Hoặc trong trường hợp người xuất khẩu và người nhập khẩu cấu kết để lừa đảo thì mọi hậu quả Ngân hàng phải gánh chịu.
+ Môi trường hoạt động kinh doanh nói chung và TTQT nói riêng của NHCT Ba Đình có sự cạnh tranh rất lớn của các Ngân hàng khác đặc biệt là NHNT, Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam...
+ NHCT Ba Đình đóng trên địa bàn nơi có trung tâm chính trị với hầu hết các đơn vị hành chính sự nghiệp, các ban ngành trọng yếu của Đảng và Chính phủ, sản xuất kinh doanh kém phát triển vì vậy có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
+ Do NHCT Ba Đình mới tham gia vào hoạt động TTQT nên uy tín trên trường Quốc tế chưa cao, hệ thống Ngân hàng đại lý còn chưa rộng. Vì vậy lượng L/C xuất khẩu thông báo qua Ngân hàng còn hạn chế.
+ Trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác TTQT tuy đảm bảo được yêu cầu song kinh nghiệm thực tế chưa nhiều dẫn đến tốc độ và độ chính xác chưa cao.
*) Về phía khách hàng
Khách hàng ở đây là những đơn vị xuất nhập khẩu trong nước đã và đang thực hiện việc thanh toán xuất nhập khẩu qua NHCT Ba Đình. Bên cạnh những đơn vị lâu năm có nhiều kinh nghiệm trong công việc thì cũng có không ít những đơn vị chưa có kinh nghiệm, trình độ hiểu biết về nghiệp vụ thanh toán thấp. Do đó thường nảy sinh các sai sót gây tổn hại không những đến chính các đơn vị này mà còn làm ảnh hưởng đến uy tín của Ngân hàng.
+ Về hoạt động thanh toán hàng xuất khẩu: trong thực tiễn hoạt động, thanh toán viên đã gặp không ít trường hợp không thực hiện đúng thời hạn kiểm tra chứng từ hoặc buộc phải từ chối không thanh toán tiền hàng cho khách. Lý do là người xuất khẩu tuy đã được nhắc nhở song vẫn không nộp chứng từ kịp thời, lập bộ chứng từ không khớp với L/C như mô tả sai hàng hoá so với L/C hoặc không đầy đủ.
+ Về thanh toán hàng nhập khẩu: người nhập khẩu trong một số trường hợp thường thắc mắc mở L/C mà không lấy được hàng đúng thời hạn do không lấy được bộ chứng từ thanh toán từ Ngân hàng. Tuy nhiên nguyên nhân chính là do người nhập khẩu đã mở L/C không đúng với thời gian quy định trong hợp đồng. Thêm vào đó có trường hợp do các hợp đồng thương mại thiếu chặt chẽ, khách hàng Việt Nam thiếu thông tin về đối tác. Đồng thời người nhập khẩu chưa coi trọng tham mưu của Ngân hàng trong việc ký kết hợp đồng. Điều này có thể khiến Ngân hàng gặp khó khăn trong việc giao dịch với đối tác nước ngoài hoặc Ngân hàng thông báo theo hợp đồng quy định do không có quan hệ đại lý. Việc sửa đổi, khắc phục hậu quả sẽ gây nhiều phiền phức tốn kém cả thời gian và tiền bạc.
Nói tóm lại, NHCT Ba Đình có những ưu thế nhất định trong hoạt động TTQT, thành quả mà Ngân hàng đã đạt được là đáng trân trọng cần phải phát huy hơn nữa. Bên cạnh đó có không ít những khó khăn và tồn tại mà Chi nhánh cần phải khắc phục mà trước mắt cần thiết phải đề ra những kiến nghị và giải pháp làm sao cho phát triển hơn nữa hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, tạo cho Ngân hàng uy tín lớn đối với các khách hàng, giúp Ngân hàng tăng được lợi nhuận qua đó làm mạnh hơn nữa hệ thống NHCT nói chung và NHCT Ba Đình nói riêng.
Chương III
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động TTQT tại NHCT Ba Đình
I/ Định hướng hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình trong năm tới
1. Định hướng hoạt động chung
Đẩy mạnh công tác tiếp thị thu hút các khách hàng lớn, các doanh nghiệp Nhà nước, các Tổng công ty và các đơn vị có hoạt động xuất nhập khẩu về giao dịch với Chi nhánh. Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi khách hàng. Phấn đấu giữ vững và phát triển mọi mặt hoạt động kinh doanh đối ngoại.
Ngân hàng cần phải xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu riêng phục vụ cho hoạt động thẩm định. Trong đó tập chung những thông tin cần thiết về ngành, về lĩnh vực, về tình hình kinh tế các khu vực khác nhau trong cả nước. Phát triển theo các hướng chi nhánh thu thập và lưu trữ thông tin về tình hình cụ thể trên địa bàn chi nhánh, trung ương lưu trữ và những thông tin cụ thể trên toàn quốc, giữa trung ương và chi nhánh thực hiện trao đổi thường xuyên qua hệ thống thông tin nội bộ.
Cần gặp gỡ trực tiếp và phỏng vấn doanh nghiệp xin vay vốn. Làm như vậy, ngân hàng sẽ biết thêm về xu hướng phát triển và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Tìm hiểu đánh giá được năng lực, mức độ kinh nghiệm và sự chín chắn của doanh nghiệp cũng như khả năng của ban lãnh đạo các doanh nghiệp.
Tăng cường hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng. Từng bước tăng cường cơ sở vật chất một cách đồng bộ như xây dựng và áp dụng những phương pháp như lưu trữ, xử lý, phân tích, cung cấp và quản lý thông tin hiện đại bằng các ứng dụng thông tin hiện đại nối mạng trong hệ thống thông tin Ngân hàng, nối mạng trên toàn quốc và nối mạng toàn cầu. Từ đó, ngân hàng sẽ có được các thông tin về giá cả các loại sản phẩm, hàng hoá, thông tin về thị trường, công nghệ..
a) Các mục tiêu phấn đấu
Tiếp tục thực hiện phương châm chiến lược “ổn định, an toàn, hiệu quả và phát triển”, năm 2001 Chi nhánh đề ra mục tiêu sau:
+ Huy động vốn bình quân tăng 20% so với mức huy động cuối năm 2001.
+ Mức dư nợ bình quân cho vay tăng 20% so với mức dư nợ đến 31/12/2001. Nợ quá hạn dưới 2,5%.
+ Điều chuyển vốn tăng 10% so với mức điều chuyển vốn bình quân năm 2001.
+ Lợi nhuận hạch toán tăng 5% so với lợi nhuận hạch toán thực hiện năm 2001.
b) Các biện pháp chủ yếu
* Bám sát vào các mục tiêu và biện pháp chỉ đạo của NHCT Việt Nam, Chi nhánh tiếp tục thực hiện chính sách của Nhà nước và của ngành về chấn chỉnh hoạt động của Ngân hàng, đặc biệt là nâng cao chất lượng và mở rộng đầu tư vốn tín dụng đối với mọi thành phần kinh tế, đồng thời đẩy mạnh công tác tiếp thị thu hút khách hàng, các doanh nghiệp Nhà nước, các Tổng công ty và các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu.
* Kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trên cơ sở các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
* Linh hoạt trong kinh doanh nội tệ và ngoại tệ trong phạm vi cho phép. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao trình độ cán bộ, động viên kịp thời cán bộ để phấn đấu hoàn thành tốt các mục tiêu đề ra.
2. Định hướng hoạt động thanh toán quốc tế
Kết hợp chặt chẽ với các Phòng chức năng của NHCT Việt Nam triển khai mọi nghiệp vụ TTQT, phục vụ khách hàng nhanh chóng, thuận tiện, tăng cường sử dụng hạn ngạch tài trợ xuất nhập khẩu.
Năng động trong kinh doanh, áp dụng linh hoạt tỷ giá mua bán ngoại tệ và các giao dịch ngoại tệ trong phạm vi cho phép.
Nâng cao chất lượng thanh toán phục vụ khách hàng xuất khẩu để mở rộng nguồn vốn ngoại tệ.
Bên cạnh những sản phẩm dịch vụ truyền thống như thanh toán xuất nhập khẩu, tài trợ thương mại quốc tế, chuyển tiền.. cần xúc tiến triển khai nghiệp vụ thanh toán thẻ tín dụng Visa và Master, đẩy mạnh dịch vụ chuyển tiền kiều hối để tăng thu ngoại tệ cho ngân hàng và cho đất nước.
ứng dụng công nghệ tin học ngân hàng vào lĩnh vực thanh toán thẻ, dịch vụ thanh toán trong thương mại điện tử và dịch vụ ngân hàng tại nhà cho một số công ty, khách hàng có khối lượng giao dịch lớn.
Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao trình độ chuyên môn, đảm bảo 100% cán bộ công tác trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại có trình độ ngoại ngữ bằng C trở lên, động viên kịp thời cán bộ có thành tích trong công tác và học tập.
II/ Các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động TTQT tại NHCT Ba Đình
Trong những năm gần đây, kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, hứa hẹn nhiều thành tựu to lớn trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Trong bối cảnh đó cùng với sự đổi mới toàn diện các mặt hoạt động kinh doanh, NHCT Ba Đình đã và đang hết sức coi trọng công tác đổi mới, hoàn thiện và phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại và TTQT. Tuy nhiên đứng trước những khó khăn và tồn tại mà Ngân hàng đang phải đối mặt thì việc thực hiện được không phải là điều đơn giản.
Để góp phần vào việc giải quyết những khó khăn, tồn tại và nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT tại NHCT Ba Đình, tôi xin đề xuất một số kiến nghị và giải pháp sau:
1. Các giải pháp vĩ mô
1.1 Hoàn thiện chính sách kinh tế của Nhà nước và tạo môi trường pháp lý cho hoạt động TTQT.
Chúng ta phải thừa nhận rằng đổi mới hoạt động của hệ thống Ngân hàng nói chung và lĩnh vực TTQT nói riêng không thể tách rời khỏi cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước mà đặc trưng cơ bản nhất của thực trạng quản lý ở Việt Nam hiện nay là tính chất quá độ, thể hiện: Cơ chế thị trường chưa được xây dựng và phát huy đầy đủ, các yếu tố của kinh tế thị trường đã được xây dựng nhưng phần nào chưa hoạt động theo pháp luật. Đặc trưng này thể hiện rất rõ ở tất cả các mặt của nền kinh tế từ những chính sách và quyết định ở tầm vĩ mô đến những hoạt động ở tầm vi mô. Do đó trong thời gian trước mắt chúng ta cần thực hiện những vấn đề sau:
4 Cụ thể hoá đường lối quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đảm bảo đúng định hướng XHCN, củng cố an ninh quốc phòng và tự chủ về kinh tế.
4 Phải có những quy chế bắt buộc khi đủ điều kiện về tài chính, phương hướng hoạt động kinh doanh thì mới cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp, không tiến hành ồ ạt như hiện nay để tránh rủi ro không đáng có. Trước mắt Nhà nước cần rà soát lại các doanh nghiệp không đủ điều kiện tham gia xuất khẩu thì phải chuyển sang uỷ thác xuất khẩu.
4 Cải cách các chính sách kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Khẩn trương thực hiện môi trường đầu tư hấp dẫn trong nước để thu hút các nguồn vốn đầu tư. Cải cách chính sách chế độ về xuất nhập khẩu nhằm khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Có chính sách thuế quan và chống buôn lậu nhằm bảo hộ lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng trong nước trước sự lan tràn ồ ạt của hàng hoá nhập lậu. Thực hiện cạnh tranh lành mạnh trên thị trường trong nước.
Về hành lang pháp lý cho hoạt động TTQT thì hầu như chưa có mặc dù trong thời gian qua đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động Ngân hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Do đó để phát triển hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động TTQT nói riêng cần:
_ Khẩn trương phổ biến, cụ thể hóa 2 luật Ngân hàng đến từng cán bộ trong ngành và đến các bộ ngành liên quan.
_ Nghiên cứu ban hành luật ngoại hối:
Công tác quản lý và chính sách về ngoại hối có vai trò rất quan trọng, nó được coi là công cụ đắc lực trong việc thực thi chính sách tiền tệ thông qua các chính sách về quản lý ngoại tệ, quản lý vay nợ và đầu tư nước ngoài, quản lý vàng bạc và kiều hối, điều hành tỷ giá... Chính sách quản lý ngoại hối tác động đến chính sách huy động vốn trong nước và nước ngoài, đến hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế, đến hoạt động của các Ngân hàng và là đầu mối quan tâm chung của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp. Mặc dù hiện nay ngành Ngân hàng đã có văn bản của chính phủ về quản lý ngoại hối, đó là Nghị định 63 ban hành ngày 17/8/1999 (NĐ 63/1999 - NĐCP, 17/8/1999) nhưng vẫn cần phải có một văn bản mang tính chất pháp lý cao hơn đó là Luật ngoại hối. Việc nghiên cứu để sớm ban hành Luật ngoại hối là việc làm cần thiết, vì chỉ như vậy mới tạo lập được môi trường pháp lý đầy đủ làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ và TTQT của Ngân hàng, hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp và vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở Luật ngoại hối thì mới tiến tới tổ chức thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt Nam qua đó loại trừ dần tình trạng đô la hoá như hiện nay.
_ Nghiên cứu ban hành luật hối phiếu, luật séc và văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động TTQT:
Trong hoạt động TTQT thông thường áp dụng 2 loại văn bản pháp lý đó là các thông lệ quốc tế và tập quán quốc gia. Hiện nay các văn bản mang tính chất thông lệ quốc tế rất nhiều như: Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ do Phòng thương mại quốc tế ban hành năm 1933, 1975, 1962, 1974, 1983 và Bản sửa đổi ban hành năm 1994 (UCP 500), Luật thống nhất về hối phiếu theo Công ước Geneva năm 1930, Luật hối phiếu nước Anh năm 1982, Công ước Geneva về séc năm 1931, Luật điều chỉnh hối phiếu và kỳ phiếu, Luật về séc quốc tế của Uỷ ban thương mại quốc tế thuộc Liên hợp quốc ban hành năm 1982, Quy tắc về nhờ thu chứng từ... Nói chung nhiều văn bản pháp lý mang tính chất thông lệ quốc tế được chúng ta sử dụng một cách tuỳ tiện.
Bên cạnh văn bản pháp lý mang tính chất thông lệ quốc tế cần có những văn bản pháp lý mang tính chất tập quán quốc gia. Thời gian qua nước ta đã ban hành một số bộ luật như Luật dân sự, Luật thương mại... tuy nhiên chúng ta lại chưa có luật về hối phiếu, luật séc... Nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh tế đối ngoại và hoạt động TTQT, để giải quyết những bất đồng giữa thông lệ quốc tế và tập quán quốc gia đồng thời để tránh được những tranh chấp và những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương thì cần sớm nghiên cứu ban hành Luật hối phiếu, luật séc, và các văn bản pháp luật về hoạt động TTQT.
1.2 Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và cải thiện cán cân TTQT
Thực tế cho thấy trong điều kiện hiện nay không thể phát triển kinh tế bằng cách xây dựng một nền kinh tế “khép kín”, tự cô lập trong một nước thậm chí trong một nhóm nước. Xu hướng chung trong thế kỷ tới là sự toàn cầu hoá nền kinh tế. Một quốc gia không những tìm cách tự tăng cường tiềm lực kinh tế của mình mà còn mở rộng buôn bán với thế giới. Mở cửa nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Trong nền kinh tế mở cửa, các nhà sản xuất có điều kiện và động lực đổi mới công nghệ, tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, kể cả bí quyết công nghệ mới. Trong môi trường có tính chất cạnh tranh cao, các công ty luôn tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành bằng cách tăng năng suất lao động. Việc tăng trưởng xuất khẩu sẽ làm tăng thu nhập thực tế, khả năng tiết kiệm tăng, đầu tư trang trải bằng nguồn tiết kiệm trong nước cũng sẽ tăng... Trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế nước ta cần chủ động tham gia vào thị trường khu vực và thế giới, chủ động tìm kiếm các bạn hàng, khai thác và phát huy tối đa mọi nguồn lực trong nước đi đôi với việc tranh thủ công nghệ và thị trường bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, không ỷ lại trông chờ bên ngoài, đồng thời tìm mọi cách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Việc Mỹ bỏ cấm vận và sự kiện Việt Nam tham gia vào Asean đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức trong việc phát triển kinh tế đối ngoại ở nước ta.
Bên cạnh việc mở rộng kinh tế thì việc cải thiện cán cân TTQT cũng là việc làm hết sức cấp bách và cần thiết. Cán cân TTQT là công cụ tổng hợp và quan trọng để đánh giá, phân tích mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó thể hiện các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, hoạt động đầu tư và vay nợ, viện trợ nước ngoài.
Tình trạng cán cân TTQT liên quan đến khả năng thanh toán của một quốc gia, của các ngân hàng và tác động đến tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại tệ của đất nước. Để cải thiện cán cân TTQT cần:
ĩ Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu:
Về định hướng xuất nhập khẩu như chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2001 đã đề ra “Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đòi hỏi phải có sự đầu tư thoả đáng vào việc làm hàng xuất khẩu như nhập máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng dây chuyền sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng các khu chế xuất...”. Cơ cấu xuất nhập khẩu của nước ta trong những năm tới cần chuyển dịch theo hướng CNH - HĐH đất nước. Hiện nay hàng hoá của Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới, quan hệ thương mại của nước ta với các nước khác được mở rộng và có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên sản phẩm xuất khẩu của chúng ta còn nghèo nàn, chưa qua chế biến còn chiếm tỷ trọng lớn, định hướng phát triển nền kinh tế của chúng ta nhiều khi còn quá thiên về thay thế hàng nhập khẩu. Để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp sau:
+ Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là hoạt động thương mại với những thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, các nước trong khối Asean, Trung Quốc, các nước EU..., từng bước tham gia tổ chức kinh tế thương mại Châu á Thái Bình Dương, tổ chức thương mại thế giới (WTO).
+ Cần phải khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, sức lao động và đất đai, cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới, tăng các mặt hàng chế biến gia công, giảm tỷ trọng sản phẩm thô. Cần đầu tư thích đáng vào những sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế như gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản và lâm sản, các sản phẩm khai khoáng như dầu mỏ, khí đốt...
+ Hướng xuất khẩu phấn đấu từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu những sản phẩm đã qua chế biến. Vì vậy cần phải coi trọng việc phát triển công nghiệp chế biến, coi trọng các công nghệ từ khi thu hoạch đến khi chế biến. Mở rộng hợp tác và liên doanh với nước ngoài để nâng cao năng lực ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu.
+ Nhà nước phải có chính sách khuyến khích sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô như thuế, lãi suất cho vay đối với các mặt hàng xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu có điều kiện giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đối với các hàng nông sản nhà nước cần có chính sách trợ giá để giúp người nông dân tránh được những thiệt thòi do sự xáo trộn của thị trường nội địa, đồng thời cũng là biện pháp giúp họ yên tâm sản xuất và cải thiện đời sống người nông dân.
+ Cần tổ chức công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường các nước để có những cải tiến các mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với từng thị trường cụ thể. Mở rộng các hình thức gia công sản phẩm cho nước ngoài bằng chính nguyên liệu của mình hoặc của người đặt hàng.
+ Bên cạnh các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, cần có giải pháp nhằm quản lý nhập khẩu, có chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc cấp giấy phép nhập khẩu, quản lý bằng hạn ngạch và công cụ thuế nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được, tăng cường công tác chống buôn lậu...
+ Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp, tỷ giá phải luôn bảo đảm có lợi cho nhà xuất khẩu, đảm bảo sự kích thích xuất khẩu, giảm bớt thâm hụt cán cân vãng lai, giảm dần tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP.
ĩ Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài, quản lý chặt chẽ vay nợ nước ngoài:
Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, Đảng ta khẳng định rằng “Nguồn vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng”. Tuy nguồn vốn nước ngoài không có ý nghĩa quyết định nhưng trong giai đoạn đầu khi mà thu nhập của chúng ta còn thấp, khả năng tích luỹ chưa cao, nền kinh tế thường xuyên đói vốn thì việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp càng cần thiết hơn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài không chỉ mang lại cho chúng ta một nguồn vốn mới mà điều quan trọng là qua quá trình đầu tư chúng ta sẽ nắm bắt được kinh nghiệm quản lý, tiếp thu bí quyết công nghệ của các nước tiên tiến. Bên cạnh đó làm việc với chuyên gia nước ngoài sẽ là một môi trường lý tưởng để công nhân Việt Nam nâng cao tay nghề. Để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư và quản lý một cách hiệu quả thì trong việc cấp giấy phép đầu tư Nhà nước cần phải chú trọng chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu, đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hoạt động xuất khẩu thì phải cân đối ngoại tệ, không được mua ngoại tệ từ các Ngân hàng trong nước để nhập nguyên liệu, vật tư thiết bị và chuyển vốn ra nước ngoài mà phải thông qua hoạt động xuất khẩu thu ngoại tệ để phục vụ mình.
Việc quản lý vay nợ viện trợ cần phải được hoàn thiện, phải đáp ứng 2 mục tiêu: một là nâng cao hiệu quả vốn vay, hai là giữ được mức nợ nước ngoài trong một tỷ lệ tương ứng với năng lực trả nợ của đất nước. Phải có chiến lược vay nợ viện trợ và quy chế sử dụng vay nợ viện trợ. Việc quản lý vay nợ viện trợ phải bao quát tất cả các khoản vay nợ như vay nợ của Chính phủ, của các NHTM và các doanh nghiệp (kể cả vay thương mại). Phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc quản lý và sử dụng vay nợ viện trợ.
1.3 Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống ngân hàng
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống ngân hàng Việt Nam có vai trò quan trọng, một ngân hàng không thể thiếu được công nghệ thanh toán hiện đại, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế trong nước đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Thời gian qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có nhiều cố gắng nhằm hiện đại hoá công nghệ thanh toán của mình như trang bị máy tính, phát triển các phần mềm ứng dụng, hiện đại hoá công nghệ thanh toán trong nội bộ từng NHTM, nối mạng thanh toán viễn thông tài chính quốc tế (SWIFT). Tuy nhiên công nghệ thanh toán của hệ thống Ngân hàng Việt Nam vẫn còn manh mún, chưa đồng bộ, mức độ tự động hoá chưa cao, chưa được cập nhật tức thời. Vì vậy vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế với khối lượng thanh toán gia tăng nhanh chóng của nền kinh tế thương mại, công nghiệp... và dân cư, chưa đáp ứng được nhu cầu giao lưu với thị trường tài chính quốc tế. Nguyên nhân của vấn đề thì nhiều nhưng một nguyên nhân quan trọng là hiện đại hoá hệ thống ngân hàng phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ phát triển của ngành bưu chính viễn thông đồng thời cần phải có sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ.
Giai đoạn trước mắt, hệ thống Ngân hàng cần phải xây dựng cho được một Trung tâm thanh toán bù trừ quốc gia, hệ thống chuyển tiền liên Ngân hàng và Thanh toán bù trừ tỉnh, thành phố. Hệ thống thanh toán của NHTM có Trung tâm xử lý trung ương và mạng thanh toán xuống các NHTM cơ sở. Các NHTM phải xây dựng hệ thống thanh toán của mình với quy mô thích hợp để có đủ điều kiện tham gia hệ thống thanh toán bù trừ quốc gia.
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống Ngân hàng phải trên cơ sở tận dụng triệt để những cái mà ta đã có, đồng thời việc thiết kế hệ thống thanh toán và phần mềm ứng dụng phải tạo ra khả năng linh hoạt để có thể dễ cải tạo, kế thừa và phát triển không gây ra lãng phí. Hệ thống thanh toán mới cũng phải tạo khả năng dễ dàng cho việc mở rộng và hoà mạng quốc gia của các NHTM khi có điều kiện tham gia.
Để có hệ thống thanh toán hiện đại như ngày nay các nước phát triển đã phải tự nghiên cứu và phát triển mất nhiều năm. Đối với nước ta là nước đi sau thì việc học hỏi kinh nghiệm và tận dụng sự giúp đỡ của các Ngân hàng đi trước là việc làm hết sức cần thiết nhằm nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
1.4 Củng cố và phát triển quan hệ đại lý với các Ngân hàng nước ngoài
Hệ thống Ngân hàng đại lý có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển hoạt động TTQT, phát triển Ngân hàng đại lý là nhiệm vụ hàng đầu mang tính chất mở cửa cho hoạt động Ngân hàng bước ra khỏi phạm vi quốc gia.
Để phát triển hoạt động TTQT, NHCT Việt Nam cần tiếp tục phát triển hệ thống đại lý đặc biệt ở những nước có quan hệ thương mại lớn như Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, các nước Asean, các nước EU... Thông qua hệ thống Ngân hàng đại lý mà tìm hiểu thông tin về các đối tác trong hợp đồng của khách hàng nhằm tránh rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng của khách hàng cũng như của hệ thống NHCT, khai thác nguồn vốn tài trợ của các Ngân hàng đại lý để bổ sung cho nguồn vốn ngoại tệ ít ỏi nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn ngoại tệ của khách hàng. Đồng thời tích cực tranh thủ sự trợ giúp của các Ngân hàng đại lý về đào tạo cán bộ, tổ chức hội thảo về nghiệp vụ TTQT và tranh thủ sự giúp đỡ để tiếp cận nhanh với công nghệ tiên tiến trên thế giới.
2. Các giải pháp vi mô
2.1 Chiến lược Marketing để thu hút khách hàng
Cạnh tranh để tồn tại đã trở thành quy luật ngẫu nhiên đối với hoạt động Ngân hàng trong cơ chế thị trường hiện nay. Để có thể thắng lợi trong cuộc cạnh tranh, mỗi Ngân hàng phải đề ra một chiến lược cho riêng mình trong đó khai thác triệt để những thế mạnh sẵn có của Ngân hàng và hạn chế tối thiểu những điểm yếu của Ngân hàng đó. Một trong những chiến lược đó là chiến lược Marketing. Mục tiêu của chiến lược này để khách hàng biết đến Ngân hàng và nắm được các loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng, đem lại sự thuận tiện, an toàn và hiệu quả như đúng khẩu hiệu đã đề ra của NHCT Ba Đình. Để thực hiện được chiến lược này NHCT Ba Đình cần chú trọng vấn đề sau:
& Nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu thị trường để nắm bắt tập tính, thái độ, động cơ của khách hàng khi họ lựa chọn Ngân hàng, phân tích dự đoán sự phát triển của thị trường, dự đoán phản ứng của thị trường trước những ứng xử có tính chất đổi mới của Ngân hàng. Qua đó nhằm phát triển thị trường tức là làm tăng số lượng khách hàng. Thực tế đã chứng tỏ rằng sự lựa chọn Ngân hàng của khách hàng thường được so sánh trên các tiêu chuẩn như: chất lượng dịch vụ, quan hệ tín dụng, hình ảnh về sức mạnh và sự an toàn của Ngân hàng. Do khách hàng đến với Ngân hàng không đồng nhất nên Chi nhánh phải có những đối sách thích hợp, linh hoạt với từng khách hàng để đảm bảo lợi ích của cả 2 bên.
& Các chính sách trong chiến lược Marketing:
Chính sách sản phẩm: Sản phẩm của Ngân hàng là cung cấp các khoản tín dụng và các dịch vụ khác của Ngân hàng. Trong chính sách sản phẩm của mình, chi nhánh cần phải lưu ý vai trò của các dịch vụ bổ sung. Những dịch vụ này không phải hoạt động sinh lời của Ngân hàng nhưng chúng lại có tác động thu hút khách hàng, làm tăng sự trung thành của khách hàng.
Chính sách giá cả: trong Marketing Ngân hàng, chính sách giá cả không phải là bộ phận quan trọng bởi giá sản phẩm Ngân hàng được quy định tương đối chặt chẽ và không có sự chênh lệch lớn giữa các Ngân hàng. Điều quan trọng trong chính sách giá của Ngân hàng là áp dụng mức giá cả sao cho hợp lý, phù hợp với từng khách hàng và với địa bàn mà chi nhánh phục vụ.
Chính sách phân phối: là bộ phận quan trọng trong Marketing Ngân hàng. Điều này do đặc điểm quan hệ trực tiếp giữa Ngân hàng với khách hàng trong việc cung ứng dịch vụ Ngân hàng. Chính sách này bao gồm: địa điểm Ngân hàng và mạng lưới phục vụ. Do vậy chi nhánh cần mở rộng mạng lưới hoạt động để thu hút các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp tham gia vào các dịch vụ Ngân hàng, mở tài khoản tiền gửi, vay vốn một cách thuận lợi vì đó chính là một tiêu chuẩn quan trọng để lựa chọn Ngân hàng của khách hàng. Việc mở rộng mạng lưới sẽ nâng chi phí của Ngân hàng lên cao nhưng nếu đem so với khoản lợi ích mà Ngân hàng thu được thì cũng chỉ như muối bỏ biển.
Chính sách giao tiếp: trong Marketing Ngân hàng chính sách giao tiếp ngày càng có vị trí quan trọng. Các Ngân hàng thường có xu hướng chỉ tập trung vào chính sách quảng cáo trong đó nêu bật tính an toàn, sử dụng có hiệu quả các khoản tiền gửi hay tiền vay trên các phương tiện truyền thông mà quên đi yếu tố chất lượng phục vụ của nhân viên Ngân hàng là cách quảng cáo gây ấn tượng và sức thu hút lớn nhất đối với khách hàng đồng thời cũng là phương thức quảng cáo có chi phí thấp nhất. Bởi vì trong mắt khách hàng, nhân viên là hình ảnh của Ngân hàng nên khi thực hiện nghiệp vụ họ cũng không biết chính mình đang làm Marketing. Do vậy nhân viên Ngân hàng phải thể hiện phong cách giao tiếp văn minh lịch sự trước khách hàng, giải quyết công việc nhanh gọn đúng thời gian, đúng quy trình nghiệp vụ, giúp đỡ và tư vấn khách hàng trong việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với những điều khoản và áp dụng phương thức thanh toán an toàn nhất và có lợi nhất.
Chính sách khách hàng: Để lôi kéo và giữ được khách hàng, Ngân hàng cần xây dựng chiến lược khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng hợp lý, không phân biệt thành phần kinh tế, áp dụng một số ưu đãi hợp lý trong quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng, đáp ứng đến mức cao nhất các yêu cầu của khách hàng. Mục tiêu của việc xây dựng được một chính sách khách hàng hợp lý là xây dựng và củng cố uy tín của Ngân hàng đối với các khách hàng, Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh một cách chắc chắn, tạo cho khách hàng yên tâm và tin cậy khi giao dịch và TTQT qua Chi nhánh. Ngân hàng phải là chỗ dựa lâu dài, nơi hậu thuẫn vững chắc cho khách hàng trong việc tư vấn để quản lý tài chính, đầu tư kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận. Chính sách khách hàng gắn liền hiệu quả kinh doanh của khách hàng với hiệu quả, an toàn của Ngân hàng. Yêu cầu củng cố thị trường, mở rộng có chọn lọc thêm khách hàng mới và thị trường mới, có bước đi vững chắc. Đối tượng khách hàng được ưu đãi:
+ Khách hàng có quan hệ truyền thống tốt, các bạn hàng có quan hệ lâu dài với Ngân hàng.
+ Các doanh nghiệp lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có vay trả sòng phẳng.
+ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa và nhỏ có khả năng trở thành bạn hàng lâu dài.
Chính sách khách hàng phải được cụ thể hoá bằng tiêu chuẩn xếp loại khách hàng và các hình thức ưu đãi. Việc rà soát lại khách hàng phải được tiến hành thường xuyên. Hình thức ưu đãi:
- Ưu đãi về vốn vay và lãi suất khi vay vốn
- Ưu đãi trong việc thế chấp tài sản khi vay vốn
- Ưu đãi về tỷ lệ ký quỹ trong việc mở L/C
- Ưu đãi về phí dịch vụ, trong đó có phí TTQT
- Ưu đãi về giá mua bán ngoại tệ phục vụ TTQT
Như vậy để có thể thành công trong hoạt động kinh doanh của mình, Chi nhánh phải đề ra chiến lược phát triển trong đó khai thác trên mọi khía cạnh tiềm năng lợi thế của bản thân Ngân hàng cũng như của đối thủ và có những kế sách linh hoạt đảm bảo sự thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này.
2.2 Đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh đối ngoại
Để đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng cần nghiên cứu nhằm đa dạng hoá các sản phẩm, các dịch vụ Ngân hàng trên cơ sở đó củng cố mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng đồng thời nâng cao uy tín, quy mô hoạt động của Ngân hàng.
ý Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh như bảo lãnh đấu thầu quốc tế, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh khả năng cung cấp hàng, bảo lãnh nhận hàng, bảo lãnh tiền đặt cọc... Tuy nhiên đi đôi với việc phát triển nghiệp vụ bảo lãnh cần nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh.
ý Phát triển các dịch vụ thanh toán séc du lịch và triển khai hệ thống rút tiền tự động, tham gia tổ chức Master Card quốc tế.
ý Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh cũng như các hình thức kinh doanh ngoại tệ (Spot, Forward) để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
+ Mua bán trao ngay: nhằm cân bằng ngoại tệ cho các hoạt động đối ngoại của khách hàng và trực tiếp kinh doanh với khách hàng.
+ Mua bán có kì hạn: có thể ký hợp đồng mua ngoại tệ có kì hạn của khách hàng ngay từ khi khách hàng nhận được thông báo L/C hoặc ký hợp đồng bán ngoại tệ có kì hạn cho khách hàng để thanh toán ra nước ngoài trong thời gian tới.
2.3 Nâng cao hiệu quả công tác thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ
Để nâng cao hiệu quả công tác thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ (là phương thức chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng phương thức TTQT), NHCT Ba Đình cần:
Đối với thanh toán hàng xuất khẩu: cần nghiên cứu, triển khai quy trình thông báo và thanh toán hàng xuất, cải tiến việc chuyển tiếp thông tin nhằm thu hút khách hàng chọn Ngân hàng mình là Ngân hàng thông báo và chiết khấu, phấn đấu tăng tỷ trọng của L/C xuất khẩu. Phối hợp các bộ phận nghiệp vụ liên quan ban hành quy chế thanh toán hàng xuất trên cơ sở thương lượng và chiết khấu chứng từ.
Đối với thanh toán hàng nhập khẩu: tiếp tục nghiên cứu xem xét những vướng mắc trong quá trình thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này. Chẳng hạn đối với tỷ lệ ký quỹ mở L/C là vấn đề hết sức quan trọng. Với trường hợp mở L/C bằng vốn tự có thì tỷ lệ ký quỹ là 50%, đối với Tổng công ty 90/91 thì tỷ lệ ký quỹ là 30%. Nếu tỷ lệ ký quỹ cao thì sẽ có tác động đến tình hình vốn của đơn vị, đặc biệt là những đơn hàng nhập khẩu có giá trị lớn. Nếu tỷ lệ ký quỹ thấp khi đến hạn thanh toán nếu đơn vị không còn tiền thì buộc Ngân hàng phải đứng ra cho vay để thanh toán, dẫn đến tình trạng nợ quá hạn kéo dài. Để đảm bảo phòng tránh rủi ro đồng thời thu hút khách hàng nên có chính sách phân định linh hoạt về tỷ lệ ký quỹ đối với từng loại khách hàng.
2.4 Giải pháp an toàn trong hoạt động TTQT
Trong các loại hình kinh doanh của cơ chế thị trường, kinh doanh tiền tệ là khó khăn nhất, thứ đến là thầu khoán và đơn giản nhất là kinh doanh bình thường. Nhưng có lẽ lĩnh vực khó khăn nhất là lĩnh vực đem lại lợi nhuận cao nhất. Ngân hàng trong thời đại hiện nay luôn chịu tác động của nhiều yếu tố, của các quy luật của thị trường. Chính vì vậy để có thể tồn tại trước sóng gió thị trường đòi hỏi Ngân hàng cần phải thận trọng đề phòng rủi ro.
Nếu trong lĩnh vực tín dụng hoạt động Ngân hàng gặp phải nhiều rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất... thì hoạt động TTQT của Ngân hàng cũng gặp phải rủi ro như rủi ro tỷ giá, rủi ro không đảm bảo được ngoại tệ trong thanh toán... Mỗi hình thức rủi ro đều có những nguyên nhân riêng nhưng tựu chung lại là do việc thanh toán được thực hiện giữa các chủ thể ở cách xa nhau về mặt địa lý với phong tục khác nhau, chịu sự chi phối của những thể chế pháp luật khác nhau.
Tuỳ thuộc vào từng loại rủi ro khác nhau mà Chi nhánh có những giải pháp khác nhau. Chẳng hạn với loại hình rủi ro trong thanh toán, Ngân hàng phải thường xuyên theo dõi tình hình kinh tế chính trị của các quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam. Thông qua hệ thống đại lý của NHCT mà điều tra, khai thác thông tin về tình hình tài chính, khả năng giao hàng, tư cách đạo đức của đối tác nước ngoài trong hoạt động kinh doanh. Thêm vào đó để hạn chế bớt thiệt hại của các bên đối tác, theo tôi Chính phủ nên cùng Ngân hàng thành lập quỹ bảo hiểm tín dụng. Khi có rủi ro xảy ra thì quỹ bảo hiểm sẽ chịu bảo hiểm 70% đến 80%, như vậy nhà xuất khẩu của Việt Nam sẽ chỉ chịu 30% rủi ro về thanh toán với nguyên nhân là kinh tế và 20% với nguyên nhân là chính trị.
Để tránh rủi ro về tỷ giá, Ngân hàng cần dự trữ đa dạng ngoại tệ, dự báo chính xác về sự biến động tỷ giá trên cơ sở đó mà thay đổi kết cấu sao cho có lợi nhất. Nhằm tạo thêm doanh lợi cho các nhà xuất khẩu đồng thời áp dụng kỹ thuật hối đoái bảo hiểm rủi ro về tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu, Ngân hàng nên phát huy hơn nữa nghiệp vụ mua bán ngoại tệ có kì hạn. Nghiệp vụ này giúp đỡ nhà nhập khẩu được mua bán ngoại tệ theo một tỷ giá đã định sẵn trong tương lai. Ngoài ra Ngân hàng nên tăng cường áp dụng việc mua bán ngoại tệ của doanh nghiệp xuất khẩu bằng cách trả trước VND thu ngoại tệ có tính phí thời hạn, đồng thời bán trước ngoại tệ cho doanh nghiệp nhập khẩu thu lại VND sau. Nghiệp vụ mua bán kì hạn này giúp đỡ doanh nghiệp xuất nhập khẩu được sử dụng VND theo mức phí ngang bằng với lãi suất vay từ quỹ bình ổn hối đoái của NHTW.
2.5 Tăng cường hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu
Có rất nhiều yếu tố tạo nên sự thành công trong hoạt động kinh doanh của các đơn vị xuất nhập khẩu, một trong những yếu tố đó là hoạt động tài trợ tài chính cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp về mặt tài chính sẽ giúp cho các doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp không bỏ lỡ những cơ hội đầu tư quý báu để đẩy mạnh và mở rộng quy mô sản xuất. Đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển hoạt động TTQT của hệ thống NHCT Việt Nam nói chung và NHCT Ba Đình nói riêng.
Y Hoạt động tài trợ xuất khẩu
bao gồm hình thức sau:
- Cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu:
Căn cứ vào hợp đồng ngoại thương đã ký với khách hàng nước ngoài hoặc căn cứ vào L/C đã được thông báo, Ngân hàng cấp tín dụng để giúp đơn vị thu mua hoặc sản xuất hàng xuất khẩu. Việc làm này vừa mang ý nghĩa sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động vừa củng cố mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng để họ thấy rằng Ngân hàng Ba Đình không chỉ là người bạn mà còn là trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh từ đó khách hàng sẽ tích cực thanh toán qua Ngân hàng.
Để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu có vốn kinh doanh, Ngân hàng có thể thay mặt khách hàng thương lượng với đối tác nước ngoài mở L/C theo điều kiện ứng trước tiền hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ thực hiện bảo lãnh nguồn tiền ứng trước này. Việc bảo lãnh sẽ giúp doanh nghiệp sử dụng một nguồn vốn ngoại tệ mà không phải trả lãi, có chăng chỉ là trả phí bảo lãnh. Kinh nghiệm xuất khẩu nhiều năm cho thấy rằng doanh nghiệp Việt Nam nào xác lập được chữ tín trên thị trường thì Ngân hàng nước ngoài sẵn sàng ứng trước tiền hàng để mua hàng xuất khẩu của Việt Nam.
- Chiết khấu bộ chứng từ hoàn hảo:
Căn cứ vào bộ chứng từ đòi tiền hoàn hảo, Ngân hàng mua lại bộ chứng từ để giải phóng vốn cho khách hàng, giúp họ tăng nhanh vòng quay vốn.
- Chiết khấu hối phiếu:
Căn cứ vào hối phiếu đã được Ngân hàng nước ngoài chấp nhận nhưng chưa đến hạn thanh toán, Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng bằng cách chiết khấu lại hối phiếu đó.
Nghiệp vụ ứng trước tiền hàng cũng gần giống như nghiệp vụ chiết khấu nhưng khác ở chỗ Ngân hàng không mua đứt bộ chứng từ mà chỉ cho vay dựa trên bộ chứng từ làm vật thế chấp. Dĩ nhiên lãi suất tín dụng thấp hơn lãi suất chiết khấu song bù lại độ an toàn cao hơn vì trong trường hợp không đòi được tiền từ nhà nhập khẩu thì có thể đòi tiền ở nhà xuất khẩu. Tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng có thể sử dụng nghiệp vụ chiết khấu bởi độ rủi ro không cho phép. Như vậy trong những trường hợp đó ta có thể sử dụng nghiệp vụ ứng trước tiền hàng để thay thế vừa đảm bảo độ an toàn vừa khuyến khích có lợi cho khách hàng.
Việc triển khai rộng rãi nghiệp vụ chiết khấu và nghiệp vụ ứng trước tiền hàng không những làm Ngân hàng tăng được lợi nhuận mà còn giúp các doanh nghiệp tăng nhanh vòng quay của vốn, khuyến khích nhà xuất khẩu thiết lập bộ chứng từ hoàn hảo. Bên cạnh đó nó còn tác dụng tích cực đến việc hình thành sớm hơn nữa thị trường vốn ở Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Y Hoạt động tài trợ nhập khẩu
Cấp tín dụng cho khách hàng mở L/C hàng nhập qua Ngân hàng. Mọi L/C đều do Ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu, tuy nhiên không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo thư tín dụng. Thực tế cho thấy rằng khoảng cách thời gian mở thư tín dụng và thời gian thanh toán là quá dài, nếu Ngân hàng khống chế số dư tài khoản của nhà nhập khẩu điều này ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh của họ. Bất kì một sự khoanh vốn nào đều gây thiệt hại về mặt kinh tế. Nhưng khi mở L/C thì L/C lại thể hiện một sự đảm bảo trừu tượng, một sự đảm bảo thanh toán của Ngân hàng. Do đó Ngân hàng mở L/C phải gánh chịu rủi ro một khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C đến hạn trả tiền. Để tránh cản trở tới hoạt động kinh doanh của nhà nhập khẩu và đảm bảo uy tín của Ngân hàng thì Ngân hàng mở ra loại hình cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức. Ngoài ra Ngân hàng còn có thể cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu qua hình thức cho vay để thanh toán tiền đạt cọc cho phía nước ngoài hoặc cho vay trong thời gian nhà nhập khẩu bán hàng hoá cho đến khi thu được tiền hàng.
Để tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt hoạt động nhập khẩu thì Chi nhánh phải có nguồn ngoại tệ lớn để đáp ứng nhu cầu vay ngày càng gia tăng của khách hàng. Có đẩy mạnh hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu thì hoạt động TTQT cũng sẽ được phát triển theo, do đó NHCT Ba Đình cần:
- Đẩy mạnh nghiệp vụ huy động vốn ngoại tệ
- Tích cực khai thác nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng nước ngoài
- Nâng cao chất lượng tín dụng ngoại tệ
- Cải tiến chế độ tín dụng gọn nhẹ nhưng vẫn đảm bảo thủ tục bằng các hợp đồng tín dụng nguyên tắc, quy định đầy đủ chặt chẽ các yếu tố từng lần sử dụng của khách hàng.
2.6 Giải pháp về đào tạo đội ngũ cán bộ TTQT
Vai trò của Con người trong công cuộc phát triển ngành Ngân hàng là không thể phủ nhận được bởi vì có hàng vạn những định chế quản lý kì diệu nhưng thiếu đi yếu tố con người thì những định chế đó cũng chỉ là con số không. Thực tế đã chứng minh rằng nếu một Ngân hàng nào đó có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy sáng tạo trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của Ngân hàng thì chắc chắn Ngân hàng đó có thể đứng vững và phát triển trước sóng gió thị trường.
Để có thể phát triển được hoạt động kinh doanh đối ngoại nói chung và hoạt động TTQT nói riêng, NHCT Ba Đình đã có một đội ngũ cán bộ nhiệt tình, giỏi chuyên môn và nghiệp vụ, am hiểu các lĩnh vực ngoại thương, am hiểu các luật lệ và tập quán quốc tế về ngoại thương và TTQT. Có khả năng tư vấn cho khách hàng trong các hợp đồng xuất nhập khẩu, giúp họ chọn lựa và áp dụng các phương thức và điều kiện thanh toán có lợi nhất nhằm tránh rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để có thể làm tốt hơn những điều đó đòi hỏi NHCT Ba Đình phải có chiến lược phát triển con người với các giải pháp sau:
+ Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ TTQT, các cuộc hội thảo về TTQT nhằm giúp các cán bộ trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ TTQT, học tập được kinh nghiệm xử lý các tình huống phát sinh trong hoạt động TTQT
+ Cử những cán bộ có năng lực đi học tập những kinh nghiệm của các Ngân hàng trên thế giới mà có quan hệ với NHCT để có thể tìm hiểu và đúc rút những ý kiến có lợi cho Ngân hàng, giúp hệ thống NHCT cũng như Chi nhánh NHCT Ba Đình tạo được niềm tin và uy tín đối với các khách hàng và bạn hàng trong nước cũng như trên thế giới.
+ Hàng năm nên tổ chức các kì thi sát hạch về nghiệp vụ và tổ chức thi tuyển công khai, nghiêm túc để có thể tuyển được những cán bộ mới có năng lực chuyên môn và giàu kinh nghiệm.
+ Không chỉ hoàn thiện về mặt tri thức, nghiệp vụ, cán bộ làm công tác TTQT cũng cần phải chú trọng đến phong cách giao dịch với khách hàng. Điều này sẽ giúp Ngân hàng thu hút thêm khách hàng mới và củng cố vững chắc hơn mối quan hệ với các khách hàng đã có.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0008.doc