Như vậy, để nâng cao khả năng mở rộng hoạt động tín dụng cho các DNV&N của Chi nhánh Hà Thành thì sự nỗ lực của một phía là hoàn toàn chưa đủ. Đó phải là sự tổng hòa, phối hợp của tất cả các bên: Chi nhánh Hà Thành, các DNV&N và đặc biệt quan trọng là sự điều hành cấp vĩ mô của các cơ quan Nhà nước. Có như vậy mới tạo nên sức mạnh to lớn, đồng bộ để đưa mục tiêu chung là các bên cùng phát triển, cùng tăng trưởng lớn mạnh.
76 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tờ trình của CBTD và hồ sơ vay vốn, Trưởng phòng xem xét kiểm tra, ghi rõ ý kiến vào tờ trình và trình lãnh đạo. Căn cứ vào bộ hồ sơ vay vốn, căn cứ vào ý kiến đề xuất của cán bộ thẩm định, tái thẩm định và Trưởng phòng tín dụng, khoản vay sẽ được Ban lãnh đạo Chi nhánh phê duyệt.
2.2.2.11. Thực hiện giao dịch đã được phê duyệt
Nếu đề xuất vay vốn được chấp thuận, hồ sơ tín dụng đã được phê duyệt sẽ chuyển cho Trưởng phòng tín dụng, là người chịu trách nhiệm rà soát lại đề xuất vay vốn và cùng với CBTD xác định những hành động cần thiết theo yêu cầu của các điều kiện đưa ra. CBTD thu xếp một cuộc gặp với khách hàng để đảm bảo rằng các điều kiện là chấp nhận được đối với khách hàng, và điều chỉnh hồ sơ vay vốn nếu cần thiết.
2.2.2.12. Ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao nhận giấy tờ và tài sản đảm bảo
2.2.2.13.Giải ngân
CBTD quản lý giải ngân chịu trách nhiệm nhận hố sơ giải ngân kèm theo chứng từ thanh toán của khách hàng, kiểm tra các căn cứ phát tiền vay theo quy định và có tờ trình Lãnh đạo. Khi giải ngân được thực hiện theo một lịch giải ngân cụ thể, CBTD quản lý giải ngân chịu trách nhiệm xác nhận trước mỗi lần giải ngân rằng việc thanh toán đã được thực hiện.
2.2.2.14. Kiểm tra, giám sát khoản vay
2.2.2.15. Thu nợ gốc, lãi, phí và thanh lý hợp đồng tín dụng
2.2.2.16. Giải chấp tài sản bảo đảm
- Kiểm tra tình trạng giấy tờ, tài sản thế chấp, cầm cố.
- Xuất kho giấy tờ, tài sản thế chấp, cầm cố.
- CBTD lập biên bản giao trả tài sản đảm bảo nợ vay trình Trưởng phòng tín dụng kiểm soát, Trưởng phòng tín dụng trình Lãnh đạo ký duyệt.
2.2.3. Tình hình hoạt động tín dụng đối với các DNV&N của Chi nhánh Hà Thành
2.2.3.1. Số lượng DNV&N có quan hệ tín dụng với Chi nhánh
Đây là một tiêu thức quan trọng và rõ ràng nhất để có thể thấy được mức độ mở rộng TDNH đối với các DNV&N. Với chiến lược là Chi nhánh NH bán lẻ kiểu mẫu của cả hệ thống, Hà Thành đã khẳng định khách hàng tiềm năng của mình chính là các DNV&N.
Bảng 7: Khách hàng DNV&N có quan hệ tín dụng với Chi nhánh Hà Thành
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
Số DN
Tốc độ tăng (%)
Số DN
Tốc độ tăng (%)
Số DN
Tốc độ tăng (%)
Số DN
Tốc độ tăng (%)
Số DN
Tốc độ tăng (%)
Tổng KH DN
50
-
87
87
100
14,94
145
45
171
18
KH DNV&N
45
-
70
55,55
95
35,71
138
45,26
165
19,56
Nguồn: Báo cáo cho vay DNV&N – Phòng tín dụng – Chi nhánh Hà Thành
Nhìn vào bảng trên, ta thấy tốc độ tăng trưởng của số lượng khách hàng DNV&N của Chi nhánh là khá cao, tuy có giảm xuống vào năm 2005, nhưng năm 2006 tốc độ này lại tăng lên. Mặt khác, số lượng các DNV&N là khách hàng không ngừng tăng lên nhanh chóng, nhất là năm 2007 tăng 27 DN so với năm 2006. Và số khách hàng là DNV&N luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số khách hàng là DN của Chi nhánh, luôn ở mức trên 80%, năm 2006 lên tới 95,17%, năm 2007 đạt tới 96,49%. Những con số trên đã chứng tỏ mức độ tập trung cao vào đối tượng khách hàng là DNV&N của Chi nhánh. Như vậy, Hà Thành đang thực hiện một cách nghiêm túc hướng đi chiến lược của mình và ngày càng quyết tâm đi theo con đường đúng đắn đó.
Biểu đồ 1: Tỷ trọng số lượng khách hàng DNV&N của Chi nhánh Hà Thành
DN tư nhân, Cty cổ phần và Cty TNHH là những loại hình DN được Chi nhánh cho vay nhiều nhất, luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số DNV&N là khách hàng, đặc biệt là các DN tư nhân. Mặt khác, ta thấy các khách hàng khu vực quốc doanh chiếm tỷ trọng rất thấp so với khu vực ngoài quốc doanh.
Đây chính là những kết quả mà Chi nhánh đạt được từ việc không ngừng mở rộng mạng lưới của mình. Tuy nhiên, với số lượng DNV&N rất đông trên địa bàn Hà Nội thì đây vẫn còn là những con số khiêm tốn. Khả năng mở rộng tín dụng đối với khu vực này sẽ còn tăng mạnh trong thời gian tới. Chi nhánh cần phải mở rộng hơn nữa quan hệ tín dụng với các DNV&N để tiếp tục khẳng định thế mạnh của mình.
2.2.3.2. Doanh số cho vay đối với các DNV&N của Chi nhánh Hà Thành
Với mục tiêu chiến lược của Chi nhánh Hà Thành là tập trung phục vụ các DNV&N, trong những năm qua, đi đôi với việc tiếp tục duy trì quan hệ giao dịch với những khách hàng truyền thống, tín nhiệm, Chi nhánh luôn không ngừng mở rộng quan hệ tín dụng đối với các DNV&N mới. Tình hình cho vay đối với DNV&N đang theo chiều hướng tăng trưởng rõ rệt.
Bảng 8: Tình hình vay vốn của các DNV&N tại Chi nhánh Hà Thành
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
Doanh số cho vay
489
800
1350
2000
2750
Doanh số thu nợ
489
780
1125
1870
2585
Nguồn: Báo cáo cho vay DNV&N – Phòng tín dụng – Chi nhánh Hà Thành
Như vậy, doanh số cho vay đối với các DNV&N đã tăng lên nhanh chóng. Năm 2003, khi mới đi vào hoạt động, Chi nhánh đã có doanh số cho vay tới 489 tỷ đồng, và doanh số thu nợ cũng đạt 489 tỷ đồng, Chi nhánh đã không phát sinh nợ quá hạn, khả năng thu hồi các khoản vay tốt. Đến năm 2004, doanh số này đã tăng lên gần như gấp đôi, cho thấy hiệu quả hoạt động ban đầu rất khả quan của Chi nhánh. Đặc biệt, năm 2007, doanh số cho vay của Chi nhánh đạt mức 2.750 tỷ đồng, tăng 750 tỷ đồng so với năm 2006. Doanh số cho vay không chỉ tăng về giá trị tuyệt đối mà còn tăng nhanh về tốc độ, với tốc độ tăng trưởng cao trung bình ở mức 60%. Đây là một tốc độ tăng trưởng khá tốt cho thấy nhu cầu của các DNV&N phát sinh lớn qua các năm và Chi nhánh Hà Thành đã luôn tạo điều kiện cho các DNV&N vay vốn, thực hiện tốt mở rộng tín dụng đối với các DNV&N. Đặc biệt trong khoảng thời gian cuối năm 2007 khi tình hình kinh tế có nhiều biến động các NHTM có xu hướng thu hẹp tín dụng nhằm hạn chế rủi ro nhưng đối với Chi nhánh doanh số cho vay DNV&N vẫn tiếp tục tăng. Điều này cho thấy sự ổn định trong hoạt động tín dụng cũng như sự thành công của Chi nhánh trong việc hỗ trợ vốn cho các DNV&N.
Từ Bảng 8 ở trên, ta tính đươc mức tăng và tốc độ tăng doanh số cho vay đối với DNV&N của Chi nhánh như sau:
Bảng 9: Mức tăng và tốc độ tăng doanh số cho vay đối với DNV&N của Chi nhánh Hà Thành
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Mức tăng doanh số cho vay (tỷ đồng)
311
550
650
750
Tốc độ tăng doanh số cho vay (%)
63,6
68,75
48,15
37,5
Đặc biệt nhận thấy năm 2005, tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay cao như vậy là bởi Chi nhánh đã thường xuyên duy trì và tăng cường mối quan hệ với những DNV&N đã có quan hệ tín dụng như các công ty FPT, công ty Hòa Phát, công ty Đại Châu, công ty Quảng Đại, công ty Hòa Bình… Và liên tục thiết lập thêm, mở rộng tín dụng đối với các DN mới như công ty VIMECO, công ty Văn phòng phẩm Hồng Hà, công ty TNHH Anh Phương, công ty TNHH Ngọc Diệp…
Biểu đồ 2: Doanh số cho vay đối với các DNV&N của Chi nhánh Hà Thành
Biểu đồ 3: Tốc độ tăng doanh số cho vay đối với các DNV&N của Chi nhánh Hà Thành
Như vậy, doanh số cho vay tăng đều đặn, ổn định cùng với tốc độ tăng trưởng ở mức cao đã chứng tỏ việc Chi nhánh xác định khách hàng mục tiêu DNV&N là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế chung. Việc đẩy mạnh công tác cho vay đối với các DNV&N của Chi nhánh có ý nghĩa rất to lớn không chỉ với bản thân các DNV&N mà còn cả với cả nền kinh tế. Điều đó không những giúp các DN duy trì sản xuất, cải tiến công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường mà còn giúp một số DN thoát khỏi tình trạng phá sản,từ đó giúp ổn định nền kinh tế.
2.2.3.3. Dư nợ tín dụng đối với các DNV&N tại Chi nhánh Hà Thành
Dư nợ tín dụng đối với các DNV&N cũng là một tiêu thức rất quan trọng để xem xét, đánh giá mức độ mở rộng tín dụng đối với các DNV&N tại Chi nhánh. Cùng với sự tăng trưởng nhanh dư nợ chung đối với tất cả các khách hàng của Chi nhánh là sự tăng dư nợ cho vay với đối tượng khách hàng chủ yếu DNV&N.
Cũng như doanh số cho vay, dư nợ tín dụng đối với các DNV&N của Chi nhánh không ngừng tăng lên. Năm 2007, dư nợ đạt mức 2.550,22 tỷ đồng tăng tới 459,06 tỷ đồng so với năm 2006. Trong năm 2007, Chi nhánh đã thực hiện xét duyệt, cấp hạn mức cho 40 khách hàng trong đó có nhiều hạn mức lớn cấp cho các công ty: công ty FPT, công ty thép Hòa Phát, công ty Vật tư nông sản… So với năm 2006, Chi nhánh đã tăng dư nợ cho các khách hàng lớn, có mối quan hệ tốt với Chi nhánh: công ty FPT, công ty A&P… Một số khách hàng mới tiếp thị đã thường xuyên vay vốn với dư nợ lớn như: công ty Vật Tư nông sản. Ta thấy dư nợ tín dụng đối với các DNV&N luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh Hà Thành, ở mức trung bình khoảng 80%. Mặc dù giá trị mỗi khoản vay của DNV&N không lớn nhưng số lượng khách hàng DNV&N nhiều và không ngừng tăng lên nên tổng giá trị dư nợ cho vay vẫn tăng nhanh. Mặt khác, nguồn vốn huy động của Chi nhánh tăng trưởng mạnh mẽ đã tạo điều kiện cho Chi nhánh mở rộng được tín dụng đối với DNV&N.
Bảng 10: Tình hình dư nợ tín dụng đối với các DNV&N của Chi nhánh Hà Thành
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng dư nợ (tỷ đồng)
239
710
1505
2273
2713
Dư nợ cho vay DNV&N (tỷ đồng)
215,1
553,8
1204
2091,16
2550,22
Tỷ trọng (%)
90,21
78,18
80,18
92,21
94,22
Mức tăng dư nợ (tỷ đồng)
-
338,7
650,2
887,16
459,06
Tốc độ tăng dư nợ (%)
-
157,46
117,41
73,68
21,95
Nguồn: Báo cáo cho vay DNV&N – Phòng tín dụng – Chi nhánh Hà Thành
Biểu đồ 4: Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với các DNV&N của Chi nhánh Hà Thành
Để thấy rõ hơn việc mở rộng tín dụng đối với các DNV&N của Chi nhánh, ta hãy cùng phân tích cơ cấu tín dụng như sau:
Bảng 11: Cơ cấu tín dụng đối với các DNV&N của Chi nhánh theo thành phần kinh tế
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
Dư
nợ
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
Dư
nợ
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
Dư
nợ
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
Dư
nợ
(tỷ
đồng)
Tỷ trọng
(%)
Dư
nợ
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
DNV&N QD
21,15
10
44,304
8
72,24
6
62,735
3
51,01
2
DNV&N NQD
193,59
90
509,49
92
1131,76
94
2028,43
97
2499,2
98
Nguồn: Báo cáo cho vay DNV&N – Phòng tín dụng – Chi nhánh Hà Thành
Biểu đồ 5: Tỷ trọng dư nợ tín dụng theo thành phần kinh tế của các DNV&N tại Chi nhánh Hà Thành
Nhìn vào bảng và biểu đồ, ta thấy cơ cấu tín dụng của Chi nhánh Hà Thành tập trung chủ yếu vào khu vực DNV&N ngoài quốc doanh. Dư nợ tín dụng đối với DNV&N ngoài quốc doanh không những tăng về quy mô mà tỷ trọng qua các năm đều tăng năm 2006, dư nợ cho khối DN này chiếm tới 97%, năm 2007 là 98% dư nợ tín dụng cho các DNV&N tại Chi nhánh. Điều này xuất phát do những khách hàng truyền thống của Chi nhánh phần lớn là các DNV&N ngoài quốc doanh, và đây cũng là những đối tượng khách hàng chủ yếu của Chi nhánh. Bởi ngay từ khi thành lập, Hà Thành đã xác định cho mình mục tiêu hành động là tập trung vào DNV&N mà chủ yếu là khu vực ngoài quốc doanh.
Bảng 12: Cơ cấu dư nợ tín dụng đối với DNV&N của Chi nhánh Hà Thành theo thời hạn
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
Dư
nợ
(tỷ
đồng)
Tỷ trọng
(%)
Dư
nợ
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
Dư
nợ
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
Dư
nợ
(tỷ
đồng)
Tỷ trọng
(%)
Dư
nợ
(tỷ
đồng)
Tỷ trọng
(%)
TD NH
176,38
82
470,73
85
927,08
77
1798,39
86
2218,69
87
TD TDH
38,71
18
83,07
15
276,92
23
292,76
14
331,52
13
Nguồn: Báo cáo cho vay DNV&N – Phòng tín dụng – Chi nhánh Hà Thành
Biểu đồ 6: Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với DNV&N của Chi nhánh Hà Thành theo thời hạn
Chi nhánh Hà Thành đầu tư vốn cho các DNV&N chủ yếu là vốn ngắn hạn, chiếm trên 75%. Đa số các DNV&N tiếp cận vốn của Chi nhánh là nhằm đáp ứng sự thiếu hụt nhu cầu vốn lưu động, do đó các DN này chỉ vay trong thời gian ngắn. Tình hình này phản ánh đúng đặc điểm chung của sản xuất nhỏ là chu chuyển vốn ngắn hạn, vòng quay vốn nhanh. Tuy nhiên, Chi nhánh cũng cần phải mở rộng cho vay trung, dài hạn cho các DNV&N để có thể giúp họ có thêm nguồn đầu tư, mua sắm máy móc thiết bị hình thành cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình sản xuất. Đặc biệt, năm 2007 dư nợ ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn chiếm 87% trong tổng dư nợ điều này xuất phát từ những biến động chung của nền kinh tế: lạm phát tăng cao, nhiều dự án không hiệu quả… Do đó mặc dù vẫn tiếp tục mở rộng loại hình cho vay trung, dài hạn nhưng đây vẫn là hướng đi đúng của Chi nhánh nhằm hạn chế rủi ro.
Như vậy, chính sách mở rộng tín dụng đối với các DNV&N của Chi nhánh Hà Thành đã và đang được tích cực thực thi. Số lượng các DNV&N đến với NH đang không ngừng tăng và khoản vay đều được Chi nhánh nỗ lực đáp ứng cũng như quy mô các món vay cũng ngày càng được mở rộng.
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH
2.3.1. Những kết quả đạt được
Ngay từ khi thành lập, Chi nhánh Hà Thành đã xác định thị trường mục tiêu của mình là các DNV&N, điều này đã thể hiện một tầm nhìn chiến lược của Hà Thành bởi đã chọn cho mình những khách hàng đang chứa đựng những tiềm năng to lớn, vừa phù hợp với tiềm lực của NH vừa giúp NH không ngừng tăng nhanh uy tín, thị phần và hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Với chiến lược khách hàng như vậy, rõ ràng Hà Thành đã phải có những chính sách thu hút đối tượng khách hàng DNV&N với từng bước đi hợp lý. Chính vì vậy, trong thời gian qua, Hà Thành luôn chủ động mở rộng tín dụng đối với DNV&N, luôn bám sát hoạt động của các DNV&N để có thể hỗ trợ nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh một cách kịp thời, đầy đủ.
Những kết quả đạt được của Chi nhánh Hà Thành trong thời gian qua có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với các DNV&N mà còn với chính bản thân NH. Từ đó góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển Thủ đô.
Qua phân tích thực trạng hoạt động tín dụng đối với các DNV&N của Chi nhánh như trên, có thể thấy những kết quả nổi bật đã đạt được của Chi nhánh Hà Thành trong thời gian qua:
Thứ nhất, chủ trương mở rộng tín dụng đối với DNV&N của Chi nhánh Hà Thành đã góp phần tích cực vào việc nâng cao kết quả kinh doanh cho Chi nhánh. Dư nợ tín dụng đối với DNV&N luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng đều đặn, do đó đã góp phần đáng kể vào việc tăng trưởng lợi nhuận cho Hà Thành. Đây là cơ sở, là động lực cho Chi nhánh phát triển ổn định bền vững.
Thứ hai, mở rộng tín dụng đối với DNV&N là cách thức phân tán rủi ro tín dụng cho Chi nhánh Hà Thành. Bởi số lượng khách hàng DNV&N nhiều, giá trị khoản vay thường không lớn và chủ yếu là những món vay ngắn hạn nên giúp cho Chi nhánh phân tán được rủi ro theo đối tượng khách hàng.
Thứ ba, việc mở rộng tín dụng đối với DNV&N không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng mà còn làm gia tăng nguồn thu phí dịch vụ cho Chi nhánh. Từ đó góp phần đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ mà Chi nhánh cung ứng cho khách hàng. Các khách hàng DNV&N đến vay vốn tại Chi nhánh, nhưng bên cạnh đó họ lại cũng là những đối tượng phát sinh nhiều nhu cầu khác về các sản phẩm, dịch vụ NH. Bên cạnh việc thiết lập quan hệ tín dụng, những khách hàng DNV&N này cũng sử dụng các các sản phẩm, dịch vụ của NH như: tư vấn, tiền lương gửi…
Hơn nữa, Chi nhánh luôn xác định hoạt động tín dụng được gắn liền với các dịch vụ NH, với phương châm phục vụ khép kín các nhu cầu của DN, nên ngay từ khi lựa chọn khách hàng, Hà Thành đã định hướng lựa chọn các DN có khả năng sử dụng nhiều dịch vụ NH. Mặt khác, trong quá trình giao dịch, Chi nhánh luôn khuyến khích, vận động khách hàng sử dụng đa dạng các dịch vụ NH. Nhờ vậy, nguồn thu phí dịch vụ của Chi nhánh không ngừng được mở rộng, giúp Chi nhánh củng cố, tăng cường nền tảng khách hàng. Đồng thời, để đáp ứng những nhu cầu đa dạng Chi nhánh phải tìm tòi, nghiên cứu để cho ra đời những sản phẩm, dịch vụ NH thích hợp và đảm bảo mang lại tiện ích nhất cho khách hàng khi đến giao dịch với Hà Thành, từ đó danh mục sản phẩm của Hà Thành ngày càng được đa dạng hóa.
Thứ tư, trên cơ sở những kết quả trên, việc mở rộng TDNH đối với DNV&N góp phần giúp Chi nhánh Hà Thành nâng cao được thị phần, uy tín, tạo lập được hình ảnh đẹp trong lòng khách hàng và gia tăng được khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Thứ năm, những chủ trương, hành động của Chi nhánh là nguồn trợ giúp to lớn cho các DNV&N trên địa bàn. Việc mở rộng tín dụng đối với các DN này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N sản xuất kinh doanh được trôi chảy, liên tục và có hiệu quả cao. Từ đó, Chi nhánh đã gián tiếp góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho một số lượng lớn lao động trong các DNV&N, góp phần tạo ra một môi trường xã hội ổn dịnh.
Những kết quả trên có được là do công sức, trí tuệ, sự nỗ lực hết mình và tinh thần đoàn kết của cả tập thể cán bộ nhân viên Chi nhánh Hà Thành. Bên cạnh đó là một loạt những nguyên nhân cụ thể:
- Chi nhánh Hà thành đã thực hiện tốt, luôn bám sát các chủ trương, đường lối, chính sách của nhà nước, ngành và của ban lãnh đạo BIDV.
- Chi nhánh luôn coi trọng và nâng cao hiệu quả các công cụ điều hành, xác định rõ mục tiêu và các bước đi cụ thể phù hợp với từng giai đoạn hoạt động kinh doanh. Từ Ban lãnh đạo Chi nhánh Hà Thành đến đội ngũ những cán bộ, nhân viên luôn có sự thống nhất cao trong chỉ đạo và hành động.
- Chi nhánh luôn đổi mới tác phong làm việc theo hướng năng động, chuyên nghiệp, xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp và luôn tranh thủ nguồn vốn kể cả trong và ngoài nước để có thể hỗ trợ tốt cho khách hàng. Chi nhánh đã khai thác và tiếp nhận có hiệu quả các nguồn vốn tài trợ như chương trình phát triển DNV&N SMEP, JBIC… từ các tổ chức tài chính quốc tế. Chi nhánh đã tăng cường tiếp cận, tiếp thị phát triển khách hàng thông qua hợp tác với các hiệp hội như Hội DN trẻ thành phố Hà Nội. Hà Thành luôn mong muốn sát cánh cùng DNV&N giúp DN ngày càng phát triển trên con đường hội nhập và phát triển.
- Chi nhánh đã áp dụng những biện pháp linh hoạt trong việc giải quyết thủ tục tín dụng, nhận tài sản đảm bảo, cạnh tranh bằng lãi suất cho vay và thái độ, chất lượng phục vụ. Chi nhánh Hà Thành đang khai thác và phát huy một mặt mạnh là đội ngũ cán bộ trẻ, nhiệt tình với trình độ chuyên môn tốt và công nghệ NH hiện đại. Nhờ đó, nhiều khách hàng đã và đang dần dần gửi gắm lòng tin vào Chi nhánh Hà Thành.
Như vậy, với những gì đã làm được Chi nhánh Hà Thành đã đang và sẽ tiếp tục khẳng định vị trí của mình là một điểm sáng của cả hệ thống BIDV.
2.3.2. Những tồn tại
Bên cạnh những kết quả to lớn đạt được, Chi nhánh Hà Thành vẫn còn không ít những khó khăn, hạn chế đang tồn tại trong hoạt động đầu tư tín dụng đối với DNV&N.
Thứ nhất, số lượng khách hàng là DNV&N có quan hệ tín dụng với Chi nhánh chưa nhiều, chưa thực sự tương xứng với tiềm năng. Mặc dù tỷ trọng khách hàng DNV&N trong tổng số khách hàng DN luôn cao nhưng con số phản ánh số lượng các DNV&N vay vốn mức trên dưới 100 khách hàng là thấp. Khi mà số lượng các DNV&N trên địa bàn Hà Nội rất lớn gần 50.000 DN, và số lượng này vẫn không ngừng tăng lên nhanh chóng. Hơn nữa, các DNVN hiện đều đang ở trong tình trạng rất thiếu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và khả năng tiếp cận các nguồn vốn còn hạn chế. Vì vậy, số lượng khách hàng DNV&N vay vốn tại Chi nhánh như thế thật sự là chưa tương xứng tiềm năng.
Thứ hai, các thủ tục cho vay vẫn còn rắc rối, phức tạp, quy trình xét duyệt cho vay còn khá dài, mất nhiều thời gian, đôi khi làm lỡ mất cơ hội kinh doanh của DN. Đặc biệt là các thủ tục liên quan đến tài sản đảm bảo đôi khi còn chưa linh hoạt.
Thứ ba, dư nợ cho vay trung, dài hạn đối với các DNV&N dù đã được Chi nhánh nỗ lực đáp ứng và mở rộng loại hình cho loại hình tín dụng nay nhưng vẫn còn chiếm tỷ trọng thấp. Từ đó, dẫn đến khó khăn cho DNV&N trong việc đáp ứng nhu cầu vốn để mua sắm tài sản cố định, máy móc, trang thiết bị phục vụ quá trình sản xuất. Các khoản cho vay trung, dài hạn nhiều khi không phải DNV&N nào cũng có thể đáp ứng được.
Thứ tư, Mặc dù công tác tuyên truyền, tiếp thị được Chi nhánh đẩy mạnh nhưng trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ và phát triển như vũ bão hiện nay, việc Chi nhánh chưa mở cho mình một trang web để quảng bá hình ảnh, cung cấp thông tin cho khách hàng cũng là một thiếu sót. Bởi Chi nhánh đang ngày càng lớn mạnh về quy mô, mạng lưới đang ngày càng được mở rộng, là Chi nhánh đi đầu trong lĩnh vực Ngân hàng bán lẻ của cả hệ thống BIDV, việc sử dụng công cụ Internet trong hoạt động giao tiếp khuếch trương là rất cần thiết. Tuy NH ĐT&PT Trung ương đã có website nhưng ở đó chỉ cung cấp những thông tin chung của cả hệ thống, vì vậy để tạo sự thuận tiện cho cả Chi nhánh nên có một trang thông tin riêng mình.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. ĐỊNH HƯỚNG MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC DNV&N TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1.1. Định hướng phát triển DNV&N của Nhà nước trong giai đoạn tới
Vị trí cũng như vai trò của các DNV&N trong nền kinh tế nước ta ngày càng được nhận thức sâu sắc. Đảng và Nhà nước ta đã và đang kề vai sát cánh cùng với những DNV&N để thấy và hiểu rõ những khó khăn mà các DNV&N phải đối mặt. Từ đó, hàng loạt các chương trình, chính sách hỗ trợ cho sự phát triển của các DNV&N đã ra đời, như Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNV&N, Quyết định 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/01/2001 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNV&N, Quyết định 504/QĐ-BKH ngày 29/07/2001 về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu của Cục phát triển DNV&N… Và đến nay, trước mắt để thực hiện giai đoạn phát triển kinh tế xã hội năm 2006-2010 và xa hơn là mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, những chủ trương, đường lối thúc đẩy sự phát triển của những hạt nhân DNV&N vẫn đang tiếp tục được tăng cường đẩy mạnh. Cụ thể là định hướng phát triển DNV&N của Nhà nước giai đoạn 2006-2010 như sau:
- Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý, cải cách thủ tục hành chính và chính sách tài chính theo hướng tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng cho DNV&N và dịch vụ kinh doanh phát triển.
- Thực hiện các chính sách phù hợp để cải thiện tình trạng thiếu mặt bằng sản xuất, đồng thời bảo vệ môi trường.
- Nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích phát triển các quỹ dành cho DNV&N, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng cho các DNV&N.
- Xúc tiến phổ biến thông tin, kỹ thuật - công nghệ tới các DNV&N cũng như nâng cao năng lực của các doanh nghiệp này trong việc xác định, lựa chọn và thích ứng với công nghệ.
- Khuyến khích các DNV&N tham gia vào các liên kết ngành ở mọi cấp và hỗ trợ phát triển các hiệp hội doanh nghiệp.
- Thực hiện trợ giúp có trọng điểm để tăng cường khả năng cạnh tranh của một số ngành hàng mà Việt Nam có lợi thế.
- Khuyến khích phát triển thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh (BDS) theo định hướng của nền kinh tế thị trường, tách chức năng trực tiếp cung cấp dịch vụ ra khỏi chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước.
- Phát triển văn hoá doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh, khuyến khích khởi sự doanh nghiệp,
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trợ giúp phát triển DNV&N
3.1.2. Định hướng mở rộng tín dụng đối với DNV&N của Chi nhánh Hà Thành
Ngay từ khi mới thành lập, Ban lãnh đạo BIDV đã xác định Hà Thành là Chi nhánh NHTM Nhà nước hoạt động tín dụng phục vụ thành phần kinh tế tư nhân thông qua việc ứng dụng công nghệ hiện đại, phát triển mạnh về dịch vụ và NH bán lẻ. Trong đó, đối tượng phục vụ chủ yếu của Hà Thành là DNV&N, lực lượng đầy tiềm năng của nền kinh tế. Với định hướng của một NHTM quốc doanh chuyên phục vụ các DN ngoài quốc doanh, DNV&N như vậy, trong giai đoạn 2007-2010, Hà Thành vẫn tiếp tục đi theo con đường đó với hy vọng trong thời gian không xa, Chi nhánh sẽ trở thành một NH mạnh và đi đầu trong mẫu hình các NHTM phục vụ DNV&N. Những phương hướng cụ thể của Chi nhánh hoàn thành trong giai đoạn tới đối với đầu tư tín dụng cho các DNV&N như sau:
- Cố gắng hơn nữa trong việc giảm nợ quá hạn xuống mức càng thấp càng tốt, đồng thời tiếp tục thực hiện các biện pháp để xử lý và thu hồi nợ còn tồn đọng, góp phần làm lành mạnh hóa chất lượng tín dụng cho vay DNV&N của Chi nhánh.
- Tích cực, chủ động tiếp cận với nhiều khách hàng mới là các DNV&N có nhiều tiềm năng để hỗ trợ vốn.
- Tiếp tục mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch đến các địa bàn quận, huyện Thủ đô để tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N trong việc tiếp cận vốn tín dụng của Chi nhánh cũng như tăng khả năng mở rộng các khách hàng DNV&N của Hà Thành.
- Tiếp tục chủ trương đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, khả năng phân tích, thẩm định cho những cán bộ tín dụng có năng lực tốt, trình độ cao để có thể tăng cường công tác tư vấn cho khách hàng, đặc biệt là tư vấn việc lập phương án, dự án sản xuất kinh doanh cho các DNV&N.
- Tăng cường hơn nữa việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức, hiệp hội DN trên địa bàn để mang đến những cơ hội tiếp cận với các điều kiện ưu đãi trong vay vốn từ nguồn vốn của Chi nhánh và những nguồn vốn tiếp nhận từ các tổ chức quốc tế cho DNV&N.
- Tăng cường tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi của nước ngoài để hỗ trợ hơn nữa cho các DNV&N, là cơ sở để Chi nhánh đạt mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng đầu tư tín dụng.
Với phương châm “ Hợp tác toàn diện, phát triển bền vững, hướng tới tương lai”, Chi nhánh Hà Thành luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N, đó như là một lời cam kết của Chi nhánh sẽ cùng hợp lực với các DN để đi tới mục tiêu đóng góp được nhiều nhất cho phát triển kinh tế Thủ đô và đất nước.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH
Với sự lớn mạnh không ngừng về mọi mặt của Chi nhánh Hà Thành, khả năng mở rộng tín dụng đối với các DNV&N sẽ còn tăng hơn nữa trong thời gian tới. Để tạo điều kiện cho khả năng đó được tiếp tục phát huy và đẩy mạnh, Chi nhánh Hà Thành có thể xem xét một số giải pháp về hoạt động tín dụng sau:
3.2.1. Thực hiện tốt công tác huy động vốn, đảm bảo đủ nguồn vốn để đáp ứng tối đa nhu cầu vay vốn của các DNV&N.
Để tăng cường khả năng mở rộng tín dụng đối với DNV&N thì đòi hỏi Chi nhánh phải có một nguồn vốn dồi dào, đa dạng về quy mô, thời hạn. Vì vậy, đây có lẽ là điều kiện đầu tiên, quan trọng nhất, là tiền đề, cơ sở để Chi nhánh có thể đáp ứng được mọi nhu cầu vay vốn của DNV&N. Muốn vậy, Chi nhánh cần phải tổ chức tốt công tác huy động vốn trên cơ sở:
Chi nhánh phải thường xuyên nắm bắt thị trường, đa dạng hơn nữa các hình thức huy động vốn, tạo thuận lợi tối đa cho việc gửi tiền, tăng cường cải tiến công nghệ nhằm đưa ra nhiều sản phẩm có tiện ích cao cho khách hàng, không ngừng đổi mới phong cách và thái độ phục vụ theo cơ chế thị trường, xây dựng một chính sách lãi suất huy động hợp lý để nhằm thu hút ngày càng nhiều lượng tiền gửi trong dân cư cũng như của các tổ chức kinh tế.
Đồng thời, Chi nhánh cần đẩy mạnh các hoạt động khuyến mãi cho khách hàng có số lượng tiền gửi lớn, thời gian gửi dài, khuyến khích khách hàng gửi dài hạn.
Chi nhánh cũng cần tăng cường tạo lập, củng cố uy tín với khách hàng thông qua việc tuyên truyền, quảng cáo, xây dựng hình ảnh tốt đẹp trong lòng khách hàng, đổi mới, đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật trụ sở.
Trên đây là những cách thức tăng cường huy động vốn thông qua tác động đến lợi ích kinh tế, tâm lý và giảm chi phí giao dịch cho khách hàng.
Đặc biệt Chi nhánh cần tranh thủ những nguồn vốn trung, dài hạn theo các chương trình, dự án phát triển DNV&N của các tổ chức quốc tế để tăng khả năng mở rộng cho vay trung, dài hạn giúp các DNV&N có điều kiện đổi mới công nghệ, thiết bị.
3.2.2. Đa dạng hóa các hình thức tín dụng cho DNV&N
DNV&N hoạt động đa dạng trong mọi ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế nên cùng với đó, nhu cầu về khối lượng vốn vay và thời hạn vay vốn cũng hết sức đa dạng. Vì vậy, để mở rộng tín dụng đối với các DNV&N thì việc đa dạng hóa các hình thức tín dụng của Chi nhánh cũng hết sức quan trọng và cần thiết.
Bên cạnh các nghiệp vụ cho vay truyền thống như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn mà Chi nhánh đang áp dụng thì nên phát triển thêm các hình thức cho vay mới như hình thức bao thanh toán hay hình thức mua bán nợ, đây là hình thức chưa được phổ biến ở nước ta nhưng lại rất phổ biến tại các nước phát triển. Đây cũng chính là một hình thức cấp tín dụng gián tiếp thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ đã phát sinh của khách hàng còn trong thời hạn thanh toán.
Thông qua hình thức tín dụng đa dạng, Chi nhánh tạo điều kiện thuận lợi cho DNV&N có điều kiện dễ dàng tiếp cận nguồn vốn TDNH và như vậy chắc chắn sẽ mở rộng được tín dụng đối với DNV&N.
3.2.3. Xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt đối với DNV&N
DNV&N hoạt động trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề có những thế mạnh cũng như những hạn chế riêng của nó. Vì vậy, nhu cầu hay quan niệm của các DN về vốn và chi phí cũng khác nhau. Do đó, để mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, Chi nhánh nên tìm hiểu kỹ để có những đánh giá chính xác về khách hàng và khoản tín dụng sẽ cấp nhằm xây dựng một biểu lãi suất cho vay phù hợp với từng đối tượng ngành nghề. Bởi đối với các DNV&N, nếu lãi suất cao không phù hợp thì sẽ trực tiếp làm chi phí đầu vào tăng cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận, từ đó có thể dẫn đến tình trạng DN không trả được nợ. Vì lẽ đó, lãi suất vay vốn cũng là vấn đề được các DN quan tâm.
Chính sách lãi suất của Chi nhánh cần phải linh hoạt, hợp lý theo đối tượng vay vốn trong từng thời kỳ nhất định. Với những DN có quan hệ lâu năm, có uy tín và là những khách hàng truyền thống có thể được hưởng mức lãi suất vay thấp hơn. Chi nhánh có thể có những ưu đãi về lãi suất cho vay theo ngành nghề, lĩnh vực Nhà nước đang khuyến khích ưu tiên phát triển. Những ưu tiên này sẽ có tác dụng rất to lớn giúp DNV&N không những giảm được chi phí vốn mà còn tích cực hơn trong việc sử dụng vốn hiệu quả, đảm bảo chất lượng trong quan hệ tín dụng với NH. Điều này sẽ như một lực đẩy góp phần làm gia tăng, gắn chặt hơn nữa mối quan hệ thân thiết giữa khách hàng và Chi nhánh. Có như vậy, chủ trương mở rộng tín dụng của Chi nhánh đối với DNV&N mới có thể thành công.
3.2.4. Tiếp tục cải tiến quy trình tín dụng, cải tiến thủ tục, hồ sơ cho vay theo hướng đơn giản hóa, linh hoạt và thuận lợi nhất cho các DNV&N
Quy trình tín dụng có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động của Chi nhánh, đồng thời nó thể hiện một quá trình tiếp cận trực tiếp với khách hàng về mọi mặt, vì thế những cố gắng của NH trong việc tạo điều kiện cho DNV&N tiếp cận được nhiều hơn nguồn vốn tín dụng cũng được thể hiện ở đây.
Trước hết, ở khâu lập hồ sơ vay vốn Chi nhánh cần phải làm cho mọi thủ tục, giấy tờ vay vốn được đơn giản nhất, tạo điều kiện cho DNV&N ngay bước đầu vay vốn được thuận lợi, tiết kiệm thời gian, chi phí cho cả NH và DN.
Chi nhánh cần đặc biệt chú trọng tới công tác thẩm định dự án nhằm có được những quyết định đúng đắn nhất trong việc lựa chọn khách hàng và dự án đầu tư. Trong đó, quan trọng nhất là Chi nhánh phải thiết lập một hệ thống thu thập thông tin tín dụng đa chiều trên cơ sở có chọn lọc. Bởi việc thu thập những thông tin tốt, chính xác, kịp thời không những giúp cho NH đánh giá một cách chính xác năng lực của khách hàng mà còn giúp cho việc đưa ra quyết định tín dụng nhanh chóng kịp thời không bỏ lỡ những khách hàng tiềm năng của Chi nhánh cũng như không mất cơ hội kinh doanh của khách hàng.
Chi nhánh cần tăng cường và thực hiện một cách nghiêm túc, sát sao hơn công tác khảo sát tình hình thực tế tại các DNV&N để nắm bắt được hiện trạng hoạt động của khách hàng. Trên cơ sở những thông tin thu thập được thì khả năng tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin cũng là một khía cạnh cần được Chi nhánh lưu tâm. Muốn vậy, Chi nhánh nên thực sự quan tâm, tạo điều kiện cho các cán bộ thẩm định được học tập, đào tạo thêm các lĩnh vực ngoài ngành.
Chi nhánh cũng cần không ngừng hoàn thiện, bố sung và cải tiến hệ thống đánh giá, chấm điểm tín dụng cho DNV&N sao cho phù hợp với thực trạng DNV&N về mọi mặt như tài sản thế chấp, hệ thống kế toán, sở hữu vốn… giúp quá trình thẩm định món vay một cách tin cậy, phê duyệt cho vay nhanh chóng, hiệu quả.
Chi nhánh có thể xem xét nới lỏng điều kiện cho vay, quan tâm sâu sắc tới tính khả thi của kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Đối với tài sản đảm bảo, Chi nhánh xây dựng cơ chế phù hợp từ khâu định giá đến việc phân tích pháp lý và kiểm tra, giám sát tài sản. Trong đó, đặc biệt việc định giá tài sản tương xứng với giá thị trường và hợp lý nhất để giúp DN có thể vay được số tiền sát với nhu cầu vốn của DN, trên cơ sở một đội ngũ cán bộ NH có trình độ am hiểu sâu diễn biến thị trường. Hơn nữa, đối với các DNV&N chưa có đủ điều kiện về tài sản thế chấp thì có thể tạo điều kiện cho họ được vay tín chấp, bảo lãnh.
Nếu Chi nhánh thực hiện được việc đổi mới chính sách cho vay và cơ cấu tín dụng theo hướng căn cứ chủ yếu vào tính khả thi và hiệu quả của dự án thì sẽ khắc phục được tình trạng thiếu tài sản thế chấp của DNV&N, và như vậy sẽ mở rộng cửa hơn cho các DNV&N vay vốn tại Chi nhánh.
Chi nhánh cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Bởi chất lượng tín dụng cũng là một tiền đề quan trọng để thực hiện mở rộng tín dụng vững chắc, an toàn, lâu dài. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát của Chi nhánh cần phải thực hiện các quy trình nghiệp vụ đúng trình tự để đạt hiệu quả cao.
Việc kiểm tra, kiểm soát không chỉ đơn thuần là kiểm tra, kiểm soát khách hàng trước, trong và sau quá trình vay vốn, sử dụng vốn mà quan trọng hơn cả là kiểm tra, giám sát việc làm của các cán bộ tín dụng nhằm giúp họ tuân thủ theo đúng quy trình nghiệp vụ để đảm bảo an toàn trong cho vay đối với các DNV&N. Ngoài ra, công tác này sẽ cung cấp thông tin cho khâu quản lý để Ban lãnh dạo có những biện pháp xử lý kịp thời khi phát hiện những sai sót nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn về vốn và tài sản cho NH. Có thể nói, đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các NH.
Ngoài ra Chi nhánh có thể lập một bộ phận chuyên trách về cho vay DNV&N trong bộ phận tín dụng hay thành lập một quỹ cho vay riêng đối với DN này nhằm tăng tính chuyên nghiệp khi cho vay.
Như vậy, việc thường xuyên cải tiến, đổi mới quy trình tín dụng cũng như các thủ tục cho vay đối với các DNV&N theo hướng ngày càng phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của tình hình thực tiễn sẽ khiến cho Chi nhánh thu hút ngày càng nhiều các DNV&N đến vay vốn, sẽ khiến cho mối quan hệ tín dụng giữa Chi nhánh và khách hàng thực sự mang lại lợ ích cho cả hai bên.
3.2.5. Thiết lập một chiến lược Marketing hướng tới DNV&N, trong đó chú trọng chính sách khách hàng tập trung vào các DNV&N
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò Marketing này càng được khẳng định và thừa nhận. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh doanh NH, khi mà sự khác biệt giữa các NH là rất mong manh thì hoạt động Marketing NH lại càng không thể thiếu. Để có thể mở rộng tín dụng đối với các DNV&N, Chi nhánh cần phải có chiến lược lôi kéo khách hàng thông qua đẩy mạnh hoạt động Marketing hướng tới các DNV&N trên nhiều phương diện.
Trước hết, Chi nhánh cần phải là bên chủ động tìm kiếm khách hàng DNV&N, lựa chọn những khách hàng tốt để cho vay. Bởi trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các NH đều có những cách thức riêng để thu hút khách hàng về phía mình, về số lượng các NH cũng ngày càng lớn. Như vậy, các DNV&N hoàn toàn có nhiều cơ hội tự do lựa chọn một ngân hàng phù hợp với mình. Nếu Chi nhánh không chủ động tìm kiếm khách hàng thì khó có thể tồn tại và phát triển. Muốn vậy Chi nhánh cần phải tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, tâm huyết, sẵn sàng đi sâu bám sát cơ sở để tìm kiếm cơ hội đầu tư, tìm kiếm khách hàng tiềm năng, có triển vọng kinh doanh tốt. Đặc biệt, Chi nhánh có thể chủ động khai thác những khách hàng mới từ chính những khách hàng truyền thống của mình. Bởi trên thương trường, một DN thường có quan hệ hợp tác làm ăn với rất nhiều những DN khác. Làm được điều này, Chi nhánh đã có thể tạo thêm cho mình rất nhiều khách hàng mới.
Mặt khác, Chi nhánh phải tích cực tiếp cận những khách hàng mới thông qua tổ chức thường xuyên hơn nữa các cuộc hội thảo, hội nghị khách hàng. Thông qua việc tiếp xúc trực tiếp này, Chi nhánh có thể tìm hiểu được những nhu cầu, mong muốn của các DNV&N, giúp Chi nhánh và DN hiểu biết về nhau hơn và tạo ra một bầu không khí gần gũi, cởi mở, thoải mái giữa NH và DN để có thể cùng nhau trao đổi, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn. Nhờ sự chủ động của mình, Chi nhánh lại có thể tạo ra sự chủ động tìm đến vay vốn từ phía các DN. Biện pháp không khó thực hiện mà lại tạo ra hiệu quả kép trong mở rộng TDNH.
Ngoài ra, Chi nhánh còn có thể trực tiếp gửi thư, thông báo về chủ trương, chính sách tín dụng mới của Chi nhánh đối với DNV&N tới các DN này, một hình thức cũng tạo nên những hiệu quả lớn.
Bên cạnh tuyên truyền, quảng cáo, Chi nhánh còn có thể xây dựng một trang web riêng với nội dung thường xuyên được cập nhật.
Chi nhánh cũng cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu môi trường kinh doanh, khảo sát địa bàn để có thể mở thêm các phòng giao dịch từ đó thuận lợi hơn cho cả Chi nhánh và các DN trong việc tiếp cận, tiếp xúc trực tiếp để tìm hiểu vay vốn, đặc biệt khi mà các DNV&N đang ở trong tình trạng hoạt động phân tán nhỏ lẻ nhiều nơi.
Bên cạnh đó, Chi nhánh cần tăng cường hoạt động tư vấn cho các DNV&N trên cơ sở thiết lập hẳn một phòng chức năng chuyên tư vấn riêng cho DNV&N. Có như vậy, Chi nhánh mới có thể thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư trong lĩnh vực đầu tư đối với DNV&N, đặc biệt là tư vấn trong lĩnh vực đầu tư và việc lập phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh hiệu quả, khả thi. Việc làm này sẽ khắc phục được một điểm yếu của các DNV&N hiện nay là thiếu phương án sản xuất kinh doanh tốt để thuyết phục NH vay vốn.
Hoạt động Marketing tập trung vào các DNV&N là một công cụ sẽ mang lại hiệu quả to lớn và chắc chắn thành công trong việc mở rộng tín dụng đối với DNV&N của Chi nhánh. Không chỉ có thế, nó còn làm nên sự khác biệt cho Chi nhánh, tăng vị thế cạnh tranh trên thị trường và trở thành sợi dây vô hình thu hút khách hàng DNV&N đến với Chi nhánh ngày càng nhiều hơn.
3.2.6. Tăng cường cho vay thông qua các hiệp hội của DNV&N
Bên cạnh sự ra đời ngày càng nhiều của các DNV&N thì xu hướng “liên doanh, liên kết và hợp tác vững mạnh” cũng nảy sinh như một nhu cầu tất yếu. Sự cạnh tranh và quy luật đào thải khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường đòi hỏi các DNV&N phải đoàn kết, chung lưng góp sức, trước hết vì sự tồn tại, vì lợi ích và tương lai của chính mình. Chính vì xu hướng và đòi hỏi tất yếu ấy mà các tổ chức, hiệp hội của DNV&N ra đời và xuất hiện ngày càng nhiều. Đây chính là nơi tập hợp, liên kết, hỗ trợ và làm nhiệm vụ của người phát ngôn, đại diện cho quyền lợi và mong muốn chung của các DNV&N với thị trường, với các định chế tài chính trong nền kinh tế.
Chính vì thế, việc Chi nhánh đẩy mạnh hơn nữa việc tập cận và ký kết các khoản tài trợ tín dụng với các hiệp hội này sẽ tăng cường khả năng mở rộng tín dụng với các DNV&N thành viên. Thông qua việc ràng buộc quyền lợi, trách nhiệm của hiệp hội với các khoản tín dụng này, Chi nhánh sẽ có được những khoản tín dụng với chất lượng tốt, tập trung và ổn định.
Mặt khác, Chi nhánh cũng cần thực hiện tốt việc góp vốn với Quỹ bảo lãnh để bảo lãnh tín dụng trên địa bàn Hà Nội có đủ vốn đi vào hoạt động ổn định, dài lâu và có đủ lực tài trợ cho các DNV&N.
3.2.7. Có một chế độ đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ tín dụng
Yếu tố con người luôn giữ vị trí số một trong hoạt động kinh doanh NH, là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ của NH. Chính vì thế quan tâm đến yếu tố con người luôn là một khía cạnh không thể không có trong việc giải quyết mọi vấn đề hoạt động NH, đặc biệt là mở rộng tín dụng. Chi nhánh cần phải có một chế độ đãi ngộ ngày càng xứng đáng cho những cán bộ thật sự giỏi và có năng lực, nhằm gắn liền lợi ích với hiệu quả hoạt động, nâng cao trách nhiệm và tinh thần của các CBTD.
3.2.8. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý, giải quyết cho vay đối với các DNV&N
Chi nhánh nên áp dụng nhiều hơn các phần mềm tiên tiến trong việc quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu khách hàng hay sử dụng các phần mềm hỗ trợ cho việc phân tích, thẩm định để việc giải quyết cho vay đối với DN được đồng bộ, nhanh chóng.
Chi nhánh cần xây dựng kênh thông tin trực tuyến với khách hàng DNV&N thông qua các tổ chức của DNV&N để có thể theo dõi thường xuyên diễn biến, tình hình hoạt động của DN, đánh giá được khả năng trả nợ cũng như có thể đáp ứng kịp thời vốn vay cho DN khi cần thiết.
3.3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N
3.3.1. Kiến nghị với các Cơ quan quản lý Nhà nước
Giữa Ngân hàng và các DNV&N luôn tồn tại một khoảng cách mà để thu hẹp nó, sự nỗ lực và tự hoàn thiện của mỗi bên thôi là chưa đủ. Cơ chế giám sát, quản lý từ phía Nhà nước thông qua việc hoạch định, hoàn thiện chính sách là yếu tố rất quan trọng, nếu không nói là quyết định để giúp cho cả hai bên hoàn thành mục tiêu của mình và có cơ hội đến gần nhau hơn.
Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tổ chức hoạt động kinh doanh của các DNV&N. Nhà nước cần xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, gỡ bỏ hết những điều kiện ưu đãi cho các DN quốc doanh nhằm tạo ra môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo sân chơi thực sự thông thoáng cho các DNV&N. Đặc biệt, hệ thống pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp với thực tiễn, xuất phát từ cuộc sống, phải ổn định, minh bạch và được thực thi nghiêm chỉnh để tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, để các DN yên tâm và mạnh dạn đầu tư, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N thực hiện quyền kinh doanh và khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu để nâng cao cơ hội và hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các DNV&N, các cơ quan công quyền phải tăng cường kiểm tra, điều tiết, hậu kiểm để tránh hình thành những DN ma, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho DNV&N hoạt động.
Thứ hai, Nhà nước cần tạo thêm nhiều cơ hội xúc tiến thương mại cho các DNV&N. Nhà nước tiến hành xây dựng hệ thống thông tin DN, mở rộng việc tổ chức hệ thống thu thập và xử lý thông tin cả trong nước và quốc tế để cung cấp cho các DNV&N, giúp DN mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp cận công nghệ hiện đại. Từ đó, góp phần giúp các DNV&N thuận lợi trong kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng tiềm lực về mọi mặt. Hoạt động của các Hiệp hội, câu lạc bộ của DNV&N trên địa bàn cần được tăng cường, củng cố hơn trên cơ sở hoàn thiện cơ chế, mô hình tổ chức, hoạt động và tăng cường các cuộc đối thoại, trao đổi định kỳ giữa Cơ quan quản lý Nhà nước với các Hiệp hội này để hiểu rõ những khúc mắc và cùng tìm giải pháp tháo gỡ những khó khăn cho DNV&N thông qua tiếng nói đại diện của Hiệp hội.
Thứ ba, Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí và tổ chức những chương trình hành động cụ thể để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các DNV&N đặc biệt là đội ngũ quản lý DN nhằm khắc phục tình trạng thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng quản trị, nắm bắt thông tin và mở rộng thị trường. Đây là một điểm yếu nổi bật của các DNV&N, tạo nên những hạn chế trong việc thiết lập những chiến lược kinh doanh hiệu quả cũng như khả năng điều hành, từ đó làm giảm uy tín và sức cạnh tranh của DN trên thị trường.
Thứ tư, Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ tài chính cho các tỉnh, thành phố để đưa các Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNV&N đi vào hoạt động được nhiều hơn nữa. Ngoài ra, Nhà nước có thể nghiên cứu, xem xét và có biện pháp hỗ trợ đưa vào hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ những nhà đầu tư có ý tưởng kinh doanh mới nhưng gặp khó khăn về vốn, điều này rất sát với những chủ DNV&N, họ đều là những người có những ý tưởng kinh doanh táo bạo nhưng do hạn chế về nhiều mặt mà không thể biến những ý tưởng đó thành hiện thực.
Thứ năm, Nhà nước cần thúc đẩy nhanh sự hình thành các cơ quan định giá tài sản, trung tâm tư vấn tín dụng, các trung tâm thông tin, chuyên môn thẩm định chuyên nghiệp. Bởi hiện nay, các tài sản đảm bảo cho khoản vay của DN hầu như bị NH đánh giá thấp hơn giá trị hợp lý của nó, một phần bắt nguồn từ ý định chủ quan của NH, một phần do trình độ thẩm định, đánh giá tài sản của cán bộ NH hạn chế, không gắn với thực tế thị trường, hơn nữa các căn cứ định giá giữa các NH lại không thống nhất, nên gây ra khó khăn rất lớn cho DNV&N khi vay vốn. Vì thế, sự hình thành trung tâm định giá tài sản có sự quản lý, điều chỉnh thống nhất của Nhà nước là rất cần thiết.
Thứ sáu, Nhà nước cần thống nhất giao cho một cơ quan thực hiện nhiệm vụ dăng ký giao dịch bảo đảm để tạo thuận lợi cho DNV&N vay vốn. Bởi hiện nay, những tài sản bảo đảm khác nhau lại phải đăng ký giao dịch bảo đảm ở những cơ quan thuộc các Bộ, Ngành khác nhau, gây phức tạp và mất thời gian cho cả NH và DNV&N. Các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bao gồm: Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện đăng ký đối với quyền sử dụng đất, Cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực thực hiện đăng ký đối với tàu biển, Cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và các chi nhánh, cục Hàng không dân dụng Việt Nam…
3.3.2. Kiến nghị với NHNN
Thứ nhất, NHNN cần không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý, chính sách cho hoạt động kinh doanh của NH, đặc biệt là về hoạt động tín dụng. Trong đó, NHNN cần tiếp tục đổi mới nội dung các cơ chế cấp tín dụng để ban hành đồng bộ theo hướng thông thoáng, phù hợp với quan hệ dân sự, tiếp tục có hướng dẫn đơn giản hóa thủ tục, quy chế các nghiệp vụ phái sinh tài chính, sửa đổi bổ sung một số điểm của cơ chế bảo đảm tiền vay có liên quan trực tiếp đến các DNV&N.
Thứ hai, NHNN cần có chỉ thị hướng dẫn, thúc đẩy mạnh mẽ hơn các NHNN ở các tỉnh, thành phố, các NHTM và các TCTD trong việc tham gia góp vốn để thành lập và đưa vào hoạt động nhiều Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNV&N.
Thứ ba, NHNN tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống Thông tin tín dụng của Ngành NH, đảm bảo gánh vác và hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, thúc đẩy toàn Ngành thực hiện nghiêm túc Quy chế hoạt động thông tin tín dụng, các quyết định, chỉ thị của NHNN để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng theo hướng an toàn, hiệu quả và bền vững. Trong đó đặc biệt, NHNN cần phải chủ trương cải thiện hơn nữa chất lượng thông tin của Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC) nhằm phát huy hiệu quả thực sự của trung tâm này. Cùng với đó, NHNN có thể phải quy định sử dụng Báo cáo thông tin từ CIC như là một tài liệu bắt buộc phải có trong quá trình thẩm định cho vay của các NH.
3.3.3. Kiến nghị với các DNV&N
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng khiến cơn khát vốn của các DNV&N càng trở nên cháy bỏng. Chỉ có vốn để mở rộng sản xuất, đầu tư công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm mới cho phép DNV&N chiếm lĩnh được thị trường nội địa và tiếp cận được thị trường rộng lớn của các nước trong khu vực và trên thế giới. Để làm được điều đó, thì chính bản thân các DNV&N hơn ai hết phải là người chủ động hoàn thiện mình, chủ động tìm kiếm những nguồn lực cho quá trình sản xuất kinh doanh, để phát triển tạo bước tiến vững chắc cho tương lai hội nhập. Trong đó, tăng cường tiếp cận với các nguồn vốn TDNH đang là một yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc của chính bản thân các DNV&N.
Trước hết, các DNV&N cần phải xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh trong từng thời kỳ, từ đó điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, dịch vụ và phương thức kinh doanh nhằm nâng cao khả năng thích ứng với thị trường. DN phải chủ động trong việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù hợp với năng lực vốn, công nghệ và con người , đặc biệt chú trọng đến phương án lựa chọn công nghệ đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại, tự động hóa nhằm tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh với chất lượng cao. Các DNV&N cần phải mở rộng hoạt động nghiên cứu thị trường và Marketing để bắt kịp nhu cầu thị trường và thỏa mãn những nhu cầu đó một cách tốt nhất, để nắm bắt kịp thời và không bỏ qua những cơ hội kinh doanh quý giá.
Thứ hai, các DNV&N phải tạo dựng được uy tín và niềm tin cho các NH trong quan hệ tín dụng thông qua việc sử dụng vốn đúng mục đích, chủ động tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao năng lực quản trị và điều hành DN, tích cực đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện đúng và minh bạch các chế độ tài chính kế toán, hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật quy định. Các DN cần nâng cao năng lực quản trị DN của đội ngũ quản lý bằng cách thuê những nhân lực giỏi, tận dụng các hình thức tư vấn thay vì quản lý theo kiểu gia đình.
Thứ ba, các DNV&N phải chủ động tiếp cận và tìm hiểu các sản phẩm, dịch vụ của các NH, đồng thời tận dụng cơ hội, tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ của các Sở, ban ngành của thành phố. Các DN phải chủ động và tăng cường củng cố những mối quan hệ với các tổ chức, hiệp hội như Phòng Công nghiệp và thương mại Việt Nam, để có thể nâng cao khả năng vay vốn tín chấp NH thông qua sự bảo lãnh của các tổ chức, cơ quan này.
Thứ tư, các DNV&N cần chủ động nâng cao quy mô vốn tự có để đáp ứng được các yêu cầu về vốn chủ sở hữu, tài sản bảo đảm khi đến vay vốn tại NH thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hóa, kêu gọi sự góp vốn của các nhà đầu tư, niêm yết trên thị trường chứng khoán, phát hành cổ phiếu, trái phiếu…
Thứ năm, các DNV&N cần đẩy mạnh xây dựng những chiến lược liên kết, hợp tác. Các DN không phải vì cạnh tranh mà từ bỏ sự hợp tác. Trái lại, để hạn chế những mặt tiêu cực trong cơ chế cạnh tranh, các DNV&N lại càng cần phải tăng cường hợp sức với nhau để cùng bảo vệ, hỗ trợ cho nhau trước những đối thủ cạnh tranh thực sự lớn mạnh từ bên ngoài.
Và cuối cùng, đó là các DNV&N nên đề cao hơn nữa văn hóa trong kinh doanh xây dựng truyền thống và uy tín, hình ảnh riêng có của DN. DN phải tôn trọng chữ tín trong mọi mối quan hệ, và phải đặt điều đó thành tiêu chí hành động hàng đầu của mình. Muốn vậy, DN phải luôn xây dựng nền nếp quản lý kinh doanh minh bạch, trung thực, đạo dức kinh doanh phải được tiếp nối và phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành truyền thống gắn liền với thương hiệu DN.
Như vậy, để nâng cao khả năng mở rộng hoạt động tín dụng cho các DNV&N của Chi nhánh Hà Thành thì sự nỗ lực của một phía là hoàn toàn chưa đủ. Đó phải là sự tổng hòa, phối hợp của tất cả các bên: Chi nhánh Hà Thành, các DNV&N và đặc biệt quan trọng là sự điều hành cấp vĩ mô của các cơ quan Nhà nước. Có như vậy mới tạo nên sức mạnh to lớn, đồng bộ để đưa mục tiêu chung là các bên cùng phát triển, cùng tăng trưởng lớn mạnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33442.doc