- Năm 2007, Việt Nam chính thức trỏ thành thành viên của tổ chức WTO đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế cũng như việc đưa nền kinh tế nước ta gia nhập nền kinh tế toàn cầu. Đi đôi với nó là những khó khăn cũng như thách thức của quá trình hội nhập đem lại. Trong bối cảnh toàn cầu hoá đó, việc giao thương xuất nhập khẩu trở thành hoạt động kinh tế tất yếu đem lại khoản thu nhập đáng kể đóng góp tỷ trọng lớn trong GDP nước ta. Đáp ứng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì nghiệp vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng ngày càng hoàn thiện và đem lại thu nhập từ các khoản phí dịch vụ. NHNo & PTNT Nam Hà Nội là chi nhánh có khối lượng thanh toán cao và uy tín, được các doanh nghiệp gửi gắm cho các phi vụ làm ăn với nước ngoài. Trong ba năm 2005 – 2007, chi nhánh luôn hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về tổng số tiền trong thanh toán quốc tế, đặc biệt là thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ.
- Có thể nói chi nhánh đã thành công trong việc hoàn thiện nghiệp vụ TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ, thể hiện ở số tiền thanh toán L/C nhập khẩu năm 2005 là 48,852,000 USD đến năm 2007 là 115,797,000 USD; L/C xuất khẩu năm 2005 là 7,534,000 USD đến năm 2007 là 23,548,000 USD. Không những thế, việc hạn chế rủi ro trong thanh toán cũng được ngân hàng hạn chế và kiểm soát đến mức thấp nhất có thể. Số vụ L/C không thanh toán được cũng giảm đáng kể, năm 2007 hầu như không để xảy ra một trường hợp đáng tiếc nào. Chi nhánh đã phát huy được những mặt thuận lợi khắc phục được các khó khăn để nâng cao vị thế của mình qua nghiệp vụ TTQT đặc biệt là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ như xúc tiến các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro đồng thời hoàn thiện quy trình thanh toán bằng đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao và cơ chế quản lý nâng cao tính tự chủ trong công việc. Có thể khẳng định trong tương lai nghiệp vụ thanh toán quốc tế băng phương thức tín dụng chứng từ sẽ đóng góp một phần quan trọng cho chi nhánh cũng như nền kinh tế đang trong giai đoạn hội nhập nước ta.
91 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng, một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hệ với khách hàng mới, đặc biệt là các khách hàng có tiềm năng XNK nhằm ổn định, tăng trưởng nguồn vốn, mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng, phát huy thế mạnh về TTQT.
- Công tác đào tạo và quy hoạch cán bộ: Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ nhân viên cả về trình độ chuyên môn và trình độ quản lý tập trung vào các nghiệp vụ: Tín dụng, Thẩm định, Thanh toán quốc tế, Tin học, Ngoại ngữ và Pháp luật dưới các hình thức: tự đào tạo, đào tạo tại chỗ, mời giáo viên bên ngoài và giáo viên kiêm nhiệm; tạo điều kiện và khuyến khích cán bộ tự đào tạo theo các lớp học ngoài giờ; điều chuyển cán bộ giữa các phòng nghiệp vụ để có thực tiễn và chuyên môn tổng hợp, kể cả cán bộ quản lý; gắn công tác đào tạo với quy hoạch cán bộ, đảm bảo có đủ cán bộ cho các phòng nghiệp vụ và khi có yêu cầu về sắp xếp tổ chức hay mở rộng mạng lưới kinh doanh.
- Nâng cao trình độ và ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, phối hợp với trung tâm công nghệ thông tin hoàn thiện chương trình giao dịch một cửa, áp dụng thống nhất nối mạng với các chi nhánh, phòng giao dịch trực thuộc... để tạo cơ sở ứng dụng toàn ngành.
Tiếp tục củng cố, hoàn thiện và mở rộng mạng lưới theo định hướng đã được phê duyệt tại các địa điểm có điều kiện thuận lợi trong công tác huy động vốn. Bồi dưỡng, nâng cấp các phòng giao dịch hoạt động tốt, hiệu quả lên thành Chi nhánh cấp 2 để phát huy được những lợi thế so sánh trong hoạt động ngân hàng trong môi trường hiện nay.
Tích cực tìm kiếm các dự án đầu tư trung dài hạn an toàn, hiệu quả; vừa nhằm giữ ổn định tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn vừa tạo điều kiện để cung cấp khép kín các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng và mở rộng tín dụng ngắn hạn. Tiếp tục làm việc với các Bộ, ngành về dự án WB, ADB, ODA để được làm ngân hàng phục vụ giải ngân dự án.
- Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát quy trình nghiệp vụ kinh doanh một cách thường xuyên, uốn nắn, sửa chữa kịp thời những sai sót trong tác nghiệp; kiên quyết xử lý những trường hợp sai phạm nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh. Tiếp tục triển khai máy ATM, chương trình bán lẻ đến các chi nhánh cấp dưới và các phòng giao dịch.
- Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên để tổ chức tốt các phong trào thi đua. Khen thưởng, động viên kịp thời nhứng tập thể, cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua do Chi nhánh tổ chức hoặc các cá nhân có sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong nghiệp vụ kinh doanh...
3.1.3. Định hướng phát triển hoạt động TTQT theo phương thức TDCT của chi nhánh.
Từ những kết quả đạt được trong 4 năm qua, hoạt động TTQT nói chung và thanh toán TDT nói riêng của NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã chứng tỏ là một hoạt động hiệu quả, xứng đáng là một trong những lĩnh vực kinh doanh trọng điểm, đóng góp không nhỏ vào thành tích kinh doanh chung của toàn Chi nhánh.
Trong những năm tới, căn cứ vào xu hướng phát triển cũng như những điều kiện thuận lợi sẵn có, TTQT, mà đặc biệt là thanh toán TDCT tiếp tục được Ban lãnh đạo Chi nhánh xác định là một trong những nghiệp vụ được ưu tiên phát triển theo hướng sau:
- Xác định TDCT là phương thức thanh toán chủ đạo trong TTQT tại Chi nhánh, do đó phấn đấu tăng nguồn thu phí dịch vụ cũng như tăng doanh số thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức TDCT là mục tiêu quan trọng của Chi nhánh.
- Tập trung đẩy mạnh thanh toán xuất khẩu theo phương thức L/C nhằm cân bằng thu chi ngoại tệ.
- Nâng cao chất lượng nghiệp vụ của TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng, đó là việc thực hiện chính xác yêu cầu của nghiệp vụ và yêu cầu của khách hàng trong một khoảng thời gian nhanh nhất.
- Chuyên môn hoá các khâu trong quá trình thanh toán TDCT, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo tính an toàn, hiệu quả cho hoạt động TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng.
- Coi trọng công tác tiếp thị, mở rộng mạng lưới khách hàng thanh toán theo phương thức TDCT, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu.
- Bố trí cán bộ có trình độ, khả năng giao tiếp tốt và giỏi ngoại ngữ để tăng cường tư vấn, tiếp thị cho khách hàng cũng như xử lý nghiệp vụ TTQT hiệu quả.
3.2. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG THANH TOÁN THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT NAM HÀ NỘI.
Như ta đã biết, thanh toán TDCT là phương thức thanh toán quan trọng nhất đối với chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội nói riêng và với các NHTM nói chung. Vì vậy, việc hạn chế rủi ro trong phương thức này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc nâng cao uy tín của Ngân hàng trên trường quốc tế cũng như tạo ưu thế cạnh tranh đối với thị trường trong nước. Qua đánh giá thực tế rủi ro trong TTQT bằng phương thức TDCT tại chi nhánh, có thể thấy rằng bên cạnh những thành tích đạt được vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế. Để nâng cao chất lượng nghiệp vụ thanh toán TDCT, cần có một số biện pháp khắc phục những mặt hạn chế trên.
3.2.1. Giải pháp hạn chế rủi ro bên ngoài.
3.2.1.1. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng.
Như trên đã phân tích, những rủi ro kỹ thuật do sai sót trong khâu lập chứng từ trong phương thức TDCT tại ngân hàng bắt nguồn chủ yếu từ khách hàng, nguyên nhân là sự hạn chế về kiến thức, về kinh nghiệm trong lĩnh vực ngoại thương của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tài chính cũng như uy tín của ngân hàng. Chính vì thế, chi nhánh cần tích cực hơn nữa trong vai trò tư vấn cho khách hàng nhằm giảm thiểu rủi ro do nguyên nhân này gây nên.
Đối với khách hàng là người nhập khẩu, ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng phát hành nên cần phải tư vấn cho khách hàng về những vấn đề như: nên lựa chọn loại thư tín dụng nào cho phù hợp, để đảm bảo quyền lợi cho người nhập khẩu; trong thư tín dụng nên đưa những điều khoản nào cho hợp lý; khi mở cũng như sửa đổi L/C cần chấp nhận những yêu cầu gì của bên xuất khẩu để không tổn hại đến lợi ích của mình; thời gian mở L/C như thế nào là phù hợp nhất để hạn chế thời gian ký quỹ mà vẫn đảm bảo đúng hợp đồng... Những tư vấn của ngân hàng cho khách hàng về các điều kiện trong hợp đồng ngoại thương hay trong L/C nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho người nhập khẩu, tránh hiện tượng người bán giao hàng thiếu hay giao hàng không đúng quy định, đồng thời các điều khoản cũng phải tạo điều kiện cho người bán hoàn thành được nghĩa vụ của mình, để việc thanh toán diễn ra suôn sẻ, tránh được rủi ro cho các bên cũng như cho bản thân ngân hàng.
Đối với khách hàng là người xuất khẩu, với tư cách là ngân hàng thông báo, chiết khấu bộ chứng từ, chi nhánh cần tư vấn cho khách hàng từ khâu ký kết hợp đồng ngoại thương, nên đồng ý với những điều khoản nào trong L/C, còn những điều khoản nào cần chỉnh sửa hay bác bỏ do gây bất lợi cho người xuất khẩu trong việc giao hàng hay lập chứng từ... Ngân hàng cũng cần phải hướng dẫn cho khách hàng trong việc chuẩn bị bộ chứng từ hoàn hảo để xuất trình cho ngân hàng phát hành, tránh trường hợp nhà nhập khẩu từ chối thanh toán do thiếu thiện chí đồng thời trừ phí sai sót gây khó khăn cho khách hàng xuất khẩu, từ đó có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, đặc biệt trong trường hợp ngân hàng đã thực hiện chiết khấu bộ chứng từ.
Công tác tư vấn cho khách hàng được thực hiện có hiệu quả sẽ tạo cơ hội cho ngân hàng cải thiện mối quan hệ với khách hàng, đảm bảo quyền lợi cho khách hàng cũng có nghĩa là đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
3.2.1.2. Duy trì mối quan hệ thường xuyên, lâu bền với khách hàng.
Có thể thấy ngay rằng, thiết lập mối quan hệ tốt và lâu dài với khách hàng sẽ tạo ra sự gắn bó chặt chẽ và có lợi cho cả Ngân hàng và khách hàng. Để đạt được điều đó, Ngân hàng cần phải tiếp xúc thường xuyên với khách hàng, ngoài việc tư vấn trực tiếp cho khách hàng đến giao dịch, Ngân hàng nên tổ chức các buổi hội thảo, gặp gỡ các khách hàng đang sử dụng dịch vụ của Ngân hàng và cả những khách hàng tiềm năng để trao đổi kinh nghiệm, phổ biến quy trình kỹ thuật nghiệp vụ hay các quy định mới có liên quan đến TTQT, hoạt động xuất nhập khẩu... cũng như nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp.
Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng khi được cải thiện sẽ giúp cho Ngân hàng đánh giá đúng chất lượng khách hàng, là cơ sở để Ngân hàng tiết kiệm được chi phí cho việc thẩm định, sàng lọc thông tin cũng như các chi phí giám sát khách hàng. Do tiết kiệm được nguồn chi phí đó, Ngân hàng có thể hạ lãi suất cho vay nói chung và giảm được tỷ lệ phí dịch vụ nói riêng, điều đó sẽ cuốn hút được khách hàng, làm khách hàng gắn bó hơn với Ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng cũng có thể khai thác được những nhu cầu tiềm năng của khách hàng, đồng thời khắc phục những hạn chế bất cập trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, tạo nên sức cạnh tranh cho Ngân hàng.
Như vậy, duy trì mối quan hệ thường xuyên, lâu bền với khách hàng sẽ giúp cho Ngân hàng có điều kiện nắm vững các thông tin liên quan đến khách hàng, từ đó có đối sách thích hợp để hạn chế những rủi ro có nguyên nhân từ phía khách hàng, đồng thời có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh.
3.2.1.3. Mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài.
Trong thời gian qua, Ngân hàng đã có mối quan hệ đại lý với nhiều Ngân hàng lớn, có uy tín trên thế giới. Nhưng với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ như hiện nay, thị trường của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không ngừng được mở rộng sang các nước và các khu vực mới, do vậy, Chi nhánh cần tiếp tục mở rộng mạng lưới đại lý của mình nhằm đáp ứng được nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Tuy nhiên, mạng lưới đại lý chỉ thực sự phát huy hiệu quả của nó khi giữa các Ngân hàng có sự liên hệ thường xuyên, thường xuyên cung cấp thông tin và giao dịch. Bởi thực chất quan hệ đại lý là quan hệ giữa một Ngân hàng với một Ngân hàng nước ngoài trong việc làm đại lý TTQT cho nhau trên cơ sở hai bên cùng có lợi, hai bên sẽ trao đổi các tài liệu mật để phục vụ các giao dịch như mẫu chữ ký, mật mã Telex, mã SWIFT... Trong TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng, hệ thống mạng lưới Ngân hàng đại lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc triển khai có hiệu quả nghiệp vụ này, đặc biệt nhằm hạn chế các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình lập chứng từ hay đòi tiền các Ngân hàng có liên quan. Chính vì thế, việc thiết lập và mở rộng quan hệ đại lý với Ngân hàng các nước cả về số lượng và chất lượng có ý nghĩa chiến lược để phát triển nghiệp vụ thanh toán TDCT tại Chi nhánh.
3.2.1.4. Tăng cường công tác đào tạo nghiệp vụ cho các cán bộ TTQT.
Theo nhu cầu phát triển của nền kinh tế ngày nay, việc tổ chức, đào tạo cán bộ trong công tác tổ chức của Ngân hàng nói chung ngày càng trở nên quan trọng, cần phải được thực hiện một cách liên tục và có hệ thống. Trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng mà đặc biệt là trong nghiệp vụ TTQT đòi hỏi đội ngũ cán bộ không chỉ thông thạo về kỹ thuật nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ, nắm vững pháp luật cũng như am hiểu các thông lệ TTQT và tập quán thương mại giữa các nước, thường xuyên cập nhật các tin tức thời sự trong nước và thế giới để có thể kịp thời xử lý các nghiệp vụ trong mọi tình huống mà còn phải có tư cách đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao và có kinh nghiệm trong TTQT.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, công tác đào tạo và tập huấn nghiệp vụ TTQT của Ngân hàng trong thời gian qua hết sức được chú trọng. Hầu hết các cán bộ đều được tham gia các lớp bồi dưỡng tập huấn về nghiệp vụ, ngoại ngữ, đồng thời Ngân hàng cũng tổ chức các lớp phổ biến nghiệp vụ TTQT tới toàn bộ cán bộ trong Ngân hàng. Nhờ vậy, hiện nay Ngân hàng đã có một đội ngũ cán bộ TTQT trẻ, năng động, nhiệt tình, có trình độ chuyên môn cao, làm việc nghiêm túc và có tinh thần trách nhiệm. Tuy nhiên, làm việc trong môi trường kinh doanh quốc tế phức tạp, luôn luôn biến động và có nhiều bất trắc nên rủi ro có thể nảy sinh bất cứ lức nào. Chính vì thế, các cán bộ cần không ngừng học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm, tự trau dồi, hoàn thiện chuyên môn và đạo đức. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng cần phải tiếp tục đầu tư một cách hiệu quả vào công tác đào tạo đội ngũ cán bộ thông qua các hình thức chủ yếu sau:
- Nâng cao trình độ chung của cán bộ TTQT thông qua việc tuyển chọn đội ngũ cán bộ trẻ, được đào tạo chính quy, có trình độ ngoại ngữ và vi tính đạt yêu cầu, am hiểu về lĩnh vực ngoại thương, đồng thời có sự bố trí sắp xếp, quản lý sử dụng cán bộ phù hợp để phát huy được năng lực, sở trường của từng cán bộ; ngoài ra, chi nhánh cũng cần chú trọng đến việc thường xuyên bồi dưỡng tư tưởng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp, chống tư tưởng cơ hội thực dụng cho đội ngũ cán bộ để thực sự mang lại chất lượng, hiệu quả cao trong công tác và ngăn ngừa rủi ro xảy ra.
- Thường xuyên cử cán bộ đi học tập, nâng cao về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ trong và ngoài nước để có thể học hỏi các kinh nghiệm của các quốc gia và các Ngân hàng khác, từ đó đào tạo có trọng điểm đội ngũ cán bộ tiêu chuẩn đáp ứng được các nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng trong tương lai.
- Tổ chức tập huấn nội bộ, định kỳ mở các lớp đào tạo nghiệp vụ, bổ sung kiến thức, công nghệ mới và cập nhật các quy định, luật pháp của Nhà nước về xuất nhập khẩu cho cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ TTQT nói riêng. Ngoài ra, Chi nhánh cũng nên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề để trao đổi kinh nghiệm về các nghiệp vụ có liên quan như ngoại thương, bảo hiểm, vận tải...
- Tổ chức đào tạo tại chỗ thông qua việc mời các chuyên gia trong và ngoài nước về TTQT, thanh toán TDCT giảng dạy để đội ngũ cán bộ Ngân hàng có điều kiện trau dồi cả về chuyên môn và ngoại ngữ.
- Ngân hàng cũng cần có chính sách ưu đãi để thu hút nhân tài, có chế độ lương, thưởng xứng đáng với những cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, có sáng kiến đóng góp hiệu quả cho việc cải thiện quy trình nghiệp vụ, thu hút khách hàng... Bên cạnh đó, cũng phải có những biện pháp xử phạt nghiêm minh tuỳ theo mức độ đối với những cán bộ có sai phạm.
3.2.2. Giải pháp hạn chế rủi ro bên trong.
3.2.2.1. Xây dựng chính sách lãi suất và phí dịch vụ hợp lý.
Việc phân loại khách hàng chính là cơ sở để ngân hàng xây dựng chính sách hợp lý về lãi suất và phí dịch vụ, để có chính sách ưu đãi cụ thể về vật chất cho từng nhóm khách hàng, phù hợp với chiến lược kinh doanh trong từng thời kỳ của ngân hàng. Ví dụ như đối với những khách hàng truyền thống, khách hàng có uy tín và giao dịch thường xuyên với ngân hàng... có thể được giảm phí dịch vụ, giảm mức ký quỹ L/C hay được ưu tiên trong việc cung ứng ngoại tệ... căn cứ vào tình hình hoạt động kinh doanh ở từng thời kỳ cụ thể.
Ngoài ra, ngân hàng cũng cần phải giữ vững và ngày càng nâng cao cơ chế chăm sóc khách hàng như có phong cách phục vụ tận tình, thái độ giao tiếp văn minh lịch sự... nhằm duy trì khách hàng truyền thống, phát triển khách hàng mới cả về số lượng và chất lượng, mang lại nhiều lợi ích như tạo được sự hấp dẫn của ngân hàng đối với khách hàng mới thông qua sự quảng bá và các mối quan hệ của khách hàng, tăng cường khả năng thấu hiểu và thoả mãn mong muốn của khách hàng, còn khách hàng có điều kiện sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng hơn thông qua sự tư vấn của nhân viên ngân hàng.
Tóm lại, do đặc điểm hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc vào khách hàng nên sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng là tuỳ thuộc vào khách hàng. Xây dựng được những chính sách khách hàng hiệu quả vừa giúp ngân hàng phòng tránh, hạn chế rủi ro có thể xảy ra, vừa nâng cao hình ảnh của Ngân hàng và giúp cho ngân hàng có những khả năng cạnh tranh cần thiết trên thị trường.
3.2.2.2. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đánh giá và phân loại khách hàng.
Thẩm định và đánh giá khách hàng là một công tác hết sức quan trọng khi ngân hàng quyết định cho vay hay bảo lãnh mở L/C, nhằm giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro tín dụng từ phía khách hàng. Để công tác thẩm định được thực hiện một cách hiệu quả, Ngân hàng cần phải thu thập thông tin đầy đủ về khách hàng. Bởi vì thẩm định khách hàng không chỉ dựa vào việc phân tích đánh giá năng lực tài chính, công nợ của khách hàng, hay phân tích phương án kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ, tình trạng cũng như giá trị tài sản thế chấp, cầm cố và mặt hàng nhập khẩu của khách hàng mà ngân hàng còn phải đặc biệt quan tâm đến tư cách của khách hàng mở L/C cũng như đối tác nước ngoài của khách hàng. Trên cơ sở những thông tin thu thập được một cách chính xác, đầy đủ, Chi nhánh mới có thể đưa ra những quyết định đúng đắn cho việc mở L/C với những điều kiện cụ thể phù hợp với ngân hàng, vừa đảm bảo an toàn trong thanh toán vừa đảm bảo thực hiện đuợc chính sách khách hàng.
Việc xác định khách hàng theo các phân nhóm của ngân hàng trong thanh toán TDCT là việc làm thường xuyên và bắt buộc để có chính sách thích hợp khuyến khích, ưu đãi phù hợp với từng đối tượng khách hàng về lãi suất, mức ký quỹ, mức phí... cũng như quản lý khách hàng có hiệu quả khi ngân hàng tiến hành cho vay hay bảo lãnh mở L/C. Khi ngân hàng cho khách hàng vay để thanh toán L/C thì có thể khách hàng hoàn trả vốn và lãi theo đúng cam kết, nhưng cũng có những trường hợp khách hàng không hoàn trả được món vay do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Chính vì thế, ngân hàng cần phải có phương pháp phân loại để lựa chọn khách hàng khi cho vay hoặc bảo lãnh L/C, nhằm hạn chế tối đa những rủi ro cho ngân hàng, đặc biệt là rủi ro đạo đức.
3.2.2.3. Tăng cường công tác giám sát các khoản cho vay, bảo lãnh cho khách hàng.
Sau khi thẩm định, phân tích phương án kinh doanh của khách hàng, ngân hàng quyết định thực hiện bảo lãnh, cho vay để khách hàng thanh toán L/C hoặc chiết khấu bộ chứng từ cho khách hàng thì ngân hàng lại phải tiếp tục tăng cường công tác giám sát, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng để tránh trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, bên cạnh việc ngân hàng theo dõi sát sao hoạt động nhập khẩu của khách hàng, tình hình thanh toán hàng hoá giữa người mua và người bán có xảy ra tranh chấp hay không, theo dõi sự biến động của giá cả hàng hoá, ngân hàng còn phải xem xét, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh hàng tháng, hàng quý, theo dõi nguồn thu cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, khi chi nhánh tiến hành chiết khấu bộ chứng từ để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng sản xuất kinh doanh cũng như để tăng sức cạnh tranh của Ngân hàng thì để đảm bảo cho sự an toàn của mình, ngân hàng cần phải thường xuyên theo dõi tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt có phương pháp kiểm tra xem doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn có đúng như thoả thuận hay không, đồng thời có kế hoạch thu nợ ngay khi lô hàng được xuất khẩu...
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các khoản cho vay, bảo lãnh để ngân hàng có những biện pháp xử lý kịp thời khi khách hàng có nguy cơ không trả được nợ như thu hồi tài sản thế chấp, cầm cố... Điều đó cũng có nghĩa là một mặt ngân hàng đã chủ động nhằm giảm thiểu một cách tối đa những rủi ro có thể xảy ra cho hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của ngân hàng, mặt khác vẫn đảm bảo sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
3.2.2.4. Hoàn thiện, chuẩn hoá quy trình thanh toán TDCT.
* Nghiêm túc tuân thủ các quy định của UCP 600 đã được dẫn chiếu trong L/C.
UCP 600 mặc dù chỉ là những quy định được soạn thảo bởi Phòng Thương mại Quốc tế (Paris) nhưng lại được coi là luật quốc tế trong giao dịch TDCT và được chấp thuận rộng rãi nhất trên toàn thế giới hiện nay. Do đó, việc áp dụng UCP 600 là một lựa chọn cần thiết cho các bên tham gia phương thức TDCT, đó là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh.
Khi tham gia thanh toán theo phương thức TDCT, ngân hàng nói riêng và các bên tham gia nói chung cần phải tuân thủ chặt chẽ các quy định mà UCP 600 đã dẫn chiếu. Nội dung của L/C cũng phải bao gồm đầy đủ các khoản mục cần thiết theo tinh thần của UCP. Những giao dịch hay sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc thanh toán L/C đều phải thực hiện đúng quy định và quy trình.
* Tiếp tục duy trì và cải tiến mức ký quỹ hợp lý.
Có thể thấy rằng, mức ký quỹ của khách hàng càng cao thì nguy cơ đối mặt với rủi ro của ngân hàng càng thấp và ngược lại. Nhưng trên thực tế, ngân hàng chỉ yêu cầu ký quỹ 100% đối với những khách hàng mới giao dịch lần đầu hoặc không có uy tín với ngân hàng. Đây chính là một nguyên tắc của ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn trong thanh toán, tránh được các rủi ro về tỷ giá, rủi ro tín dụng đồng thời vẫn thu hút được nhiều khách hàng trên địa bàn. Trong thời gian qua, chi nhánh đã áp dụng một định mức ký quỹ tương đối hợp lý để đảm bảo cả hai mục tiêu trên nên cần tiếp tục được duy trì, đồng thời chi nhánh cũng cần nghiên cứu những biến động của thị trường nhằm đưa ra những quy định mới về mức ký quỹ linh hoạt và hiệu quả hơn, dựa trên các tiêu chí cơ bản như:
- Khả năng thanh toán của khách hàng.
- Uy tín của khách hàng đối với ngân hàng.
- Khả năng tiêu thụ của sản phẩm: căn cứ vào chất lượng, giá cả, thị trường tiêu thụ... của hàng hoá.
* Đa dạng hoá các loại L/C.
Hiện nay, các loại thư tín dụng được sử dụng trong TTQT theo quy định của ICC khá đa dạng và mỗi loại đều có những điểm ưu việt riêng. Tuy nghiệp vụ thanh toán TDCT của chi nhánh ngày càng phát triển nhưng chỉ áp dụng loại thư tín dụng không huỷ ngang là chủ yếu, còn các loại L/C khác như L/C chuyển nhượng, L/C tuần hoàn... chỉ được sử dụng rất hạn chế. Chính vì thế, ngân hàng nên đa dạng hoá các loại thư tín dụng để các khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn, tận dụng được những ưu điểm vốn có của từng loại L/C cụ thể phù hợp nhất với đặc thù ngành nghề kinh doanh, tính chất và đặc điểm giao dịch... của doanh nghiệp để quy trình thanh toán diễn ra một cách suôn sẻ, mang lại hiệu quả kinh doanh cho khách hàng cũng như nâng cao vị thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Đối với L/C trả chậm, trong điều kiện sản xuất trong nước còn chưa đáp ứng đựoc nhu cầu tiêu dùng, nguyên vật liệu sản xuất chủ yếu được nhập từ nước ngoài, nguồn vốn của doanh nghiệp còn hạn hẹp thì nhập hàng trả chậm là một yếu tố tất yếu của nề kinh tế. Do đó, khi mở loại L/C này, ngân hàng cần phải thẩm định kỹ lưỡng về nguồn vốn, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tình hình tiêu thụ trong nước của mặt hàng nhập khẩu... Đây là biện pháp vừa nhằm tài trợ cho sản xuất trong nước, vừa nhằm hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh hàng nhập khẩu của ngân hàng.
* Đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu.
Để phát triển và mở rộng nghiệp vụ TTQT của mình, tránh hiện tượng bị lấn sân bởi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đòi hỏi ngân hàng phải tích cực đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp. Việc tạo điều kiện thuận lợi về mặt tài chính cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là công cụ sắc bén giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh trong đàm phán thương mại quốc tế, tạo cho họ thế chủ động giành lấy những điều khoản thanh toán phù hợp và hiệu quả nhất, qua đó Ngân hàng cũng có thể thực hiện tốt nhiệm vụ thanh toán của mình, đồng thời tránh được những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động thanh toán đó.
- Hoạt động tài trợ xuất khẩu: chủ yếu là việc chiết khấu bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu nhưng tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội hiện nay, nghiệp vụ này còn rất hạn chế. Để hoạt động này hiệu quả hơn cũng như tránh được những rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng, chi nhánh nên xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố có liên quan như bộ chứng từ, khả năng trả nợ của nhà xuất khẩu nếu bộ chứng từ không được thanh toán, uy tín của ngân hàng phát hành, tình hình biến động kinh tế, chính trị của nước nhập khẩu... Tăng cường nghiệp vụ này cũng là cơ hội để ngân hàng cải thiện tình trạng mất cân đối trong thu chi ngoại tệ, đồng thời góp phần thu hút nhiều khách hàng xuất khẩu hơn cho chi nhánh. Ngoài ra, hoạt động tài trợ xuất khẩu còn bao gồm nghiệp vụ cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu, ứng trước tiền hàng...
- Hoạt động tài trợ nhập khẩu: đó là hoạt động ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng mở L/C nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài. Để đảm bảo uy tín cho ngân hàng cũng như tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng được thuận lợi, chi nhánh nên thực hiện cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức. Và trước khi quyết định cho khách hàng vay để thanh toán, ngân hàng cần thẩm định kỹ lưỡng đối tượng khách hàng để tránh gặp rủi ro.
* Giải pháp về nguồn ngoại tệ để thanh toán L/C.
Hiện nay, NHNo & PTNT Việt Nam quy định số dư tài khoản ngoại tệ tối đa tại các chi nhánh là thấp làm cho ngân hàng nhiều khi rơi vào tình trạng thiếu hụt ngoại tệ để thanh toán cho những L/C giá trị lớn. Để tránh khỏi tình trạng đó, chi nhánh cần kiến nghị với ban tổng giám đốc NHNo cho phép có quyền chủ động hơn trong các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, chẳng hạn như cho phép chi nhánh mua bán ngoại tệ với các ngân hàng khác ngoài hệ thống để có thể chủ động trong việc cân đối thu chi ngoại tệ tại ngân hàng nhưng để tránh gặp phải rủi ro, NHNo cũng cần thiết lập một quy định cụ thể giới hạn trạng thái ngoại tệ căn cứ vào thực tế doanh số TTQT tại chi nhánh. Ngoài ra, chi nhánh cũng cần đẩy mạnh công tác tiếp thị và có những chính sách phù hợp để thu hút nhiều hơn các khách hàng xuất khẩu nhằm tăng lượng ngoại tệ, tiến tới cân bằng ngoại tệ thu vào và thanh toán ra nước ngoài.
* Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của chi nhánh.
Cho đến nay, mặc dù ngân hàng luôn thực hiện công tác điều hành và thực hiện các quy chế, kế hoạch của NHNo & PTNT Việt Nam một cách nghiêm túc nhưng dường như công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của chi nhánh mới chỉ dừng lại ở mức kiểm tra về quy trình nghiệp vụ thanh toán trong nước, trong khi việc kiểm tra những sai sót trong TTQT nói chung còn khá hạn chế. Trong thời gian tới, để tăng cường chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong thanh toán TDCT nói riêng, chi nhánh cần sử dụng những biện pháp hữu hiệu như: lựa chọn đội ngũ cán bộ tham gia kiểm tra, kiểm soát phải có trình độ, nghiệp vụ ngân hàng chuyên sâu, am hiểu pháp luật, có phẩm chất đạo đức... để hoạt động kiểm soát đạt hiệu quả cao, không mang tính hình thức; phát hiện và uốn nắn kịp thời những sai phạm, nâng cao nhận thức toàn diện cho cán bộ kiểm tra; hợp tác nâng cao tinh thần cảnh giác với các vụ lừa đảo quốc tế...
3.2.2.5. Hiện đại hoá công nghệ thanh toán qua ngân hàng.
Ngày nay, máy móc hiện đại đang dần dần thay thế sức lao động của con người, nâng cao năng suất lao động, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả, tiết kiệm hơn. Và khoa học công nghệ hiện đại được coi là một nhân tố không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ Ngân hàng nói riêng. Đặc biệt, đối với TTQT, là một lĩnh vực luôn luôn đòi hỏi sự an toàn, chính xác, nhanh chóng... trong thanh toán, thì công nghệ khoa học lại càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, mà đặc biệt là công nghệ thông tin trên thế giới hiện nay đang mở ra những cơ hội thuận lợi cho các NHTM trong chiến lược hiện đại hoá ngân hàng.
Nhận thức được vai trò và tính thiết yếu của khoa học công nghệ, chi nhánh đã có những đầu tư đáng kể vào việc trang bị máy tính, nối mạng máy tính với sở giao dịch và với các chi nhánh, phòng giao dịch, đi đôi với việc phát triển các phần mềm về giao dịch, thanh toán liên hàng và thanh toán quốc tế... Tuy nhiên, cùng với sự khó khăn của đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, ngành khoa học kỹ thuật công nghệ của nước ta mà đặc biệt là công nghệ ngân hàng vẫn còn có một khoảng cách khá xa so với mặt bằng thế giới, công nghệ thanh toán của chi nhánh vẫn có những hạn chế nhất định. Đó là sự quá tải của phần mềm SWIFT nội bộ của NHNo, không còn đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng mạnh như hiện nay. Hơn nữa, việc thanh toán qua đầu mối duy nhất là sở giao dịch cũng làm giảm tính chủ động trong TTQT của chi nhánh.
Chính vì vậy, chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội cần có kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam nhanh chóng nghiên cứu và ứng dụng phần mềm mới để đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngày một tăng cũng như giảm bớt những rủi ro do lỗi mạng gây nên khi chuyển điện. Đồng thời, chi nhánh cũng nên đề nghị NHNo cho phép được tiến hành thanh toán trực tiếp với nước ngoài nhằm tạo tính chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, cũng cần sớm hoàn thiện mạng nội bộ giữa các Chi nhánh với Hội sở chính, với trung tâm phòng ngừa rủi ro để có thể thường xuyên cập nhật những thông tin mới nhất, trên cơ sở đó có các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro...
Công nghệ được hiện đại hoá sẽ tiết kiệm được chi phí dịch vụ, giá rẻ, đẩy mạnh tốc độ lưu thông vốn và lưu chuyển tiền tệ, tập trung và sử dụng hiệu quả vốn trong kinh doanh, mang lại lợi ích cho cả khách hàng lẫn Ngân hàng. Như vậy, khoa học công nghệ chính là một nhân tố không thể thiếu tạo nên sức cạnh tranh cho ngân hàng.
3.2.2.6. Xây dựng các chiến lược Marketing phù hợp với chi nhánh.
Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường như hiện nay, để có thể giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường thì việc xây dựng một chiến lược Marketing hiệu quả, phù hợp với thực tế là một đòi hỏi thiết yếu đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp nói chung và với các NHTM nói riêng. Một chiến lược Marketing hiệu quả là một chiến lược mà các chính sách về sản phẩm, giá cả, khách hàng... được xây dựng một cách đồng bộ, có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau để đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng cũng như mang lại lợi nhuận cao nhất cho Ngân hàng. Có thể nói rằng, nghiên cứu và thực hiện được một cách tổng hợp, đồng bộ và hiệu quả các chính sách Marketing phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn phát triển cụ thể của cgân hàng cũng có nghĩa là cgân hàng đã thực hiện được các giải pháp hữu hiệu để một mặt nâng cao hiệu quả kinh doanh và mặt khác, góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của cgân hàng nói chung và trong TTQT nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó của Marketing, trong thời gian qua, Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã có những chiến lược nhằm thu hút khách hàng như tuyên truyền quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hay thực hiện các chương trình khuyến mại hấp dẫn, cung cấp các dịch vụ có chất lượng cao... Tuy nhiên, các chiến lược này mới được thực hiện một cách riêng biệt mà chưa có sự phối hợp đồng bộ nên hiệu quả chưa cao. Hơn nữa, chi nhánh vẫn chưa có bộ phận chuyên trách về Marketing mà chỉ có tổ bộ phận về quan hệ khách hàng. Vì vậy, trong thời gian tới, đặc biệt để nâng cao doanh số thanh toán cũng như hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán TDCT, ngân hàng nên có sự tập trung xây dựng một chiến lược kinh doanh với các chính sách về sản phẩm, giá cả, phân phối, khuếch trương và chính sách khách hàng phù hợp theo hướng:
* Chính sách sản phẩm và giá cả.
Chi nhánh nên mở rộng và đa dạng hoá các loại thư tín dụng để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế, song song với đó là công tác tư vấn cho khách hàng về tính năng, tác dụng của từng loại để khách hàng có sự lựa chọn đúng đắn, hạn chế được các rủi ro thường gặp và thu hút được nhiều khách hàng hơn. Cùng với việc đưa ra các sản phẩm mới thì việc thực hiện nhanh chóng, chính xác quy trình nghiệp vụ cũng là một vấn đề hết sức quan trọng.
Còn đối với chính sách giá cả, do ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên giá cả được biểu hiện chủ yếu dưới dạng lãi suất các khoản tiền gửi, tiền vay... Riêng trong TTQT, giá cả chính là các khoản thu phí thực hiện nghiệp vụ, do đó, ngân hàng cần xây dựng một biểu phí hợp lý để vừa có tác dụng thu hút khách hàng đến với Ngân hàng vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả.
* Chính sách phân phối.
Trước hết, ngân hàng cần xem xét mật độ dân cư trên địa bàn, tình hình kinh tế của dân cư có phù hợp với những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp không để bố trí mạng lưới chi nhánh cho phù hợp và hiệu quả.
Thêm vào đó, chi nhánh cũng cần thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, sự biến động của thị trường để nắm bắt được tâm lý, thấy được những khó khăn của khách hàng để có những ứng xử đúng đắn.
Ngoài ra, việc phân loại khách hàng theo từng đối tượng khách hàng truyền thống hay khách hàng mới cũng phải thường xuyên thực hiện để có các chính sách phù hợp, đảm bảo quy trình thanh toán có hiệu quả và tránh được rủi ro.
* Chính sách quảng cáo khuếch trương .
Mục tiêu của chính sách này là tuyên truyền rộng rãi làm cho khách hàng hiểu rõ về các hoạt động, dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp nói chung và về nghiệp vụ thanh toán TDCT nói riêng. Đây là một dịch vụ đã trở nên khá phổ biến trong TTQT, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi tham gia thương mại quốc tế đều có ít nhiều sự hiểu biết về lĩnh vực này. Do đó, Chi nhánh có thể giới thiệu trực tiếp với khách hàng những điểm ưu việt trong thanh toán TDCT so với các Ngân hàng khác thông qua đội ngũ thanh toán viên trong quá trình giao dịch. Và trong quá trình đó, thanh toán viên cũng cần ghi chép lại những vướng mắc, sai sót mà khách hàng thường gặp để báo cáo cho Ban lãnh đạo, tìm cách hạn chế những sai sót, nhằm góp phần cải thiện chất lượng thanh toán.
* Chính sách khách hàng.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, bất cứ một ngành nghề kinh doanh nào cũng tồn tại rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Trước sức ép của một hệ thống Ngân hàng đa dạng, phức tạp, để có thể tồn tại và phát triển, NHNo & PTNT Nam Hà Nội cần phải chủ động tìm kiếm khách hàng và thiết lập quan hệ chặt chẽ với khách hàng của mình.
Hiện nay, ngân hàng đảm bảo thực hiện phục vụ khách hàng ở tất cả các khâu. Cụ thể trong thanh toán xuất nhập khẩu, chi nhánh không chỉ đóng vai trò là Ngân hàng phát hành hay trung gian thanh toán, mà còn có thể cho vay, chiết khấu chứng từ để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh... Chính điều đó đã gắn bó lợi ích của Ngân hàng với khách hàng, rủi ro của khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến Ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng phải luôn thận trọng trong việc xử lý nghiệp vụ, đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng trong tất cả các khâu từ ký kết hợp đồng đến thanh toán. Chỉ khi nào ngân hàng coi lợi ích của khách hàng thực sự là lợi ích của ngân hàng thì ngân hàng mới trở nên tin cậy đối với khách hàng và giữ được mối quan hệ bền vững, lâu dài với khách hàng.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG THANH TOÁN TDCT TẠI NHNO & PTNT NAM HÀ NỘI.
3.3.1. Kiến nghị đối với nhà nước, chính phủ.
Từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách kinh tế, chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ quản lí tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN cho đến nay thì nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ trong nhiều lĩnh vực, đời sống nhân dân cũng từng bước được cải thiện.
Ngày nay, xu thế quốc tế hoá toàn cầu hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ đã và đang đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức to lớn. Lúc này, định hướng của nhà nước lại càng trở nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết nhằm đưa đất nước phát triển theo đúng định hướng XHCN. Chính vì vậy, TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng rất cần đến những chính sách trực tiếp cũng như các chính sách hỗ trợ phù hợp để ngày càng mở rộng, phát triển đồng thời hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra cho các ngân hàng, cho các đơn vị xuất nhập khẩu.
3.3.1.1. Xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động TTQT và thanh toán TDCT của các NHTM.
Hiện nay, TTQT có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong kinh tế đối ngoại nói riêng. Có thể nói rằng, nếu không có TTQT thì kinh tế đối ngoại không phát triển hay chỉ phát triển trong phạm vi hẹp và mức độ nhỏ. Tuy nhiên, do các chủ thể tham gia TTQT ở các nước khác nhau nên cũng có sự khác nhau về luật pháp, văn hoá, phong tục... Do đó, việc thực hiện TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng phải tuân theo các quy tắc chung do Phòng thương mại quốc tế ban hành, đồng thời cũng phải chịu sự chi phối của luật pháp của từng nước có chủ thể tham gia.
Trong những năm qua, cùng với kim ngạch xuất nhập khẩu, hoạt động TTQT ở nước ta đã có sự tăng trưởng mạnh, tạo lập được uy tín trên thị trường quốc tế. Nhưng bên cạnh đó, các tranh chấp thương mại cũng phát sinh ngày càng nhiều và phức tạp, từ đó dẫn đến nguy cơ xảy ra rủi ro cho các NHTM và cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do Việt Nam chưa có quy định riêng về TTQT cũng như thanh toán TDCT trong một Bộ luật, Pháp lệnh hay Nghị định nào của chính phủ mà cho đến nay, các quy định của pháp luật về TTQT vẫn nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau nên chưa có sự thống nhất, chặt chẽ.
Trên thực tế, hoạt động thanh toán TDCT tại Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn được thực hiện theo quy định của UCP 600. Nhưng UCP 600 chỉ là một thông lệ quốc tế và trong mọi trường hợp vẫn phải tuân thủ luật pháp quốc gia, nên trong một số trường hợp, khi xảy ra tranh chấp giữa các bên có liên quan, giữa phía Việt Nam với phía nước ngoài thì phía Việt Nam sẽ phải chịu thiệt thòi; còn trong thường hợp xảy ra tranh chấp giữa các bên Việt Nam với nhau thì UCP 600 lại không thể thay thế được Luật quốc gia. Chính vì thế, việc ban hành những văn bản pháp luật quy định nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm của các bên có liên quan và hướng dẫn các giao dịch TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng một cách cụ thể của Nhà nước là hết sức cần thiết, nhưng vẫn phải đảm bảo sự tương quan với thông lệ quốc tế UCP 600.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần xây dựng và cụ thể hoá các văn bản luật điều chỉnh các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, đến TTQT như luật hối phiếu, quy chế quản lý ngoại hối, hay các chính sách thương mại liên quan đến biểu thuế, danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu... để quy trình thanh toán được tiến hành một cách hiệu quả, hạn chế được rủi ro.
3.3.1.2. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Trong những năm vừa qua, cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam luôn nằm trong tình trạng thâm hụt và khan hiếm ngoại tệ, gây khó khăn cho công tác TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng. Nguyên nhân của tình trạng này là do nước ta luôn ở trạng thái nhập siêu, sản xuất trong nước không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, nguyên vật liệu sản xuất chủ yếu được nhập từ nước ngoài trong khi số lượng hàng hoá xuất khẩu rất hạn chế, ngoài ra cũng do một nguyên nhân khác là đầu tư nước ngoài giảm. Để khắc phục tình trạng này, nhằm mục tiêu tăng trưởng ổn định và bền vững cho nền kinh tế, chính phủ cần thực hiện những giải pháp sau:
- Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu như chính sách thuế, chính sách về lãi suất cho vay để sản xuất hàng xuất khẩu, trợ giá cho những mặt hàng nông sản... nhằm tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm, tạo nên sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
- Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cần phải có biện pháp quản lý nhập khẩu, có chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được.
- Chính sách tỷ giá hối đoái mềm dẻo, linh hoạt nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu nhưng vẫn phải đảm bảo sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế, không gây nên những cú sốc lớn và làm thiệt hại đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
- Tiếp tục phát triển quan hệ thương mại với các nước trong khu vực, mở rộng thị trường truyền thống với các nước Đông Âu, duy trì và phát triển thị trường các nước Tây Âu... nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như tạo thị trường cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân Hàng Nhà Nước.
3.3.2.1. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường trao đổi, cung cấp ngoại tệ nhằm giải quyết các mối quan hệ về ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước với các Ngân hàng Thương mại và giữa các Ngân hàng Thương mại với nhau. Để các Ngân hàng có điều kiện mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và tài trợ ngoại thương nhằm phục vụ tốt cho hoạt động TTQT thì việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một yếu tố hết sức quan trọng. Hiện nay, khó khăn đối với các NHTM Việt Nam nói chung và NHNo & PTNT Nam Hà Nội nói riêng là tỷ trọng thanh toán hàng xuất chênh lệch qua nhiều so với hàng nhập nên tính trạng khan hiếm ngoại tệ thường xuyên xảy ra. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo hướng:
- Đa dạng hoá các loại ngoại tệ, các phương tiện thanh toán trên thị trường. Ngoài USD, các loại ngoại tệ khác như EUR, GBP, JPY... cũng cần tăng cường sử dụng. Và các nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, hối phiếu ngoại tệ cũng nên áp dụng để đáp ứng như cầu của khách hàng.
- Đa dạng hoá các hình thức thanh toán. Để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để có thể đa dạng hoá các hình thức thanh toán đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng như thu đổi séc du lịch, chiết khấu chứng từ có giá, thư tín dụng điện tử, nhờ thu bù trừ tự động..., cần tiến tới mở rộng và phát triển các nghiệp vụ hoán đổi (Swap), kỳ hạn (Forward), kỳ hạn (Option)... để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.
- Mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, ngoài NHNN, các NHTM quốc doanh, cần tạo điều kiện để các Ngân hàng cổ phần, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, các nhà môi giới, các tổ chức phi Ngân hàng tham gia để tạo tính sôi động cho thị trường.
3.3.2.2. Xây dựng chế độ tỷ giá linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ cụ thể.
Nói chung, việc điều chỉnh tỷ giá là một vấn đề hết sức nhạy cảm bởi nó không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động ngoại thương, hoạt động xuất nhập khẩu mà còn có tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Sau nhiều lần can thiệp của Ngân hàng Nhà nước vào chính sách tỷ giá, hiện nay, Việt Nam đang áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước. Trong điều kiện nước ta còn mới mở cửa, chưa thực sự hoà nhập với nền kinh tế thế giới thì đây được coi như một sự lựa chọn hợp lý nhất. Nhưng xét về lâu dài, vẫn cần đổi mới cơ chế điều chỉnh tỷ giá theo hướng tự do hoá dần. Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần phải có những bước đi hết sức thận trọng theo hướng:
- Xác định một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá rổ ngoại tệ mạnh, không nên neo giứ đồng Việt Nam vào dồng Đôla Mỹ; khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đa dạng hoá cơ cấu tiền tệ trong giao dịch thương mại.
- Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng quỹ dự trữ ngoại tệ cần thiết tương ứng với nhịp độ phát triển kim ngạch xuất nhập khẩu, mục đích của quỹ này là có thể can thiệp kịp thời vào thị trường hối đoái quốc tế khi tỷ giá trong nước có sự biến động nhằm giữ ổn định đồng tiền, giảm tối đa những tác động xấu đến nền kinh tế.
- Số liệu tổng hợp của các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất, thực trạng cán cân thanh toán... phải chính xác, rõ ràng nhằm giúp Nhà nước lựa chọn phương thức điều chỉnh tỷ giá thích hợp.
3.3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra ngân hàng.
Trong thời gian qua, công tác thanh tra Ngân hàng đã đạt được những kết quả rất quan trọng, góp phần làm lành mạnh hệ thống Ngân hàng, ngăn ngừa những tiêu cực xảy ra đồng thời hạn chế những rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng. Công tác thanh tra cần đảm bảo nhanh nhạy trong phát hiện và kiên quyết trong xử lý, nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời những sai phạm trong hoạt động nói chung và trong hoạt động nghiệp vụ thanh toán L/C nói riêng. Để thực hiện được yêu cầu đó, công tác thanh tra Ngân hàng cần phải:
- Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, quy chế phục vụ quản lý, giám sát và thanh tra, trong đó chú trọng tính đồng bộ, khả thi, tính phù hợp và từng bước hoà nhập với thông lệ quốc tế.
- Bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết và ứng dụng công nghệ tin học vào các hoạt động giám sát, thanh tra để các thông tin có liên quan đến Ngân hàng được nắm bắt thường xuyên, chính xác hơn, để có thể cảnh báo sớm tình hình rủi ro của ngân hàng.
- Nâng cao trình độ của cán bộ thanh tra, đảm bảo phải có trình độ ngoại ngữ giỏi, có nghiệp vụ ngân hàng chuyên sâu, am hiểu pháp luật, có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh trong công tác. Mặt khác cúng phải có chế độ điều kiện làm việc và đãi ngộ đúng mức đối với cán bộ thanh tra ngân hàng.
- Các ngân hàng cũng phải chủ động làm tốt công tác kiểm tra và tự chịu trách nhiệm về rủi ro hoạt động, từ đó nâng cao ý thức chấp hành các quy định của pháp luật.
3.3.3. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Có thể nói rằng, những rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT phần lớn có nguyên nhân bắt nguồn từ khách hàng, làm cho chính họ phải chịu những thiệt hại nặng nề và còn ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của ngân hàng. Bởi vậy, đề xuất những giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng có nghĩa là giảm thiểu nguy cơ rủi ro xảy ra với ngân hàng.
3.3.3.1. Cần có đội ngũ cán bộ chuyên trách về XNK, có năng lực và am hiểu về luật TMQT và TTQT.
Các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động thanh toán XNK cần phải có sự hiểu biết nhất định về TTQT nói chung và thanh toán L/C nói riêng để tránh được những điều khoản bất lợi cho mình trong quá trình ký kết hợp đồng ngoại thương. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải có một đội ngũ cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn vững vàng, được đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu về luật pháp quốc tế, có năng lực công tác và đặc biệt, phải có phẩm chất trung thực trong kinh doanh. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần phải thường xuyên thu thập thông tin về thực lực và uy tín cũng như khả năng tài chính của phía đối tác để tránh được những rủi ro không đáng có trong hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C.
Trong một số trường hợp, khi ký kết những hợp đồng ngoại thương, doanh nghiệp cũng nên tham khảo ý kiến của ngân hàng để tránh khỏi những điều khoản bất lợi có thể mang đến rủi ro cho bản thân doanh nghiệp và cho cả ngân hàng.
3.3.3.2. Không ngừng đào tạo cán bộ trẻ, cử cán bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đây cũng là một yêu cầu cần thiết, phải thường xuyên thực hiện đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để các cán bộ xuất nhập khẩu có cơ hội được nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, được tiếp cận với các phương thức TTQT hiện đại và trau dồi ngoại ngữ, từ đó có thể tránh được những sai sót không đáng có khi ký kết hợp đồng hoặc khi lập bộ chứng từ để được tiến hành thanh toán.
Việc đào tạo cán bộ có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức như cử cán bộ đi học ở các lớp chuyên môn nghiệp vụ ở trong và ngoài nước, hoặc trực tiếp mời giáo viên về giảng dạy...
3.3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác tìm hiểu độ tin cậy của đối tác.
Đó là viêc tìm hiểu độ tin cậy của bạn hàng, của ngân hàng phát hành, của ngân hàng thông báo hay của ngân hàng xác nhận... bằng cách thu thập những thông tin cụ thể về tình hình tài chính, hiệu quả kinh doanh, uy tín trong kinh doanh của bên đối tác. Việc thu thập thông tin phải được thực hiện đầy đủ, chính xác. Người mua thì tìm hiểu về người bán, về ngân hàng phát hành để đánh giá về năng lực và kinh nghiệm kinh doanh dịch vụ L/C... Còn người bán lại muốn tìm hiểu về người mua và ngân hàng phát hành để đánh giá khả năng thực hiện cam kết trả tiền... Nói chung, đây cũng là một trong những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho doanh nghiệp và cho khách hàng, đặc biệt là rủi ro đạo đức.
KẾT LUẬN
- Năm 2007, Việt Nam chính thức trỏ thành thành viên của tổ chức WTO đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế cũng như việc đưa nền kinh tế nước ta gia nhập nền kinh tế toàn cầu. Đi đôi với nó là những khó khăn cũng như thách thức của quá trình hội nhập đem lại. Trong bối cảnh toàn cầu hoá đó, việc giao thương xuất nhập khẩu trở thành hoạt động kinh tế tất yếu đem lại khoản thu nhập đáng kể đóng góp tỷ trọng lớn trong GDP nước ta. Đáp ứng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì nghiệp vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng ngày càng hoàn thiện và đem lại thu nhập từ các khoản phí dịch vụ. NHNo & PTNT Nam Hà Nội là chi nhánh có khối lượng thanh toán cao và uy tín, được các doanh nghiệp gửi gắm cho các phi vụ làm ăn với nước ngoài. Trong ba năm 2005 – 2007, chi nhánh luôn hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về tổng số tiền trong thanh toán quốc tế, đặc biệt là thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ.
- Có thể nói chi nhánh đã thành công trong việc hoàn thiện nghiệp vụ TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ, thể hiện ở số tiền thanh toán L/C nhập khẩu năm 2005 là 48,852,000 USD đến năm 2007 là 115,797,000 USD; L/C xuất khẩu năm 2005 là 7,534,000 USD đến năm 2007 là 23,548,000 USD. Không những thế, việc hạn chế rủi ro trong thanh toán cũng được ngân hàng hạn chế và kiểm soát đến mức thấp nhất có thể. Số vụ L/C không thanh toán được cũng giảm đáng kể, năm 2007 hầu như không để xảy ra một trường hợp đáng tiếc nào. Chi nhánh đã phát huy được những mặt thuận lợi khắc phục được các khó khăn để nâng cao vị thế của mình qua nghiệp vụ TTQT đặc biệt là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ như xúc tiến các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro đồng thời hoàn thiện quy trình thanh toán bằng đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao và cơ chế quản lý nâng cao tính tự chủ trong công việc. Có thể khẳng định trong tương lai nghiệp vụ thanh toán quốc tế băng phương thức tín dụng chứng từ sẽ đóng góp một phần quan trọng cho chi nhánh cũng như nền kinh tế đang trong giai đoạn hội nhập nước ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Giáo trình Ngiệp Vụ Thanh Toán Quốc Tế.
Giáo trình Kế Toán Ngân Hàng.
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh ( 2005 – 2007).
Báo cáo chuyên đề kinh doanh đối ngoại ( 2005 – 2007).
Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngaọi thực hiện 2005 kế hoạch 2006.
Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngaọi thực hiện 2006 kế hoạch 2007.
Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngaọi thực hiện 2007 kế hoạch 2008.
Báo cáo kết quả kinh doanh 2007, mục tiêu, giải pháp trọng tâm 2008.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12117.doc