Chuyên đề Thực trạng nguy cơ và các giải pháp đối với rủi ro tín dụng của NHTM Việt Nam

Như vậy, chúng ta đã cùng nhìn nhận môt cách khái quát về rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng và các biện pháp phòng ngừa chúng để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM trong tình hình mới. Với những biến động và quá trình phát triển ngày một nhanh của nền kinh tế, cơ sơ lí luận, quan điểm về vấn đề này có lẽ sẽ còn nhiều thay đổi, phát triển theo qui luật tất yếu của nó. Quả thật RRTD là một phạm trù quan trọng trong công tác quản lí, nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM nói chung, đặt trong một tổng thể, nó có những ảnh hưởng nhất định lên các yếu tố khác và ngược lại cũng chịu sự chi phối của nhiều nhân tố trong cũng như ngoài ngân hàng, khách quan cũng như chủ quan. Việc nhận biết và chế ngự được nó không phải là một sớm một chiều, và sẽ còn rất nhiều những thất bại và vấp ngã. Đứng trước những thách thức và vận hội của tương lai, chúng ta cần tích cực nghiên cứu tìm tòi hơn nữa để có thể hoàn thiện cả về lí thuyết cũng như thực hành, để có thể tránh được những sai lầm nhất định, phát hiện ra qui luật và vận dụng nó để có thể thực hiện công tác phòng ngừa RRTD hiệu quả hơn. Nhưng dẫu sao, với những thiếu sót và hạn chế lớn trong nhận thức và tầm hiểu biết của mình, em cũng xin trình bày những cảm nhận, những gì đã thu lượm được qua sách báo, qua quá trình học tập nghiên cứu của bản thân về vấn đề trên. Em hi vọng rằng ở một mức độ nhất định, đề án này cũng giúp chúng ta hiểu thêm về RRTD trong NHTM cũng như giúp em có thể hệ thống lại kiến thức của mình một cách rõ ràng, và khoa học hơn. Em xin một lần nữa được chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã giúp đỡ em thực hiện đề án này, đặc biệt là thầy Đặng Ngọc Đức, người đã dạy em những kiến thức cơ bản về môn học này, và thầy Lê Đức Lữ, người đã hướng dẫn em nghiên cứu và thực hiện đề tài này.

doc35 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng nguy cơ và các giải pháp đối với rủi ro tín dụng của NHTM Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i rủi ro này yêu cầu ngân hàng phải có những chiến lược ở tầm vĩ mô, và nâng cao khả năng phân tích kinh tế cũng như quản lí tài sản của mình. 5.Rủi ro ngiệp vụ hay rủi ro hoạt động: Loại rủi ro này là do ngân hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ thu lãi như dự tính hoặc thực hiện các nghiệp vụ có sai sótv.v, ví dụ như rủi ro do ứ đọng vốn. Cụ thể hơn, ở thời kì trước, ngân hàng đã huy động được một lượng vốn với lãi suất là 7% nhưng không cho vay ngay được, đến thời kì sau, khi lãi suất cho vay chỉ là 6,7% như vậy ngân hàng chỉ có thể không cho vay hoặc cho vay thì chịu lỗ. Trong cả hai trường hợp ngân hàng đều phải gánh chịu những nguy cơ thua lỗ nhất định. Loại rủi ro này đòi hỏi các ngân hàng phải nâng cao trình độ cho nhân viên, phải có một đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn thành thạo, có khả năng nhận biết và sử lí các nghiệp vụ nhanh gọn chính xác. 6. Rủi ro từ môi trường và các yếu tố thể chế khác: Đây là loại rủi ro mà không chỉ tác động lên hoạt động tín dụng mà nó còn tác động lên mọi mặt hoạt động của ngân hàng. Đó là do sự biến đổi trong những qui định của pháp luật, do những thay đổi lớn về khoa học công nghệ. Đôi khi đó là do lạm phát, khủng hoảng kinh tế v.v. Như vậy, khả năng phòng chống các rủi ro này của một ngân hàng là khá hạn chế, để làm được việc đó, các ngân hàng phải có quan hệ hợp tác mật thiết lẫn nhau, cùng nhau tiến hành phân tích và đưa ra các biện pháp phòng ngừa thích hợp. Phần B. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng: Như trên đã đề cập, việc phân loại rủi ro tín dụng chỉ mang ý nghĩa tương đối vì giữa chúng có những mối liên hệ rất mật thiết, loại này tác động lên loại kia và ngược lại. Vì vậy, để công tác phòng ngừa rủi ro thực sự đạt hiệu quả chúng ta phải tiến hành các biện pháp một cách tổng hợp, khoa học và mang tính hệ thống cao. Việc phòng ngừa RRTD phải được tiến hành thường xuyên liên tục và triệt để, từ trước đến sau khi quan hệ tín dụng được phát sinh, từ tầm vi mô đến tầm vĩ mô, phải xác định đó là nhiệm vụ của mỗi nhân viên trong ngân hàng mà phòng tín dụng chỉ là biểu hiện tập trung của công tác đó. Để đạt được những yêu cầu đó, một ngân hàng thường tổ chức thực hiện các nghiệp vụ một cách có hệ thống có chiến lược và kế hoạch cụ thể bao gồm các nội dung sau: I. Phòng ngừa trước khi cho vay: Đây là một cách phòng ngừa rủi ro thực sự hiệu quả và cần được đề cao vì phòng bệnh bao giờ cũng hơn là chữa bệnh. Khi một quan hệ tín dụng chưa phát sinh, việc lường trước và đánh giá đúng rủi ro tiềm năng là một công việc rất có ích nhưng cũng đòi hỏi người làm công tác tín dụng phải có những nỗ lực đi đôi với những biện pháp và điều kiện khác như cơ sở kĩ thuật, trình độ ...ỏ mức độ cao.Phòng ngừa trước cho vay có thể bao gồm các nội dung sau: 1. Phân tích tín dụng: Đây là một công tác nghiệp vụ mang tính bắt buộc mà mọi ngân hàng phải thực hiện trước khi kí kết bất kì một hợp đồng tín dụng nào, nó giúp ngân hàng trong quá trình cho điểm tín dụng và đo lường rủi ro tín dụng trước cho vay. Việc phân tích tín dụng nhằm giải đáp những vấn đề sau: - Người xin vay có đáng tin cậy hay không? Vì sao? - Hợp đồng tín dụng có được cấu trúc hoàn chỉnh không - Quyền đối với tài sản thế chấp và các quyền khác của phía ngân hàng. 1.1.Múc độ tin cậy đối với khách hàng : Đây là vấn đề đánh giá khả năng thanh toán khoản vay đầy đủ, cả gốc và lãi, và đúng hạn của khách hàng, nó có tính quyết định trong việc phòng ngừa các rủi ro cơ bản khi quan hẹ tín dụng phát sinh. Để giải đáp vấn đề này ngân hàng cần căn cứ vào các yếu tố sau: - Tính cách( character) : Trách nhiệm, tính trung thực, mục đich vay vốn đúng đắn nghiêm túc, kế họch trả nợ cụ thể và hợp lí là những cơ sở để tạo nên tính cách hay uy tín của khách hàng trong mắt ngân hàng. Ngân hàng sẽ không khi nào cho vay khi họ nhận thấy những yếu tố thiếu trung thực, thiếu trách nhiêm trong việc quản lí sử dụng vốn cũng như tính khả thi của khoản vay vì nó sẽ dễ khiến ngân hàng phải gánh chịu những món nợ khó đòi. Tính cách và uy tín của khách hàng được ngân hàng đánh giá qua những tiêu trí sau quan hệ lâu nay giữa ngân hàng và khách hàng, tham khảo chủ nợ khác của khách hàng, bạn hàng, mục đích vay, tính khả thi của dự án… - Năng lực (capacity): năng lực ở đây có thể được hiểu là khả năng vay vốn, khả năng hoàn trả cũng như tư cách pháp lí của khách hàng trong việc kí kết hợp đồng tín dụng. Để hiểu về những vấn đề này, ngân hàng cũng có một hệ thống các chỉ tiêu cụ thể bao gồm: qui định pháp luật, năng lực người bảo lãnh, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh… - Dòng tiền mặt (cash flow): đây là yếu tố đánh giá khả năng thanh khoản của khách hàng, nghĩa là khả năng trả nợ trong những thời kì khác nhau, đặc biệt là trong ngắn hạn. Việc đánh giá chỉ tiêu này tập trung vào một số chỉ tiêu sau : dòng tiền mặt từ doanh thu bán hàng, thu nhập, dòng tiền mặt từ việc bán tài sản, huy động từ các công cụ nợ, chứng khoán v.v. đây cũng là nhân tố bộc lộ những khía cạnh khác của doanh nghiệp như sức mạnh thị trường, chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ quản lí, tiềm năng phát triển… - Tài sản thế chấp (collateral): Đây là vật đảm bảo cho sự vay nợ của khách hàng, giúp ngân hàng giảm bớt rủi ro mất vốn. Công tác thẩm định giá trị tài sản thế chấp do đó trở nên hết sức quan trọng. Trong việc đánh giá tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng thường đặt câu hỏi: người vay có sở hữu một tài sản nào có giá trị tương xứng với khoản vay hay không? đồng thời các cán bộ tín dụng phải đặc biệt nhạy cảm với những đặc điểm như: thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ chuyên môn hoá thể hiện ở tài sản của khách hàng. Trong đó, yếu tố công nghệ đóng một vai trò quan trọng. Nếu tài sản của khách hàng qua lỗi thời thì giá trị thế chấp của nó sẽ giảm xuống, lí do là vì ngân hàng sẻ gặp nhiều khó khăn trong việc bán lại tài sản đó nếu khoản vay không được hoàn trả( ta sẽ đề cập kĩ hơn ở phần sau ). - Các điều kiện về môi trường: ngân hàng phải luôn luôn nhận biết được những xu hướng tiến triển gần đây của hãng cũng như của ngành mà hãng hoạt động, hiểu được mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản cho vay. Một khoản cho vay có thể rất hiệu quả trên giấy tờ nhưng có thể giá trị của nó sẽ bị sụt giảm khi nền kinh tế lâm vào suy thoái hoặc lãi suất tăng cao do sức ép của lạm phát. Để làm tốt công tác này, ngân hàng phải có một hệ thống thu thập và lưu trữ thông tin thường xuyên liên tục với khối lượng lớn và phải tiến hành các nghiên cứu định kì về ngành và ngân hàng phục vụ. - Sự kiểm soát : Nhân tố cuối cùng để đánh giá độ đáng tin cậy của một khách hàng là sự kiểm soát, nó tập trung vào các cây hỏi như : những thay đổi về qui định có ảnh hưởng bất lợi đến người vay không và liệu khách hàng có đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng tín dụng mà các cơ quan quản lí của ngân hàng đặt ra không?v.v. 1.2. Cấu trúc của một hợp đồng tín dụng hoàn chỉnh: Khi niềm tin mà ngân hàng dành cho khách hàng đã được xác định, vấn đề tiếp theo là tạo nên một hợp đồng tín dụng hoàn chỉnh để có thể đáp ứng yêu của cả ngân hàng và khách hàng. Vấn đề này được thể hiện trên các điều khoản của một hợp đồng tín dụng về thời gian cấp phát, kế hoạch hoàn trả, lãi suất, tài sản thế chấp, sự cam đoan bảo lãnh, và những điều khoản bảo đảm khác. Cấu trúc của một hợp đồng tín dụng không những phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngân hàng và khách hàng mà nó còn phải hạn chế đến mức tối đa những nguy cơ rủi ro mà cả hai bên phải gánh chịu. Nếu khách hàng gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ do cấu trúc của một món vay bắt bí hoặc không phù hợp thì chính ngân hàng cũng phải đối mặt với nguy cơ rủi ro tín dụng do không thu hồi được nợ. Như vậy, cấu trúc một khoản vay hoàn chỉnh khiến cho quan hệ giưa người vay và người cho vay là quan hệ hợp tác cùng có lợi, hoàn toàn không phải là quan hệ chèn ép triệt tiêu lợi ích lẫn nhau, do đó giảm thiểu rủi ro tín dụng. 1.3.Xác định quyền của ngân hàng đối với thu nhập hay tài sản hay thu nhập của khách hàng: Nói chung, trừ một số hình thức tín dụng đặc biệt, đa phần các khoản tín dụng khác đều đòi hỏi khách hàng có tài sản thế chấp. Hình thức thế chấp có thể rất đa dạng, thông thường gồm các loại như: các khoản phải thu ( đối với cho vay hoạt động ( factoring) ), mua nợ ( cho vay thẻ tín dụng ( credit card loans) ), hàng tồn kho, bất động sản, tài sản cá nhân, sự đảm bảo cá nhân và các biện pháp an toàn khác. Việc qui định tài sản thế chấp nhằm đạt hai mục tiêu cơ bản của người cho vay( ngân hàng). Thứ nhất, bù đắp các khoản lỗ do rủi ro tín dụng xảy ra thông qua việc được sở hữu và bán các tài sản thế chấp. Thứ hai, tạo ra lợi thế về tâm lí cho người cho vay, đồng thời tăng trách nhiệm và động cơ hoạt động cho người đi vay. Ngườiđi vay sẽ tích cực hơn trong việc sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả cao nhất, thực hiện nghiêm túc các điều khoản của hợp đồng tín dụng, tránh được vấn đề về rủi ro đạo đức. Tài sản thế chấp cũng xác định những quyền nhất định của ngân hàng đối với tài sản cảu khách hàng, quyền được ưu tiên đối với các tài sản cảu khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán. Như vậy, có thể thấy quyền đối với tài sản và thu nhập đối với khách hàng là sự ràng buộc về mặt lợi ích giữa ngân hàng và khách hàng, khi đó rủi ro tín dụng sẽ được loại trừ bớt một phần. Sau khi tiến hành công tác phân tích tín dụng ngân hàng có thể cho điểm tín dụng đối với khách hàng, tiến hành đo lường rủi ro, đánh giá dự án vay vốn và xác định giá trị và các điều khoản đảm bảo, bảo lãnh cho các khoản vay. Nhờ vậy có thể tránh được những rủi ro không đáng có trong quá trình hoạt động sau này. 2. Công tác phân tích khả năng tài chính của khách hàng: Không phải ngẫu nhiên và chúng ta lại đặc biệt đề cập đến vấn đề này, đó thực sự là một khâu hết sức quan trọng và rất hiệu quả trong việc hạn chế rủi ro tín dụng trước cho vay. Như chúng ta đã biết, công tác phân tích tín dụng đề cập ở trên chỉ thực sự hiệu quả nếu chúng ta có đầy đủ thông tin về khách hàng, về môi trường kinh tế, về đối thủ cạnh tranh v.v ( hạn chế hiện tượng thông tin bất cân xứng) Mà nguồn thông tin thì vô cùng phong phú và đa dạng, truyền hình, các ấn bản, sự lên xuống của các biến số kinh tế, còn riêng đối với khách hàng thì đó là từ phía người tiêu dùng sản phẩm của khách hàng, các đối tác, quan hệ cũ với ngân hàng v.v về món vay thì đó là số lượng, mục đích, kế hoạch triển khai tính khả thi kế hoạch hoàn trả v.v Trong vô vàn những nguồn thông tin đó, các báo cáo tài chính là một nguồn thông tin rất mạnh, đáng tin cậy, trực tiếp và có ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động khác của QHTD. Sở dĩ báo cáo tài chính lại có những điểm mạnh như vậy là vì nó được đảm bảo và mang tính pháp lí rất cao, bên cạnh đó, nó phản ánh một cách đầy đủ khoa học và có hệ thống tình trạng tài chính của một thực thể kinh tế. Thực ra, điều này chỉ thực sự chuẩn xác ở một số nước phát triển, nơi có một hệ thống kế toán kiểm toán hoàn thiện, một môi trường pháp lí công khai nhất quán, còn ở một số nước đang phát triển tuy đã có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây song vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết nhất định. Nhưng dẫu sao, đây cũng là một cơ sở quan trọng và giàu tính thuyết phục nhất để rút ra những nhận định chính xác về khách hàng. Đối với các khách hàng là cá nhân, các báo cáo tài chính có thể là biên bản kê khai thu nhập cá nhân, lương tháng thu nhập bình quân, biên bản đóng thuế, tài khoản ngân hàng v.v thế nhưng phân tich báo cáo tài chính chỉ bộc lộ hết mặt mạnh của nó khi được áp dụng cho các khách hàng là doanh nghiệp. Thông qua một hệ thống các chỉ số được xây dựng một cách khoa học và có hệ thống ngân hàng có thể phân tích qua đó đánh giá được khả năng tài chính, khả năng tín dụng của một khách hàng và ước lượng được mức rủi ro tín dụng tiềm năng đối với mỗi khách hàng. Một hệ thống chỉ số và các công cụ phân tích như vậy được hình thành tùy thuộc vào nhiều yếu tố, ngành nghề mà doanh nghiệp hoạt động, tính chất của khoản tín dụng, mục tiêu của ngân hàng v.v và có thể gồm những chỉ số như: + tỉ lệ cơ cấu tài sản: . hàng tồn kho / tổng tài sản . TSCĐ, khấu hao TSCĐ / tổng tài sản . Các khoản phải thu/ tổng tài sản v.v + tỉ lệ cơ cấu nợ phải trả: . nợ ngắn hạn/ tổng nợ và vốn chủ sở hữu . nợ dài hạn/ tổng nợ và vốn chủ sở hữu . thuế nộp/ tổng nợ và vốn chủ sở hữu v.v Nói chung là có vô cùng nhiều các hệ thống chỉ tiêu như vậy, đó là chỉ tiêu về doanh thu chi phí, lãi, lương v.v điều này rất phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu của ngân hàng, thế nhưng có một điều khẳng định là các chỉ tiêu này đều dựa trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp và công tác điều tra càng tiến hành tỉ mỉ chi tiết thì kết quả càng chính xác và đáng tin cậy. Thế nhưng việc phân tích này cũng có những nhược điểm nhất định, đó là vấn đề chi phí, để có được những khả năng phân tích như vậy đòi hỏi ngân hàng phải đầu tư rất lớn vào hệ thống trang thiết bị lưu trữ xử lí thông tin, đào tạo những nhân viên có trình độ cao v.v Như vậy, mỗi ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược riêng để cân đối và thực hiện công tác này sao cho đạt hiệu quả tối đa trong khả năng có thể. II. Phòng ngừa sau cho vay: Sau khi đã đồng ý cung cấp một khoản tín dụng cho khách hàng không có nghĩa là ngân hàng đã mất khả năng kiểm soát RRTD đối khoản vay đó. Công việc được tiếp tục tiến hành bằng việc kiểm soát món vay đó. Ngân hàng phải theo dõi sát xao việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp xem có hợp lí không, đúng mục đích không, thậm chí là tư vấn, hỗ trợ kĩ thuật cho khách hàng để nâng cao hiệu quả sử dụng cũng như tính an toàn trong việc sử dụng vốn. Thực tế cho thấy, các điều kiện của môi trường kinh tế, xã hội, chính trị luôn luôn biến đổi khiến cho những kế hoạch, dự án ban đầu đôi khi không còn phù hợp nữa, do vậy ngân hàng và khách hàng phải cùng nhau bám sát những diễn biến đó để có thể đưa ra những giải pháp điều chỉnh kịp thời. Lúc này, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chính là liều thuốc đẩy lùi căn bệnh rủi ro tín dụng đối với ngân hàng. Việc giám sát quản lí sau cho vay có thể diễn ra trên các mặt sau: - Thực hiện kiểm soát và xem xét định kì đối với các loại hình cho vay: ví dụ kiểm tra theo chu kì 1 tháng đối với các món vay lớn và kiểm tra bất thường đối với các món vay nhỏ. - Đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch thanh toán của khách hàng để có những biện pháp ứng phó kịp thời. - Đánh giá chất lượng tài sản thế chấp Nghiên cứu những qui phạm pháp luật và các điều khoản hợp đồng trên hợp đồng tín dụng - Theo dõi thường xuyên diễn biến về tình hình tài chính, những biến đổi về vốn và tài sản của doanh nghiệp sử dụng vốn. - Lập nhật kí theo dõi tình hình thực hiện lợp đồng tín dụng giữa hai bên. - Kiểm tra thường xuyên các khoản vay lớn có khả năng ảnh hưởng mạnh tới tình trạng tài chính của ngân hàng. Đặc biệt cảnh giác với những khoản vay có vấn đề. Nhìn chung, kiểm soát tín dụng là việc đảm bảo cho QHTD diễn ra lành mạnh, đúng với những gì hai bên đã qui ước. Nó giúp ngân hàng không những sớm tìm ra những khoản vay có vấn đề mà còn giúp ngân hàng ý thức được khả năng làm việc của bản thân, các nhân viên có làm hết chức trách của họ không. Chính vì thế mà ở một số ngân hàng lớn, họ đã tách riêngchức năng tín dụng và kiểm soát tín dụng thành hai bộ thận độc lập. Nó cũng giúp các nhà hoạch định chính sách, những nhà lãnh đạo cấp cao có thể đánh giá đúng hoạt động của ngân hàng mình để từ đó có những chiến lược giải quyết đúng đắn. III. Phòng ngừa rủi ro tín dụng bằng nghiệp vụ ngân hàng ( Hedging): Bên cạnh công tác phàng ngừa RRTD trước và sau cho vay như đã đề cập ở trên, để bảo vệ mình các NHTM cũng thường xuyên sử dụng các nghiệp vụ tiền tệ mà mình có. Đây thực là những vũ khí bí mật rất có hiệu quả mà ngân hàng có thể sử dụng để bảo vệ mình. Có thể dẫn ra ở đây là các biện pháp như quản lí khe hở nhạy cảm với các biến số kinh tế, sử dụng các nghiệp vụ phái sinh (derivatives), như nghiệp vụ tương lai (future), kì hạn (forward), quyền chọn (option) và nghiệp vụ hoán đổi (swap). Có thể nói đây là những biện pháp mang đậm tính chất chuyên môn chuyên nghiệp của ngân hàng. 1.Quản lí khe hở nhạy cảm ( sensitive gap)với các biến số kinh tế: Có thể nói đây là chiến lược được các ngân hàng sử dụng khá phổ biến do nó có những lợi thế rất lớn của nó. Xét trên tổng thể, biện pháp này chính là cách thức ngân hàng quản lí cơ cấu tài sản của mình bao gồm tài sản nợ, tài sản có, giữa tài sản nợ và tài sản có. Nó giúp ngân hàng phát hiện những bất cập trong cơ cấu tài sản ( rủi ro cơ cấu)và từ đó hướng ngân hàng tới các biện pháp phòng ngừa thích hợp. Hơn nữa chiến lược này là một chiến lược khá toàn diện và tổng thể, nó có thể phát huy tác dụng đối với nhiều biến số khách nhau như lãi suất, kì hạn, tỉ giá… Quá trình thực hiện biện pháp này có thể được mô tả một cách khái quát và đơn giản như sau - Ngân hàng tiến hành phân tích kì hạn, định giá lại các cơ hội gắn với tài sản sinh lợi, tài sản có và cả các loại tài sản nợ như tiền gửi và các khoản vay trên thị trường. Yêu cầu của bước này là phải xây dựng một bảng cơ cấu tỉ mỉ các loại tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ dựa trên các tiêu thức lãi suất, kì hạn, tỉ giá v.v. Tiếp theo ngân hàng phải đưa ra được các nhận định về tình trạng hiện tại của bản thân và những diễn biến tiếp theo của thị trường, sự lên xuống của lãi suất, tỉ giá, sự thay đổi của kì hạn. - Sau đó, từ những phân tích và nhận định đã có, dựa trên những số liệu cụ thể từ bảng cơ cấu trên, NHTM tiến hàng tính toán “ khe hở nhạy cảm”- nghĩa là xác định mức độ chịu ảnh hưởng của ngân hàng khi các yếu tố khác thay đổi, sự tăng của lãi suất, sự đến hạn thanh toán v.v Tiếp theo là xác định những mục tiêu điều chỉnh cụ thể để có thể tối đa hoá lợi ích của ngân hàng và tiến hành các biện pháp điều chỉnh thích hợp. - Để có thể hoàn thành hai bước trên, ngân hàng cần dựa trên một số các chỉ số nhất định, mức độ tinh vi và chính xác còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhưng có một số chỉ iêu cơ bản sau: - Khe hở nhạy cảm = tổng tài sản có nhạy cảm – tổng tài sản nợ nhạy cảm - tỉ lệ nhạy cảm = tổng tài sản có nhạy cảm/ tổng tài sản nợ nhạy cảm - tỉ lệ khe hở nhạy cảm tương đối = khe hở nhạy cảm / tổng tài sản - Thay đổi trong thu nhập lãi = thay đổi trong lãi suất . qui mô khe hở nhạy cảm tích luỹ - Thu nhập lãi cận biên (NIM) = thu nhập từ lãi / tổng tài sản sinh lời Để minh hoạ cụ thể cho biện pháp này, chúng ta cùng xem xét một ví dụ giả tưởng đơn giản sau: Bảng 1 mô tả một kết cấu tài sản vay và cho vay của một ngân hàng trong một số thời kì nhất định. các khoản vay và cho vay nhạy cảm với lãi xuất Kì hạn 1 tháng 2 tháng 3 tháng … Tổng cộng Vay $ 10.00 $ 7.00 $ 6.00 $ 23.00 cho vay $ 15.00 $ 8.00 $ 4.00 $ 27.00 khe hở nhạy cảm với lãi suất $ 5.00 $ 1.00 -$ 2.00 khe hở nhạy cảm với lãi suất tích luỹ $ 5.00 $ 6.00 $ 4.00 tỉ lệ tài sản nhạy cảm trên nguồn vốn nhạy cảm $ 1.50 $ 1.14 $ 0.66 trạng thái nhạy cảm tài sản nhạy cảm tài sản nhạy cảm nợ NIM giảm nếu lãi suất giảm lãi suất giảm lãi suất tăng Bảng 1 Trong bảng trên, dựa vào cơ cấu của các khoản cho vay, ngân hàng có thể nhận ra tình trạng hiện tại của mình trong từng thời kì cụ thể, như trong ngắn hạn, ngân hàng đang ở trong tình trạng nhạy cảm tài sản có, lãi suất giảm thì lợi nhuận cận biên của ngân hàng có thể giảm theo. Hay ở trong dài hạn, 3 tháng, ngân hàng đang ở trong tình trạng nhạy cảm tài sản nợ, lãi suất tăng sẽ khiến ngân hàng chịu thua thiệt… Qua đó giúp ngân hàng có những điều chỉnh kịp thời, như tăng tài sản nợ, giảm tài sản có trong ngắn hạn, và ngược lại đối với dài hạn. Thực tế, đây chỉ là hình thức sơ đẳng nhất để giúp chúng ta nhìn nhận phương pháp này, thực tế, tuỳ theo khả năng công nghệ và trình độ nghiệp vụ của mỗi ngân hàng, nghiệp vụ này có thể phát triển và phát huy tác dụng ở những mức độ khác nhau. Ngày nay, với sự trợ giúp của máy tính điện tử và công nghệ mạng máy tính, phương pháp này giúp ngân hàng có thể kiểm soát hiệu quả bảng cân đối tài sản của mình trong một thời hạn không hạn chế. Và khi có bất kì một phân tích, dự đoán nào trong tương lai, nó sẽ giúp ngân hàng tính toán ngay được kết quả về tình trạng tài chính cũng như thu nhập tiềm năng của mình. Như vậy qua ví dụ trên, chúng ta có thể rút ra những nhận xét chung như sau: - Một khe hở dương nghĩa là ngân hàng ở trong tình trạng nhạy cảm có, khi đó nếu lãi suất tăng thì thu nhập ngân hàng sẽ tăng do thu tăng từ lãi trên tài sản có nhiều hơn chi phí tăng cho phần tài sản nợ, và nguợc lại. - Một khe hở âm nghĩa là ngân hàng đó ở trong tình trạng nhạy cảm nợ, lãi suất tăng thì thu nhập ngân hàng sẽ giảm và ngược lại. - tỉ lệ thu nhập lãi cận biên của ngân hàng chịu sự tác động vào nhiều yếu tố như: . thay đổi trong lãi suất . khe hở tài sản nhạy cảm, dương hay âm, qui mô Ngày nay với sự trợ giúp của công nghệ thông tin, máy tính điện tử các ngân hàng có thể thực hiện biện pháp này ở những mức độ tinh vi và chính xác rất cao. Nhà quản lí có thể chọn lựa một thời kì mục tiêu dài hơn, sự biến đổi trong cơ cấu tài sản có thể cập nhật theo từng nghiệp vụ phát sinh, các phân tích dự đoán được thực hiện nhanh chóng và chính xác hơn. Do vậy, chiến lược này đã tỏ ra thực sự phát huy hiệu quả. Tuy nhiên ở đây còn một vấn đề tác động đến hiệu quả của phương pháp này, đó là chiến lược mà các ngân hàng áp dụng trong việc thực thi quản lí khe hở nhạy cảm tài sản. Về mặt lí thuyết, nếu khe hở nhạy cảm tài sản bằng 0 thì ngân hàng hoàn toàn không chịu rủi ro cơ cấu, đây là xu hướng của chiến lược quản lí mang tính bảo vệ. Tuy nhiên thực thi điều này cũng có nghĩa là triệt tiêu các cơ hội tăng cao lợi nhuận, gây nên những thua lỗ tương đối so với các ngân hàng khác hoạt động trong cùng ngành. Vì thế, các ngân hàng còn một loại chiến lược nữa là quản lí khi hở nhạy cảm lãi suất năng động. Nghĩa là họ tin vào khả năng nhận định của mình về những diễn biến sắp tới của thị trường và có những chiến lược thay đổi tuỳ theo từng giai đoạn. Ví dụ khi lãi suất thị trường tăng, họ nâng cao khe hở lãi suất, khi lãi suất thị trường giảm họ hạ thấp khe hở lãi suất, trong những giai đoạn thị trường bất ổn họ cố duy trì một chiến lược bảo vệ. Làm như vậy sẽ tối đa hoá được lợi nhuân cho ngân hàng, nhưng như vậy cũng có nghĩa là chấp nhận rủi ro, nhưng biết làm sao được khi rủi ro là một thuộc tính của hoạt động ngân hàng và cũng có thể coi đây là một nhược điểm của chính sách này. Như vậy, qua những gì chúng ta vừa bàn luận, không thể phủ nhận những tính chất ưu việt của chiến lược quản lí khe hở nhạy cảm của tài sản, đó là sự tổng quát, chặt chẽ trong lí luận cũng như thực hiện, tác động mang tính tổng hợp của nó, dễ vận dụng… Tuy nhiên biện pháp nàykhông phải là không có những khiếm khuyết. Ngoài những rủi ro phải chấp nhận khi theo đuổi chính sách quản lí khe hở năng động, và sự triệt tiêu cơ hội khi theo đuổi chính sách bảo vệ như đã nhắc đến ở trên, trên thực tế khi thực hiện chiến lược này các ngân hàng còn gặp phải một số trở ngại khác. Đó là sự khó khăn khi tìm kiếm các tài sản có và tài sản nợ có kì hạn hoàn trả, lãi suất phù hợp với yêu cầu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ điều chỉnh, nhất là ở một số nước đang phát triển như nước ta, các công cụ tài chính còn đơn điệu và ít. Tiếp theo là sự khó khăn trong việc xác định qui mô các luồng vào và ra của một số loại tài khoản như tài khoản tiền gửi giao dịch và tài khoản tiết kiệm, nhất là ở một số nước có trình độ công nghệ còn lạc hậu, hệ thống tài chính chưa hoàn thiện. Đây là những thách thức thực sự đối với mỗi ngân hàng trong công cuộc tìm kiếm lợi nhuận và bảo vệ ngân hàng khỏi những rủi ro. 2.Sử dụng các nghiệp nụ phái sinh(derivatives): Cũng với nguyên tắc chủ đạo của các nhà kinh doanh ngân hàng năng động, để phòng chống rủi ro đồng thời tạo ra lợi ích, thì họ sẽ tìm cách tối đa hoá các tác động tích cực và tối thiểu hoá các tác động tiêu cực của thị trường của nền kinh tế. Các công cụ phái sinh chính là để thực hiện điều đó, các công cụ này bao gồm, tương lai, kì hạn, quyền chọn và hoán đổi. Thực ra, đây không hoàn toàn là những công cụ trên thị trường tín dụng, nó không đơn thuần là sự vay nợ lẫn nhau, nhưng nó chính là những công cụ để ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ điều chỉnh cơ cấu các món vay và cho vay của mình, đa dạng hoá các loại tài sản, ưu điểm của nó là đa dạng, sẵn có và dễ dàng. 2.1.Hợp đồng tương lai: Hợp đồng tương lai thực chất là một thoả thuận mua hay bán một số lượng công cụ tài chính cụ thể, nhất là các loại chứng khoán, tại một thời điểm ấn định trong tương lai với một mức giá đã được định trước. Giá thị trường của hợp đồng tương lai thay đổi hằng ngày, tùy theo các qui luật của thị trường, nên chúng được định giá hằng ngày (mark to market) để phản ánh giá trị hiện tại sẽ được giao dịch, quá trình thanh toán được thực hiện cuối mỗi ngày giao dịch qua trung tâm thanh toán bù trừ. Mục đích của viêc giao dịch các hợp đồng tương lai là làm chuyển dịch rủi ro từ người này sang người khác. Giá bán của một hợp đồng tương lai ngày hôm nay phản ánh mức giá mà các nhà đầu tư trên thị trường hi vọng vào ngày mà nó được thực hiện. Nghiệp vụ phòng chống rủi ro trong tương lai nhìn chung đòi hỏi ngân hàng phải thiết lập vị thế trên thị trường tương lai đối nghịch với vị thế trên thị trường hiện tại trên thị trường giao ngay. Vì vậy có hai loại nghiệp vụ ngược nhau là phòng chống thế đoản và phòng chống thế trường. - Phòng chống thế đoản: Giả sử lãi suất trên thị trường được dự tính tăng, nghĩa là tăng chi phí huy động vốn đối với các loại tiền gửi, vay ở hiện tại và đồng thời làm giảm giá trị của các trái phiếu hay các khoản cho vay lãi suất cố định mà ngân hàng hiện có hay dự định mua. Khi đó nghiệp vụ phòng chống thế đoản có thể được sử dụng. Nhà quản lí ngân hàng sẽ tham gia hợp đồng tương lai bán chứng khoán khi những khoản tiền gửi mới xuất hiện , các khoản vay lãi suất cố định được thực hiện hay khi qui mô danh mục đầu tư của ngân hàng tăng thêm. Nếu lãi suất thị trường tăng mạnh, chi phí trả lãi đối với các khoản vốn huy động của ngân hàng sẽ tăng lên, giá trị cáckhoản tín dụng lãi suất cố định và các chứng khoán ngân hàng nắm giữ sẽ sụt giảm. Tuy nhiên, những tổn thất này sẽ được bù đắp bởi các khoản lợi nhuận của các hợp đồng tương lai. Hơn nữa, ngân hàng chẳng cần giao nhận các chứng khoán ghi trong hợp đồng nếu như nó thực hiện các hợp đồng tương lai đối nghịch với vị thế hiện tại. Trung tâm thanh toán bù trừ sẽ ghi nhận kết quả cho mỗi hợp đồng trên cơ sở triệt tiêu các giao dịch đối kháng. Ví dụ: các nhà quản lí dự định lãi suất tiền gửi sẽ tăng trong vòng 3 tháng tới, hiện tại là 8% nhưng tới đây có thể là 8,5% trong khi các khoản vay và tài sản khác có lãi suất không đổi do hợp đồng đã kí. Khi đó tổn thất tiềm năng của sự tăng lãi suất này là, nếu ngân hàng tiến hành huy động 100 triệu: . chi phí trả lãi tiền gửi: 100 . 0.08 . 90/360 = 2 ( T ) . khi lãi suất là 8,5% chi phí trên là: 100 . 0,085 . 90/360 = 2,125 ( T ) . Để chống lại tổn thất tiềm năng là 0,125 ( T ) này ngân hàng sẽ bán tại thời điểm hiện tại hợp đồng tương lai tín phiếu kho bạc chẳng hạn, thời điểm thực hiện là sau 3 tháng, và sau 3 tháng mua lại những hợp đồng này với giá thị trường. Khối lượng giao dich cụ thể còn tuỳ thuộc vào lãi suất của những hợp đồng này, chỉ biết rằng: giá trị bán – giá trị mua bằng = 0,125 ( T ). Chú ý rằng khi lãi suất huy động vốn tăng thì lãi suất tín phiếu kho bạc cũng tăng theo, nên chúng ta mới có cơ sở để thực hiện các giao dịch này. - Phòng chống thế trường: Đây là loại nghiệp vụ được áp dụng khi ngân hàng ở trong tình trạng ngược với tình trạng thế đoản ở trên. Đó là khi lãi suất có xu hướng giảm xuống và đe doạ lợi nhuận của ngân hàng do lãi suất của các khoản tín dụng giảm tương đối so với lãi suất huy động vốn. Khi đó ngân hàng có thể sử dụng biện pháp sau: - thời diểm hiện tại: Mua hợp đồng trên thị trường tương lai, ngân hàng cam kết mua một số chứng khoán nhất định tại mức giá của thời điểm thực hiện( tương lai). - khi đến thời điểm thực hiện, ngân hàng sẽ bán một hợp đồng với qui mô tương tự. Kết quả, hai hợp đồng sẽ triệt tiêu nhau. Nhưng khi lãi suất giảm, trong suốt thời kì của hợp đồng tương lai thì giá chứng khoán sẽ tăng, do vậy khi ngân hàng bán chứng khoán tại thời điểm tương lai thì sẽ thu được mức giá cao hơn, và phần thu nhập này sẽ bù đắp tổn thất về thu nhập do lãi suất giảm đối với các tài sản tín dụng khác. Trên thực tế các ngân hàng sử dụng rất đa dạng các loại nghiệp vụ phòng chống thế đoản cũng như thế trường của hợp đồng tương lai để đạt đến một tỉ lệ cân đối hợp lí nhất định, một tỉ lệ mà ở đó theo họ ngân hàng có thể tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. 2.2 Hợp đồng quyền chọn ( options): Hợp đồng này cho phép người mua có quyền mua hay bán một loại tài sản tài chính nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định với giá đã đuợc ấn định trước. Trong hai trường hợp mua hay bán, người bán hợp đồng quyền chọn phải đáp ứng quyền chọn của người mua và để có được quyền chọn đó,người mua phải trả cho người bán một khoản phí, gọi là phí hay giá của quyền chọn. Khác với hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn không bắt buộc người mua phải thực hiện nghiệp vụ mua hay bán của mình khi hết hạn hợp đồng. Người mua quyền chọn có thể thực hiện quyền chọn, bán quyền chọn, hay đơn giản là không thực hiện quyền chọn. Vậy quyền chọn có tác động đến việc phòng chống rủi ro như thế nào, để nhận thấy điều này ta hãy xem xét ví dụ sau: Một ngân hàng dự tính phát hành các CD ( certificate of deposit, một chứng chỉ nhận tiền gửi một hình thức huy động vốn vay của ngân hàng) trị giá 150 triệu có kì hạn 6 tháng. Hiện tại, lãi suất của loại CD nàylà 6,5% nhưng ngân hàng dự tính lãi suất sẽ tăng lên 7%. Khi lãi suất tăng như vậy, chi phí trả lãi cho các CD tăng lên 375000, làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Để hạn chế tổn thất tiềm năng do chi phí tăng, nhà quản lí sẽ tìm tới những người có ý định phát hành quyền bán đối với các hợp đồng tương lai của trái phiếu chính phủ với giá 960.000 cho một hợp đồng với mệnh giá 1000.000. Phí quyền chọn là 5000. Khi lãi suất tăng như dự tính, giá trị thị trường của các trái phiếu này giảm xuống còn 940.000. Khi đó, ngân hàng sẽ thực hiện quyền bán của mình và lợi nhuận thu về là: 960.000 – 940.000 – 5000 = 15000. Khoản lợi nhuận này sẽ bù đắp một phần vào tổn thất do việc phát hành các CD đã nói ở trên. Trong một số trường hợp khác ngân hàng có thể mua và thực hiện quyền mua của mình nhưng tác động của nó đều là để bù đắp một phần hay toàn bộ tổn thất do hoạt động tín dụng mang lại. 2.3 Ngiệp vụ hoán đổi (SWAP): Đây là một nghiệp vụ để các ngân hàng có thể hoán đổi rủi ro cho nhau hoặc hoán đổi rủi ro giữa các loại tài sản khác nhau. Nghiệp vụ này có thể được minh hoạ bằng ví dụ đơn giản nhất như sau. Ngân hàng A đang có qua nhiều các khoản cho vay ngắn hạn trong khi đó ngân hàng B ở tình trạng ngược lại, họ có quá nhiều các khoản cho vay dài hạn. Ngân hàng A cảm thấy họ quá nhạy cảm với lãi suất ngắn hạn, còn ngược lại ngân hàng B lại quá nhạy cảm với lãi suất dài hạn, một sự biến động trong lãi suất ngắn hay dài hạn đều có thể khiến cho hai ngân hàng này gặp rủi ro tín dụng không lường hết được. Để giải quyết tình trạng này, ngân hàng B và A đã quyết định trao đổi một số món vay ngắn hạn, thứ mà A đang thừa, lấy một số món vay dài hạn, thứ mà B đang thừa. Việc này đã làm cho cả hai ngân hàng đã có một cơ cấu cho vay lợp lí hơn, ít nhạy cảm với một biến số hơn, và đa dạng hoá được các loại tài sản, do đó mà giảm được rủi ro tín dụng. Trên thực tế, nghiệp vụ hoán đổi có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, đa dạng và phức tạp hơn, nhưng nhìn chúng đó đều là những ngiệp vụ để phân tán chia sẻ rủi ro và đa dạng hoá các hình thức tài sản. Trên đây, chúng ta đã cùng nghiên cứu về các nghiệp vụ phái sinh và tác động của nó đến công tác phòng chống rủi ro tín dụng. Đó là những công cụ ra đời đáp ứng những nhu cầu tất yếu của thị trường của các đối tác tham gia thị trường, nhằm tối đa lợi ích và giảm thiểu rủi ro. Chúng có những mặt mạnh nhưng không phải là không bộc lộ những điểm yếu cố hữu. Công cụ phái sinh bản thân nó cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định, vì chúng đều dựa trên những phân tích, dự đoán của mỗi cá nhân về tuơng lai, mà những dự đoán thì có thể đúng hoặc sai. Hơn nữa, bản thân thị trường công cụ phái sinh còn là một thị trường nhiều biến động, nhiều nơi chưa có những qui định pháp lí cụ thể về hoạt động của loại nghiệp vụ này. Và cuối cùng so với qui mô và tầm vóc của quan hệ tín dụng trong ngân hàng thì qui mô của thị trường này còn quá nhỏ bé nên tác dụng của nó còn nhiều hạn chế. Nhưng dẫu sao đây cũng là một công cụ giúp các ngân hàng giảm bớt phần nào rủi ro của mình, và để nâng cao hiệu quả của loại công cụ này chúng ta cần áp dụng chúng một cách hợp lí, toàn diện đúng lúc và đúng chỗ. IV. Các công tác khác ngân hàng cần xem xét và thực hiện: Sau đây là những công tác tổng thể hơn so với những công tác đã nêu ở trên, chúng không chỉ có tác dụng đối với phòng chống rủi ro tín dụng mà là tất cả các rủi ro khác của ngân hàng. Trước hết, đó là yếu tố con người, do các hoạt động ngân hàng diễn ra ngày một đa dạng phức tạp, nền kinh tế vận động với tốc độ mỗi ngày một nhanh nên đòi hỏi các nhân viên ngân hàng nói chung và các nhân viên làm công tác tín dụng nói riêng cần phải không ngừng nâng cao trình độ, trau dồi khả năng tư duy phân tích để hoàn thiện bản thân và thích ứng với tình hình mới. Hơn nữa, những con người này cần phải được bố trí, tổ chức sao cho hợp lí, phát huy được thế mạnh của từng người, có như vậy thì ngân hàng mới có thể vận hành trơn tru, và đạt hiệu quả tối đa. Công tác đào tạo, nâng cao trình độ và công tác quản lí nhân sự hay con người chính là con đường duy nhất để đạt được các mục tiêu trên. Tiếp theo đó là yếu tố công nghệ, mỗi ngân hàng phải đặc biệt chú trọng vào đầu tư công nghệ, cơ sở vật chất kĩ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Có như vậy mỗi ngân hàng mới có thể theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế cũng như ngành công nghiệp ngân hàng. Một cơ sở vật chất đầy đủ hiện đại là điều kiện kiên quyết cho khả năng kiểm soát tốt cũng như để các hoạt động nghiệp vụ có thể diễn ra nhanh và chính xác. Các ngân hàng cần nâng cao công tác kiểm soát nội bộ, thực hiện chế độ kiểm toán kế toán công khai, cơ cấu và tổ chức các phòng ban sao cho khoa học tránh chồng chéo chức năng gây lộn xộn, thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh các nhân tố bên trong, ngân hàng cũng cần có những yếu tố bên ngoài để có thể làm tốt công tác của mình, đó là các yếu tố về môi trường thể chế và pháp luật. Chúng ta cần có một môi trường pháp luật thống nhất, phạm vi điều chỉnh rõ ràng với những qui định cụ thể hơn, một môi trường luật pháp thông thoáng, thích ững với thời kì đổi mới hiện nay. Nhưng như vậy không có nghĩa là chúng ta có quyền lơi lỏng, tạo nhiều kẽ hở cho kẻ gian lợi dụng. Cần có những biện pháp xử phạt nghiêm minh với các quan chức ngân hàng thoái hoá, biến chất, nâng cao công tác thanh tra, giám sát việc thực hiện các qui chế trong các ngân hàng nhằm sớm phát hiện những trường hợp vi phạm và xử phạt thích đáng. Quá trình cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa cũng hết sức quan trọng,nó giúp ngân hàng giảm bớt chi phí quản lí, giúp các cơ quan nhà nước nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát. Trên đây là một số công tác mà các NHTM cần thực hiện để có thể nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng. Phần C: Thực trạng nguy cơ và các giải pháp đối với RRTD của NHTM Việt Nam: I. Một số nguy cơ và vấn đề còn tồn đọng: Trong thời kì đổi mới, thực hiện tích cực và triệt để đường lối đổi mới toàn diện của ngành ngân hàng, công tác tín dụng tại các NHTM đã có những bước phát triển tiến bộ đáng ghi nhận. Đó là khả năng huy động vốn được cải thiện, các hình thức cho vay mới xuất hiện linh hoạt và phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, thủ tục cho vay được cải thiện theo hướng đơn giản hoá và những tiến bộ khác . Tuy nhiên không phải là đã hết những tồn tại vướng mắc trong quá trình làm tín dụng của các ngân hàng thương mại. Thực tế cho thấy, hiện tượng nợ quá hạn tại nhiều ngân hàng Việt Nam còn quá cao, đây là điều cảnh báo lớn nhất đối với NHTM Việt Nam, đến 31/12/2000, tỉ lệ nợ quá hạn của toàn hệ thống ngân hàng là 11,4% trên tổng dư nợ cho vay, tỉ lệ nợ xấu chưa được cải thiện . Trong khi đó, công tác phòng ngừa rủi ro tại các NHTM lại tỏ ra yếu kém, không khả thi. Trong một cuộc khảo sát nhằm nghiên cứu hoạt động quản trị tín dụng ở các ngân hàng Việt Nam, có đến 95% NHTM chỉ thiết lập được chiến lược quản trị rủi ro tín dụng một cách tổng quát, còn mang nặng tính hình thức, chỉ có khoảng 5% là thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Hơn nữa, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế nước ta nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng đang đứng trước những nguy cơ và vận hội phát triển rất lớn việc xác định và phòng ngừa rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng trở thành một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Chúng ta hãy cùng xem xét một số nguy cơ sau đây: Trước hết, đứng trên phương diện toàn bộ hệ thống NHTM, trong những năm tới phòng ngừa rủi ro hối đoái và kì hạn có lẽ là những nhiệm vụ trọng tâm. Tất nhiên ở thời điểm hiện tại, vấn đề này có vẻ như không nhức nhối bằng các vấn đề như cuộc cạnh tranh lãi suất trong nước, nạn ứ vốn cho vay… nhưng dẫu sao đó là những vấn đề trong nước và trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của đảng và nhà nước ta tình hình đã bước đầu có những bước tiến khả quan. Còn trên một phương diện khác, phương diện quốc tế và với một cái nhìn xa hơn, chúng ta phải ý thức được những nguy cơ đang gần kề khi xu hướng mở cửa hội nhập với nền kinh tế toàn cầu của nước ta ngày một rõ rệt. Chúng ta đang tích cực chuẩn bị gia nhập WTO, AFTA và nhiều tổ chức kinh tế quốc tế khác, mà mở cửa nghĩa là chúng ta phải chấp nhận một cuộc cạnh tranh theo cơ chế thị trường khốc liệt hơn. Với những chính sách kinh tế mới, nguồn vốn chảy từ nước ngoài vào nước ta sẽ ngày một nhiều, dưới nhiều hình thức và tất nhiên là có cả hình thức cho vay quốc tế. Hệ thống NHTM chính là một đầu mút quan trọng trong quá trình luân chuyển của các món vay ngoại tệ đến với các doanh nghiệp Việt Nam. Diễn biến trong thời gian qua cho thấy, khối lượng vay bằng đồng ngoại tệ ngày một tăng, trong khi đó, chúng ta lại chủ yếu cho vay bằng nội tệ, bên cạnh đó là tình hình tỉ giá biến động phức tạp với biên độ khá lớn, chưa kể đến những bất cập do chính sách tỉ giá, tiền tệ của ta chậm đổi mới. Và nếu như nhìn lại những gì đã xảy đến với Đông á và Nam Mĩ thì đó chính là những điều kiện ban đầu sơ khai để có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế. Như chúng ta đã biết, việc vay ngoại tệ rồi cho vay bằng nội tệ với qui mô lớn sẽ khiến các ngân hàng sẽ trở nên rất nhạy cảm với tỉ giá. Mặt khác, khi lượng vốn cho vay nội tệ tăng cao, cung nội tệ tăng, sẽ làm mất giá đồng nội tệ, và nếu tệ hơn nữa khi các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ càng khiến nội tệ mất giá mạnh thì những khoản vay ngoại tệ trên sẽ trở thành những sức ép rất lớn đối với ngành ngân hàng. Thực tế, chúng ta có thể thấy được những nguy cơ đó trong thời gian qua, đó là việc giá USD tăng khá mạnh, trong khi mặt bằng giá cả hàng hoá nhập khẩu giảm, lãi suất cho vay trong nước thấp, hiện tượng ứ đọng vốn triền miên, nền kinh tế giảm phát v.v Nhất là trong thời gian vừa qua, trong đợt cắt giảm lãi suất liên tục (1999-2000), chúng ta đã thấy được phần nào khả năng cạnh tranh của các NHTM trong nước còn rất hạn chế so vơí các ngân hàng nước ngoài, liệu có hợp lí không khi các ngân hàng của chúng ta cứ đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước, của pháp luật trong khi lại muốn gia nhập thị trường quốc tế, muốn đề cao cạnh tranh. Tất nhiên, nhu cầu về vốn cho sự phát triển là một nhu cầu chính đáng và tất yếu của một nền kinh tế đang phát triển như nước ta, chính sách thu hút vốn nước ngoài là đúng đắn và những dấu hiệu trên đây mới chỉ là những dấu hiệu ban đầu, chưa thực sự rõ ràng, nhưng ngay từ bây giờ các NHTM đã cần phải có những chiến lược cụ thể và hiệu quả để phòng ngừa. Với một cơ chế tương tự, bên cạnh sự mất cân băng về cơ cấu của nội tệ và ngoại tệ thì sự mất cân bằng về kì hạn các khoản vay cũng là một điểm mà chúng ta đáng lưu tâm. Khi các khoản vay nước ngoài vào NHTM ngày một nhiều một vấn đề đặt ra là, do sự lạ lẫm đối với một thị trường mới như Việt Nam, lạ lẫm về các yếu tố chính sách, luật pháp, môi trường,.. các khoản vay nước ngoài sẽ chủ yếu là ngắn hạn để hạn chế rủi ro, nhưng do yêu cầu về đầu tư đối với một nền kinh tế non trẻ chủ yếu là các khoản đầu tư dài hạn nên các ngân hàng sẽ phải cho vay trong nước với thời hạn dài hơn. Điều này làm tăng độ nhạy cảm của ngân hàng đối với kì hạn của khoản vay và trong một điều kiện bất lợi nhất định, vốn sử dụng không đạt hiệu quả chẳng hạn, việc cho vay như trên sẽ là một sức ép đáng kể lên các ngân hàng. Trên đây là những nguy cơ của tương lai, bây giờ chúng ta sẽ xem xét các vấn đề nóng bỏng hơn đã và đang diễn ra trên thị trường tín dụng Việt Nam. Đó là căn bệnh ứ đọng vốn trầm kha đối với các ngân hàng, đi kèm với nó là những đợt cắt giảm lãi suất triền miên. Đọng vốn cho vay thì đương nhiên ngân hàng phải giảm lãi luất để có thể cho vay được vốn để bù đắp chi phí huy động và các chi phí quản lí khác. Tuy nhiên việc cắt giảm lãi suất cho vay thường đồng nghĩa với việc nới lỏng các qui chế tín dụng, do vậy phải chấp nhận một tỉ lệ rủi ro cao hơn. Và khi mà lãi suất cho vay thấp, những người vay vốn sẽ rất dễ lâm vào tình trạng rủi ro đạo đức, sử dụng vốn không đúng mục đích và không hiệu quả, điều này tác động xấu trở lại ngân hàng, đó là tỉ lệ lợ quá hạn, nợ xấu và cho vay không hiệu quả tăng lên. Nguyên nhân của những hiện tượng này thì có nhiều, cả chủ quan và khách quan, vĩ mô và vi mô. Đó có thể là do sự ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới với những diễn biến xấu trong thời gian qua, các cuộc khủng hoảng, sự suy giảm của nền kinh tế Mĩ, một số nước đang trong quá trình tái cơ cấu v.v Trong nước là do thiên tai, do sự bỡ ngỡ trên con đường hội nhập, nhất là do những chính sách tiền tệ, tài chính còn cứng nhắc chưa đáp ứng kịp thời những nhu cầu thời đại. Ngay tại ngân hàng, đó có thể là do cơ sở vật chất kĩ thuật còn thấp kém, đội ngũ nhân viên trình độ còn hạn chế, một số tha hoá biến chất, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng, và đặc biệt là khi các NHTM của nước ta đặt dưới sự cạnh tranh của các ngân hàng quốc tế khi mà tiềm lực hai bên chưa cân xứng. Nói tóm lại, để có thể cải thiện tình trạng hiện tại, phòng ngừa những nguy cơ tương lai đảm bảo cho sự hoạt động hiệu quả của tín dụng ngân hàng cũng như sự phát triển bền vững của nền kinh tế chúng ta cần phải thi hành tổng hợp các biện pháp trên mọi phương diện, cần có sự góp sức của các cấp các ngành và toàn dân ta. II. Các giải pháp tham khảo chủ yếu: Trước hết, chúng ta cần tiến hành đổi mới, cải tiến hệ thống tài chính quốc gia theo hướng hoàn thiện hơn. Đó là việc tào ra một khung pháp lí rõ ràng, nhất quán cho việc tiến hành các hoạt động tín dụng. Việc nghiên cứu và đưa vào thực hiện những văn bản pháp luật điều chỉnh một số quan hệ tín dụng mới, như tín dụng thuê mua v.v còn đối với các văn bản đang có hiệu lực thì cần không ngừng cải tiến, sửa đổi cho hoàn thiện hơn, cũng như nâng cao công tác hiểu và thực hiện các văn bản này cho hợp với những yêu cầu của thời đại. Đối với các chính sách tài chính vĩ mô khác, cũng cần có những thay đổi nhất định, tạo một môi trường thông thoáng, phá bỏ những rào cản vô hình hạn chế công tác tín dụng của các NHTM, như cần linh hoạt hơn trong chính sách dự trữ bắt buộc, lãi suất và tỉ giá, cải tiến các thủ tục thế chấp, thủ tục bảo lãnh v.v có như vậy mới kích thích tạo động lực cho QHTD phát triển mạnh hơn nữa, đồng thời giảm nạ ứ đọng vốn. Tại các ngân hàng, đó là việc nâng cao các trình độ cán bộ, đội ngũ quản lí, nâng cao chất lượng quá trình kiểm tra kiểm sát, kịp thời phát hiện và đấu tranh với những biểu hiện vi phạm. Bên cạnh đó là việc đầu tư đổi mới công nghệ, cơ sở vật chất kĩ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin để có thể theo kịp sự phát triển chung của ngành ngân hàng trên thế giới. Không những thế, nhà nước cần nâng cao và phát huy tối đa việc sử dụng các công cụ nợ nhà nước như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, coi đó như là những công cụ giúp ngân hàng có thể phòng chống rủi ro đáng kể trong điều kiện thị trường phái sinh chưa phát triển. Do đa phần các NHTM nước ta hiện nay là các NHTM của nhà nước nên công tác quản lí nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng. Việc thanh lọc, xử lí các cán bộ tha hoá biến chất sẽ giúp tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển ổn định và hiệu quả ncủa các ngân hàng. Trong tương lai, bộ tài chính và các cơ quan chức năng cần chuẩn bị sẵn sàng và tích cực xây dựng một thị trường phái sinh của Việt Nam, đây chưa phải là nhiệm vụ số 1 hiện nay nhưng nó là hướng phát triển tất yếu của tương lai, mà ai nắm được tương lai trước thì kẻ đó là người chiến thắng. Tiếp theo là những hoạt động cụ thể cần tiến hành tại các ngân hàng nhằm kiểm soát và phòng ngừa rủi ro tín dụng. Thực hiện tốt công tác kiểm soát trước cho vay, cần thu thập thông tin nhanh chóng và kịp thời nhất về khách hàng để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn. Tiến hành phân tích tỉ mỉ, theo nhiều cách khác nhau về những mối đe doạ cũng như cơ hội kinh doanh từ môi trường kinh tế, đánh giá sự cạnh tranh trong các doanh nghiệp là khách hàng, giữa những ngân hàng cùng ngành với mình, nghiên cứu nhu cầu của thị trường để đưa ra những sản phẩm mới phù hợp. Đề cao công tác thẩm định dự án về tính khả thi, kế hoạch hoàn trả kết hợp với công tác cho điểm tín dụng đối với khách hàng qua việc phân tích tình trạng tài chính. Kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện tiền vay của khách hàng, xem có đúng mục đích không, có khả thi không để có thể đưa ra giải pháp điều chỉnh phù hợp. Khi cần có thể tư vấn hỗ trợ thậm chí cho vay vốn bổ xung để nâng cao hiệu quả dự án.Thực hiện đa dạng hoá các loại hình cho vay cũng như huy động vốn vay, để làm được điều này các ngân hàng rất cần sự cải tiến về khung pháp lí như đã nói ở trên vì có như vậy, các ngân hàng mới có cơ sở để tiến hành các hoạt động tín dụng mới. Tiến hành một chiến lược quản lí khe hở nhạy cảm một cách năng động, phù hợp với từng giai đoạn, từng hoàn cảnh cụ thể. Đặc biệt chú ý đến việc quản lí khe hở tỉ giá, khe hở kì hạn, và lãi suất, nhất là trong giai đoạn hội nhập sắp tới. Muốn như vậy, mỗi NHTM cần xây dựng cho mình một chiến lược thật cụ thể sao cho có thể quản lí được tài sản có và tài sản nợ trong một thời kì tối đa có thể. Cần xây dựng một chương trình và dự án cụ thể trình lên bộ tài chính và chính phủ phê duyệt về việc thực hiện xây dựng và tổ chức hoạt động cho một thị trường phái sinh. Điều này hiện nay còn đang thiếu, tuy nhiên việc thực hiện nó cũng cần nghiên cứu rất kĩ trước khi áp dụng, vì để có được một thị trường phái sinh phát triển, hệ thống tài chính phải đạt đến một trình độ nhất định. Tiếp theo là tích cực đổi mới, đầu tư vào KHCN xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, đặc biệt và công nghệ thông tin và mạng máy tính, đây là những điều kiện vô cùng cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động một cách toàn diện của ngân hàng. Nói tóm lại, trên đây là một số việc cần làm trước mắt cũng như lâu dài mà các NHTM cần tiến hành để có thể thực hiện tốt công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng, nó cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành các cấp, từ trung ương đến địa phương, trong đó các NHTM đăc biệt là các NHTM quốc doanh là nhân tố quyết định. Khó khăn thì còn nhiều, nhưng trong những khó khăn đó, chúng ta luôn thấy những cơ hội tiềm năng của sự phát triển, vấn đề giờ đây là phải sử dụng kết hợp chúng sao cho đạt kết quả như mong muốn. Và một trong những công tác góp phần tạo nên những thành công đó chính là công tác phòng ngừa RRTD của các ngân hàng. Kết luận Như vậy, chúng ta đã cùng nhìn nhận môt cách khái quát về rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng và các biện pháp phòng ngừa chúng để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM trong tình hình mới. Với những biến động và quá trình phát triển ngày một nhanh của nền kinh tế, cơ sơ lí luận, quan điểm về vấn đề này có lẽ sẽ còn nhiều thay đổi, phát triển theo qui luật tất yếu của nó. Quả thật RRTD là một phạm trù quan trọng trong công tác quản lí, nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM nói chung, đặt trong một tổng thể, nó có những ảnh hưởng nhất định lên các yếu tố khác và ngược lại cũng chịu sự chi phối của nhiều nhân tố trong cũng như ngoài ngân hàng, khách quan cũng như chủ quan. Việc nhận biết và chế ngự được nó không phải là một sớm một chiều, và sẽ còn rất nhiều những thất bại và vấp ngã. Đứng trước những thách thức và vận hội của tương lai, chúng ta cần tích cực nghiên cứu tìm tòi hơn nữa để có thể hoàn thiện cả về lí thuyết cũng như thực hành, để có thể tránh được những sai lầm nhất định, phát hiện ra qui luật và vận dụng nó để có thể thực hiện công tác phòng ngừa RRTD hiệu quả hơn. Nhưng dẫu sao, với những thiếu sót và hạn chế lớn trong nhận thức và tầm hiểu biết của mình, em cũng xin trình bày những cảm nhận, những gì đã thu lượm được qua sách báo, qua quá trình học tập nghiên cứu của bản thân về vấn đề trên. Em hi vọng rằng ở một mức độ nhất định, đề án này cũng giúp chúng ta hiểu thêm về RRTD trong NHTM cũng như giúp em có thể hệ thống lại kiến thức của mình một cách rõ ràng, và khoa học hơn. Em xin một lần nữa được chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã giúp đỡ em thực hiện đề án này, đặc biệt là thầy Đặng Ngọc Đức, người đã dạy em những kiến thức cơ bản về môn học này, và thầy Lê Đức Lữ, người đã hướng dẫn em nghiên cứu và thực hiện đề tài này. Tài liệu tham khảo - Quản trị ngân hàng thương mại (2001) Peter S. Rose. Đại học KTQD và nhà xuất bản tài chính dịch và xuất bản - Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng (1998)Học viện ngân hàng và nhà xuất bản thống kê xuất bản - Tham khảo một số tạp chí ngành khác, như tạp chí ngân hàng, tài chính, thời báo v.v Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0699.doc
Tài liệu liên quan