Phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây cần thực hiện những giải pháp kinh tế chủ yếu sau:
- Hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp, mở rộng diện tích phát triển kinh tế trang trại thông qua tổ chức khai hoang ở các nơi còn quỹ đất chưa sử dụng, khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất, sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất.
- Bảo đảm các yếu tố đầu vào với chất lượng cao, giá cả hợp lý, thực hiện các biện pháp hữu hiệu trong khâu tiêu thụ nông sản hàng hoá.
- Các trang trại cần khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn vốn tự có của mình. Huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong mọi tầng lớp trong tỉnh.
- Đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ quản lý cho chủ trang trại, nâng cao trình độ kỹ thuật cho người lao động của các trang trại.
- Nâng cấp mạng lưới giao thông và năng lực hoạt động của hệ thống thuỷ lợi, hình thành hệ thống các cơ sở chế biến, củng cố chợ nông thôn.
- Nhà nước cần đầu tư cho phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ, khuyến khích các hình thức liên kết và hợp tác trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, tăng cường hoạt động của công tác khuyến nông, khuyến lâm.
- Hình thành và phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, kinh doanh giữa các trang trại.
85 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1586 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng, phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
06 giá trị sản xuất bình quân một trang trại đạt được là 206,5 triệu đồng (tăng 78,94%). Cũng với chỉ tiêu đó năm 2006 tăng so với năm 2005 là 9,0% tương ứng với mức tăng bình quân 18,1 triệu đồng một trang trại (bảng 11).
Nhìn chung giá trị sản xuất bình quân của các trang trại đều tăng, tốc độ tăng mạnh nhất là mô hình trang trại trồng cây hàng năm và trang trại trồng cây lâu năm và trang trại kinh doanh tổng hợp do các mô hình nay hoặc là có chu kỳ kinh doanh ngắn, linh động được đối với những yêu cầu đỏi hỏi của thị trường hoặc là đã trải qua thời kỳ xây dựng cơ bản và chuyển sang thời kỳ thu hoạch với mức sản lượng ngày càng cao và ổn định hơn. Bên cạnh đó trang trại có quy mô diện tích lớn như mô hình trang trại lâm nghiệp ít có sự biến động do đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản và đất đai thường kém mầu mỡ hơn.
Bảng 11: Giá trị sản xuất bình quân của các trang trại tỉnh Hà Tây qua các năm (2004- 2006) ( Đơn vin tính: Triệu đồng)
Mô hình trang trại
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Mức tăng 2006/ 2004 (%)
Mức tăng 2006/ 2005 (%)
Tr. trại trồng cây hàng năm
108,5
125,3
163,7
+50,8
+30,6
Tr. trại trồng cây lâu năm
92,7
115,3
145,9
+57,3
+26,5
Tr. trại chăn nuôi
178,5
181,1
197,5
+10,6
+9,05
Tr. trại lâm nghiệp
50
50
49,0
-2
-2
Tr.trại nuôi trồng thuỷ sản
149,1
207,8
195,2
+30,9
-6,06
Tr. trại kinh doanh tổng hợp
173,6
219,6
236,3
+36,1
+7,6
Bình quân chung
163,5
188,4
206,5
+26,3
+9,6
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây
Trong sản xuất nông nghiệp do tính đặc trưng của nó nên các yếu tố rủi ro từ phía thị trường, từ phía thiên tai dịch bệnh cũng có ảnh hưởng lớn đến doanh thu của các trang trại, và để đánh giá kết quả sản xuât kinh doanh của trang trại thì chỉ tiêu về giá trị sản lượng hàng hoá dịch vụ của trang trại mới chỉ phản ánh được về mặt quy mô mà chưa phản ánh được rõ ràng về mặt hiệu quả, do đó cần phải sử dụng thêm các chỉ tiêu đánh giá khác.
II.2.7.2. Một số chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả kinh tế của các trang trại tỉnh Hà Tây.
Để trả lời câu hỏi “Kinh tế trang trại có thực sự sản xuất hiệu quả hơn các mô hình kinh tế hộ khác?”, và trong các mô hình kinh tế trang trại mô hình nào đã phát huy được tính hiệu quả về mặt kinh tế. Qua điều tra và thu thập số liệu em đã tiến hành nghiên cứu một số chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả về mặt kinh tế của các mô hình trang trại ở tỉnh Hà Tây năm 2006 (bảng 12)
Bảng 12 Một số chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả về mặt kinh tế của các mô hình trang trại ở tỉnh Hà Tây năm 2006
Chỉ tiêu
Mô hình Tr.trại
Giá trị hàng hoá và tỷ xuất giá trị hàng hoá
Giá trị sản xuất hàng hoá dịch vụ trên diện tích (trđ/ha)
Thu nhập trên diện tích (Tr đ/ha)
Giá trị sản xuất hàng hoá trên lao đồng
(trđ/lđ)
Thu nhập trên lao động (trđ/lđ)
Giá trị hàng hoá (trđ)
Tỷ suất (%)
Trang trại trồng cây hàng năm
5894,9
81,59
28,55
16,19
41,51
23,54
Trang trại trồng cây lâu năm
8314,3
88,73
39,78
27,34
29,53
20,30
Trang trại chăn nuôi
126599
95,27
399,28
49,01
145,35
17,84
Trang trại lâm nghiệp
98
72,31
3,55
4,74
5,15
6,89
Trang trại nuôi trồng thuỷ sản
65986
91,12
29,41
8,227
40,11
11,22
Trang trại kinh doanh tổng hợp
118465
89,23
35,73
9,89
63,31
17,53
Chung
325057
84,07
51,66
17,43
49,52
16,71
Nguồn:Báo cáo của Cục thông kê tỉnh Hà Tây
Số liệu từ bảng 12 cho thấy mô hình trang trại lâm nghiệp có giá trị sản xuất hàng hoá/ đơn vị diện tích thấp, chỉ đạt 3,55 triệu đồng/ha do lượng vốn đầu tư trên đây đơn vị diện tích thấp. Mặt khác do các trang trại thuộc mô hình này có diện tích đất đai rộng lớn nhưng kém mầu mỡ trong khi hoạt động của các trang trại lại chủ yếu ở thời kỳ xây dựng cơ bản nên khối lượng sản phẩm chưa cao và chủ yếu là từ chăn nuôi đại gia súc, gia cầm và phần từ cây ăn quả. Khối lượng sản phẩm hàng hoá thấp nhưng do đã có tận dụng được thêm nhiều nguồn thu khác mà không phản ánh vào giá trị hàng hoá nên thu nhập của lao động thực tế cao hơn tỷ suất giá trị hàng hoá/lao động của mô hình này.
Mô hình trang trại chăn nuôi do đặc thù của nó là ít phụ thuộc vào diện tích đất đai nên giá trị sản lượng hàng hoá và thu nhập trên đơn vị diện tích đạt ở mức cao nhất. Thường xuyên sử dụng lao động nên thu nhập trên đơn vị lao động đạt ở mức tương đối cao 17,84 triệu/lao động.
Mô hình trang trại trồng cây hàng nămhhhhhhhhhhhh do tận dụng được lợi thế về ruộng đất và các điều kiện tự nhiên khác, có chu kỳ kinh doanh ngắn hơn nên linh động hơn trong phương hướng sản xuất kinh doanh. Khả năng đáp ứng yêu cầu của thị trường cao hơn nên mặc dù thu nhập trên đơn vị ở mức không cao (16,19 triệu đồng/ha) nhưng thu nhập trên lao động đạt ở mức cao nhất (23,54 triệu đồng/lao động).
Tuy nhiên tỷ suất hàng hoá của các mô hình trang trại vẫn còn chưa cao. Một mặt chứng tỏ tổng giá trị sản phẩm và dịch vụ của trang trại còn ở mức thấp trong khi nhu cầu tiêu dùng nội bộ ở mức cao. Một mặt chứng tỏ chất lượng sản phẩm hàng hoá nông sản nhìn chung còn thấp do đó chưa hấp dẫn được thị trường.
II.3. Một số nhận xét chung từ nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở Hà Tây.
II.3.1. Một số kết quả đạt được của kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây.
- Kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây đã hình thành và có chiều hướng phát triển khá nhanh cả về số lượng cũng như quy mô, những mô hình sản xuất kém hiệu quả đa được thay thế bằng những mô hình mới phù hợp hơn với yêu cầu của thị trường, tận dụng được những lợi thế sẵn có của địa phương, tạo ra khối lượng sản phẩm và giá trị sản phẩm hàng hoá ngày quá ngày càng cao trên đơn vị diện tích, thu hút và giải quyết nhiều công ăn việc làm cho lao động địa phương, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn và tạo ra những tấm gương giàu cho bà con nông dân.
- Trang trại ở tỉnh Hà Tây chủ yếu được phát triển trên cơ sở là kinh tế hộ nên đa số là trang trại gia đình, sử dụng lao động gia đình là chính, nhiều trang trại đã sử dụng lao động làm thuê với quy mô thuê mướn lao động ngày càng tăng.
- Sự phát triển kinh tế trang trại ở Hà Tây đã tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng lớn, chất lượng hàng hoá ngày càng ổn định và được nâng cao, đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nội vùng, trong nước và có khả năng xuất khẩu ra thị trường thế giới, tạo điều kiện để xúc tiến phát triển các ngành kinh tế khác như thương mại dịch vụ,công nghiệp chế biến góp phần thúc đẩy kinh tế của tỉnh nói riêng và kinh tế cả nước nói chung phát triển lên tầm cao mới. Kinh tế trang trại thực sự là nhân tố quan trọng trong việc chuyển đổi tư duy kinh tế tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá gắn liền với cơ chế thị trường ở các vùng nông thôn.
- Trình độ quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh ở các trang trại đã được nâng cao rõ rệt so với kinh tế hộ.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị và tư liệu sản xuất được chú trọng nhằm giảm nhẹ lao động thủ công, nhiều trang trại mạnh dạn áp dụng khoa học công nghệ mới trong sản xuất, sử dụng các loại giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, với phương pháp sản xuất kinh doanh tiến bộ.
Đạt được kết quả như trên là do ba nguyên nhân chủ yếu sau đây:
+ Có sự quan tâm của Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền thông qua những cơ chế chính sách thiết thực như chính sách về quy hoạch, chính sách về phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách đất đai, chính sách về vốn vay cho các trang trại, chính sách về phân bón, chính sách về thị trường…..
+ Hà Tây là địa phương có nhiều lợi thế trong việc xây dựng và phát triển các loại mô hình kinh tế trang tại như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội…
+ Có sự thay đổi trong nhận thức của một bộ phân người dân về ý chí và quyết tâm làm giàu bằng sản xuất nông nghiệp
II.3.2. Một số hạn chế trong phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây và nguyên nhân.
II.3.2.1 Một số hạn chế trong phát triển kinh tế trang trại tỉnh Hà Tây.
- Các trang trại hình thành và phát triển một cách tự phát, thiếu định hướng chung, chưa có sự quy hoạch phát triển nên chưa khai thác được triệt để những lợi thế sẵn có của vùng. Các vấn đề về môi truờng, xã hội phát sinh do sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại đem lại chưa được chú trọng giải quyết.
- Các chủ trang trại nhìn chung còn non kém trong tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất và tổ chức tiêu thụ sản phẩm, chưa am hiểu về quy luật kinh tế thị trường, Quá trình đầu tư kiến thiết xây dựng thiếu bài bản, trình độ thâm canh chưa cao.
- Sự liên kết hợp tác trong sản xuất kinh doanh giữa các trang trại với nhau và giữa trang trại với các cơ sở sản xuất kinh doanh khác liên quan hầu như chưa có hoặc hợp tác lỏng lẻo không chặt chẽ.
- Đa số các trang trại phát triển theo hướng tổng hợp nên tính chuyên môn hoá thấp, các ngành phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
- Đất đai của các trang trại chủ yếu vẫn còn ở quy mô nhỏ. Quá trình tập trung đất đai cho các trang trại gặp nhiều khó khăn và diễn ra hết sức chậm chạp. Các trang trại hầu hết chưa được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài nên các chủ trang trị còn ái ngại chưa dám dốc toàn tâm toàn lực đầu tư cho trang trại.
- Trình độ ứng dụng khoa học và trang bị cơ sở vật chất hiện đại phục vụ sản xuất của các trang trại đang ở mức thô sơ thấp kém.
- Hầu hết các trang trại đều thiếu vốn sản xuất mặc dù nhà nước đã có chính sách ưu đãi vốn vay cho các trang trại. Tuy nhiên phái các trang trại trên thực tế rất khó khăn khi tiếp xúc nguồn vốn này.
Về nguồn lực lao động mặc dù ở khu vực nông thôn nguồn lực này là rất dồi dào và giá thuê tương đối rẻ song lao động vẫn chủ yếu là lao động phổ thông, không có chuyên môn, làm việc với thói quen nề nếp cũ.
Về thị trường, giá các yếu tố đầu vào phục vụ cho sãn xuất liên tục tăng trong khi giá sản phẩm đầu ra của các trang trại biến động thất thuờng theo chiều hướng không có lợi cho các trang trại. Sản phẩm của các trang trại chủ yếu tiêu thụ trên các thị trường nhỏ lẻ hoặc thông qua các đầu nậu nên thường bị ép giá và không ổn định.
II.3.2. Nguyên nhân chủ yếu
- Chính quyền địa phương mặc dù đả có sự quan tâm nhưng chưa thực sự triệt để đến phát triển kinh tế trang trại ở Hà Tây, thiếu định hướng, quy hoạch dẫn đến các trang trại phát triển chủ yếu tự phát, đất đại của các trang trại chưa được giao quyền sử dụng lâu dài, chưa được xác lập quyền thế chấp vốn vay nên khó khăn về vốn, không huy động được vốn theo yêu cầu của sản xuất làm hạn chế đến sự phát triển các yếu tố sản xuất khác đặc biệt là đầu tư cơ bản của các trang trại.
- Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn chưa được chú trọng dẫn đến hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hàng hoá lớn. Các ngành nghề liên quan đến sản phẩm đầu vào, đầu ra của các trang trại chưa được chú trọn như các ngành nghề về cung ứng và dịch vụ vật tư sản xuất nông nghiệp, các ngành nghề về dịch vụ kỹ thuật, các ngành nghề liên quan đầu ra sản phẩm như bảo quản và chế biến nông sản…mặc dù đã có hình thành nhưng mới chỉ phát triển ở mức thấp.
- Các hoạt động khoa học công nghệ nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, hoạt động khuyến nông trong tỉnh Hà Tây hiệu quả chưa cao đã làm hạn chế việc đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất.
- Trình độ quản lý, tổ chức sản xuất, kinh nghiệm và kiến thức của chủ trang trại chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hàng hoá lớn. Thói quen tiểu nông, thói quen “ăn chắc mặc bền” chưa xoá bỏ được trong tư tưởng của người sản xuất. Các cơ quan chức năng và các ban ngành liên quan chưa có sự quan tâm đến đào tạo nhân lực cho trang trại.
- Sự hợp tác liên kết giữa các trang trại với trang trại, giữa trang trại với các cơ sở chế biến và giữa trang trại với các nhà khoa học chưa được hình thành. Dẫn đến các trang trại thiếu sự hỗ trợ lẫn nhau, thiếu thông tin trong sản xuất kinh doanh, thông tin về kinh tế thị trường. Điều này hạn chế đáng kể đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HÀ TÂY
III.1. Những quan điểm cơ bản về phát triển kinh tế trang trại ở Hà Tây.
Từ nhận thức lý luận về kinh tế trang trại, từ thực tiễn kinh tế trang trại của Việt nam, từ nghiên cứu thực trạng ở Hà Tây, có thể đưa ra các quan điểm cơ bản về phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây như sau:
- Kinh tế trang trại là một trong những hình thức tổ chức sản xuất nông sản hàng hoá chủ yếu trong tương lai ở nước ta và ở tỉnh Hà Tây nói riêng.
- Thực hiện đa dạng hoá các loại hình trang trại ở tỉnh Hà Tây đặc biệt cần chú trọng phát triển trang trại gia đình. Thực hiện đa dạng hoá các loại hình trang trại là việc tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển kinh tế trang trại, tận dụng và phát huy được mọi tiềm lực và sức mạnh trong các tầng lớp dân cư. Chú trọng phát triển kinh tế trang trại gia đình do đây là hình thức phù hợp và tỏ ra ưu việt nhất trong điều kiện nước ta nói chung và ở tỉnh Hà Tây nói riêng hiện nay.
- Đa dạng hoá các mô hình sản xuất kinh doanh của trang trại trên cơ sở chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất, phát huy lợi thế so sánh ở mỗi vùng của tỉnh. Chuyên môn hoá và tập trung hoá là biểu hiện của phát triển sản xuất kinh doanh theo quy hoạch vùng nhằm tạo ra khối lượng hàng hoá lớn, chất lượng hàng hoá cao, cung cấp cho thị trường. Đa dạng hoá các mô hình sản xuất kinh doanh biểu hiện phương hướng sản xuất của trang trại nhằm tận dụng được mọi lợi thế nguồn lực sẵn có của trang trại, tạo ra nhiều sản phẩm với cơ cấu chủng loại, phân cấp đa dạng đáp ứng yêu cầu của thị trường tốt nhất.
- Phát triển kinh tế trang trại trên mọi vùng của tỉnh, trước mắt tập trung phát triển ở vùng Ba Vì và vùng đồi gò – vùng có quỹ đất nông, lâm nghiệp chưa sử dụng còn nhiều; đồng thời khuyến khích phát triển kinh tế trang trại ở vùng chiêm trũng và những địa phương có nghề mỹ nghệ và tiểu thủ công nghiệp phát triển.
- Trong phát triển kinh tế trang trại, cùng với việc phát huy nội lực trong nông nghiệp, nông thôn cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước. Phát huy nội lực một mặt tạo ra tính chủ động và bền vững một mặt tạo ra sức hút từ các ngành, các lĩnh vực khác đầu tư vào nông nghiệp. Cần có sự hỗ trợ của nhà nước vì kinh tế trang trại nói riêng, kinh tế nông nghiệp nói chung là lĩnh vực kinh tế dễ bị tổn thương và thua thiệt nhưng lại có vai trò hết sức to lớn đối với đất nước và toàn bộ xã hội. Sự hỗ trợ của nhà nước là việc bù đắp lại một phần chênh lệch giữa giá trị thực tế mà các trang trại đả tạo ra so với phần mà xã hội đã chi trả. Sự hỗ trợ của nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển đúng hướng, bền vững và hiệu quả.
III.2. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây trong thời gian tới.
Từ những quan điểm như đã trình bày ở trên, từ kết quả nghiên cứu ở các chương trước có thể xác định phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây trong thời gian tới như sau:
Phát triển mạnh mẽ và đa dạng kinh tế trang trại theo hướng tập trung, chuyên môn hoá đáp ứng nhu cầu thị trường, trước hết tập trung ở những nơi có điều kiện khai thác và sử dụng đất đai.
Hướng phát triển sản xuất kinh doanh chủ yếu của các trang trại trên các vùng là:
+ Vùng núi tập trung phát triển mô hình trang trại lâm nghiệp tận dụng trồng cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày ở những nơi có đất đai màu mỡ kết hợp với chăn nuôi đại gia súc.
+ Vùng đồi gò chú ý phát triển cây ăn quả như nhãn, vải và các loại cây trồng lâu năm khác. Tuỳ theo điều kiện đất đai, khí hậu của vùng mà có sự kết hợp với chăn nuôi gia súc như bò sữa, dê sữa, nuôi trồng thủy sản ở các hồ đầm...
+ Vùng đồng bằng tập trung phát triển các loại cây ngắn ngày như cây công nghiệp ngắn ngày, cây lương thực, kết hợp với chăn nuôi gia cầm, gia súc và thuỷ sản. Chú ý đến phát triển các loại cây con có giá trị kinh tế cao, đặc sản cung cấp cho thị trường Hà Nội.
- Nâng cao chất lượng nông sản và giảm giá thành nông sản phẩm của các trang trại trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, trước hết là khâu giống và quy trình sản xuất khoa học.
- Do đặc điểm của hoạt động thị trường, tính cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại và sản phẩm thay thế rất cao. Do đó, muốn sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao một mặt phải chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm mặt khác phải thực hiện đa dạng hoá chủng loại, mẫu mã sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng của thị trường.
- Tiến hành xúc tiến và mở rộng các thị trường tiêu thụ hàng hoá nông sản trong vùng, trong nước và ở thế giới. Trong khâu tổ chức tiêu thụ sản phẩm nông sản cần đặc biệt chú trọng đến vai trò của công nghiệp chế biến. Đầu tư, khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, tạo mối liên hệ tốt giữa các cơ sở chế biến với các trang trại.
Do đặc thù của sản phẩm nông sản hàng hoá là khó bảo quản, nhanh hỏng, nơi sản xuất cách xa nơi tiêu thụ, không thích ứng được một cách linh hoạt trước nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Công nghiệp bảo quản và chế biến có khả năng khắc phục được những nhược điểm đó đồng thời công nghiệp chế biến sẽ là thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra ổn định bền vững cho các trang trại.
III.3. Những giải pháp kinh tế chủ yếu phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây
III.3.1 Giải pháp về đất đai
Đất đai, về mặt kinh tế, là một tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế của sản xuất nông nghiệp và là yếu tố hàng đầu của quá trình hình thành và phát triển trang trại.
Những năm tới, để thúc đẩy kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây phát triển mạnh hơn nữa cần tập trung giải quyết tốt một số vấn đề có tính then chốt về đất đai sau đây:
- Hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp.
Quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp là cơ sở quan trọng cho việc bố trí sản xuất nhằm khai thác tốt các lợi thế trong vùng, mặt khác giúp cho các địa phương tiến hành giao đất cho các đơn vị kinh tế, các tổ chức, các hộ gia đình trong đó có các trang trại được thuận lợi. Đối với kinh tế trang trại, quy hoạch sử dụng đất đai nói chung, đất nông, lâm nghiệp nói riêng còn giúp cho chủ trang trại lựa chọn, xác định phương hướng sản xuất kinh doanh hợp lý, phù hợp với sự phát triển kinh tế trong vùng. Xuất phát từ yêu cầu đó các địa phương cần phải tiến hành rà soát lại quỹ đất nông, lâm nghiệp hiện có để hoàn thiện quy hoạch chi tiết, định hình quy mô các vùng chuyên môn hoá tập trung sản xuất sản phẩm hàng hoá như vùng cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm…
Vùng núi Ba Vì có thể phát triển trồng rừng, cây công nghiệp (chè, cà phê), cây ăn quả và chăn nuôi đại gia súc.
Vùng đồi gò có thể phát triển các vùng sản xuất chuyên môn hoá như vùng cây ăn quả dọc đường 21 từ Sơn Tây đến Mỹ Đức; vùng cây lâm nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc ở Sơn Tây; vùng chăn nuôi gà công nghiệp ở Chương Mỹ, Quốc Oai…
Vùng đồng bằng có thể phát triển các vùng cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi thuỷ cầm, nuôi trồng thủy sản....
- Khuyến khích mở rộng diện tích phát triển kinh tế trang trại bằng các chính sách khuyến khích khai hoang ở các nơi còn quỹ đất chưa sử dụng.
Để hình thành trang trại, ruộng đất phải được tập trung đến một quy mô nhất định, đặc biệt là mô hình trang trại trồng trọt, chăn nuôi đại gia súc…cần có diện tích đất đủ lớn mới phát triển sản xuất được. Ở tỉnh Hà Tây, quỹ đất chưa sử dụng còn nhiều, giải pháp chính để mở rộng diện tích đất đai cho phát triển kinh tế trang trại là thực hiện khai hoang đưa đất trống, đồi trọc, mặt nước chưa sử dụng vào sản xuất.
Để khuyến khích khai hoang, các địa phương trong tỉnh cần chú trọng hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng trên khu đất khai hoang, đồng thời, địa phương cần áp dụng các biện pháp khuyến khích các chủ trang trại tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi…). Địa phương cần áp dụng chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất trong thời hạn tối đa theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể, các địa phương cần quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp cụ thể trên địa bàn địa phương quản lý, giao đất hoang hoá, đất chưa sử dụng cho những người có nguyện vọng và điều kiện sản xuất để khai hoang,phục hoá và đưa vào sản xuất nông nghiệp. Nếu vùng nào quỹ đất hạn chế, nhiều người có nguyện vọng khai hoang thì địa phương tổ chức đấu thầu công khai để chọn những hộ có khả năng sinh lợi cao nhất.
Căn cứ vào thực tế đất chưa sử dụng trong vùng thì cần phải khuyến khích khai hoang để mở rộng diện tích phát triển trang trại tại các địa phương. Bên cạnh việc khai hoang, các địa phương cần nhanh chóng khắc phục tình trang manh mún ruộng đất để tạo điều kiện cho các hộ nông dân có điều kiện đi vào sản xuất tập trung để đi lên kinh tế trang trại được thuận lợi.
- Trên cơ sở quy hoạch, các địa phương cần có kế hoạch hướng dẫn chuyển đổi đất đai, đồng thời khuyến khích các hộ nông dân chuyển đổi thành những khu đất tập trung, khuyến khích các hộ có thu nhập ổn định từ các ngành, nghề khác chuyển nhượng ruộng đất nhằm tập trung đất đai cho những người có khả năng sử dụng đất đai có hiệu quả cao, đó chính là các chủ trang trại.
Để khuyến khích các hộ chuyển nhượng, chuyển đổi đất nông nghiệp, trước mắt chính quyền địa phương cần nhanh chóng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ nông dân, phân loại đất tỷ mỷ để có cơ sở thuận lợi cho việc xác định giá chuyển nhượng. Địa phương cần có chính sách hỗ trợ những chi phí phát sinh ngoài phí chuyển nhượng theo quy định của pháp luật cho các hộ, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về hành chính cho họ trong việc chuyển nhượng, chuyển đổi đất đai.
Trong thời gian tới ở tỉnh Hà Tây có thể khuyến khích tập trung ruộng đất trong mỗi hộ nông dân bằng cách hướng dẫn và tạo mọi điều kiện cho các hộ nông dân chuyển đổi ruộng đất cho nhau để tạo những khu đất liền bờ, liền khoảng: tạo cơ sở bước đầu cho trang trại hình thành ở những địa phương có nhiều hộ nông dân chuyển sang kinh doanh dịch vụ hoặc làm ngành nghề thủ công khác có thu nhập kinh tế cao hơn sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên phương hướng lâu dài để bảo đảm cho việc tập trung ruộng đất phát triển kinh tế trang trại, các địa phương cần phải khuyến khích và tạo mọi điều kiện các hộ gia đình mở mang các ngành nghề có thể phát triển vững chắc để thu hút lực lượng lao động làm nông nghiệp chuyển sang các hoạt động khác. Việc tập trung đất đai phải được tiến hành một cách thận trong đặc biệt là ở các vùng đồng bằng, phải được quản lý, kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, tránh tự phát.
- Sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất.
Sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai là một trong những nội dung quan trọng của kinh tế nông nghiệp. Để thực hiện tốt mục tiêu này, các trang trại cần xác định được phương hướng sản xuất phù hợp trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp của vùng. Sản xuất theo hướng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp để khai thác đầy đủ đất đai. Lựa chọn cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, không ngừng đầu tư thâm canh áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất.
Khai thác đầy đủ đất đai phải đi đôi với việ sử dụng hợp lý đất đai. Nhìn chung, đất đai Hà Tây có độ phì khá, tuy nhiên nhiều trang trại tiến hành sản xuất trên các khu đất xấu, độ phì thấp, nguy cơ bị ngập úng cao do phân lỹ hoặc ngập úng cục bộ, nhiều diện tích trong tình trạng xói mòn và đá ong hoá cao. Vì vậy các trang trại cần chú ý đến cải tạo, bảo vệ đất trong quá trình sản xuất bằng các biện pháp thâm canh để nâng cao năng suất cây trồng; đồng thời bồi dưỡng cải tạo đất, bố trí cây trồng hợp lý để chống xói mòn bảo vệ đất. Nhà nước cần chú ý đến công tác thủy lợi trên địa bàn Hà Tây. Một trong các nhân tố quan trọng để khuyến khích các trang trại khai thác hợp lý đất đai là chính quyền địa phương cần nhanh chóng hoàn thành giao đất lâu dài gắn với quyền sử dụng đất cho các chủ trang trại để các chủ trang yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
III.3.2. Giải pháp thị trường:
Kinh tế trang trại hình thành và phát triển sẽ tạo nên các vùng sản xuất chuyên môn hoá, tập trung cao. Vai trò của thị trường đối với việc cung cấp các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra có ý nghĩa quyết định trong sự phát triển ổn định bền vững về kinh tế của các trang trại. Giải pháp thị trường cho kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây nhằm vào các mục tiêu chủ yếu sau:
- Bảo đảm đầy đủ, kịp thời các yếu tố đầu vào với chất lượng cao, giá cả hợp lý.
- Tiêu thụ hết nông sản hàng hoá do các trang trại sản xuất ra với giá cả hợp lý, trang trại luôn có lãi.
Để đạt được các mục tiêu trên cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
- Đối với thị trường các yếu tố vật tư đầu vào, cần tổ chức tốt mạng lưới các doanh nghiệp kinh doanh vật tư, nguyên liệu nông nghiệp đảm bảo chất lượng, cơ cấu vật tư phù hợp với yêu cầu của sản xuất nông nghiệp nói chung và của sản xuất ở các trang trại nói riêng. Căn cứ vào khả năng cung ứng của thị trường, các trang trại ký kết các hợp đồng kinh tế với các cơ sở kinh doanh có uy tín để mua được những vật tư, nguyên liệu có chất lượng tốt, giá cả hợp lý đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của trang trại.
- Đối với thị trường sản phẩm đầu ra, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các giải pháp vĩ mô của Nhà nước và hoạt động của các doanh nghiệp thương mại, chế biến với các giải pháp về phía các trang trại, cụ thể là:
Về phía Nhà nước, thương mại và các cơ sở chế biến:
+ Nhà nước cần tổ chức tốt hệ thống các kênh lưu thông nông sản phẩm. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo ra sự năng động, sự cạnh tranh lành mạnh góp phần bảo vệ lợi ích kinh tế của các trang trại.
+ Tổ chức và củng cố hệ thống chợ nông thôn: Chợ nông thôn là nơi mua bán giữa dân cư nội tỉnh và các sản phẩm với khối lượng lớn chủ yếu từ nông nghiệp trong đó có sản phẩm của các trang trại. Yêu cầu chất lượng sản phẩm ở chợ nông thôn không cao nhưng có vai trò rất quan trọng trong tiêu thụ những sản phẩm tiêu dùng trực tiếp của các trang trại trong giai đoạn trước mắt và lâu dài ngay cả khi công nghiệp chế biến phát triển. Đến tháng 10 năm 2006 toàn tỉnh Hà Tây có 245 chợ, trong đó có 207 chợ nông thôn và 38 chợ thành thị. Phần lớn được xếp vào loại chợ kiên cố, nhưng hầu hết phải tổ chức và củng cố lại do không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm và môi trường.
+ Tổ chức hệ thống thông tin thị trường để cung cấp thông tin cho các chủ trang trại là nội dung quan trọng của hoạt động thị trường. Bên cạnh hệ thống thông tin quốc gia về thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của nông nghiệp, tỉnh Hà Tây cần tổ chức và củng cố tuyến thông tin ở các trạm khuyến nông, định kỳ tổ chức hội thảo về kinh tế trang trại giữa cơ quan khuyến nông huyện, tỉnh với các chủ trang trại. Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Tây cần mở chuyên mục về thông tin thị trường để chuyển tải thông tin dự báo về thị trường hàng tuần, hàng ngày. Giữa các chủ trang trại cần có sự hợp tác để chia sẻ thông tin về nông nghiệp.
+ Cần khuyến khích để các Doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến đối với những sản phẩm có khả năng phát triển với khối lượng lớn như chế biến các sản phẩm từ lúa gạo, từ các sản phẩm thịt của gia súc, gia cầm trở thành những sản phẩm có chất lượng cao, hấp dẫn người tiêu dùng. Cần có biện pháp khuyến khích mở rộng, đầu tư chiều sâu các cơ sở chế biến trong tỉnh đầu tư xây dựng mới một số nhà máy, xí nghiệp chế biến như nhà máy giết mổ gia súc gia cầm và chế biến thịt xuất khẩu, xí nghiệp chế biến cà phê tại Ba vì…Sản phẩm do các trang trại làm ra ngoài việc tiêu thụ dưới hình thức bán trực tiếp trên thị trường tiêu dùng trực tiếp, cần ký kết hợp đồng bán cho các cơ sở chế biến. Đây chính là các giải quyết vấn đề thị trường sản phẩm đầu ra một cách thiết thực và căn bản đối với các trang trại.
+ Thương mại nhà nước cần đảm nhận một số khâu: Làm đầu mối xuất khẩu nông sản; bán buôn, bán lẻ vật tư nông nghiệp tại các thị trấn, thị tứ. Thương mại ngoài nhà nước đảm nhận một số khâu: Làm đầu mối xuất khẩu (với một số ít doanh nghiệp); bán buôn, bán lẻ trên mọi địa bàn; trung gian giữa chủ trang trại với người tiêu dùng trong nước, trung gian giữa chủ trang trại với các đầu mối xuất khẩu nông sản; trung gian giữa chủ trang trại với các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông sản.
Về phía các trang trại:
+ Tích cực, chủ động tìm kiếm thị trường như thị trường trong nước, thị trường khu vực, thị trường tại địa phương để chủ động tiêu thụ sản phẩm. Sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức tiêu thụ sản phẩm như bán buôn, bán lẻ, đại lý, ký gửi…
+Nâng cao năng suất phải chú ý đến nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá bằng việc bố trí sản xuất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp của vùng và phù hợp với nhu cầu tiêu thụ của thị trường, sử dụng giống tốt, thực hiện đầu tư thâm canh, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất sản phẩm sạch với chi phí sản xuất thấp, giá thành hạ.
+ Đa dạng hoá cơ cấu cây trồng, vật nuôi để đáp ứng nhu cầu đa dạng về sản phẩm tươi sống thường xuyên của người tiêu dùng.
+ Đầu tư cho công tác bảo quản nông sản và sơ chế nông sản nhằm giữa cho sản phẩm không bị hư hỏng, mất phẩm chất, đồng thời kéo dài được thời gian tiêu thụ.
III.3.3. Giải pháp về vốn:
Kinh tế trang trại nói chung là một hình thức tổ chức sản xuất nông sản hàng hoá với tỷ suất hàng hoá cao, chấp nhận cạnh tranh ngày càng gay gắt và đặc biệt là luôn vận động theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường, nên càng ngày càng cần tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Đối với tỉnh Hà Tây, nhu cầu vốn để phát triẻn kinh tế trang trại những năm tới rất lớn còn có lý do là các trang trại cần vốn để đầu tư cho khai hoang, cải tạo đồng ruộng, sản xuất kinh doanh, mua sắm trang thiết bị… Vấn đề đặt ra đối với giải pháp vốn là phải đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho trang trại không những về mặt số lượng mà còn cả về thời gian sử dụng vốn để bảo đảm cho các trang trại phát triển ổn định, vững chắc đạt hiệu quả kinh tế cao. Để thực hiện tốt các mục tiêu trên cần phải:
- Các trang trại cần khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn vốn tự có của mình bằng các biện pháp như “Thực hành tiết kiệm” để đầu tư vốn cho sản xuất, kết hợp sản xuất kinh doanh theo phương thức “Lấy ngắn nuôi dài”, quản lý chạt chẽ, sử dụng vốn đúng mục đích, tránh sử dụng lãng phí vốn…Thông qua đó trang trại từng bước tập trung mở rộng quy mô vốn để phục vụ yêu cầu của sản xuất kinh doanh.
- Ngân hàng Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi đối với kinh tế trang trại. Chủ trang trại căn cứ vào yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh để lập các dự án đề nghị các cấp có thẩm quyền phê duyệt cho trang trại vay vốn. Yêu cầu của dự án vay vốn, trước hết phải đảm bảo tính khoa học, đòi hỏi chủ trang trại phải có một quá trình nghiên cứu tỷ mỷ, kỹ càng và tính toán thận trọng, chính xác từng nội dung của dự án. Đồng thời, dự án còn phải đảm bảo tính thực tiễn, các nội dung của dự án phải được nghiên cứu xác định trên cơ sở đánh giá đúng các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của trang trại; dự án phải phù hợp với chính sách và pháp luật của Nhà nước, tuân thủ các quy định chung của các cơ quan quản lý chức năng về hoạt động đầu tư. Do vậy, quá trình lập dự án của chủ trang trại cần có sự tư vấn của các cơ quan chuyên môn và dịch vụ đầu tư trong quá trình soạn thảo dự án. Trên cơ sở dự án khả thi, ngân hàng tiến hành cho các chủ trang trại vay vốn để sản xuất kinh doanh. Việc vay vốn phải bảo đảm kịp thời, thủ tục vay đơn giản, thời hạn vay vốn phải phù hợp với chu kỳ kinh doanh từng loại sản phẩm, lãi suất vay hợp lý nhằm giúp cho trang trại có thể tiếp cận được vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó Ngân hàng cần tăng cường theo dõi, kiểm tra hướng dẫn các trang trại sử dụng vốn đúng mục đích có hiệu quả cao.
- Có chính sách hợp lý để huy động, tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân để đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, tạo lập trang trại, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh bằng các hình thức như: HTX tín dụng, quỹ xoá đói giảm nghèo, vốn vay của các tổ chức hội nông dân, hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên…, hợp tác giữa các trang trại trong sử dụng vốn như góp vốn mua sắm trang thiết bị sản xuất có giá trị lớn, xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ…để phục vụ sản xuất kinh doanh của các trang trại.
- Khuyến khích các hộ có vốn ở thành thị và địa phương khác đầu tư làm kinh tế trang trại ở những vùng đất trống, đồi núi trọc, mặt nước chưa sử dụng bằng việc giao đất, cho thuê đất với điều kiện ưu đãi thoả đáng, miễn giảm thuế.
- Nhà nước hỗ trợ vốn ngân sách cho xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi, hệ thống điện ở địa phương…là những đầu tư đòi hỏi lượng vốn lớn vừa có tác dụng thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trong vùng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại. Đồng thời Nhà nước cần hỗ trợ cho xây dựng các cơ sở chế biến, cho kho tàng, vận chuyển và bao bì , cho nghiên cứu, đào tạo, vườn ươm, dịch vụ lưu thông; trong trường hợp cần thiết. Nhà nước cần có quỹ vốn trợ giá đầu vào và trợ giá nông sản đầu ra cho các trang trại khi cần thiết.
III.3.4. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực của trang trại.
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng nhất trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Trước hết, nguồn nhân lực trong kinh tế trang trại là lao động của chủ trang trại và chính gia đình họ. Nguồn lao động này vừa là lao động trí tuệ, vừa là lao động cơ bắp, vừa là lao động quản lý, vừa là lao động trực tiếp. Có thể coi chủ trang tại là một tầng lớp lao động rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Họ là tấm gương trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Ngoài lao động chính là lao động gia đình chủ trang trại ra, lao động trong các trang trại còn có lao động làm thuê thường xuyên và lao động làm thuê theo thời vụ.
Hiện tại ở tỉnh Hà Tây nguồn cung cấp lao động tương đối dồi dào song chất lượng lao động còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Số chủ trang trại đã được đào tạo từ trình độ sơ cấp kỹ thuật đến bậc đại học chỉ chiếm tỷ lệ thấp so với yêu cầu (chưa đến 60%), số còn lại quản lý trang trại trên cơ sở kinh nghiệm, hiểu biết về hoạt động thị trường và kỹ thuật của họ chủ yếu thông qua kinh nghiệm thực tế và qua nghe đài, đọc báo. Hầu hết lao động gia đình và lao động làm thuê trong các trang trại là lao động thủ công, chưa qua một lớp đào tạo hoặc tập huấn nào. Vì vậy mục tiêu đặt ra là phải tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bao gồm các chủ trang trại, người lao động trong gia đình của chủ trang trại và lao động làm thuê trong các trang trại. Biện pháp để đạt được các mục tiêu trên là:
- Địa phương cần hỗ trợ về kinh phí cho các cơ sở đào tạo mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho các chủ trang trại.
Đối tượng đào tạo gồm các chủ trang trại và những người có nguyện vọng phát triẻn sản xuất kinh doanh theo hướng trang trại. Nội dung đào tạo bao gồm các kiến thức về tổ chức quản trị kinh doanh trang trại như xác định phương hướng sản xuất kinh doanh, tổ chức sử dụng các yếu tố sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, các kiến thức về khoa học kỹ thuật…Hình thức đào tạo phải hết sức phong phú, đa dạng, phù hợp với điều kiện của các đối tượng như đào tạo tập trung tại các cơ sở, tại các nhà trường, mở lớp tại địa phương, tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, tham quan học tập kinh nghiệm các mô hình sản xuất kinh doanh giỏi…Mọi chi phí về đào tạo như giáo vụ, giảng dậy, hướng dẫn…cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, chi phí trực tiếp cho học tập cần có sự đóng góp của các trang trại.
- Đối với người lao động (bao gồm cả lao động của gia đình chủ trang trại và lao động làm thuê), Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề để nâng cao trình độ sản xuất, trình độ kỹ thuật nhằm phục vụ nhu cầu phát triển của các trang trại. Cần dựa vào vai trò của các tổ chức quần chúng (Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân…) và các tổ chức khuyến nông cơ sở thông qua các hình thức như thành lập các câu lạc bộ khoa học kỹ thuật, tổ chức các cuộc thi “tay nghề giỏi”, tập huấn kỹ thuật ngắn hạn…nhằm giúp cho người lao động nâng cao được trình độ hiểu biết và thành thạo về kỹ thuật sản xuất.
- Địa phương cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế trang trại trên các phương tiện thông tin đại chúng như hệ thống loa truyền thanh, các báo đài địa phương…Hình thức tuyên truyền phải thật phong phú, dễ hiểu để người dân tiếp thu và vận dụng vào trong thực tiễn.
- Nhà nước cần sớm ban hành quy chế sử dụng lao động trong các trang trại, hướng dẫn chủ trang trại xây dựng các hợp đồng lao động có tính pháp lý giữa chủ sử dụng lao động với lao động làm thuê để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của người sử dụng lao động và người lao động. Đặc biệt chú ý đối với một số chủ trang trại là Đảng viên sử dụng lao động làm thuê. Trên cơ sở quy chế chung, Đảng và chính quyền địa phương của tỉnh Hà Tây cần nghiên cứu ban hành quy chế sử dụng lao động trong các trang trại phù hợp với điều kiện cụ thể của Tỉnh.
III.3.5. Giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn
Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm hệ thống các công trình phục vụ sản xuất và hệ thống công trình văn hoá, xã hội; trong đó, hệ thống giao thông, hệ thống thuỷ lợi và công nghiệp chế biến có vai trò trực tiếp đối với việc phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá trong đó có sự phát triển của kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây. Trong những năm tiếp theo Hà Tây cần hoàn thành những mục tiêu chính về phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong nông thôn sau đây:
- Xây dựng và nâng cấp mạng lưới giao thông trong tỉnh bao gồm đường liên huyện, liên xã, liên thôn (rải nhựa, đã cấp phối) khắc phục tình trạng đường đất để phục vụ cho việc trao đổi mua bán vật tư hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm, giao lưu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật trong nội bộ vùng và với bên ngoài.
- Nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống thuỷ lợi bằng việc cải tạo nâng cấp các cơ sở sẵn có (hồ đập chứa nước, các trạm bơm đầu nguồn…) xây dựng thêm một số công trình mới, hoàn thiện và bê tông hoá mạng lưới kênh mương nội đồng bảo đảm đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu tưới tiêu trong vùng.
- Hình thành hệ thống các cơ sở chế biến, các chợ nông thôn phục vụ nhu cầu chế biến và tiêu thụ hàng hoá sản phẩm được thuận lợi.
Những mục tiêu trên chỉ được thực hiện thành công bằng những biện pháp cụ thể như:
+ Quy hoạch tổng thể phát triển cơ sở hạ tầng, đồng thời xây dựng các chương trình,dự án đầu tư phát triển các công trình giao thông, thuỷ lợi trong phạm vi từng vùng. Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành phê duyệt quy hoạch và có kế hoạch đầu tư kinh phí xây dựng hàng năm, trong đó cần tập trung ưu tiên cho các công trình trọng điểm, các địa phương còn gặp nhiều khó khăn nhưng có nhiều khả năng phát triển kinh tế trang trại như huyện Ba Vì, Mỹ Đức.
+ Đối với các công trình đòi hỏi vốn lớn có phạm vi ảnh hưởng rộng như hệ thống đường liên huyện, công trình thuỷ lợi đầu nguồn…thì Nhà nước đứng ra đầu tư và xây dựng. Các công trình đường liên xã, liên thôn, hệ thống thuỷ lợi nội đồng thì Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, phần còn lại do các địa phương và huy động sự đóng góp của nhân dân, đồng thời giao cho các cơ sở xây dựng và quản lý.
+ Tăng cường kiểm tra, giám sát tiến độ và chất lượng thi công các công trình để đưa vào hoạt động đúng thời gian với hiệu quả cao.
Một trong những biện pháp đảm bảo chất lượng thi công ở các công trình là làm tốt khâu kiểm tra, giám sát công trình. Công tác kiểm tra, giám sát đòi hỏi phải được xem xét tỷ mỷ của cơ quan chuyên môn ở mọi nội dung trong khâu lập dự án và thiết kế kỹ thuật; kiểm tra, giám sát thường xuyên liên tục trong khâu thi công. Hầu hết các sai sót ảnh hưởng đến chất lượng công trình xẩy ra trong thi công, bên cạnh nguyên nhân về năng lực của cán bộ giám sát, địa bàn thi công rộng…., một nguyên nhân đặc biệt quan trọng là do ý thức trách nhiệm của phía thi công và cán bộ giám sát. Do vậy, công tác kiểm tra, giám sát cần bổ sung thành phần bên cạnh chủ đầu tư là những người dân có hiểu biết về công trình và có trách nhiệm làm nhiệm vụ phát hiện những thiếu sót trong quá trình thi công cho chủ đầu tư.
III.3.6. Giải pháp khoa học kỹ thuật – công nghệ
Việc đầu tư, ứng dụng khoa học kỹ thuật – công nghệ để phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây những năm tới cần chú ý đến các nội dung chủ yếu sau đây:
- Nhà nước cần có sự đầu tư cho phát triển khoa học kỹ thuật – công nghệ trong phạm vi từng vùng như xây dựng các cơ sở sản xuất giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, phẩm chất tốt để đưa vào sản xuất. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới vào công tác bảo quản, chế biến nông sản, đặc biệt đối với các loại sản phẩm dễ bị hư hỏng.
- Khuyến khích các hình thức liên kết và hợp tác trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp trong đó chú ý tới sự liên kết hợp tác giữa các cơ quan khoa học với các trang trại trong tỉnh để nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học - kỹ thuật – công nghệ mới vào các trang trại.
- Tăng cường sự hoạt động của công tác khuyến nông, khuyến lâm, đặc biệt cần nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm cơ sở. Mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về kỹ thuật nông nghiệp, công nghệ sinh học như kỹ thuật chăn nuôi bò sữa, lợn hướng nạc, trồng nấm, bảo quản chế biến nông sản…cho nông dân và các chủ trang trại trong tỉnh, tổ chức các lớp tập huấn ngắn ngày về kiến thức quản lý sản xuất kinh doanh trang trại cho các chủ trang trại.
- Cần hướng dẫn, khuyến cáo cho các trang trại biết cách lựa chọn, bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện môi trường sinh thái từng vùng cũng như phù hợp với quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước để từ đó giúp họ lựa chọn phương hướng sản xuất đúng đắn ngay từ đầu. Hướng dẫn các trang trại kết hợp phát triển sản xuất kinh doanh với việc giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái.
III.3.7. Hình thành và phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, kinh doanh giữa các trang trại.
Đối tượng của ngành sản xuất nông nghiệp là sinh vật gắn với thiên nhiên đầy biến động, nên nhiều khâu công việc của quá trình sản xuất chỉ có thể hoàn thành bởi sự chung sức của nhiều người; nhiều yếu tố sản xuất chỉ có thể tạo ra trong những điều kiện nhất định gắn với những vùng, những khu vực xác định mới đem lại hiệu quả cao đã nảy sinh chuyên môn hoá quá trình sản xuất. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp luôn đòi hỏi sự liên kết và hợp tác giữa những người sản xuất để giải quyết những vấn đề của sản xuất kinh doanh mà từng người tác biệt khó có thể hoàn thành hiệu quả được. Đối với kinh tế trang trại: “Trong điều kiện kinh tế thị trường, chỉ có thể liên kết, hợp tác với nhau thì các trang trại mới có thể sản xuất kinh doanh một cách ổn định và có hiệu quả”.
Để sản xuất ra nông sản phẩm với chất lượng tốt, giá thành hạ và tiêu thụ sản phẩm có lợi nhằm không ngừng phát triển sản xuất kinh doanh và đứng vững trong cạnh tranh, cùng với các giải pháp đã nêu trên,các trang trại cần phải liên kết và hợp tác với nhau và với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Liên kết, hợp tác trong sản xuất kinh doanh là một trong những giải pháp có ý nghĩa quyết định đảm bảo cho kinh tế trang tại ở tỉnh Hà Tây có thể phát triển ổn định trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
Để thúc đẩy sự hình thành và phát triển liên kết, hợp tác trong phát triển kinh tế trang trại trong những năm tới, cần chú ý thực hiện một số biện pháp sau:
- Tuyên truyền để các chủ trang trại hiểu rõ hơn về lợi ích và sự cần thiết của việc liên kết, hợp tác sản xuất kinh doanh của các trang trại trong những năm tới.
- Do tính đa dạng về sản xuất kinh doanh của các trang trại, cần khuyến khích hình thành và phát triển các hình thức liên kết, hợp tác đa dạng giữa các trang trại trong sản xuất kinh doanh. Trong liên kết, hợp tác cần chú ý đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Khuyến khích hình thành và phát triển các hình thức liên kết, hợp tác cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước đối với các tổ chức liên kết, hợp tác về mặt tài chính, tín dụng và hướng dẫn tổ chức cán bộ.
- Khuyến khích các hình thức liên kết, hợp tác giữa các trang trại với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đặc biệt chú ý sự liên kết, hợp tác giữa các trang trại với các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp ở các nội dung: Cung ứng vật tư sản xuất cho trang trại, chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho trang trại, liên kết sản xuất nông sản phẩm với trang trại và tiêu thụ sản phẩm do các trang trại sản xuất ra.
Tóm lại, kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây chỉ được hình thành và phát triển cả về số lượng trang trại cũng như quy mô sản xuất của trang trịa khi có một môi trường thuận lợi. Môi trường sẽ thuận lợi và hoàn chỉnh khi các giải pháp đã nêu ở trên được thực hiện một cách triệt để và đồng bộ.
Bên cạnh yếu tố chủ quan của bản thân các trang trại cần phải đặc biệt chú ý đến những vấn đề về cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước đặc biệt là sự vận dụng thực hiện của các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp ở tỉnh Hà Tây, bao gồm các vấn đề về chính sách đất đai, thị trường, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, chính sách khoa học – công nghệ và công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ năng lực của chủ trang trại cũng như tay nghề cho người lao động và sự liên kết, hợp tác của các trang trại.
C-KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu trên, chuyên đề đã rút ra những kết luận sau:
1. Kinh tế trang trại đã xuất hiện, tồn tại và phát triển trên toàn thế giới. Kinh tế trang trại gia đình đã có được vị trí và vai trò quan trọng trong điều kiện thực tiển nước ta hiện nay nói chung và ở Hà tây nói riêng. Vì vậy, phát triển kinh tế trang trại gia đình ở nước ta và ở tỉnh Hà Tây là một yêu cầu khách quan.
2. Các mô hình kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây rất đa dạng, đã phát huy được lợi thế từng vùng để tạo ra một khối lượng lớn nông sản hàng hoá, tạo việc làm cho nhiều lao động ở nông thôn. Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh ở các chủ trang trại đã được nâng cao một bước, cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị và tư liệu sản xuất đã được chú ý đầu tư.
3. Phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây còn nhiều bất cập: Đất đai của các trang trại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trình độ quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học kỹ thuật, hiểu biết về thị trường của các chủ trang trại còn nhiều hạn chế; sự liên kết, hợp tác trong sản xuất kinh doanh chưa có; tính chuyên môn hoá thấp, tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn; cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị và tư liệu sản xuất thô sơ chưa đáp ứng được yêu cầu cảu sản xuất.
4. Phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây cần phải dựa trên hệ thống quan điểm sau:
- Kinh tế trang trại là một trong những hình thức tổ chức sản xuất nông sản hàng hoá chủ yếu trong tương lai.
- Đa dạng hoá các mô hình sản xuất kinh doanh của trang trại trên cơ sở chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất, phát huy lợi thế so sánh ở mỗi vùng của Tỉnh.
- Cần đặc biệt chú trọng phát triển trang trại gia đình.
- Phát triển kinh tế trang trại trên mọi vùng của tỉnh.
- Cùng với việc phát huy nội lực trong nông nghiệp, nông thôn phải có sự quản lý, hỗ trợ của Nhà nước một mặt nâng cao năng lực phát triển của các trang trại, mặt khác đảm bảo cho các trang trại phát triển đúng hướng tránh hiện tượng tự phát cũng như hạn chế được các mặt trái của nó đối với môi trường và xã hội.
5. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở Hà Tây là: Phát triển đa dạng kinh tế trang trại theo hướng tập trung, chuyên môn hoá; nâng cao chất lượng, giảm giá thành nông sản; từng bước phát triển công nghệ chế biến nông sản; tạo điều kiện phát triển liên kết, hợp tác giữa các trang trại dưới những hình thức đa dạng.
6. Phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Tây cần thực hiện những giải pháp kinh tế chủ yếu sau:
- Hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp, mở rộng diện tích phát triển kinh tế trang trại thông qua tổ chức khai hoang ở các nơi còn quỹ đất chưa sử dụng, khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất, sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất.
- Bảo đảm các yếu tố đầu vào với chất lượng cao, giá cả hợp lý, thực hiện các biện pháp hữu hiệu trong khâu tiêu thụ nông sản hàng hoá.
- Các trang trại cần khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn vốn tự có của mình. Huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong mọi tầng lớp trong tỉnh.
- Đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ quản lý cho chủ trang trại, nâng cao trình độ kỹ thuật cho người lao động của các trang trại.
- Nâng cấp mạng lưới giao thông và năng lực hoạt động của hệ thống thuỷ lợi, hình thành hệ thống các cơ sở chế biến, củng cố chợ nông thôn.
- Nhà nước cần đầu tư cho phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ, khuyến khích các hình thức liên kết và hợp tác trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, tăng cường hoạt động của công tác khuyến nông, khuyến lâm.
- Hình thành và phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, kinh doanh giữa các trang trại.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình môn : Kinh tế nông nghiêp trường Đại học kinh tế quốc dân Hà nội.
Các văn bản pháp luật về kinh tế trang trại, NXB Chính trị Quốc gia (2001).
Nghị quyết 03/2000/NQCP về kinh tế trang trại, Hà nội (2000).
Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá Việt nam . Nguyễn Đình Hương, NXB Chính trị Quốc gia năm 2000 .
Văn bản pháp luật về nông nghiệp và phát triển nông thôn. NXB Chính trị Quốc gia năm 2000.
Tư liệu về kinh tế trang trại. Ban vật giá Chính phủ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh năm 2000.
Cục thông kê tỉnh Hà Tây. Niên giám thống kê (2003-2006).
Kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn và thuỷ sản năm 2006.
Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK , Liên Bộ NN&PTNT- Tổng cục thống kê, Hà nội năm 2000.
Một số webside:
môc lôc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32113.doc