Thứ tư: Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo"Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài"1 cho đất nước, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Cần phải tuyên truyền làm cho mọi người dân thấy được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp chung của đất nước mà quan tâm tới lĩnh vực này Đảng, Nhà nước, các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và từng gia đình đều phải quan tâm tới giáo dục và đào tạo. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp của gia đình, nhà trường, xã hội trong đào tạo thế hệ trẻ. Để đào tạo ra những cán bộ vừa "hồng" vừa "chuyên" có ý thức và năng lực làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, cần phải có sựđổi mới nội dung và phương pháp giáo dục. Nội dung giáo dục phải phản ánh được những tri thức quan trọng nhất của thời đại, những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, phải góp phần giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, hình thành nhân cách mới của người lao động.Phải tích cực đổi mới phương pháp dạy và học. Phương pháp dạy phải kích thích được tính sáng tạo, sự hăng say tìm tòi nghiên cứu của người học. Phương pháp học phải độc lập tự chủ, biết vận dụng kiến thức đã học vào giải thích và giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra.Việt Nam là một nước còn kém phát triển về mặt kinh tế,tuy rằng đã đạt được một số thành tựu trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nhưng so với các nước trong khu vực và quốc tế vẫn còn hạn chế. Số năm học bình quân của người dân còn thấp, tỉ lệ chưa biết chữ còn cao, do vậy, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa.
Thứ năm: Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật.Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta đã khẳng định, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Văn hoá nghệ thuật nước ta trước đây đã phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; đã động viên được nhân dân tích cực tham gia trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những năm đổi mới vừa qua văn học, nghệ thuật nước ta đã có những đổi mới về nội dung, hình thức, đã động viên được nhân dân tích cực tham gia sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Song bên cạnh đó văn học nghệthuật vẫn còn một bộ phận đi chệch hướng, chạy theo thị hiếu thấp hèn, dễ dãi của một bộ phận thanh niên thiếu giáo dục.Đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, phê phán những tư tưởng phản động đang tìm cách phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. "Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" "Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, tạo sự thống nhất cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân" đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức, lối sống. rước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi các nhà văn, nhà thơ, các nhạc sĩ, các nghệ sĩ phải nâng cao trách nhiệm của mình trong sáng tác, biểu diễn, không vì đồng tiền mà bán rẻ lương tâm, vô trách nhiệm với đất nước.Dư luận xã hội phải lên tiếng ủng hộ những tác phẩm có nội dung, hình thức hay, phê phán những tác phẩm có nội dung, hình thức dở. Cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý của Nhà nước trong hoạt động sáng tác, biểu diễn, sao cho văn học nghệ thuật phải cổ vũ cho cái hay cái đẹp, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao những giá trị nhân văn, phát huy những giá trị tốt đẹp trong con người Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta phải chăm lo tới việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng và phát huy có hiệu quảnguồn lực con người Việt Nam, tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, nhanh chóng thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng, phương hướng xây dựng và phát triển nguồn nhân lực con người ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng phú và đa dạng của mỗi cá nhân về phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
1.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thể giới tự nhiên, không có lịch sử thì không tồn tại con người.Bởi vậy con người là sản phẩm của lịch sử,của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn là chủ thể của lịch sử-xã hội.Mác đã khẳng định” cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh và của giáo dục…cái học thuyết ấy quên rằng chính con người làm thay đổi hoàn cánh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải giáo dục”. Trong tâc phẩm Biện chứng của tự nhiên,Ănghen cũng cho rắng :” Thú vật cũng có lích sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng tạo ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải lý do ý muốn của chúng.Ngược lại con người càng cách xa con vật bao nhiêu, hiểu theo nghĩa hẹp bao nhiêu thì con người lại càng tự mình tạo ra lịch sử của mình một cách có ý thức.
Như vậy với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào điều kiện có sẵn trong tự nhiên.Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú giới tự nhiên để cải tạo tự nhiên theo hướng phục vụ ngày càng đầy đủ cho nhu cầu của mình.
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời cũng là chủ thể của lịch sử của chính bản thân loài người.Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người vừa là phương thức để biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp lên cao,phù hợp với mục tiêu và nhu cầu của con người.Không có hoạt động của con người thì không tồn tại quy luật xã hội, và do đó không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chung chung mà chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Do đó bản chất con người trong mối liên hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ kín mà nó là một hệ thống mở tương ứng với điều kiện tồn tại khách quan của con người. Mặc dù “tổng hoà các quan hệ” con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo hướng tích cực, theo hướng phát triển nhằm đạt được những giá trị có tính mục đích tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó con người tiếp nhận hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt đồng thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào trong lịch sử của xã hội loài người.
1.4 Quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa:
Con người xã hội chủ nghĩa bao gồm cả những con người từ xã hội để lại và cả những con người sinh ra trong xã hội mới. Con người sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mang những nét đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, song vẫn còn chịu ảnh hưởng không ít những tư tưởng, tác phong, thói quen của xã hội cũ. Cho nên, quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là quá trình diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu.Con người xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là sản phẩm của quá trình đó. Một mặt, trong lao động sản xuất, đấu tranh xã hội, con người tạo ranhững điều kiện cơ sở vật chất ngày một tốt hơn, phục vụ con người ngày một chu đáo hơn, cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ hơn, môitrường xã hội ngày càng trong sạch, ngày càng nhân văn hơn, do vậy, càng có những điều kiện để xây dựng nên những phẩm chất của con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cũng chính trong quá trình lao động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội mà con người cải tạo chính bản thân mình, tự rèn luyện khắc phục những hạn chế, thiếu sót của bản thân.Mỗi thời kỳ lịch sử, trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất, của trình độ phát triển xã hội, cần phải xác định mô hình con người cần xây dựng. Toàn bộ mọi hoạt động của xã hội, hệ thống luật pháp, những chính sách kinh tế - xã hội, mục tiêu của giáo dục - đào tạo phải hướng vào mục tiêu đó, hình thành những phẩm chất con người theo bản chất, mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Một khi con người đã hình thành với những phẩm chất tốt đẹp đó lại trở thành chủ thể tự giác để phát triển xã hội theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, Mác đã khẳng định rằng bản chất con người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội trên nền tảng sinh học của nó, con người không phải là cái gì đồng nhất tuyệt đối về bản chất mà là sự đồng nhất bao hàm của hai yếu tố đối lập:
Thứ nhất: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên.
Thứ hai: con người với tư cách là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên.
Mác đã nhìn nhận vấn đề con người một cách toàn diện cụ thể và xem bản chất con người không phải một cách chung chung, trừu tượng mà trong tính hiện thực cụ thể trong qúa trình phát triển. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên nhưng trong mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên con người hoàn toàn khác với con vật. Về mặt thực tiễn tính con người biểu hiện ra chính là cái tính phổ biến, nó biến toàn bộ thế giới tự nhiên thành thân thể vô cơ của con người.
Con người có tính xã hội và nó có trước, bởi bản thân hoạt động sản xuất của con người là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt sản xuất con người không thể tách ra khỏi xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con người khác với bẩt cứ sinh vật nào khác.
Vậy bản chất con người không là cái gì đó đã kết thúc,đã hoàn thiện một lần là xong mà là sự hình thành bản chất con người là quá trình con người không ngừng hoàn thiện khả năng tồn tại của mình trước lực lượng tự phát của tự nhiên và xã hội vì:
- Nhu cầu tự nhiên là cơ sở vật chất phát sinh nhu cầu xã hội
- Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là sự tổng hoà các quan hệ xã hội trên cơ sơe nền tảng tự nhiên của con người.
- Nhu cầu tự nhiên của con người không phải là đại lượng không đổi mà nó trở nên ngày càng tăng theo sự tăng tiến của nền văn minh vật chất và tinh thần. chính vì vậy bản chất con người cũng không phải là sự hình thành một lần là xong mà nó là quá trình con người không ngừng tự hoàn thiện mình.
2.VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI:
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học - công nghệ, nguồn vốn, nguồn lực con người. Song để các nguồn lực này kểt hợp với nhau, phát huy tác dụng mọi nguồn lực thì nguồn lực con người là yếu tố vô cùng quan trọng, có thể nói là quan trọng nhất tạo ra động lực cho sự phát triểni thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy.Vì sao trong thời đại tiến bộ khoa học như hiện nay, khi mà hướng phát triển theo công nghệ tự động hoá ngày càng được áp dụng thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người? Bởi lẽ:
Vì chính bàn tay và khối óc của con người đã tạo ra những máy móc thiết bị đó, những sản phẩm đó là đại diện cho mức độ hiểu biết và chế ngự tự nhiên của con người. Ngay cả những thiết bị máy móc hiện đại như robot nếu thiếu lập trình, kiểm tra, điều khiển, bảo dưỡng thì nó chỉ đơn thuần là khối vật chất. Chỉ khi nào có sự tác động của con người thì chúng mới có thể phát huy ứng dụng và hoạt động được.
Chúng ta biết rằng, điều kiện tự nhiên, khí hậu, địa lý, nguồn vốn có vai trò rất lớn trong sự phát triển của một quốc gia.Song những yếu tố đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động.Chúng chỉ trở thành nhân tố "khởi động", và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con người.Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú và có khả năng nội sinh không bao giờ cạn. Ngược lại nguồn lực con người càng được sử dụng, lại càng được nâng cao chất lượng và hiệu quả. Các lĩnh vực khoa học khác nhau, có thể hiểu nguồn lực theo những cách khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố mà mỗi nhân tố đó có vai trò riêng nhưng có mối quan hệ với nhau tạo nên sự phát triển của một sự vật, hiện tượng nào đó. Từ cách hiểu như vậy, nguồn lực con người là những yếu tố ở trong con người có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về nguồn lực con người. Ngân hàng Thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người(thể lực, trí lực, kỹ năng, nghề nghiệp, v.v.) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất, kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó. Qua các ý kiến khác nhau có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, v.v. tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội. Khi chúng ta nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội. Nói tới nguồn lực con người là nói tới số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Số lượng nguồn lực con người được xác định trên quy mô dân số, cơcấu độ tuổi, sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dâncưgiữacác vùng, các miền của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chất lượng nguồn lực con người là một khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về thể lực, trí lực, tay nghề, năng lực quản lý, mức độ thành thạo trong công việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, ý thức giai cấp, ý thức về trách nhiệm cá nhân với công việc, với gia đình và xã hội, giác ngộ và bản lĩnh chính trị, v.v. và sự kết hợp các yếu tố đó. Trong các yếu tố trên thì phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn là quan trọng nhất, nó nói lên mức trưởng thành của con người, quy định phương pháp tư duy, nhân cách, lối sống của mỗi con người. Số lượng và chất lượng nguồn lực con người có quan hệ với nhau một cách chặt chẽ. Nếu số lượng nguồn lực con người quá ít sẽ gây khó khăn cho phân công lao động xã hội và do vậy, chất lượng lao động cũng bị hạn chế. Chất lượng nguồn lực con người nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người hoạt động trong một đơn vị sản xuất, kinh doanh hay giảm số người hoạt động trong một tổ chức xã hội, đồng thời cũng tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của một tập thể người trong lao động sản xuất, hoạt động xã hội. Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực con người có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó, cần có sự quan tâm ngay trong quá trình đào tạo, trong quá trình sử dụng và phân công lao động xã hội.
Suy cho cùng, phát triển kinh tế-xã hội là nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích con người ngày một tốt hơn,xã hội ngày càng văn minh hơn. Trong khi đó nhu cầu của con người ngày càng phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng lên cả về số lượng chất lượng, đáp ứng được nhu cầu về tinh thần điều đó đã tác động đến phát triển kinh tế xã hội
Lịch sử loài người hàng triệu năm qua đã chứng minh con người phát triển như ngày nay đã trải qua thời kỳ lao động sáng tạo không ngừng, qua từng giai đoạn phát triển con người lại tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm càng gia tăng sức mạnh của mình để chế ngự tự nhiên, tăng thêm động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội.
Như vậy” động lực mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát triển mà con người muốn đạt tới chính nằm trong chính bản thân con người”. Điều đó lý giải tại sao con người được coi là nhân tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế- xã hội.
II. VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NHGIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành công hay không, tuỳ thuộc vào việc chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không? Khi Việt Nam bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”Để làm rõ hơn quan điểm trên của Người, chúng ta cần nghiên cứu vai trò nguồn lực con người trong một số lĩnh vực cơ bản của đời sống kinh tế, chính trị xã hội"Thế giới thay đổi rất nhanh, khó có một ngành sản xuất nào chiếm vị trí mũi nhọn lâu dài”.
“Khi tất cả là khả biến thì phải có bất biến đối phó.Cái bất biến chính là nhân lực cấp cao Không có gì vĩnh viễn cả, chỉ có nguồn nhân lực cấp cao mãi mãi tồn tại”(đồng chí Trương Đình Tuyển đã nói)
1 Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế
Trong bất cứ xã hội nào, người lao đồng cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Trong xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện rất thuận lợi đó là con người được làm chủ tư liệu sản xuất,nếu như con người được đào tạo một cách chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu các tiềm năng.Nhật Bản là một quốc gia khan hiếm tài nguyên thiên nhiên nhưng là một nước phát triển nhất khu vực châu Á.Tại sao vậy? đó chính là nguồn nhân lực có học vấn, tay nghề cao cùng với bản chất lao động cần cù vì thế mà họ đã làm nên nước Nhật to đẹp ngày nay.
“lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.như V.I.Lênin đã từng nói.Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, người lao động đã trở thành những người làm chủ đất nước, làm chủ trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất. Điều này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực con người để phát triển kinh tế nhanh, bền vững.
2.Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản, Hồ Chí Minh nhiều lần lưu ý rằng, nước ta phải đi đến dân chủ thực sự, "Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự". Ở đây khái niệm dân chủ thực sự khi mà cả nhà nước và nhân dân cùng thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình.Khi mà quyền lợi của mọi người trong xã hội được đảm bảo "thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ"
Xét nguồn lực con người trên phương diện chính trị, khi mà người dân có tri thức, có năng lực, thấy được trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn những người có đức có tài vào các cơ quan nhà nước sẽ góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh. Cán bộ nhà nước có hiểu biết lý luận, hiểu biết thực tiễn, thấy được trách nhiệm của mình đối với nhân dân, sẽ hết lòng phụng sự nhân dân và thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân sẽ được dân mến, dân tin, dân ủng hộ.
Có thể khẳng định rằng nguồn lực con người là yếu tố rất quan trọng trong việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân do dân vì dân
3. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hoá
Nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ trong đời sống văn hoá xã hội. Quần chúng nhân dân lao động là những người góp phần xây dựng nên những công trình văn hoá, những người sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật.
Một khi con người có tri thức, có hiểu biết và các hình thức nghệ thuật, sẽ tham gia sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật.Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, mỗi con người chúng ta có điều kiện tiếp cận với nền văn hoá nhiều nước trên thế giới. Con người có văn hoá cũng là những người có nghĩa vụ bảo tồn những di sản văn hoá tinh thần của đất nước, của nhân loại.Chúng ta cần thấy rõ vấn đề đó là chúng ta hoà nhập chứ không “hoà tan”. Chúng ta tiếp nhận những giá trị tốt đẹp của dân tộc khác, loại bỏ những yếu tố không phù hợp để làm giàu cho nền văn hóa của dân tộc mình cũng như làm giàu đời sống tinh thần
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, tạo điều kiện cho họ cống hiến hết khả năng trí tuệ cho đất nước, cho sự phát triển của xã hội.
4. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội
Những vấn đề xã hội bao gồm: Vấn đề lao động việc làm, thực hiện công bằng xã hội, xoá đó giảm nghèo … muốn giải quyết được tốt những vấn đề trên chúng ta cần phát huy tốt vao trò của nguồn lực con người.
Muốn giải quyểt tốt vấn đề lao động việc làm, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực con người từ nâng cao sức khoẻ, trình độ học vấn, tay nghề, nâng cao chất lượng quản lý, tới ý thức chính trị cho người lao động.
Chính sách xoá đói giảm nghèo là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.Chính sách này chỉ phát huy hiệu quả khi chính những người nghèo thấy được trách nhiệm của mình, cố gắng nỗ lực phấn đấu vươn lên, đồng thời được sự đồng tình ủng hộ của toàn xã hội
Như vậy con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, mà còn là chủ thể của qúa trình sản xuất tinh thần của con người. Sự phối hợp giữa các thành viên trong cộng đồng sẽ tạo ra sức mạnh to lớn trong việc phát huy nguồn lực con ngưòi để nhận thức, cải tạo xã hội và tự nhiên.
Nguồn lực con người luôn tồn tại tiềm tàng trong mỗi con người. Việc khai thác đó lại tuỳ thuộc từng quốc gia từng chế độ xã hội và chính sách xã hội.
Nguồn lực con người có thể nói là nguồn tài nguyên không bao giờ cạn, là nguồn tài nguyên cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển của con người. Nểu nguồn tài nguyên này không được sử dụng, không phát huy được là lãng phí lớn nhất. Nước ta là một nước nghèo, kinh tễ còn kém phát triển do đó việc ưu tiên phát triển nguồn nhân lực là quốc sách hàng đầu và cần được phát huy tối đa.
III. THỰC TRẠNG,GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
1. THỰC TRẠNG
Ở Việt Nam, phát triển con người cũng đã được biết từ lâu như là một khái niệm rất cơ bản trong “ tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” năm 1948 nổi tiếng.Ở đây trình bày thành tựu phát triển con người theo nội hàm và cách lượng hoá chung của thế giới: Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và mục đích là tạo ra một môi trường thuận lợi cho con người được hưởng cuộc sống trọn vẹn, khoẻ mạnh và sáng tạo.
Vào thập niên 80 của thế kỷ 20.Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đã đưa ra khái niệm này làm chỉ tiêu phát triển của từng nước hay vùng lãnh thổ, và quan tròng hơn là đã xác đình cụ thể tiêu chí và đưa ra cách tính toán rất chính xác từng tiêu chí, để đánh giá và sếp hạng trình độ phát triển các nước trong LHQ theo tiêu chí phát triển con người gồm một tiêu chí theo thu nhập quốc dân(GDP)và hai tiêu chí về năng lực con người(giáo dục và sức khoẻ) nhấn mạnh ý tưởng coi con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, là mục tiêu của sự phát triển, phê phán những quan điểm phiến diện, như chú trọng phát triển, nhưng vô tình hoặc cố ý bỏ quên con người, nhìn con người như công cụ, là phương tiện của sự phát triển,v.v.
Từ năm 1990 đến nay, UNDP hằng năm công bố báo cáo phát triển con người.Báo cáo Việt Nam được xuất bản năm 2001, với chủ đề “đổi mới vì sự phát triển con người” đã được đánh giá rất cao
Trong vòng 15 năm qua chỉ tiêu về phát triển con người Việt Nam đã ngày càng được cải thiện đạt được những thành tựu to lớn
BẢNG SỐ LIỆU HDI VIỆT NAM
Năm
Chỉ số
Thứ bậc so với chỉ số HDI với các các nước giáo dục
1990
0.608
74/130
1995
0.539
120/174
2000
0.671
108/174
2004
0.691
112/177
2005
0.705
108/177
2006
0.701
109/177
2007
0.733
105/177
Các số liệu trên đây cho thấy sự cố gắng to lớn của nhà nước ta cũng như nỗ lực của cả nhân dân ta trong việc chămlo đời sống vật chất cũng như tinh thần, ngày càng quan tâm hơn tới lợi ích thiết thực của con người.Trước mắ cần có kế hoạch thật cụ thể thực hiện tốt mục tiêu thiên niên kỷ:
Thành tích trên là đáng khích lệ nếu chúng ta lưu ý rằng, theo cách tính toán hiện nay để tăng 1 % của chỉ số HDI, một quốc gia phải tăng thu nhập bình quân đầu người lên 18%,hoặc nâng tuổi thọ trung bình thêm 1,8 năm, hoặc tăng tỷ lệ nhập học tổng hợp lên 3%, một mục tiêu không hề đơn giản cả về thời gian và công sức. Nhưng chúng ta cần phải lưu tâm đến tính bền vững Hơn thế nữa, mặc dù Việt Nam nằm trong số 100 nước luôn cải thiện được chỉ số HDI trong suốt thời gian từ 1990 đến nay, tuy nhiên nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy tốc độ tăng HDI của ta có chiều hướng sụt giảm tương đối.
Nếu trong thời kỳ 1990-1995 Việt Nam đứng hàng thứ 15 trong bảng xếp hạng các nước xét về tốc độ cải thiện chỉ số HDI thì trong giai đoạn 1995-2003, Việt Nam chỉ xếp thứ 37 theo tiêu thức này với mức tăng là 6.7%. Các nước như Lào, Trung quốc, Ấn độ đều có mức tăng trên 10%. Thực chất chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động so với các nước chung quanh, khoảng cách phát triển của nước ta không thu hẹp được bao nhiêu; nếu lấy chỉ số thu nhập tính theo đầu người làm thước đo chung nhất, khoảng cách này có xu hướng đang rộng thêm.
Trong các chỉ số HDI chúng ta còn rất nhiều hạn chế: mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp, mức sống nói chung còn chưa đạt yêu cầu, nhẩt là chẩt lượng sống chất lượng cuộc sống còn nhiều đòi hỏi chưa được thoả mãn, giáo dục còn rất nhiều điều cần được xem xét lại, mạng lưới y tế chưa đáp ứng đựơc nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, môi trường sống ngày càng ô nhiễm. Trong nhiều mặt, nhân cách con người nói chung có một số biểu hiện ngày càng tiêu cực: xu thế chuyển từ con người xã hội sang con người cơ chế thị trường đang chiiếm ưu thế ở nhiều nơi,ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức từng người và đạo đức xã hội “ con người thực dụng” đang lấn át con người sống có lý tưởng, con người cá nhân chủ nghĩa trong nhiều trường hợp dễ đựoc chấp nhận. một số nơi tác phong nông nghiệp còn phổ biến
Hiện trạng phát triển con người dưới giác độ giá trị tinh thần lẫn giá trị vật chất, giá trị nhân cách đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách là phải kế thừa, phát triển, làm sao xây dựng cho được hệ giá trị Vịêt Nam làm cơ sở cho chiến lược phát triển con người chung, phát triển nguồn nhân lực, cần có đủ chính sách dung người tài đầu tàu của nguồn nhân lực. Chỉ số IQ của chúng ta không thua kém gì các nước phát triển, bằng chứng bằng các cuộc thi trì tuệ trên đấu trường khu vực và quốc tế như các kỳ thi Olympic toán, lý, hoá, công nghệ thông tin, robocon … chúng ta đều đạt giải cao. Tuy nhiên điều đáng quan tâm cho nguồn nhân lực nước ta là “ trí tuệ Việt Nam chưa được giải phóng”, việc sử dụng nguồn lực còn nhiều bất cập
2. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHỀ TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN LỰC NƯỚC TA
2.1. Thành tựu:
Sau cách mạngThángTámnăm945,những người dân Việt Nam đã từ địa vị những người bị mất nước, người dân nô lệ trở thành những người làm chủ đất nước. Mọi công dân Việt Nam không phân biệt giàu nghèo, trai gái, dân tộc, tôn giáo hễ là công dân đều có quyền bầu cử, lựa chọn ra những đại biểu xứng đáng có tài, có đức để tham gia công việc Nhà nước.Ai muốn ra giúp nước đều có quyền ứng cử. Nhà nước của Việt Nam sau Cách mạng ThángTám là nhà nước của dân, do dân, vì dân, tạo điều kiện cho mọi người dân phát huy tài năng, trí tuệ đóng góp cho đất nước.Ngay sau ngày Độc lập, Hồ Chí Minh đã phát động nhân dân thực hiện xoá nạn mù chữ. Những năm qua, kinh tế - xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng cao, đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, giúp cho việc chăm sóc con người ngày một tốt hơn Điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành của nhân dân đã được cải thiện so với trước. Trong nhiều đơn vị kinh tế đã động viên mọi người dân đóng góp tài năng trí tuệ, thực hiện cải tiến kỹ thuật, thay đổi quy trình sản xuất nhằm tạo ra năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao. Việt Nam đã quan tâm tới giáo dục đào tạo, đã đưa tỉ lệ số người biết chữ từ 5% trước đây tới nay đã gần 90% dân số biết chữ. Trình độ dân trí đã có tiến bộ nhiều so với trước đây.Nhiều tỉnh đã thực hiện xoá nạn mù chữ, phổ cập tiểu học hay trung học phổ thông cơ sở.Hiện nay ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục - đào tạo năm sau cao hơn năm trước.Giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa được quan tâm ngày một tốt hơn. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, tạo ra điều kiện thuận lợi để "cả nướctrở thành một xã hội học tập" Mấy chục năm qua chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo, hơn mười nghìn người có trình độ trên đại học, hơn một triệungười có trình độ đại học đang công tác trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; họ đã có những đóng góp to lớn trong kháng chiến giải phóng dân tộc, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày nay đang tích cực đóng góp cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Giáo dục, đào tạo,và khoa học 22 năm qua phát triển mạnh, góp phần quan trọng vào những thành tựu của đất nước đã nêu trên. Nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng xuất lao động của toàn xã hội đã thay đổi hẳn cục diện phát triển kinh tế nước ta kể từ khi tiến hành đổi mới, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng thứ nhì thế giới trong những năm gần đây, trình độ giáo dục phổ cập và số lượng học sinh, lực lượng lao động có đào tạo, số người tốt nghiệp các bậc học tăng nhanh so với nhiều nước, đặc biệt trong vòng 10 năm 1993 -2002 tỷ lệ đói nghèo giảm còn một nửa (từ 57% xuống còn 28%).
Việc chăm sóc sức khoẻ cho các tầng lớp nhân dân đã được xã hội quan tâm.Những cơ sở khám chữa bệnh được xây dựng tới tận các xã, kể cả vùng sâu, vùng xa.Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng lên nhiều so với trước đây.Thể lực củangười Việt Nam đã được cải thiện hơn trước. Trang thiết bị trong các bệnh viện, trong các cơ sở khám chữa bệnh ngày một đầy đủ, ngày một hiện đại.Do trình độ học vấn của người Việt Nam được nâng lên, quan hệ xã hội, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, cho nên, tính tích cực xã hội, tính tự chủ, sự năng động sáng tạo của con người Việt Nam đã được nâng lên so với trước đây. Nhìn chung, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo tới việc bồi dưỡng nguồn nhân lực của đất nước cả sức khoẻ, tri thức, năng lực, phẩm chất đạo đức; thực hiện cải cách bộ máy Nhànước về mọi mặt; tạo điều kiện cho mỗi người phát huy được khả năng của mình đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
2.2 Hạn chế
Chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu đã nêu trên nhưng chúng ta cũng không thể không thừa nhận những yếu kém và hạn chế trong việc sử dụng và phát triền nguồn lực hiện nay
Những số liệu trên đây đời sống của nước ta đang được cải thiện nhưng đó là so sánh ta hôm nay với ta cách đây 22 năm.Trên thực tế chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động so với các nước chung quanh, khoảng cách phát triển không thu hẹp được bao nhiêu; nếu lấy chỉ số thu nhập tính theo đầu người làm thước đo chung nhất, khoảng cách này có xu hướng đang rộng thêm
Trước yêu cầu phát triển, mở rộng đầu tư trong và ngoài nước, nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp trong nước đều khát nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao. Để đào tạo một lao động đạt trình độ kỹ thuật, tay nghề cao ở trong nước, nhà nước và người lao động phải đầu tư một số tiền khá lớn.Việt Nam có lẽ là nước chi cho giáo dục cao nhất thế giới: trung bình hàng năm khoảng 8% GDP/năm, ở Mỹ mới chỉ là 6%, Trung Quốc là 2,7%..; nếu tính theo thu nhập của hộ gia đình tỷ lệ chi cho giáo dục ở nước ta còn cao hơn nữa 6. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm 2000 là 11,5%, năm 2005 là 13%, năm 2007 là 20%. Tuy nhiên việc đào tạo nguồn nhân lực được đào tạo tại Việt Nam”thừa” nhưng” thiếu”.Tức là chúng ta chỉ quan tâm đến việc đào tạo về số lượng, về chiều rộng mà quên đi chiều sâu. thực tại ở Việt Nam không có một trường đào tạo nạo đạt tiêu chuẩn quốc tế.Hiện nay sinh viên Việt Nam sau khi ra trường không tìm được việc rất lớn họăc phải làm việc trái ngành nghề.Điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học.Điều này đã tạo ra một lãng phí không nhỏ. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hàng năm chỉ bằng khoảng ¼ của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số tiến sỹ của ta hàng năm nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi, vân vân… Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu thế lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với tất các nước trong nhóm ASEAN 6 và Trung Quốc; số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý cao rất ít so với dân số cũng như so với quy mô nền kinh tế..Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng: Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10; Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của TQ khoảng gấp đôi của nước ta Trong khi đó mỗi năm có hàng chục ngàn người lao động xuất khẩu trở về nước mang theo hành trang tay nghề,kỹ thuật và kinh nghiệm làm việc trong môi trường công nghiệp, hiện đại lại không được tái sử dụng.
Sự kết hợp các nguồn lực ở nước ta còn nhiều hạn chế, hiệu quả khai thác đất đai ở nứơc ta còn quá thấp trong khi đó sức lao động dôi dư còn khá nhiều. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn và một bộ phận người lao động ở thành phố không có việc làm đang tạo sức ép lớn cho xã hội.
Với sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức kinh tế thế giới WTO đã mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội cũng như vô vàn thách thức.Vấn đề nguồn nhân lực trong thời đại hội nhập là một vấn đề nổi cộm hiện nay.Sau 1,5 năm hội nhập chúng ta đã vấp phái một khó khăn lớn về nguồn nhân lực.Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập là vấn đề gây bức xúc hiện nay, thậm chí, nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Tuyển còn gọi nguồn nhân lực chính là “nút thắt cổ chai lớn nhất”.Theo ông Tuyển, trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, tất cả đều là khả biến, chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới có giá trị bất biến, không gì thay thế được. Sự hụt hẫng về kỹ năng nguồn nhân lực đã cản trở sự chủ động hội nhập và tăng trưởng nhanh, chất lượng và bền vững của Việt Nam nếu không có sự thay đổi mạnh mẽ trong chính sách tiền lương hiện nay thì sẽ không có sự phân bổ lao động hợp lý, sẽ còn đình công, còn chảy máu chất xám.Tình trạng hàng loạt công chức Nhà nước bỏ việc ra ngoài làm trong thời gian gần đây chính là hồi chuông báo động cho điều này.
Như vậy thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay đang thực sự nằm trong mức báo động.Để thực hiện đựơc mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đã đề ra cũng như nếu chúng ta không muốc chết chìm trong luồng xoáy hội nhập thì Đảng, Nhà nước và toàn xã hội phải đầu tư vào phát triển con người nhiều hơn nữa. Phát triển toàn diện( đức, trí, thể, mỹ, nghề) theo định hướng giá trị đúng.
2.3 Nguyên nhân
Không quan tâm và không kế thừa, phát huy những thành tựu giáo dục của nước ta đã tích lũy được trước đổi mới cũng như những thành tựu của thế giới, không khai thác lợi thế nước đi sau, thậm chí ít nhiều hoang tưởng, duy ý chí hoặc nhân danh phát huy sáng tạo đi tìm một con đường riêng, nhưng thực tế là lạc lõng
Tiêu cực và chủ nghĩa cơ hội đã bóp méo những ý tưởng, những mong muốn tốt đẹp dành cho phát triển con người và nguồn nhân lực; làm sai lệch hướng vận dụng mọi nguồn lực – điển hình là sự ra đời của khái niệm “xã hội hóa”, bóp méo khái niệm này với khuynh hướng đẩy việc phát triển con người và nguồn nhân lực đi sâu vào con đường trở thành hàng hóa và dịch vụ kiếm lợi nhuận, đã xẩy ra siêu lợi nhuận(năm 2005 nước ta xếp hạng thứ 107 về nạn tham nhũng, năm 2006 thứ 111 và năm 2007 thứ 123)Những yếu kém trong quản lý nhà nước, hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, tính gia trưởng, sự bảo thủ trong một số cán bộ có chức có quyền, tâm lý đố kỵ, ghen ghét với những người có năng lực của một số người đang hạn chế phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
Tri thức, tầm nhìn và đạo đức nghề nghiệp của nhiều chuyên gia, nhà khoa học được giao nhiệm vụ trực tiếp làm chính sách quốc gia về giáo dục – đào tạo – khoa học, của những người được trực tiếp giao nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý lĩnh vực phát triển giáo dục và nguồn lực con người, nhìn chung trình độ của đội ngũ này dưới tầm so với đòi hỏi của nhiệm vụ. Xét theo lương tâm nhà giáo, theo bản lĩnh người trí thức thì còn phải nêu ra nhiều yếu kém nghiêm trọng khác nữa của đội ngũ này.
Không lường đúng những khó khăn, mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là khả năng cho phép của nguồn lực và một bên là đòi hỏi của phát triển – (cụ thể ở đây là phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực – của một nước nghèo, đông dân, đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi nhanh như nước ta); không lường đúng những mặt phức tạp và những khó khăn rất đa dạng, sâu xa của lĩnh vực thiết yếu bậc nhất và rất nhạy cảm này trong đời sống quốc gia, không nhận thức đúng những yếu kém lớn về năng lực tổ chức và quản lý của bộ máy nhà nước.Chưa thực sự gắn kết lý luận với thực tiễn cuộc sống, cho nên không ít sinh viên sau khi ra trường khó xin việc.Tình trạng tiêu cực trong giáo dục còn đang phổ biến ở nhiều nơi, chất lượng giáo viên còn hạn chế. Duy ý chí và bệnh thành tích đầu độc trầm trọng thêm tình trạng này Kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông với tinh thần chống bệnh thành tích của năm 2006/2007 đưa ra nhiều con số đáng để chúng ta phải suy nghĩ, nhưng kểt quả thi THPT năm sau đó quả là “ tiến bộ”?
Những ảnh hưởng của phong tục tập quán, thói quen của người sản xuất nhỏ như: thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, cách nhìn thiển cận,trong giáo dục và đánh giá mỗi con người, v.v.
Tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội cùng với những hạn chế trong việc nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin đã dẫn chúng ta tới những hạn chế trong việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người ở nước ta trong những năm qua. Cơ chế hành chính bao cấp tạo nên tư tưởng trông chờ ỷ lại, sự thiếu dân chủ trong đời sống xã hội đã hạn chế phát triển tính năng động, sáng tạo, tính dám chịu trách nhiệm của con người Việt Nam.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, một mặt cũng tạo ra những tác động tích cực, nhưng mặt khác cũng đang tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực như: lối sống thực dụng, chỉ vì chức, vì quyền, vì tiền mà không ít người có thể làm mọi việc bất chấp luân thường đạo lý. Điều đó gây ra những tác động xấu trong xã hội
3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Phương hướng phát triển nguồn nhân lực.
Để phát huy nguồn lực con người Việt Nam thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần thực hiện một số phương hướng sau:
Thứ nhất: Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế đất nước Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nội dung chuyển lao động thủ công sang lao động cơ khí máy móc, vừa tạo ra những điều kiện để nâng cao mức sống nhân dân, tạo điều kiện cho xã hội và gia đình quan tâm tới giáo dục nhiều hơn. Đồng thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đặt ra những yêu cầu, những thách thức buộc người lao động phải phấn đấu vươn lên, nếu họ không muốn bị thải loại khỏi dây chuyền sản xuất. Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vừa là điều kiện để xây dựng, bồi dưỡng phát huy nguồn lực con người, đồng thời đến lượt nó phát huy nguồn lực con người lại là yếu tố quyết định thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ hai: Xây dựng và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách xã hội phù hợp. Chính sách xã hội là một bộ phận hợp thành chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự thể hiện lý tưởng chính trị, cương lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản, trong hệ thống pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và thể hiện bằng quá trình tổ chức thực tiễn trong cuộc sống của toàn xã hội. Chính sách xã hội thể hiện trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế tới văn hoá, giáo dục, chính sách lao động việc làm v.v., là những chính sách trực tiếp đảm bảo những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người biểu hiện rõ nhất bản chất của một chế độ xã hội; đó là những chính sách điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; và là một trong những động lực trực tiếp để con người hoạt động trên lĩnh vực xã hội. Phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động là tiền đề, là điều kiện cho việc thực hiện chính sách xã hội. Thực hiện tốt chính sách xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, chăm lo tới người lao động, tạo điều kiện cho người lao động học tập phấn đấu vươn lên, cống hiến hết sức mình cho xã hội sẽ góp phần to lớn phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ ba: Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế độ xã hội chủ nghĩa: Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - tư tưởng... Do vậy, xã hội phải tạo ra những điều kiện cho người lao động tham gia tích cực vào công việc quản lý xã hội, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, thông qua đó mà họ tích cực đóng góp tài năng, trí tuệ cho xã hội.
Thứ tư: Thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá. Để bồi dưỡng, phát triển và phát huy tốt hơn nữa nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá trang bị lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho quần chúng nhân dân lao động, "phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hộichủ nghĩa những phương hướng trên nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực nước ta ngày càng có tri thức, có trình độ tay nghề, có sức khoẻ, có năng lực quản lý, có ý thức, năng lực làm chủ đất nước; đồng thời phát huy ngày càng tốt hơn nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng một một xã hội "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", tiến tới chủ nghĩa xã hội.
3.2 Một số giải pháp phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiệnnay
Vấn đề lớn nhất đặt ra cho nước ta không phải là cái nghèo, mà là ý chí phấn đấu với tất cả trí tuệ và nguồn lực có trong tay cho phát triển nguồn nhân lực như một ưu tiên quốc gia hàng đầu – điều này bao gồm cả ý chí xây dựng một thế chế chính trị và đời sống kinh tế - xã hội – văn hóa hướng vào phát huy những giá trị chân chính của con người, trước hết là tự do và nghị lực sáng tạo của nó; là ý thức vận dụng có hiệu quả mọi nguồn lực có trong tay và tìm cách kế thừa những thành tựu của văn minh nhân loại.Vì thế phải đặt vấn đề phát triển nguồn nhân lực trước hết là vấn đề phát triển con người trong một cách nhìn toàn diện.Phát triển nguồn nhân lực ngày nay không thể chỉ đơn thuần một chiều hiểu theo nghĩa phát triển lực lượng lao động như lâu nay thường làm: mở thêm các trường, các cơ sở đào tạo nghề, cải tiến nội dung dạy, đổi mới chính sách lao động tiền lương, cải tiến công tác công đoàn, phổ biến kỹ thuật nông nghiệp cho nông dâncó nghĩa phải đồng thời và từng bước làm rất nhiều việc khác những việc như cải cách hành chính, xóa bỏ chủ quản, xóa bỏ bao cấp.., giảm biên chế, bổ túc và đào tạo lại đội ngũ cán bộ viên chức các cấp, mở rộng và nâng cao đội ngũ cán bộ kỹ trị, cán bộ quản lý, người làm chính sách, đổi mới chính sách phát huy con người và dùng người.
Cụ thể chúng ta có thể thục hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất: Trong lĩnh vực kinh tế. Phải nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình sản xuất. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất.Thực hiện giao đất, giao rừng cho nông dân, tạo điều kiện cho mọi người dân làm chủ cụ thể những tư liệu sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tế. Huy động rộng rãi nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương, đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của đơn vị. Phát huy sáng kiến của người lao động, chăm lo đời sống vật chất tinh thần của họ, thực hiện phân phối công bằng, công khai, dân chủ. Động viên mọi người dân bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh, khai thác thế mạnh của các địa phương, phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy trình độ tay nghề, năng lực quản lý kinh doanh của mỗi thành viên trong xã hội, để cùng với Nhà nước giải quyết những khó khăn của đất nước. Tăng cường giáo dục đạo đức, khơi dậy lương tâm nghề nghiệp, nêu cao trách nhiệm của mỗi người trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Cần làm cho mọi người thấy được trách nhiệm của mình phải lao động nghiêm túc, có chất lượng, có hiệu quả, tạo ra hàng hoá tốt, nâng cao chất lượng dịch vụ.Điều đó vừa tạo điều kiện cho xã hội phát triển, vừa là điều cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Phê phán mạnh mẽ thói lười biếng, làm bừa, làm ẩu; ngăn chặn làm ăn phi pháp, phi đạo lý.
Thứ hai: Trong lĩnh vực chính trị. Nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhận thức chính trị (chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta), về luật pháp, về Nhà nước của dân, do dân, vì dân, từ đó nâng cao trách nhiệm và năng lực của họ tích cực tham gia vào công việc củaĐảng, Nhà nước và hệ thống chính trị của nước ta. Tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của quần chúng nhân dân trong mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội, huy động đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Xây dựng cơ chế quản lý xã hội, quản lý nhà nước để người dân có điều kiện tham gia công việc Nhà nước, công việc xã hội, thực sự là người làm chủ đất nước; khắc phục tình trạng trì trệ, bảo thủ trong một số cơ quan nhà nước. Phân rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng tập thể, từng cá nhân trong từng công việc, khắc phục tình trạng chồng chéo, hay buông lỏng quản lý nhà nước trong một số ngành, một số địa phương.Giáo dục tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm công dân, bản lĩnh chính trị của mỗi người dân. Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tình trạng vi phạm kỷ cương, phép nước và những âm mưu chống phá của kẻ thù, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng. Trên cơ sở những thành quả cách mạng đạt được, người dân lao động mới có điều kiện học tập, rèn luyện, phấn đấu về mọi mặt và cống hiến ngày càng nhiều cho xã hội.
Thứ ba: Trên lĩnh vực xã hội. Từng bước khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu, những quan hệ không bình đẳng, xây dựng quan hệ mới giữa người vớingười trên tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, trong đời sống xã hội.Xây dựng quan hệ bình đẳng hữu nghị giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia.Cần thực hiện những biện pháp làm giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớpdân cư, giữa các vùng lãnh thổ. Quan tâm tới những hộ nghèo, những gia đình khó khăn, những hộ chính sách xã hội, những vùng sâu, vùng xa tạo ra cơ hội phát triển cho mọi người, làm cho mọi người dân đều được hưởng những thành quả y tế, giáo dục, văn hoá..Thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo; tập trung giảiquyết những vấn đề cấp bách về lao động việc làm; trên cơ sở đó, người lao động mới có điều kiện nâng cao trình độ tri thức, trình độ tay nghề, mới có môi trường rèn luyện phấn đấu, cống hiến sức mình cho đất nước, cho xã hội.
Thứ tư: Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo"Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài"1 cho đất nước, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Cần phải tuyên truyền làm cho mọi người dân thấy được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp chung của đất nước mà quan tâm tới lĩnh vực này Đảng, Nhà nước, các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và từng gia đình đều phải quan tâm tới giáo dục và đào tạo. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp của gia đình, nhà trường, xã hội trong đào tạo thế hệ trẻ. Để đào tạo ra những cán bộ vừa "hồng" vừa "chuyên" có ý thức và năng lực làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, cần phải có sựđổi mới nội dung và phương pháp giáo dục. Nội dung giáo dục phải phản ánh được những tri thức quan trọng nhất của thời đại, những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, phải góp phần giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, hình thành nhân cách mới của người lao động.Phải tích cực đổi mới phương pháp dạy và học. Phương pháp dạy phải kích thích được tính sáng tạo, sự hăng say tìm tòi nghiên cứu của người học. Phương pháp học phải độc lập tự chủ, biết vận dụng kiến thức đã học vào giải thích và giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra.Việt Nam là một nước còn kém phát triển về mặt kinh tế,tuy rằng đã đạt được một số thành tựu trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nhưng so với các nước trong khu vực và quốc tế vẫn còn hạn chế. Số năm học bình quân của người dân còn thấp, tỉ lệ chưa biết chữ còn cao, do vậy, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa.
Thứ năm: Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật.Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta đã khẳng định, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Văn hoá nghệ thuật nước ta trước đây đã phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; đã động viên được nhân dân tích cực tham gia trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những năm đổi mới vừa qua văn học, nghệ thuật nước ta đã có những đổi mới về nội dung, hình thức, đã động viên được nhân dân tích cực tham gia sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Song bên cạnh đó văn học nghệthuật vẫn còn một bộ phận đi chệch hướng, chạy theo thị hiếu thấp hèn, dễ dãi của một bộ phận thanh niên thiếu giáo dục.Đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, phê phán những tư tưởng phản động đang tìm cách phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. "Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" "Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, tạo sự thống nhất cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân" đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức, lối sống. rước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi các nhà văn, nhà thơ, các nhạc sĩ, các nghệ sĩ phải nâng cao trách nhiệm của mình trong sáng tác, biểu diễn, không vì đồng tiền mà bán rẻ lương tâm, vô trách nhiệm với đất nước.Dư luận xã hội phải lên tiếng ủng hộ những tác phẩm có nội dung, hình thức hay, phê phán những tác phẩm có nội dung, hình thức dở. Cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý của Nhà nước trong hoạt động sáng tác, biểu diễn, sao cho văn học nghệ thuật phải cổ vũ cho cái hay cái đẹp, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao những giá trị nhân văn, phát huy những giá trị tốt đẹp trong con người Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta phải chăm lo tới việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng và phát huy có hiệu quảnguồn lực con người Việt Nam, tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, nhanh chóng thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"..
KẾT LUẬN
Qua những nhận định trên, chúng ta có thể thấy rõ hơn tầm quan trọng,sự cần thiết phải nâng cao chất lượng, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong thời kỳ hội nhập ở Vịêt Nam hiện nay.
Việt Nam không thể phát triển nếu thiếu nguồn nhân lực, vốn, tài nguyên, cơ sở vật chẩt kỹ thuật, vị trí địa lý, nguồn lực nước ngoài.Trong đó nguồn nhân lực chính là chìa khoá mở, là công thức kết dính các nguồn lực khác để chúng phát huy có hiệu quả nhất mang lại lợi ích tối đa.
Tóm lại có nguồn lực con người thì mới có thành công trên con đường phát triển. Nếu thiếu nguồn lực con người mọi nguồn lực khác sẽ trở nên vô nghĩa.Nhưng vấn đề quan trọng ở đây là chất lượng nguồn lực và cách phân bổ nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất.Với những lợi thế sẵn có của mình: dân số trẻ, con người Việt Nam cần cù , chịu khó sáng tạo thông minh nểu được đào tạo có bài bản hệ thống thì chúng ta nhất định có một nguồn lực mạnh cả về số lượng và chất lượng trong tương lai không xa. Vấn đề trên đặt lên vai những nhà hoạch định chính sách và mỗi con người Việt Nam ta.
Trên con đường hội nhập để phát triển, Việt Nam phải hiểu rõ những thách thức trước mắt đặc biệt là về nguồn lực con người. Việc xây dựng và phát triển nguồn lực con người sẽ giúp chúng ta phát triển vững chắc trên con đường xã hội chủ nghĩa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình triết học Mác- Lênin
Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin
Tạp chí kinh tế Việt Nam
Thời báo kinh tế Sài Gòn
Văn kiện đại hội đảng VIII, IX, X
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37262.doc