Chuyên đề Thực trạng tái bảo hiểm kỹ thuật ở vinare

Trong mọi hoạt động thì vai trò của nhân tố con người giữ vị trí quyết định. Vì vậy để phát triển nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật không thể không nói đến nhân tố con người. Như đã nhiều lần nói đến trong các phần trên bảo hiểm kỹ thuật, và tái bảo hiểm kỹ thuật đòi hỏi phải có những chuyên gia có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao đáp ứng được chuyển mực quốc tế. Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ của VINARE phần lớn còn rất trẻ kinh nghiệm chưa có nhiều trong khi đó trình độ còn hạn chế. Trong những năm tới công ty cần phải chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trẻnày. Công ty cần tạo điều kiện cho các cán bộ này có cơ hội đào tạo ở các nước có trình đọ bảo hiểm phát triển để tiếp tục những kiến thức nghiệp vụ hiện đại, học hỏi được những kinh nghiệm của các chuyên gia có trình độ. Đi đôi với đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cần phải tạo điều kiện cho các cán bộ nâng cao trình độ ngoạ ngữ, đặc biệt là ngoại ngữ chuyên ngành bảo hiểm.

doc64 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng tái bảo hiểm kỹ thuật ở vinare, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu tiên khoảng 22 - 26%. Tỷ lệ hoa hồng cho phần tái bảo hiểm tự nguyện như vậy là khá cạnh tranh nếu đánh giá trên nhiều phương diện. Tuy chỉ thấp hơn so với tỷ lệ hoa hồng do các công ty nước ngoài trả một chút nhưng rất thuận tiên trong việc giao dịch đàm phán, giảm được chi phí đáng kể. Và xét trên góc độ vĩ mô vì sự phát triển của thị trường trong nước, giảm thất thoát ngoại tệ cho Nhà nước thì lợi ích là không nhỏ nếu như các công ty bảo hiểm Việt Nam không chỉ vì lợi ích trước mắt, lợi ích nhỏ của riêng công ty mình tái cho các công ty nước ngoài. Bởi vì tái cho VINARE các công ty trong nước sẽ nhận lại được mức chuyển nhượng lớn hơn rất nhiều, giảm đáng kể việc thất thoát dịch vụ vào tay các công ty bảo hiểm nước ngoài. * Tiếp theo để có thể đánh giá hoạt động nhận tái bảo hiểm của công ty một cách toàn diện cả về thực hiện các chức năng nhiệm vụ của công ty cũng như hoạt động kinh doanh của công ty ta xem xét tình hình nhận tái bảo hiểm theo cơ cấu tái bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện. Tình hình nhận tái bảo hiểm nghiệp vụ kỹ thuật theo cơ cấu bắt buộc tự nguyện được thể hiện bảng 2. Bảng Tình hình phí nhận tái bảo hiểm theo cơ cấu tự nguyện bắt buộc Đơn vị: Năm Phí nhận TBH bắt buộc Phí nhận TBH tự nguyện Tổng phí nhận Tăng (+)/Giảm (-) Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 1995 324.400 38.39 520.600 61.61 845.000 1996 806.000 53.45 701.900 46.55 1.507.800 78.45 1997 1.361.300 57.35 1.012.000 42.65 2.373.300 57.37 1998 1.558.000 77.00 465.100 23.00 2.023.100 -14.75 1999 972.254 53.49 845.513 46.51 1.817.767 -10.15 Từ bảng số liệu trên ta thấy doanh số phí nhận tái bảo hiểm bắt buộc của nghiệp vụ tăng theo các năm từ 1995 đến 1998, năm sau luôn đạt cao hơn năm trước và tỷ trọng tổng doanh số tăng dần trong khi đó tỷ trọng doanh số phí nhận tái bảo hiểm tự nguyện giảm dần trong cùng một thời gian. Chỉ có năm 1999 biểu đồ tăng trưởng có sự biến động. Như vậy phải chăng việc thực hiện nhận tái bảo hiểm không đạt được mục tiêu mà công ty đề ra ?. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào số liệu trên thì không thể đánh giá chính xác tình hình thực hiện nhận tái bảo hiểm. Việc nhận tái bảo hiểm còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Vì vậy cần thiết phải xem xét tình hình nhận tái bảo hiểm trong từng năm. Năm 1995 là năm đầu tiên công ty triển khai nghiệp vụ nên gặp không ít khó khăn; Quyết định tái bảo hiểm bắt buộc của Bộ Tài chính được đưa ra quá chậm lại chưa phù hợp với tình hình thực tế gây rất nhiều khó khăn cho cả VINARE và các công ty bảo hiểm gốc. Văn bản đưa ra nhưng không có hướng dẫn cụ thể, không thông báo cho các đối tượng có liên quan biết để thực hiện. Các công ty bảo hiểm gốc phối hợp với nhau chưa tốt, các môi giới và các công ty bảo hiểm nước ngoài đã lợi dụng sự cạnh tranh giữa các công ty gốc để kiếm lời. Công ty mới đi vào hoạt động nên còn có nhiều trục trặc, đội ngũ cán bộ còn thiếu và mới nên chưa có kinh nghiệm. Tuy gặp nhiều khó khăn song các cán bộ của công ty đã tìm mọi cách khắc phục khó khăn để thực hiện mục tiêu đã đề ra. Nhờ vậy VINARE đã tranh thủ được sự hợp tác của các công ty bảo hiểm gốc trong việc thực hiện quyết định tái bảo hiểm bắt buộc của Bộ Tài chính đồng thời được các công ty bảo hiểm mới ra đời như Bảo Minh, PJICO tin cậy tái cho VINARE 100% phần vượt mức giữ lại. Bảo Việt cũng ký hợp đồng số thành tái cho VINARE một phần tự nguyện. Kết quả tổng phí nhận tái bảo hiểm đạt 845.000 USD bằng 145% kế hoạch đề ra trong đó phần tái bảo hiểm tự nguyện nhận được chiếm hơn 60%. Năm đầu tiên triển khai nghiệp vụ công ty đã thành công. Đó thực sự là bước khởi đàu tốt đẹp. Với kết quả đạt được của năm 95 công ty tự tin bước vào năm 96 với kế hoạch đề ra cho nghiệp vụ là đạt doanh số phí 900.000 USD. Năm 96 là năm có nhiều thuận lợi: - Các cán bộ đã có những kinh nghiệm nhất định. - Nền kinh tế ổn định, tiếp tục phát triển với tốc độ cao. Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng nhanh. Phần lớn vốn đầu tư tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng các nhà máy, khu công nghiệp, khách sạn lớn. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho bảo hiểm kỹ thuật, đặc biệt là bảo hiểm CAR, EAR. - Thị trường xuất hiện thêm 2 công ty bảo hiểm gốc: Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam PVIC và Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế VIA khiến cho năng lực bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật tăng lên, thị trường được khai thác có kết quả hơn. - Quyết định tái bảo hiểm bắt buộc mới Bộ Tài chính ban hành đã phù hợp hơn với tình hình thực tế và có lợi cho VINARE do quyết định mới quy định phần tái bảo hiểm bắt buộc được tính trên giá trị hợp đồng/đơn bảo hiểm gốc (20%). Tuy nhiên cũng có một số điểm không thuận lợi: - Sự cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm gốc vẫn tiếp tục và có những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh. Hiện tượng các công ty bảo hiểm, môi giới nước ngoài hoạt động bất hợp pháp, vi phạm các quy định khai thác bảo hiểm xây lắp khá phổ biến. - Quy định tái bảo hiểm bắt buộc không được thực hiện nghiêm chỉnh. Để thực hiện kế hoạch đề ra các cán bộ nghiệp vụ đã có những biện pháp thích hợp để tận dụng cơ hội, vượt qua khó khăn. Cụ thể: - Chủ động gặp gỡ, thương lượng với các khách hàng cũ Bảo Minh, PJICO để tái tục hợp đồng. - Giúp đỡ cho PVIC đạo tạo cán bộ nghiệp vụ và triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật nhờ đó đã được PVIC tái toàn bộ phần vượt mức giữ lại. - Hợp tác với các công ty gốc để đàm phán tăng phần của phía Việt Nam trong các dịch vụ tái bảo hiểm theo chỉ định và các dịch vụ tạm thời có giá trị lớn do vậy tăng phần tái bảo hiểm cho VINARE. - Tiếp tục giúp đỡ các công ty gốc trong việc khai thác các công trình liên quan đến bảo hiểm kỹ thuật, đặc biệt là các công trình có nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước. - Thông qua các cuộc hội thảo, tiếp xúc tuyên truyền giải thích cho VINARE để các công ty gốc thấy được những lợi ích cho thị trường, cho Nhà nước khi tái bảo hiểm cho VINARE. Với những nỗ lực như vậy kết quả nhận tái bảo hiểm nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật năm 96 rất đáng khích lệ: Tổng phí nhận tái bảo hiểm đạt 1.507.000 USD tăng 78.45% so với năm 95, vượt mức kế hoạch 67.5% trong đó doanh số phí tự nguyện chiếm 46.55% tổng phí nhận. Năm 97, năm thứ ba triển khai nghiệp vụ việc nhận tái bảo hiểm có thêm những điểm không thuận lợi. Ngoài những khó khăn trong các năm trước vẫn tồn tại thì cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực bắt đầu ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhịp độ tăng trưởng giảm xuống, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng bắt đầu suy giảm. Trên thị trường xuất hiện thêm một công ty bảo hiểm gốc: Công ty bảo hiểm liên hợp UIC - Liên doanh giữa Bảo Minh với hai công ty bảo hiểm của Nhật Bản khiến cho năng lực khai thác bảo hiểm kỹ thuật tăng lên xong lại càng làm cho sự cạnh tranh diễn ra càng quyết liệt hơn. Tốc độ tăng phí bảo hiểm kỹ thuật của thị trường năm 97 là 33% so với 63% năm 96. Trong điều kiện ngày càng khó khăn như vậy, các cán bộ nghiệp vụ vẫn tiếp tục thực hiện các biện pháp đã sử dụng trong các năm trước đồng thời vận dụng thêm các biện pháp khác hỗ trợ. Tổng kết năm 97, doanh số phí nhận tái nghiệp vụ đạt 2.373.300 USD tăng 57,4% so với năm 96. Đây là doanh số cao nhất trong các năm qua. Phí nhận tái bảo hiểm tự nguyện giảm hơn so với năm 96 song giảm không đáng kể. Nếu như không có các biện pháp tích cực chủ động của các cán bộ nghiệp vụ chắc chắn tỷ trọng phí nhận tái bảo hiểm tự nguyện còn giảm nhiều hơn nữa do các công ty gốc ngày càng có xu hướng tự thu xếp tái bảo hiểm và chỉ tái cho VINARE theo đúng phần trách nhiệm tái bảo hiểm bắt buộc. Ngay cả công ty UIC là công ty mới ra đời và có triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật song UIC tự mình thu xếp tái bảo hiểm mà không cần sự hỗ trợ của VINARE. Những dấu hiệu không thuận lợi cuối năm 97 báo hiệu một năm 98 sẽ có nhiều khó khăn trong triển khai nghiệp vụ. Năm 98 nền kinh tế chịu ảnh hưởng sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực. Tốc độ tăng trưởng giảm mạnh, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm đi do các nhà đầu tư nước ngoài e ngại môi trường đầu tư bất ổn định vì sự tác động của cuộc khủng hoảng; nhiều dự án đang tiến hành phải tạm ngừng, một số dự án bị huỷ bỏ do các chủ đầu tư mà chủ yếu là các chủ đầu tư Châu á gặp khó khăn về mặt tài chính. Bảo hiểm kỹ thuật là một trong những nghiệp vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của tình hình đó. Do xu hướng của các công ty bảo hiểm gốc là chỉ ký hợp đồng cố định theo tỷ lệ do Bộ Tài chính quy định. Các cán bộ nghiệp vụ xác định việc khai thác các hợp đồng là rất khó khăn. Chỉ có thể tăng doanh số nhận tái bảo hiểm tự nguyện bằng cách khai thác các dịch vụ tạm thời. Một thuận lợi cho việc khai thác các dịch vụ tạm thời là năm 98 Nhà nước bật đèn xanh cho thực hiện một số công trình lớn có nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước hoặc Nhà nước quản lý như công trình mở rộng nhà máy nhiệt điện Phả Lại với giá trị 550 triệu USD, nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận Đami trị giá 155 triệu USD, v.v... Các công trình này có giá trị rất lớn, theo thống kê của phòng nghiệp vụ Dầu khí - kỹ thuật thì phí bảo hiểm thu được từ các dự án này chiếm hơn 50% tổng phí bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật. Do giá trị lớn như vậy nên các công ty bảo hiểm gốc thu xếp dưới hình thức tạm thời. Kết quả nghiệp vụ năm 98 không nằm ngoài dự đoán của cán bộ nghiệp vụ. So với năm 97 doanh số phí nhận tái giảm dần 15% trong đó phần tái bảo hiểm tự nguyện giảm mạnh chỉ còn chiếm 23% tổng doanh số phí nhận tái bảo hiểm. Sự giảm sút một cách đột ngột như vậy chủ yếu là do mất đi Bảo Minh - khách hàng lớn thứ hai của VINARE trong nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật. Thêm vào đó một số công trình lớn Bảo Việt không tái bảo hiểm theo đúng quy định, chỉ tái 10% thay vì 20%. Năm 99 thực tế là một năm khó khăn đối với nghiệp vụ Kỹ thuật tại thị trường bảo hiểm Việt Nam, nếu như nìn vào tổng phí thị trường của nghiệp vụ này thì đây là năm đầu tiên có sự suy giảm sau 10 năm liền liên tục tăng trưởng. Nhận thức được mức độ khó khăn của năm 1999, các cán bộ của nghiệp vụ Kỹ thuật đã có một nỗ lực vượt bậc trong việc khai thác dịch vụ dẫn đến tỷ lệ nhận tự nguyện tăng đáng kể trong năm này. Qua việc đánh giá quá trình thực hiện nhận tái bảo hiểm của VINARE trong những năm qua có thể rút ra một số nhận xét: Thứ nhất việc tái bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Bộ Tài chính được các cán bộ thực hiện tốt. Phí nhận tái bảo hiểm bắt buộc luôn tăng cùng với tốc độ tăng của phí bảo hiểm kỹ thuật của thị trường. Ngay cả năm 98 mặc dù tổng phí nhận tái bảo hiểm giảm nhưng phí tái bảo hiểm bắt buộc vẫn tăng hơn so với năm 97. Xu hướng chung là tỷ trọng phí tái bảo hiểm tự nguyện giảm dần. Có hai nguyên nhân dẫn tới tình trạng này. - Các công ty bảo hiểm gốc ngày càng trưởng thành, có thể triển khai nghiệp vụ một cách ổn định không cần nhiều sự trợ giúp của các cán bộ nghiệp vụ VINARE. Trình độ về kỹ thuật tái bảo hiểm cũng ngày càng vững, có thể tự thu xếp chương trình tái bảo hiểm. Do vậy các công ty gốc giảm dần phần nhượng tự nguyện cho VINARE. - Mức hoa hồng của VINARE không thực sự hấp dẫn đối với các công ty gốc. Khi nhượng cho các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài, ngoài khoản hoa hồng phí thông thường với tỷ lệ không thấp hơn 30% các công ty này còn nhận được khoản hoa hồng phí theo lãi. Như vậy xét trên góc độ hiệu quả của công ty thì nhượng cho các công ty nước ngoài mang lại hiệu quả của công ty thì nhượng cho các công ty nước ngoài mang lại hiệu quả hơn. Đây là hai nguyên nhân chính khiến cho VINARE không còn nhận được các hợp đồng cố định của các công ty bảo hiểm gốc nhượng tái bảo hiểm ngoài phạm vi bắt buộc. Tình hình đó đòi hỏi VINARE phải thay đổi chiến lược nhằm tăng tỷ trọng phí nhận tái bảo hiểm tự nguyện trong các năm tới. 2-/ Công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Trong bảo hiểm kỹ thuật, đặc biệt là bảo hiểm CAR và EAR, công tác hạn chế tổn thất có ý nghĩa hết sức quan trọng. Các công trình được bảo hiểm thường là các công trình có giá trị cao và chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố đa dạng và phức tạp. Nếu không có biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất tốt thì mức rủi ro xảy ra chắc chắn sẽ rất lớn và hậu quả sẽ rất nặng nề. Việc đề phòng hạn chế tổn thất không chỉ thuộc trách nhiệm người được bảo hiểm và công ty bảo hiểm gốc. Người nhận tái cũng cần phải chú trọng công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Hai khía cạnh khiến cho người nhận tái trong tái bảo hiểm kỹ thuật phải quan tâm đến công tác đề phòng hạn chế tổn thất là: - Để có biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất hữu hiệu phải đánh giá được những nguy cơ tiềm ẩn, những khả năng rủi ro có thể xảy ra. Đây là một trong những công việc khó khăn nhất trong bảo hiểm kỹ thuật đòi hỏi phải có những chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm. Và đây là một trong những lý do công ty bảo hiểm gốc cần tới người nhận tái. Người nhận tái trong nhiều trường hợp phải trực tiếp cùng với người bảo hiểm đánh giá rủi ro và tư vấn cho người bảo hiểm, người được bảo hiểm các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất. - Kết quả nghiệp vụ tái bảo hiểm phụ thuộc rất lớn vào kết quả của nghiệp vụ bảo hiểm gốc. Người nhận tái và người bảo hiểm cùng chia sẻ rủi ro. Như vậy việc đề phòng hạn chế tổn thất liên quan trực tiếp đến người nhận tái, đặc biệt là những dịch vụ mà phần tham gia của người nhận tái lớn. ở Việt Nam, các công ty bảo hiểm Việt Nam hầu hết mới ra đời nên khả năng thực hiện việc đề phòng hạn chế tổn thất cho các công trình còn rất hạn chế, các công ty này mới chỉ dừng lại ở việc khai thác dịch vụ còn công việc đề phòng hạn chế tổn thất chủ yếu do các công ty nhận tái đảm nhận. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác đề phòng hạn chế tổn thất trong nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật, VINARE đã rất chú trọng tới công tác này. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất được thực hiện dưới các hình thức; + Tư vấn, hỗ trợ các công ty bảo hiểm gốc trong việc tăng cường công tác đề phòng hạn chế tổn thất cho các công trình được bảo hiểm. + Với những dịch vụ mà VINARE tham gia nhận tương đối lớn hoặc các dịch vụ mà công ty là người đứng đầu nhận tái, các cán bộ nghiệp vụ của công ty phối hợp với các cán bộ nghiệp vụ của các công ty bảo hiểm gốc đến tận công trình để khảo sát đánh giá rủi ro từ đó đề xuất các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất mà người được bảo hiểm và các công ty bảo hiểm gốc phải thực hiện. Chi phí cho những công việc như vậy là do VINARE tài trợ. + Phối hợp với công ty bảo hiểm gốc hoặc người tham gia bảo hiểm tổ chức các cuộc hội thảo về bảo hiểm cho các công trình lớn. Chi phí cho các biện pháp đó chiếm tỷ trọng lớn trong mục khoản chi khác (80 - 85%). Khoản chi đó trong các năm được thể hiện qua bảng 3. Bảng Chi đề phòng hạn chế tổn thất. Năm 1995 1996 1997 1998 1999 Chi phí (USD) 5400 10100 14600 15400 31100 Từ bảng có thể nhận thấy chi phí cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất các năm luôn tăng điều đó cho thấy công tác đề phòng hạn chế luôn được chú ý. Các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất mà VINARE thực hiện không chỉ góp phần giảm bớt tổn thất mà còn có tác dụng lớn trong việc tuyên truyền cho công ty, nâng cao uy tín của công ty góp phần thắt chặt mối quan hệ với các công ty bảo hiểm gốc. 3-/ Công ty giám định bồi thường. Bồi thường là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động bảo hiểm nhằm khôi phục lại tình trạng tài chính ban đầu của người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra tổn thất. Bồi thường là một tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng dịch vụ cũng như uy tín của người bảo hiểm. Trước khi bồi thường thì cần thiết phải thực hiện giám định nhằm đảm bảo việc bồi thường chính xác, thoả đáng. Trong nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật ở VINARE việc bồi thường được thực hiện theo quy trình sau: Công ty sẽ bồi thường cho người bảo hiểm theo phần trách nhiệm đã quy định toàn bộ số tiền bồi thường mà công ty nhượng đã trả cho người được bảo hiểm và tất cả các chi phí phát sinh trong giải quyết bồi thường, tất nhiên loại trừ lương và các khoản trả theo lương cho nhân viên và các chi phí quản lý nội bộ. Công ty có quyền nhận một phần các khoản bồi hoàn và các khoản có thể thu hồi được. Đối với hợp đồng cố định: Khoản bồi thường thuộc trách nhiệm của VINARE như quy định trên sẽ được ghi nợ vào bảng thanh toán, đồng thời ghi vào bảng kê bồi thường (Loss Bordereaux) và sẽ được thanh toán định kỳ theo quy định trong hợp đồng, thường là quý. Trong trường hợp tổn thất vượt quá số tiền quy định trong hợp đồng tái bảo hiểm (cash - loss limit) thường quy định là 10000 USD công ty bảo hiểm gốc có thể yêu cầu VINARE thanh toán ngay mà không cần đợi đến định kỳ. Trong trường hợp đó công ty nhượng phải: - Thông báo ngay cho VINARE khi thiệt hại xảy ra. Khi đó VINARE có thể cùng với công ty bảo hiểm cùng nhau giải quyết khiếu nại. Thông thường VINARE cử một đại diện tham gia vào việc này với chi phí riêng của công ty. - Gửi thông báo tổn thất và biên bản giám định kèm theo nhằm chứng minh cho sự cần thiết phải thanh toán ngay. - Các thông tin, bảng kê phải thanh toán về các rủi ro của công ty bảo hiểm theo như đã thoả thuận phải đến tay VINARE đầy đủ, đúng hạn. Đối với hợp đồng tạm thời. - Khi xảy ra tổn thất nhất thiết phải báo ngay cho VINARE bằng cách nhanh nhất có thể. VINARE sẽ trực tiếp tham gia giải quyết bồi thường trong các vụ tổn thất lớn. - Tài liệu phải có khi yêu cầu VINARE thanh toán bồi thường là thông báo tổn tất, biên bản giám định. Để đánh giá toàn diện công tác giải quyết bồi thường của VINARE nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật cần xem xét cụ thể tình hình hàng năm: Số liệu thống kê bồi thường của VINARE nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật trong các năm qua như bảng 4. Bảng Số liệu thống kê bồi thường nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật. Năm VINARE bồi thường (USD) Tỷ lệ bồi thường (%) Thu bồi thường từ người nhận tái (USD) 1995 750 0.08 350 1996 138.600 9.20 126.600 1997 316.900 13.35 103.600 1998 228.500 11.30 113.000 1999 262.791 14.46 178.044 Hai năm 95, 96 có ít tổn thất lớn xảy ra nên trách nhiệm bồi thường của VINARE khá thấp. Trong hai năm trở lại đây xảy ra nheieù tổn thất lớn trong nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật. Năm 97 có 20 tổn thất lớn trong đó có 2 tổn thất trên 300.000$, 3 tổn thất trên 100.000 $. Vụ tổn thất của nhà máy xi măng Morning Star ở Hòn Chông - Kiên Giang ngày 24/5/97 có giá trị thiệt hại lên tới 307.002 $. Mưa lớn và bão làm hỏng toàn bộ khung nhà của công ty Fujitsu Computer ở Biên Hoà, Đồng Nai ngày 9/9/97 gây thiệt hại trị giá 200.000 $. Năm 98 số lượng tổn thất lớn còn nhiều hơn so với năm 97. Vì vậy trách nhiệm bồi thường của VINARE trong hai năm 97, 98 khá lớn. Tuy nhiên tỷ lệ tổn thất cũng chỉ ở mức hơn 13%. Các công ty nhận tái thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng, thanh toán bồi thường cho công ty đầy đủ, kịp thời. Tình hình bồi thường của VINARE trong nghiệp vụ này phản ánh đúng kết quả của nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật trên thị trường và việc xử lý nghiệp vụ có hiệu quả của các cán bộ nghiệp vụ. Việc xác định mức giữ lại của nghiệp vụ được lãnh đạo công ty đánh giá là hợp lý, góp phần đáng kể vào việc hạn chế tổn thất thuộc trách nhiệm VINARE. Tuy niên VINARE luôn cho rằng việc giải quyết bồi thường đúng, đủ kịp thời là việc rất quan trọng, là vấn đề cốt yếu nhất để tạo được uy tín đối với khách hàng bảo hiểm. Trong những năm qua trong nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật cũng như trong các nghiệp vụ khác VINARE đã kết hợp tốt với các công ty trong nước để xử lý, giải quyết bồi thường ngay từ đầu, tham mưu tư vấn cho các công ty gốc phương thức giải quyết, kết hợp tốt nhất các bên liên quan bao gồm giám định, nhà nhận tái và khách hàng bảo hiểm với mục đích giải quyết nhanh nhất nhằm ổn định kinh doanh cho khách hàng tham gia bảo hiểm. Đồng thời được các công ty gốc trong nước và khách hàng bảo hiểm đánh giá cao. 4-/ Nhượng tái bảo hiểm. Nhượng tái bảo hiểm cần thiết đối với công ty tái bảo hiểm cũng giống như sự cần thiết của tái bảo hiểm đối với công ty bảo hiểm gốc. Đối với VINARE nhượng tái bảo hiểm nghiệp vụ kỹ thuật không chỉ vì mục đích đơn thuần là bảo vệ cho bản thân mình mà nhượng tái bảo hiểm còn là công cụ quan trọng để điều tiết thị trường nhằm nâng cao mức giữ lại của dịch vụ của thị trường trong nước. Quy trình nhượng tái bảo hiểm về cơ bản giống như nhận tái bảo hiểm. Nếu như trong quy trình nhận tái bảo hiểm, VINARE đứng ở vị trí người nhận tái thì trong quy trình nhượng tái VINARE ở vị trí người nhượng. Mặt khác nếu như nhận tái bảo hiểm chỉ đơn thuần diễn ra trong nước thì nhượng tái bảo hiểm lại mang nhiều tính chất quốc tế với sự tham gia của các công ty nhận tái thế giới. Trong quy trình nhượng tái bảo hiểm vấn đề đầu tiên phải chú trọng khi xây dựng kế hoạch nhượng tái bảo hiểm là xác định mức giữ lại. * Mức giữ lại của nghiệp vụ. Khi xác định mức giữ lại cho nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật các cán bộ nghiệp vụ đã dựa trên các cơ sở sau: - Khả năng tài chính của VINARE, mức phân bổ cho nghiệp vụ. - Các kết quả thống kê về phí, tổn thất của nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật trên thị trường và các nghiệp vụ tái của công ty. - Các chi phí dự tính và thu nhập dự tính. Việc xác định mức giữ lại được tiến hành như sau: - Xác định mức giữ lại tối đa cho một rủi ro cho một loại hình. - Mức giữ lại của các loại rủi ro trong một loại hình dựa theo bảng mức giữ lại theo mẫu của Munich Re. Mức giữ lại như trên là mức giữ lại gộp (gross retention) dùng trong hợp đồng mức dôi. Trong các hợp đồng cố định mức giữ lại cao nhất của VINARE (cho loại hình CAR, EAR) là 1.000.000 USD. Mức giữ lại thuần (net retention) là mức giữ lại thực của công ty sau khi trừ đi phần nhượng theo hợp đồng số thành. Mức giữ lại thuần của VINARE tăng dần qua các năm. Theo đánh giá của lãnh đạo công ty thì nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật luôn là nghiệp vụ xác định được mức giữ lại rất hiệu quả. Vấn đề thứ hai cần phải quan tâm là việc lựa chọn người nhận tái. * Lựa chọn người nhận tái. Mục tiêu hàng đầu của nhượng tái bảo hiểm là sự an toàn do vậy tiêu chuẩn hàng đầu để xem xét lựa chọn người nhận tái là khả năng tài chính, khả năng thanh toán và uy tín của người nhận tái. Người nhận tái phải có khả năng tài chính vững chắc để có thể giải quyết bồi thường nhanh chóng, không khó khăn gì. Tiêu chuẩn quan trọng thứ hai VINARE đặt ra khi chọn người nhận tái là khả năng hỗ trợ của người nhận tái. Người nhận tái phải là một công ty có đội ngũ chuyên gia có trình độ kỹ thuật và trình độ nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm. Đây là một yêu cầu quan trọng bởi vì VINARE mới đi vào hoạt động, trình độ, kinh nghiệm của các cán bộ còn hạn chế trong khi đó tái bảo hiểm kỹ thuật là một loại nghiệp vụ đòi hỏi phải có trình độ sâu về cả kỹ thuật cũng như nghiệp vụ. Bên cạnh đó thì việc ưu tiên tái cho các công ty bảo hiểm trong nước là một khía cạnh phải tính đến khi thu xếp nhượng tái bảo hiểm. Đó là những nhân tố ảnh hưởng tới quyết định chọn người nhận tái. * Đàm phán ký kết hợp đồng. Công việc khó khăn nhất của việc thu xếp nhượng tái bảo hiểm là việc đàm phán về các điều kiện điều khoản sao cho hiệu quả của việc nhượng tái là cao nhất. Đối với việc chuyển nhượng theo hình thức cố định cho các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài thì các cán bộ nghiệp vụ cần phải có sự tư vấn từ các môi giới - những người am hiểu thị trường tái bảo hiểm thế giới. Các môi giới cùng với các cán bộ nghiệp vụ cùng soạn thảo bản chào tái. Sau đó môi giới sẽ đảm nhiệm việc đàm phán, thương lượng với các nhà nhận tái nước ngoài. Các môi giới có quan hệ chặt chẽ, hay thu xếp các hợp đồng cho nghiệp vụ là Williss Cooron (Anh), Swire (Hồng Kông). Các năm tiếp theo các cán bộ của VINARE trực tiếp đàm phán với đại diện của các công ty nhận tái để có những sửa đổi bổ sung trước khi tái tục hợp đồng. Việc thu xếp nhượng cho các công ty trong nước thì đơn giản hơn, các cán bộ nghiệp vụ trực tiếp tiếp xúc với các công ty này để đàm phán. Việc đàm phán chủ yếu xoay quanh tỷ lệ nhượng và hoa hồng. Trong nhượng tái theo hình thức tạm thời, môi giới chỉ cần trong các dịch vụ rất lớn và các công ty trong nước không thể đảm nhận. Còn lại việc nhượng được thực hiện trực tiếp thông qua việc VINARE lập bản chào tái và gửi đến cho các công ty. Trên đây là một số nét về quy trình và các vấn đề kỹ thuật nghiệp vụ của nhượng tái bảo hiểm kỹ thuật của VINARE. Quy trình và các vấn đề này sẽ được làm rõ hơn qua phần sau đây khi đánh giá về công tác nhượng tái trong những năm qua. Tình hình nhượng tái theo năm nghiệp vụ và hình thức nhượng tái được thể hiện trong bảng 5. Bảng Tình hình nhượng tái bảo hiểm theo hình thức. Năm nghiệp vụ Công ty Nhượng tái bảo hiểm cố định Nhượng tái bảo hiểm tạm thời Phí nhượng Hoa hồng nhượng TBH Phí nhượng Hoa hồng nhượng TBH 1995 Munich Re 518.100 160.700 120.800 Bảo Việt 206.000 32.700 Bảo Minh 4.500 4.600 Swiss Re 62.500 1.200 Allianz 217.600 17.800 Scor Re 48.800 62.700 Tổng ********************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************************drl1996 Munich Re 1.211.600 383.800 189.700 133.300 Bảo Việt 22.300 5.700 50.200 55.100 Bảo Minh 14.100 3.500 22.400 12.500 Swiss Re 77.300 5.700 Allianz 207.300 22.400 VIA 27.000 61.600 Tổng 1.248.000 393.000 573.900 7.700 1997 Munich Re 863.300 273.200 46.400 165.000 Bảo Việt 42.600 11.650 20.700 12.900 Bảo Minh 30.900 8.900 9.100 5.200 Allianz 88.700 2.400 Swiss Re 281.000 85.700 79.900 26.800 Gan 82.200 23.000 UIC 92.150 23.700 AON 68.300 26.700 Tokio 48.100 15.100 19.800 Marine 487.450 Tổng 1.265.900 394.550 83.000 140.500 1998 Munich Re 173.200 54.500 3.700 24.100 Bảo Việt 59.000 15.850 3.200 900 Bảo Minh 40.600 11.500 41.600 800 Swiss Re 52.250 16.000 11.450 UIC 20.700 5.900 42.900 11.800 Allianz 34.800 10.500 VIA 68.600 19.700 Tổng 345.750 103.750 277.800 79.250 (Lưu ý: trong bảng chỉ liệt kê các công ty nhận tái lớn của Việt Nam và nước ngoài, không cần thiết liệt kê tất cả các công ty vì có khá nhiều công ty nhận tái. Các phí nhượng cho các công ty được liệt kê chiếm 80% toàn bộ phí nhận. Và như vậy là đủ để đánh giá tình hình nhượng tái của công ty). Nhìn toàn bộ bảng ta có thể thấy. Các công ty nhận tái nước gnoài đều là những công ty có uy tín lớn trên thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm thế giới: Munich Re là công ty tái bảo hiểm lớn nhất thế giới, các công ty Swiss Re, Scor Re là những công ty tái bảo hiểm lớn nhất của Thuỵ Sĩ, Pháp và luôn xuất hiện ở top 10 các công ty tái bảo hiểm lớn nhất thế giới theo xếp hạng của S & P. Allianz là công ty bảo hiểm lớn nhất Châu Âu và thế giới. Như vậy VINARE rất chú trọng đến người nhận tái. Nếu như trong nhượng tái bảo hiểm dưới hình thức cố định Munich Re luôn là người nhận tái lớn nhất thì trong nhượng tái theo hình thức tạm thời Allianz là nhà nhận tái lớn nhất. Allianz là công ty bảo hiểm của Đứng có truyền thống trong bảo hiểm kỹ thuật rất lâu đời. Thêm vào đó Allianz đã đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Đó là lý do VINARE nhượng tái phần lớn dịch vụ tạm thời cho Allianz. Trong các công ty trong nước UIC mặc dù là công ty chiếm thị phần bảo hiểm nhỏ nhưng luôn là một trong những công ty trong nước nhận tái tạm thời lớn nhất từ VINARE. Trong nhượng tái bảo hiểm theo hình thức cố định VINARE chủ yếu thu xếp các hợp đồng số thành, mức dôi và kết hợp số thành mức dôi. Hợp đồng kết hợp số thành và mức dôi được sử dụng liên tục trong 3 năm với Munich Re. Việc thu xếp hợp đồng như vậy là hợp lý khi công ty mới bắt đầu hoạt động và triển khai nghiệp vụ. Nhưng như đã thấy trong phần lý luận hợp đồng này có những bất lợi nhất định và kèm theo đó tiềm lực về tài chính, nhân lực của VINARE tăng dần nên việc duy trì hợp đồng như vậy không còn thực sự hiệu quả. Từ năm 98 VINARE chỉ thu xếp các hợp đồng mức dôi cho nhượng tái bảo hiểm. Hợp đồng mức dôi cho phép VINARE có một tổng lượng rủi ro đồng nhất hơn và lượng phí giữ lại lớn nhất. Để đánh giá một cách toàn diện hoạt động nhượng tái cần xem xét hoạt động nhượng tái trên khía cạnh VINARE là công ty TBH quốc gia - người điều tiết thị trường. Như trên đã nói ở trên, mục tiêu của hoạt động nhượng tái của VINARE còn là nâng cao mức giữ lại cho thị trường trong nước. Bảng 6 - Tình hình nhượng tái theo cơ cấu trong nước - ngoài nước theo năm tài chính Năm Phí giữ lại Phí nhượng Hoa hồng nhượng TBH Thu bồi thường nhượng TBH Số tiền Tỉ trọng (%) Trong nước Ngoài nước Tổng phí nhượng Số tiền Tỉ trọng (%) Số tiền Tỉ trọng (%) 1995 95.000 11.24 40.000 5.33 710.000 94.67 750.000 210.000 350 1996 316.600 21.00 92.000 7.71 1.099.500 92.29 1.193.200 365.300 126.600 1997 523.200 22.05 151.600 8.19 1.798.500 91.81 1.850.100 468.600 190.900 1998 537.300 26.56 331.300 22.30 1.154.400 77.70 1.485.700 409.400 113.300 1999 576.183 31.70 500.218 40.29 741.366 59.71 1.241.584 350.773 270.574 Có thể dễ dàng nhận thấy tỷ trọng phí nhượng trong nước ngày càng tăng lên và tỷ trọng phí nhượng ra ngoài nước ngày càng giảm. Đặc biệt kể từ năm 98 chuyển nhượng cho các công ty trong nước tăng rất nhanh, gấp hơn hai lần so với năm 97. Sở dĩ như vậy là vì từ năm 98 các cán bộ nghiệp vụ đã có một thay đổi lớn trong cấu trúc hợp đồng nhượng tái cố định. Nếu như trong các năm trước các công ty trong nước nhận một phần hợp đồng số thành của VINARE (5% trong đó một nửa các công ty nhận phần tái qua VINARE của nửa kia và ngược lại, mức giữ lại của VINARE là 85%, 10% cho Munich Re) và một phần nhỏ của hợp đồng mức dôi đầu tiên (10% - 15%) thì trong năm 98 hợp đồng với các công ty trong nước được thu xếp dưới hình thức mức dôi với mức giữ lại là mức giữ lại thuần của VINARE (800.000$) với mức trách nhiệm tối đa là 1.700.000 $ (2,125 lines). Đây là mức dôi thứ nhất. Mức dôi thứ hai thì cơ bản là duy trì với các công ty nước ngoài (Munich Re, Swiss Re, Tokio Marine...), mức dôi thứ ba với Swiss Re. Cấu trúc hợp đồng nhượng tái như vậy được lãnh đạo công ty đánh giá rất cao. Thực tế cấu trúc như vậy là hết sức hợp lý. Một mặt VINARE không cần tăng mức giữ lại thuần của VINARE, mặt khác mức dôi thứ nhất với các công ty trong nước như vậy vừa phù hợp với khả năng tài chính của các công ty trong nước như vậy vừa phù hợp với khả năng tài chính của các công ty trong nước vừa nhận được nhiều dịch vụ bởi vì đa số các dịch vụ trong nước rơi vào mức đó. Cấu trúc hợp đồng như vậy vẫn đảm bảo VINARE tăng được số phí giữ lại cho mình bởi vì mức giữ lại thuần của VINARE không iến động lớn. Cấu trúc hợp đồng như vậy đặc biệt được các công ty trong nước đánh giá cao bởi vì các công ty này được tham gia vào phần lớn dịch vụ với tỷ lệ cao. Có thể nói hoạt động nhượng tái của VINARE nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật trong những năm qua là rất thành công, vừa đảm bảo an toàn lại vừa nâng cao được mức giữ lại của thị trường trong nước - một chức năng quan trọng của VINARE. 5-/ Kết quả nghiệp vụ. Đánh giá một hoạt động kinh doanh tất yếu phải đánh giá kết quả đạt được. Ngoài việc đánh giá việc thực hiện chức năng - nhiệm vụ của VINARE trong nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật thì cũng cần thiết phải đánh giá kết quả kinh doanh của nghiệp vụ trong các năm triển khai. Kết quả kinh doanh là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh quá trình thực hiện tất cả các khâu của quy trình nghiệp vụ từ nhận tái bảo hiểm đến giám định bồi thường, nhượng tái bảo hiểm. Để có thể đánh giá được kết quả nghiệp vụ hãy xem xét tổng hợp thu chi các năm và kết quả sẽ là phần chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi. Tất nhiên kết quả này chỉ có tính quy ước. Tổng số thu của nghiệp vụ bao gồm: + Phí nhận tái bảo hiểm. + Thu từ hoạt động nhượng tái: hoa hồng nhượng tái và bồi thường của công ty nhận tái. + Thu khác bao gồm: thu bồi hoàn, các khoản có thể thu hồi sau khi bồi thường. Tổng chi bao gồm: + Phí nhượng tái bảo hiểm. + Chi hoa hồng nhận tái. + Chi bồi thường nhận tái. + Chi khác: bao gồm các khoản chi như chi phí cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất (đây là phần chủ yếu, chiếm 80 - 90%), một phần chi phí quản lý tính vào hoa hồng theo lãi. Bảng Tổng thu kinh doanh Năm Phí nhận tái Thu hoa hồng nhượng TBH Thu bồi thường nhượng TBH Thu khác Tổng thu 1995 845.000 210.000 350 1.200 1.056.550 1996 1.507.800 365.300 126.600 4.300 2.004.000 1997 2.373.300 600.700 103.600 5.400 3.083.000 1998 2.023.100 409.400 113.000 32.600 2.578.100 1999 1.817.767 350.773 178.044 88.042 2.450.402 Bảng Tổng chi kinh doanh Năm Phí nhượng TBH Thu hoa hồng Thu bồi thường Chi khác Tổng chi 1995 750.000 155.000 350 6.700 912.050 1996 1.193.200 340.400 138.600 12.200 1.684.400 1997 1.850.100 552.200 316.900 18.300 2.737.500 1998 1.485.700 481.000 228.500 17.900 2.213.100 1999 1.241.584 550.079 262.791 16.994 2.071.448 Bảng Kết quả kinh doanh Năm Tổng thu Tổng chi Kết quả 1995 1.056.550 912.050 144.500 1996 2.004.000 1.684.400 319.600 1997 3.083.000 2.737.500 345.500 1998 2.578.100 2.213.100 365.000 1999 2.450.402 2.071.448 378.954 Kết quả nghiệp vụ phụ thuộc vào tổng thu và tổng chi. Trong đó tổng thu phụ thuộc chủ yếu vào phí nhận tái bảo hiểm, các khoản thu khác dù có ảnh hưởng đến tổng thu nhưng phụ thuộc phần lớn vào phí nhận tái. Có thể thấy trong các năm kết quả kinh doanh đều rất tốt. Năm nào cũng có lãi. Kết quả kinh doanh, xét về mặt tuyệt đối đều tăng năm sau cao hơn năm trước. Nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật là một trong những nghiệp vụ luôn đạt hiệu quả kinh doanh cao trong các nghiệp vụ của VINARE, được lãnh đạo công ty đánh giá cao. Đây là kết quả của việc thực hiện một cách có hiệu quả tất cả các khâu của quy trình nghiệp vụ, phản ánh những nỗ lực của các cán bộ nghiệp vụ. Qua bốn năm triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật năm nào VINARE cũng đạt kết quả rất tốt. Tuy nhiên để thích ứng với những biến đổi của thị trường và các điều kiện kinh tế xã hội thì trong các năm tới VINARE cần thiết phải có những chiến lược biện pháp thích ứng. IV-/ Một số biện pháp nhằm phát triển nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật của VINARE. 1-/ Tăng tỷ lệ hoa hồng. Như đã trình bày ở phần thứ nhất, phương pháp tái bảo hiểm được sử dụng trong tái bảo hiểm kỹ thuật là phương pháp tỷ lệ. Trong tái bảo hiểm tỷ lệ, các giá mà người nhận tái phải trả để nhận được dịch vụ chính là hoa hồng phí. Tỷ lệ hoa hồng trong nước do VINARE trả và tỷ lệ hoa hồng do các công ty nước ngoài trả chênh nhau ít nhất là 5%. Đó là lý do chính để các công ty bảo hiểm gốc không muốn nhượng cho VINARE phần ngoài bắt buộc mà thường nhượng ra nước ngoài. Trong thời gian tới, để có được nhiều hợp đồng tự nguyện hơn VINARE phải đưa ra tỷ lệ hoa hồng cạnh tranh. Cụ thể: - Tăng tỷ lệ hoa hồng, thậm chí có thể ngang bằng với tỷ lệ các công ty nước ngoài trả. Cho đến nay, thì nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật vẫn là nghiệp vụ có kết quả rất tốt hoàn toàn cho phép VINARE tăng tỷ lệ hoa hồng. Mặc dù tăng tỷ lệ hoa hồng có thể làm giảm kết quả kinh doanh của từng dịch vụ nhưng xét tổng thể VINARE sẽ thu được tổng lợi nhuận lớn hơn do số lượng dịch vụ tăng lên. Hiệu ứng này giống như chính sách giảm giá bán sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất nhằm tăng lượng sản phẩm bán ra. Tăng tỷ lệ hoa hồng là việc làm tất yếu nếu muốn giành được thêm nhiều dịch vụ tự nguyện. Thực tế kinh doanh năm 1998 cũng chứng minh điều ấy. Trong năm 1998, hơn 50% tổng phí nhận tái của VINARE nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật là phí thu được từ các hoạt động tạm thời bằng cách tham gia đấu thầu với tỷ lệ hoa hồng cạnh tranh. Công ty cần áp dụng phương pháp này vào khai thác các hợp đồng cố định. Tỷ lệ hoa hồng cạnh tranh cộng với những lợi thế của công ty chắc chắn sẽ giúp nhận được nhiều dịch vụ tự nguyện hơn từ các công ty trong nước. - Bổ sung điều khoản hoa hồng theo lãi vào các hợp đồng các hợp đồng tái bảo hiểm. Tóm lại, việc tăng hoa hồng phí hiện nay là cần thiết. Nó không những cho phép công ty đạt được kết quả kinh doanh tốt hơn mà còn đảm bảo cho công ty thực hiện tốt chức năng của mình: giảm lượng phí chuyển ra nước ngoài, tăng mức giữ lại cho thị trường bởi vì mức chuyển nhượng lại cho các công ty trong nước tỷ lệ thuận với lượng phí mà công ty nhận được. 2-/ Chú trọng chính sách giữ khách hàng. Muốn duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh nói chung, nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật nói riêng trong điều kiện thị trường bảo hiểm cạnh tranh trước hết công ty phải bảo vệ được phần thị trường hiện có của mình. Nhất là trong điều kiện hiện nay khi VINARE mất một phần đáng kể phần tái bảo hiểm tự nguyện từ các công ty bảo hiểm gốc do khách hàng cũng không duy trì các hợp đồng tái bảo hiểm như những năm đầu các công ty này hoạt động. VINARE phải hết sức chú trọng tới việc giữ khách hàng, đảm bảo các hợp đồng ký kết được tái tục ngầm, không để xảy ra tình trạng các công ty bảo hiểm gốc không tái tục phần tái bảo hiểm tự nguyện. Có thể dễ dàng thấy được lợi ích của việc giữ một khách hàng cũ so với có một khách hàng mới ở các điểm sau: - Tiết kiệm được chi phí: để có một khách hàng mới công ty phải bỏ ra các chi phí nhất là những chi phí ban đầu như chi phí thông tin để lôi kéo khách hàng, chi phí cho hoạt động thương mại, thậm chí cả chi phí “chiêu đãi khách hàng” và cuối cùng là chi phí quản lý gắn với việc lập một khách hàng mới v.v... Tất nhiên công ty sẽ tiết kiệm được những chi phí này nếu như khách hàng cũ tái tục hợp đồng. - Xác định được kết quả kỹ thuật: đối với các công ty bảo hiểm - các khách hàng cũ VINARE sẽ xác định được các kết quả kỹ thuật như phí gốc thu được, tỷ lệ tổn thất v.v... từ đó có chiến lược thích hợp cho việc kinh doanh. Việc giữ khách hàng cũng góp phần ổn định các đảm bảo đã ký kết, ổn định số phí nhận tái và điều quan trọng là quan hệ tin cậy - một nguyên tắc hàng đầu cần coi trọng trong tái bảo hiểm. - Tăng mức nhượng tái của khách hàng: tuỳ thuộc vào tiến triển về kinh tế, những thay đổi liên quan; chính sách; thái độ của công ty, công ty bảo hiểm gốc sẽ có nhu cầu ký kết các đảm bảo mới, tăng phần nhượng tái bảo hiểm tự nguyện cho công ty. - Lôi kéo khách hàng mới: việc giữ khách hàng không những làm ổn định và tăng doanh số phí nhận tái của công ty mà còn có tác dụng mang lại cho công ty những khách hàng mới, nhất là những công ty bảo hiểm gốc mới ra đời mà khách hàng cũ là một cổ đông hoặc có phần vốn góp lớn. Mối liên hệ này sẽ như một dây chuyền nếu được mở rộng hoặc khuyến khích bằng các công cụ hay đòn bảy kinh tế liên quan đến lợi ích của khách hàng. Để nâng cao chất lượng dịch vụ tái bảo hiểm cung cấp cho khách hàng trong bảo hiểm kỹ thuật, trên cơ sở phân tích, đánh giá dịch vụ tái bảo hiểm đã cung cấp các cán bộ nghiệp vụ cần: - Luôn chủ động tiếp xúc với các công ty bảo hiểm gốc khi các hợp đồng tái bảo hiểm sắp sửa kết thúc để thảo luận, trao đổi với các công ty về việc thực hiện hợp đồng, sửa đổi, bổ sung các điều kiện, điều khoản của hợp đồng cho phù hợp với sự biến đổi của thị trường và các yếu tố có liên quan nhằm đảm bảo lợi ích giữa hai bên. - Thu xếp các hợp đồng nhanh chóng, đặc biệt là các hợp đồng nhận tạm thời để khách hàng chủ động trong khai thác dịch vụ. Khi nhận được bản chào tái phải lập tức xem xét kỹ và nhanh để ra quyết định. - Giải quyết bồi thường nhanh gọn, cố gắng tối đa trong việc phối hợp, giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc giải quyết khiếu nại lớn, phức tạp. + Tăng cường công tác tư vấn, giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc trong khai thác dịch vụ: Sự trung thành của khách hàng dựa trên việc xây dựng mối quan hệ tích cực và thường xuyên giữa công ty và khách hàng. Mối quan hệ giữa VINARE và các công ty bảo hiểm gốc không chỉ hạn chế ở mối quan hệ gọi phí và thanh toán bồi thường mà bên cạnh đó VINARE cần tăng cường vai trò của công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp: giúp đỡ tư vấn cho các công ty bảo hiểm gốc về các vấn đề có liên quan, đặc biệt là việc khai thác dịch vụ. 3-/ Mở rộng phạm vi nhận tái ra ngoài nước. Bản chất của tái bảo hiểm đã mang tính quốc tế. Vì vậy để tăng doanh số phí nhận tái cũng như phân tán rủi ro trong nước ra ngoài khu vực và thế giới thì VINARE cần phải đẩy mạnh hoạt động nhận tái từ ngoài nước. Tất nhiên công việc này không phải là đơn giản bởi vì thị trường tái bảo hiểm thế giới và khu vực hiện nay có tính cạnh tranh rất cao do năng lực tái bảo hiểm dư thừa. Các công ty tái bảo hiểm lớn trong lĩnh vực bảo hiểm kỹ thuật như Munich Re, Swiss Re có chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới và đặc biệt đang rất quan tâm đến các thị trường đang phát triển ở Châu á nói chung, Đông Nam á nói riêng. Sở dĩ như vậy là vì các nước ở Châu á mà đặc biệt là Đông Nam á phần lớn là các nước đang phát triển. Các nước này đều ưu tiên cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng làm tiền đề cho phát triển kinh tế vì vậy tiềm năng của bảo hiểm kỹ thuật, đặc biệt là bảo hiểm CAR và EAR là rất lớn. Tuy nhiên VINARE có thể tăng cường nhận tái bảo hiểm từ nước ngoài bằng cách: -Tăng cường trao đổi dịch vụ với các công ty nhận tái bảo hiểm nước ngoài, nhất là các nước Châu á và ASEAN. -Mở văn phòng đại diện ở khu vực. 4-/ Xây dựng hệ thống môi giới riêng. Trong hoạt động tái bảo hiểm, các môi giới đóng vai trò rất quan trọng. Nghiệp vụ tái bảo hiểm chủ yếu được giải quyết thông qua môi giới tái bảo hiểm, đó là cách làm thông thường và thành công trên thế giới. Trong nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật, VINARE vẫn nhận tái trực tiếp từ các công ty bảo hiểm gốc mà không thông qua môi giới. Nhưng các công ty bảo hiểm trong nước chỉ chiếm 30 - 40% thị trường bảo hiểm kỹ thuật trong khi đó phần còn lại (60 - 70%) là của các công ty bảo hiểm nước ngoài dù các công ty này chưa được phép hoạt động tại Việt Nam. Phần 60 - 70% này về mặt danh nghĩa là do các công ty bảo hiểm trong nước tái theo chỉ định nhưng thực ta chính các công ty bảo hiểm nước ngoài mới là người bảo hiểm chính bởi vì các công ty này thực hiện khai thác bất hợp pháp rồi giới thiệu cho một công ty bảo hiểm trong nước cấp đơn với điều kiện, điều khoản, biểu phí do họ áp đặt và phải ưu tiên tái bảo hiểm cho họ. Như vậy VINARE đã mất đi một phần lớn các dịch vụ trên thị trường. Nhận tái bảo hiểm qua môi giới “đắt” hơn việc nhận trực tiếp vì phải trả hoa hồng môi giới. Tuy nhiên môi giới là người am hiểu thị trường và thường được các khách hàng uỷ thác. Đây là ưu thế mà các công ty nhận tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm không có được. Chính các môi giới đem lại nhiều dịch vụ cho các công ty nhận tái hoặc công ty bảo hiểm. Như vậy các môi giới có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các công ty nhận tái cũng như các công ty bảo hiểm. Khi thị trường bảo hiểm phát triển, quan hệ tái bảo hiểm chủ yếu thực hiện qua các môi giới tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm. Vì thế để tăng được nguồn dịch vụ VINARE cần thiết phải có kế hoạch xây dựng cho mình hệ thống môi giới. Các môi giới có vai trò như những người khai thác dịch vụ cho công ty nhưng tất niên vẫn phải theo đúng nguyên tắc hoạt động môi giới: đạt được điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Các môi giới riêng các công ty tất nhiên luôn ưu tiên mang lại dịch vụ cho công ty đến mức tối đa có thể. Việc xây dựng được một hệ thống môi giới riêng như vậy không đơn giản. Công ty phải nghiên cứu kỹ những môi giới có uy tín và xác lập mối quan hệ trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Môi giới sẽ ưu tiên mang dịch vụ cho VINARE, đổi lại VINARE cũng phải có những ưu tiên cho môi giới. 5-/ Triển khai phương pháp tái bảo hiểm mới. Nghiệp vụ kỹ thuật là một nghiệp vụ có kết quả tốt, tỷ lệ tổn thất thường rất thấp vì thế hầu hết các công ty bảo hiểm gốc triển khai nghiệp vụ này đều ấn định mức giữ lại khá cao. Việc ấn định mức giữ lại cao như vậy sẽ rất nguy hiểm cho công ty bảo hiểm nếu xảy ra tổn thất lớn do sự tích tụ tập trung rủi ro hoặc do rủi ro thiên tai. Để không ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh các công ty bảo hiểm trong nước chắc chắn sẽ mốn có những đảm bảo cho mức giữ lại bằng cách tìm đến hợp đồng phi tỷ lệ, mà thông thường là hợp đồng vượt mức (XL). Nhưng mặt khác công ty bảo hiểm gốc (trừ Bảo Việt) có doanh số phí thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật không lớn lắm trong cơ cấu phí. Và như vậy sẽ không kinh tế nếu thu xếp một hợp đồng vượt mức chỉ để bảo vệ cho một số ít dịch vụ. Các công ty bảo hiểm gốc sẽ phải tìm tới giải pháp thu xếp hợp đồng vượt mức bảo vệ cho nghiệp vụ kỹ thuật và một nghiệp vụ khác có tính chất tương đối gần với bảo hiểm kỹ thuật. Trong các nghiệp vụ thì chỉ có nghiệp vụ bảo hiểm cháy là có bản chất gần giống bảo hiểm kỹ thuật: các rủi ro khác nhau đáng kể về quy mô, tỷ lệ tổn thất thấp. Và trong thực tế thì nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật và bảo hiểm cháy thường do một phòng nghiệp vụ của công ty bảo hiểm gốc phụ trách. Từ những phân tích trên có thể thấy, VINARE có thể triển khai tái bảo hiểm phi tỷ lệ cung cấp sự bảo vệ mức giữ lại nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật và bảo hiểm cháy cho các công ty bảo hiểm gốc. Phòng nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật cần phải phối hợp với phòng tái bảo hiểm phi hàng hải để soạn ra các điều kiện, điều khoản hợp đồng tái bảo hiểm vượt mức để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Như vậy vừa cạnh tranh được sự đơn điệu trong hoạt động kinh doanh lại tăng thêm phần nhận tái cho nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật và phi hàng hải. 6-/ Tiếp tục hoàn thiện hoạt động nhượng tái. Hoạt động nhượng tái về bản chất là việc tái bảo hiểm một lần nữa của người nhận tái bảo hiểm nhằm phân tán rủi ro. Nhượng tái cũng là một chức năng quan trọng của VINARE. Phương châm của hoạt động nhượng tái là ưu tiên chuyển nhượng tối đa dịch vụ cho các công ty bảo hiểm trong nước và phải đạt hiệu quả cao nhất. Trong năm 1998, các cán bộ nghiệp vụ kỹ thuật đã nghiên cứu kỹ và thu xếp hợp đồng chuyển nhượng mới cho các công ty bảo hiểm trong nước với các điều kiện điều khoản tốt nhất có thể, nhờ vậy các công ty trong nước nhận được lượng dịch vụ đáng kể. Trong các năm tới cần tiếp tục phát huy hơn nữa và có chú ý đến sự an toàn, hiệu quả. Cụ thể cần: a, Tiếp tục tăng tỷ lệ nhượng cho các công ty trong nước, giảm tỷ lệ nhượng cho các công ty nước ngoài. Thực tế cho thấy khả năng tài chính của các công ty trong nước càng ngày càng tăng lên, có đủ khả năng để nhận thêm dịch vụ. Các cán bộ nghiệp vụ tiếp tục thay đổi cấu trúc hợp đồng nhượng tái theo hướng giảm phần của các công ty nước ngoài, tăng phần nhượng cho các công ty trong nước. Nhượng cho các công ty trong nước không những là biện pháp để thực hiện tốt nhiệm vụ của công ty mà còn có tác dụng thắt chặt mối quan hệ với các công ty trong nước, tăng cường trao đổi dịch vụ. b, Thu xếp hợp đồng bảo vệ cho mức giữ lại của nghiệp vụ. Mức giữ lại thuần nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật tăng dần và với mức như hiện nay là khá cao. Sự gia tăng mức giữ lại kéo theo sự gia tăng rủi ro. Nếu như có một sự cố thiên tai xảy ra thì trách nhiệm bồi thường của VINARE sẽ rất lớn. Vì vậy trước khi tính tới việc phát triển nghiệp vụ, mở rộng thị trường cần phải chú trọng đến sự ổn định, bảo toàn vốn. Sự bất ổn định về thời tiết và sự xuất hiện của các cơn bão với sự tàn phá lớn là những nguy cơ đe doạ tới hoạt động kinh doanh nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật. Công ty cần phải thu xếp một hợp đồng vượt mức cho sự cố thiên tai để bảo vệ phần giữ lại của công ty tránh để ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh nghiệp vụ. 7-/ Nâng cấp hệ thống thông tin. Trong thời đại bùng nổ thông tin, vai trò của công nghệ thông tin hết sức quan trọng. Trong kinh doanh bảo hiểm ngày nay không thể không nói đến vai trò quan trọng của hệ thống thông tin. Công nghệ thông tin với sự xuất hiện của máy tính đã góp phần rất lớn vào việc giảm nhẹ sức lao động trong ngành bảo hiểm. Hiện nay hầu hết các công ty bảo hiểm đều sử dụng các chương trình tính phí trên máy tính, dùng máy tính để quản lý các hợp đồng và xử lý thông tin. VINARE đưa máy tính vào giải quyết công việc xử lý nghiệp vụ, quản lý hợp đồng ngay từ khi thành lập, nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật là nghiệp vụ áp dụng tin học nhiều nhất và có hiệu quả nhất vì trong lực lượng cán bộ nghiệp vụ có một chuyên gia tin học phụ trách thiết lập mạng máy tính của VINARE và viết các chương trình xử lý nghiệp vụ. Nhờ vậy khối lượng công việc được giảm đáng kể mà chất lượng xử lý nghiệp vụ rất cao, nhanh chóng. Tuy nhiên do kinh phí còn hạn hẹp công ty không có điều kiện đổi mới hệ thống máy tính đa phần là cũ và chưa có chính sách khuyến khích hợp lý nên hệ thống thông tin chậm được cải tiến, hoạt động thiếu ổn định gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ. Vì vậy công ty cần: - Đầu tư đổi mới hệ thống máy tính: thay thế các máy tính đã cũ bằng các máy mới của các hãng danh tiếng, đặc biệt là máy chủ. Sự ổn định của máy chủ quyết định tới toàn bộ hoạt động của hệ thống xử lý thông tin. - Có biện pháp khuyến khích hoàn thiện, cải tiến các chương trình máy tính, tận dụng tiềm năng chất xám của những cán bộ có trình độ tin học cao. 8-/ Nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ. Trong mọi hoạt động thì vai trò của nhân tố con người giữ vị trí quyết định. Vì vậy để phát triển nghiệp vụ tái bảo hiểm kỹ thuật không thể không nói đến nhân tố con người. Như đã nhiều lần nói đến trong các phần trên bảo hiểm kỹ thuật, và tái bảo hiểm kỹ thuật đòi hỏi phải có những chuyên gia có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao đáp ứng được chuyển mực quốc tế. Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ của VINARE phần lớn còn rất trẻ kinh nghiệm chưa có nhiều trong khi đó trình độ còn hạn chế. Trong những năm tới công ty cần phải chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trẻnày. Công ty cần tạo điều kiện cho các cán bộ này có cơ hội đào tạo ở các nước có trình đọ bảo hiểm phát triển để tiếp tục những kiến thức nghiệp vụ hiện đại, học hỏi được những kinh nghiệm của các chuyên gia có trình độ. Đi đôi với đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cần phải tạo điều kiện cho các cán bộ nâng cao trình độ ngoạ ngữ, đặc biệt là ngoại ngữ chuyên ngành bảo hiểm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0053.doc
Tài liệu liên quan