Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách xã hội của một nước. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, BHXH đang trở thành một nhu cầu cấp bách và đòi hỏi khách quan của người lao động. BHXH là phương tiện để bảo vệ che chở người lao động khỏi ảnh hưởng trực tiếp những hạn chế trong cơ chế kinh tế mới và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội.
Là cơ quan BHXH cấp địa phương, BHXH huyện Tứ Kỳ luôn hoàn thành nhiệm vụ của mình được cấp trên giao, luôn bám sát các văn bản pháp quy về BHXH, thực hiện đúng các chế độ chính sách và nguyên tắc quản lý tài chính của Nhà nước.
Trên địa bàn huyện số doanh nghiệp, số lao động tham gia BHXH, cũng như số thu BHXH luôn tăng quan các năm nhất là trong những năm gần đây khi có văn bản về việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Qua công tác tuyên truyền tích cực của các bộ BHXH huyện Tứ Kỳ tới các doanh nghiệp và người dân mà tỷ lệ doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cũng như tỷ lệ nhân dân tham gia BHYT tự nguyện ngày càng tăng. Là một đơn vị luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; lãnh đạo, cán bộ BHXH huyện Tứ Kỳ đã tự khắc phục những khó khăn, năng động nhiệt tình công tác, có kinh nghiệm và chuyên môn cao. Việc thực hiện tốt chính sách BHXH ở huyện Tứ Kỳ đã góp phần giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn huyện, góp phần thúc đẩy toàn ngành BHXH phát triển.
Trong thời gian tới BHXH huyện Tứ Kỳ tiếp tục phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ ngày càng khó khăn mà BHXH tỉnh giao phó. Nhận thức thu BHXH là một nhiệm vụ then chốt của toàn ngành. BHXH huyện Tứ Kỳ sẽ xây dựng các biện pháp nhằm quản lý thu đạt hiệu quả hơn, có các biện pháp cần thiết để đôn đốc nhắc nhở các đơn vị tham gia BHXH đầy đủ cho người lao động. Cán bộ của BHXH huyện Tứ Kỳ luôn tâm niệm phải thu đúng, thu đủ để đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như bảo toàn nguồn quỹ BHXH. Song song với nhiệm vụ thu là nhiệm vụ chi: BHXH huyện Tứ Kỳ luôn xác định phải thực hiện đúng phương châm đó là: Chi đúng đối tượng, chi đủ số tiền, chi kịp thời gian, bảo đảm an toàn tiền mặt. Công tác chi giám định và thường trực KCB, thực hiện khám và điều trị đúng người, đúng bệnh, tinh thần phục vụ tận tình, kiểu mẫu.
Đề tài “Thực trạng thu, chi và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thu, chi BHXH tại BHXH huyện Tứ Kỳ – Tỉnh Hải Dương” đã trình bày những lý luận chung nhất về BHXH và hoạt động thu, chi BHXH, tình hình thực hiện công tác thu, chi quỹ BHXH ở cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương từ đó đưa ra những kiến nghị nhăm nâng cao hiệu quả công tác thu, chi BHXH tại huyện Tứ Kỳ trong thời gian tới.
Trên đây là toàn bộ kết quả nghiên cứu của đề tài. Hoàn thành được chuyên đề này ngoài sự nỗ lực của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của Th.s Nguyễn Ngọc Hương, sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Gám đốc, các anh, các chị trong cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của cô, Ban Giám đốc, các anh, các chị đã giúp em hoàn thành đề tài này.
93 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1811 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng thu, chi và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thu, chi BHXH tại BHXH huyện Tứ Kỳ – Tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm sau, nhưng cũng có những doanh nghiệp, đơn vị không có khả năng đóng thì nợ năm sau. Bên thừa phản ánh doanh nghiệp đóng tiền BHXH trước, bên thiếu phán ánh doanh nghiệp đóng tiền BHXH còn thiếu hay còn nợ đọng tiền BHXH. Qua bảng ta thấy số tiền đóng thừa cũng như số tiền nợ đọng tăng qua các năm. Số tiền BHXH thiếu tăng dần qua các năm đến năm 2005 tăng nhiều nhất. Năm 2005 tổng số tiền nợ đọng vào khoảng 304.445.416 đ số tiền nợ đọng tập trung chủ yếu tại khối HCSN- Đảng - Đoàn thể, khối phường – xã - thị trấn, và khối NQD. Tuy nhiên nếu cân đối số tiền đóng thừa và số tiền đóng BHXH thiếu ta nhận thấy số thiếu thực sự không lớn, thậm chí những năm 2001, 2002, 2003 tổng số tiền đóng thừa còn cao hơn tổng số tiền đóng thiếu.
4. Đánh giá về hoạt động thu tại BHXH huyện Tứ Kỳ.
a) Những thành tựu đã đạt được.
Thứ nhất: Thực hiện nhiệm vụ thu.
Nhận thức công tác thu BHXH là nhiệm vụ trọng tâm của ngành, góp phần vào việc hình thành và tăng trưởng quỹ BHXH làm cơ sở cho việc thực hiện các chế độ BHXH, BHXH huyện đã phấn đấu thu đúng, thu đủ theo quy định của luật. Bằng nhiều biện pháp khác nhau như tuyên truyền, vận động, đôn đốc kết hợp với các phòng, ban của huyện đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu BHXH.
Qua phân tích ở trên ta thấy rằng trong 5 năm hoạt động 2001 – 2005 BHXH huyện Tứ Kỳ đã có những thành tích xuất sắc. Tỷ lệ thu thường vượt chỉ tiêu mà BHXH tỉnh giao phó. Đặc biệt năm 2004 tỷ lệ thu vượt kế hoạch giao 9% đây là một nỗ lực rất lớn của cơ quan BHXH huyện. Trong năm 2005 mặc dù có rất nhiều sự kiện xảy ra như tăng mức lương tối thiểu, giá cả thị trường tăng vọt làm công tác thu tại BHXH huyện Tứ Kỳ gặp nhiều khó khăn hơn nhưng cơ quan vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ giao phó và vượt kế hoạch 4%.
Theo dõi qua các năm cho thấy công tác thu, nộp BHXH, BHYT đã dần dần đi vào nề nếp, nhiều cơ quan đơn vị đóng BHXH, BHYT đầy đủ kịp thời đúng quy định như: UBND xã Kỳ Sơn, Công ty sản xuất Vật liệu xây dựng Phú Yên, Công ty cổ phần Thuận Cường, Doanh nghiệp tư nhân Minh Tú, Phòng tài chính- thương mại, Phòng Giáo dục, Văn phòng huyện Uỷ, Trường trung học cơ sở Phan Bội Châu, Trường phổ thông trung học Tứ Kỳ, Trường tiểu học Hưng Đạo…
Thứ hai: Kiểm soát nợ đọng.
Qua phân tích về tình hình nợ đọng của các khối đã trình bày ở trên có thể thấy rằng BHXH huyện Tứ Kỳ đã cố gắng kiểm soát tốt tình hình nợ đọng, so với các đơn vị khác trong toàn ngành BHXH huyện Tứ Kỳ được đánh giá là đơn vị có tỷ lệ nợ đọng thấp. Mặc dù trong năm 2005 tỷ lệ nợ đọng đã tăng nhưng các cán bộ tại BHXH huyện Tứ Kỳ vẫn liên tục nhắc nhở đôn đốc các đơn vị nộp tiền BHXH và các đơn vị đã cam kết là sẽ nộp ngay khi có thể.
Để kiểm soát được số tiền nợ đọng của các đơn vị, các doanh nghiệp; các cán bộ BHXH đã thực hiện công tác đôn đốc thu BHXH trong ngay từ những tháng đầu, quý đầu của năm. Xuống các cơ sở thanh tra, kiểm tra nhắc nhở nhiệm vụ thu nộp BHXH của các đơn vị. Nếu tính trong tất cả số thu của BHXH huyện Tứ Kỳ thì thấy số tiền thu về luôn luôn thừa chỉ tiêu BHXH tỉnh giao vì BHXH huyện tiến hành thu trước những doanh nghiệp có khả năng đóng BHXH cho năm sau.
Để đạt được những thành tựu trên phải kể đến nhiều nhân tố thuận lợi đó là:
Thứ nhất: Chính sách BHXH đã được Nhà nước quan tâm ngay từ rất sớm và được thể chế bằng một loạt các văn bản quy phạm pháp luật. Đảng và Nhà nước thường bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để triển khai chính sách BHXH của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách BHXH trên toàn quốc nói chung và trên địa bàn huyện Tứ Kỳ nói riêng. Đồng thời BHXH huyện luôn được sự chỉ đạo sát sao của Ban giám đốc BHXH tỉnh Hải Dương và Ban thường vụ huyện uỷ Tứ Kỳ.
Thứ hai: Về nhân tố con người BHXH huyện Tứ Kỳ luôn đoàn kết, nỗ lực nhận thức rõ ràng nhiệm vụ thu, chi là 2 nhiệm vụ trọng tâm, là nhiệm vụ tiên quyết cho các nhiệm vụ tiếp theo. Với lòng nhiệt huyết yêu nghề hết lòng phục vụ người lao động đến đăng ký tham gia BHXH, cũng như giải quyết các chế độ, giải thích cho người lao động hiểu về quyền lợi và nghĩa vụ của họ, thái độ phục vụ lịch sự, văn minh cùng trình độ chuyên môn cao có kinh nghiệm làm việc các cán bộ của BHXH huyện Tứ Kỳ luôn đem đến cho người tham gia cảm giác công việc được giải quyết nhanh gọn hợp lý…
Tập thể cán bộ luôn bám sát mục tiêu, nhiệm vụ và quyết tâm phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao ngay từ tháng đầu, quý đầu. Hàng tuần vào thứ sáu, các cán bộ trong cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ có một buổi họp nội bộ, trong buổi họp này các lãnh đạo giải thích cho các nhân viên về các văn bản mới ban hành và hướng dẫn thực hiện, rà soát lại toàn bộ công việc của cơ quan trong tuần, trong tháng để xác định kịp thời những việc đã làm được để phát huy, những việc chưa làm được hoặc còn thiếu sót để khắc phục, cùng nhau đoàn kết thi đua hoàn thành nhiệm vụ chính trị của BHXH tỉnh và Huyện uỷ, UBND huyện giao, góp phần thực hiện giữ vững an ninh chính trị xã hội ở địa phương.
Thứ ba: Có sự kết hợp chặt chẽ có hiệu quả với các Ban ngành đoàn thể của huyện, các đơn vị sử dụng lao động và cấp uỷ chính quyền xã, thị trấn để tổ chức thực hiện các chế độ chính sách BHXH, BHYT cho người lao động được đảm bảo đúng quy định.
b) Những tồn tại trong công tác thu tại BHXH huyện Tứ Kỳ và nguyên nhân những tồn tại đó.
Mặc dù có những thành tựu đáng khích lệ trong thời gian qua nhưng công tác thu BHXH tại BHXH huyện Tứ Kỳ vẫn còn những tồn tại, đó là ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất: Luôn luôn tồn tại tình trạng nợ đọng tiền BHXH: Huyện Tứ Kỳ là một huyện thuần nông, đối tượng tham gia BHXH chủ yếu là cán bộ công chức viên chức khối hành chính sự nghiệp và một số ít lao động ở các đơn vị doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng với cán bộ xã phường. Tuy nhiên công tác thu vẫn còn gặp phải khó khăn như: Việc nợ đọng BHXH dây dưa kéo dài ở một một số cơ quan HCSN
Những năm trước đây số thu nộp BHXH còn dây dưa nợ đọng đến khi bàn giao sang BHXH quản lý số nợ là: 1.325.600 nghìn đồng. Đến nay mặc dù BHXH huyện đã dùng mọi biện pháp và đơn vị cũng đã cố gắng nhưng việc thanh toán công nợ vẫn còn tồn tại là: 10.845 nghìn đồng. Mặt khác với đặc thù của một số doanh nghiệp và khối xã, thị trấn là thu theo mùa vụ vì vậy thường là đến tháng 7 và tháng 12 hàng năm số thu BHXH của các đơn vị này mới có. Do vậy BHXH huyện Tứ Kỳ hầu như không đảm bảo được tiến độ thu. Đối với những đơn vị hành chính sự nghiệp nhiều khi do đơn vị không dự toán đúng về BHXH nên kéo theo đó là việc thu nộp BHXH chậm tiến độ.
Thứ hai: Một số doanh nghiệp đang trốn tránh việc tham gia BHXH cho người lao động. Chắc chắn rằng số lao động trong khối NQD tham gia BHXH ít hơn con số lao động thực tế trong khối này nhiều. Ví dụ có những doanh nghiệp có 150 lao động nhưng chỉ tham gia cho 60 lao động. Thậm chí người lao động cũng chưa hiểu được quyền lợi của mình mà chỉ biết mỗi tháng phải mất đi một khoản tiền đóng BHXH từ đồng lương vốn đã eo hẹp, rồi việc không xác định làm việc lâu dài cũng khiến họ không tham gia đóng BHXH. Nói tóm lại nguyên nhân này xuất phát từ sự trốn tránh trách nhiệm của chủ doanh nghiệp nhằm đảm bảo toàn lợi nhuận và việc chưa hiểu quyền lợi BHXH của người lao động
Thứ ba: Bên cạnh việc trốn đóng tiền BHXH thì có những doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia đóng BHXH rất mang tính chất tượng trưng và đối phó bằng cách chỉ tham gia BHXH cho người lao động với mức lương tối thiểu, không thực hiện nâng bậc lương thường xuyên mà tăng các khoản chi trả ngoài lương để giảm bớt phần đóng BHXH. Nói chung xu hướng của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là muốn nộp tiền BHXH thật ít, chính vì vậy sẽ có những doanh nghiệp khai giảm quỹ lương của đơn vị, không khai bảo khi người lao động được lên lương, cũng như không đăng ký BHXH cho số lao động mới hoặc khai giảm số lao động trong doanh nghiệp nhằm phải đóng tiền BHXH ít hơn. Chính vì vậy một số doanh nghiệp nâng thời gian thử việc của người lao động lên, hoặc không ký hợp đồng lao động, hoặc thuê lao động theo mùa vụ để trốn tránh đóng BHXH cho họ. Bên cạnh đó công tác làm sổ BHXH cho người lao động, chủ sử dụng lao động chưa thực sự quan tâm mà còn ỷ lại cho cơ quan BHXH.
Thứ tư: Công tác thu BHYT tự nguyện gặp rất nhiều khó khăn trong tổ chức thực hiện, các ngành, các cấp từ huyện đến cơ sở xã, thị trấn chưa thực sự quan tâm, nhân dân chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, mục đích và quyền lợi hưởng BHYT tự nguyện.
Những tồn tại trên xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
- Chế tài xử phạt hành vi vi phạm chính sách BHXH trong nhiều năm qua chưa đủ mạnh, cho nên nhiều người sử dụng lao động thà chịu nộp tiền phạt còn hơn phải mất tiền tham gia BHXH cho người lao động bởi số tiền nộp phạt nhỏ hơn rất nhiều so với số tiền mà chủ sử dụng lao động trốn được.
- Có rất nhiều người sử dụng lao động hiểu biết pháp luật, có khả năng tài chính nhưng lại thiếu trách nhiệm, cố tình lách luật và tìm mọi cách tránh nghĩa vụ tham gia BHXH cho người lao động hoặc chiếm dụng tiền đóng BHXH. Bên cạnh đó có một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, thua lỗ không đủ khả năng để đóng BHXH.
- Công tác tuyên truyền, giải đáp các chế độ BHXH, BHYT còn dừng lại ở phạm vi hẹp chưa được thường xuyên liên tục, chủ sử dụng lao động và người lao động nhận thức chưa đầy đủ trách nhiệm và quyền lợi hưởng các chế độ BHXH. Và do sức ép về việc làm và nhận thức chưa đầy đủ về tính ưu việt của chính sách BHXH và những nguy cơ rủi ro về thu nhập và việc làm trong cơ chế thị trường, cho nên không ít người lao động đã không phản đối khi người chủ sử dụng lao động không tham gia BHXH cho họ.
-Về cơ sở vật chất cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ có diện tích làm việc hạn hẹp, tiện nghi không đầy đủ. Hiện nay toàn cơ quan mới có 3 máy vi tính phục vụ cho việc quản lý như vậy là tương đối ít có thể gây khó khăn, vất vả cho các cán bộ trong khi làm việc. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực thu BHXH còn nhiều hạn chế, chủ yếu làm thủ công, dẫn đến xử lý thông tin, số liệu chậm, nhầm lẫn sai sót ảnh hưởng đến việc chỉ đạo kịp thời công tác thu.
- Còn có những tồn tại trên một phần cũng xuất phát từ ý thức trách nhiệm của lãnh đạo và cán bộ công nhân viên chức BHXH huyện. Mặc dù các cán bộ biết sự khai giảm mức lương thực tế cho người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng lại không đưa ra biện pháp kiểm tra đối chiếu. Vì vậy lãnh đạo và các cán bộ cần quan tâm sát sao hơn nữa, phải thực hiện đối chiếu với bảng lương, quỹ lương thực tế ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đảm bảo thu đúng, thu đủ theo tiền lương thực tế của người lao động, và phải cố gắng hơn nữa để khắc phục những tồn tại trên.
- Chưa có sự phối hợp thật sự nhịp nhàng, đồng bộ giữa các ban ngành đoàn thể và các cơ quan có liên quan.
III. Thực trạng công tác chi quỹ BHXH tại cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ trong giai đoạn 2001-2005.
1. Tổ chức chi trả.
1.1 Chi trả hai chế độ ốm đau và thai sản.
Hàng tháng các đơn vị lập báo cáo chi hai chế độ theo mẫu C04 và tổng hợp các giấy tờ khác: giấy khai sinh, giấy ra viện, giấy nghỉ hưởng chế độ BHXH do cơ sở y tế cấp (giấy này phải đăng ký chữ ký và mẫu dấu với BHXH tỉnh) để gửi cho cơ quan BHXH chậm nhất là ngày 10 của tháng sau. Trên cơ sở các chứng từ này, cán bộ thu BHXH của đơn vị sẽ tiến hành kiểm tra tiền lương đóng BHXH của tháng trước khi người lao động nghỉ ốm hoặc sinh đẻ. Sau đó cán bộ thu sẽ đối chiếu số ngày nghỉ hưởng BHXH với bảng chấm công, bảng thanh toán tiền lương, bảng tổng hợp ngày nghỉ. Cuối cùng, cán bộ thu sẽ lập bảng thanh toán nội bộ và chuyển chứng từ chi sang bộ phận kế toán để thanh toán cho đơn vị. Trong trường hợp nếu đơn vị chưa nộp đủ tiền BHXH thì vẫn phải thanh toán cho hai chế độ này để cơ quan BHXH xét duyệt và tổng hợp quyết toán. Khi đơn vị nộp đủ tiền, cơ quan BHXH sẽ làm thủ tục chuyển tiền cho đơn vị. Thông thường, việc thanh toán này sẽ được thực hiện thông qua hệ thống tài khoản, tức là cơ quan BHXH huyện sẽ viết giấy uỷ nhiệm chi để chuyển tiền từ tài khoản của cơ quan BHXH sang tài khoản của đơn vị. Trong trường hợp đơn vị không có tài khoản ở hệ thống ngân hàng, kho bạc thì cơ quan BHXH huyện sẽ thực thanh toán bằng tiền mặt cho đơn vị khi có đủ giấy tờ sau:
- Giấy giới thiệu của đơn vị cử người đi lĩnh tiền.
- Chứng minh thư nhân dân của người đi lĩnh tiền.
1.2 Chi trả chế độ lương hưu và chi trả chế độ trợ cấp BHXH thường xuyên.
BHXH huyện Tứ Kỳ căn cứ vào quyết định của BHXH tỉnh đối với từng trường hợp, theo danh sách vi tính do trung tâm tính toán trung ương chuyển về. Trên cơ sở danh sách có sẵn đó BHXH huyện Tứ Kỳ sẽ thực hiện chi trả. BHXH tỉnh sẽ thực hiện chuyển tiền cho cơ quan BHXH huyện vào ngày 9-11 đầu tháng thông qua hệ thống kho bạc, Ngân hàng nông nghiệp phát triển Nông thôn. Ngay sau khi tiền mặt được chuyển về BHXH huyện, cơ quan sẽ thực hiện việc vận chuyển tiền mặt bằng ô tô về các cụm để cấp cho đại lý các xã, thị trấn nhằm đảm bảo an toàn tiền mặt. Đại lý phải trực tiếp ký nhận vào danh sách vi tính lĩnh tiền hàng tháng. Tổ đại lý các xã, thị trấn tổ chức cấp lương hưu và trợ cấp BHXH cho đối tượng trong thời gian từ 1 đến 2 ngày là xong và báo cáo quyết toán với cơ quan BHXH huyện theo đúng quy định của quyết định 2903/1999/QĐ-BHXH ngày 24/11/1999 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Từng đại lý sẽ tập trung các đối tượng hưởng trợ cấp tại hội trường của từng thôn trong xã để tiến hành chi trả. Khi chi trả tiền BHXH cho người được nhận tiền hoặc người được uỷ nhiệm nhận tiền thì đại lý chi trả yêu cầu người nhận tiền ký tên vào danh sách chi trả lương hưu và trợ cấp. Sau khi chi trả hết tiền trợ cấp, tổ trưởng đại diện chi trả xã sẽ đem nộp lại danh sách chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho cơ quan BHXH huyện.
2. Kết quả công tác chi.
Để tìm hiểu công tác chi trả các chế độ trợ cấp BHXH tại cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ trong những năm qua, chúng ta sẽ đi sâu vào xem xét cơ cấu chi từng chế độ BHXH trong toàn bộ chi cho các chế độ BHXH, sau đó sẽ đi sâu vào việc chi trả một số chế độ BHXH qua từng năm để thấy được đâu là chế độ phải chi trả nhiều nhất, chế độ nào ít có nhu cầu chi nhất cũng như sự biến động của số tiền chi trả, tỷ lệ chi trả các chế độ qua các năm. Từ đó chúng ta sẽ xác định được những mặt mạnh, mặt yếu của công tác chi trả, những xu hướng biến động của sự chi trả các chế độ BHXH và từ đây chúng ta sẽ đề ra được những nhiệm vụ, kế hoạch trong thời gian tới đồng thời đưa ra được những biện pháp phù hợp
Dưới đây là một số số liệu, nhận xét cụ thể:
a) Tổng hợp tình hình chi trả các chế độ BHXH tại cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ.
Bảng dưới đây phản ánh tình hình chi trả các chế độ BHXH tại cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ trong 5 năm từ 2001 đến 2005.
Bảng 11: Bảng tổng hợp tình hình chi trả các chế độ BHXH tại BHXH huyện Tứ Kỳ giai đoạn 2001-2005
Chế độ
2001
2002
2003
2004
2005
Số ngời hởng(ngời)
Số chi trả
Số ngời hởng(ngời)
Số chi trả
Số ngời hởng(ngời)
Số chi trả
Số ngời hởng(ngời)
Số chi trả
Số ngời hởng(ngời)
Số chi trả
số tuyệt đối(1000đ)
Cơ cấu(%)
số tuyệt đối(1000đ)
Cơ cấu(%)
số tuyệt đối(1000đ)
Cơ cấu(%)
số tuyệt đối(1000đ)
Cơ cấu(%)
số tuyệt đối(1000đ)
Cơ cấu(%)
1.Hu trí-MSLĐ
3,998
17,598,450
93.19%
4,080
17,895,358
93.13%
4,189
27,800,685
93.83%
4,236
30,706,942
94.35%
4,469
38,756,865
95.18%
2. ốm đau
319
96,597
0.51%
329
95,695
0.50%
350
143,687
0.48%
380
90,395
0.28%
441
25,444
0.06%
3.Thai sản
117
318,869
1.69%
125
322,856
1.68%
129
324,825
1.10%
123
327,891
1.01%
146
441,625
1.08%
4.TNLĐ-BNN
59
20,126
0.11%
65
20,874
0.11%
63
47,418
0.16%
60
48,840
0.15%
65
53,082
0.13%
5.Tử tuất
550
849,568
4.50%
580
879,896
4.58%
650
1,311,565
4.43%
801
1,371,268
4.21%
830
1,440,733
3.54%
6.Chung
5,043
18,883,610
100.00%
5,179
19,214,679
100.00%
5,381
29,628,180
100.00%
5,600
32,545,336
100.00%
5,951
40,717,749
100.00%
Qua bảng số liệu trên cho thấy trong cơ cấu chi trả các chế độ BHXH thì chi cho đối tượng về hưu và MSLĐ chiếm tỷ trọng cao, thông thường là trên 93% tổng chi, thậm chí có năm còn chiếm đến 95.18% tổng chi (năm 2005). Các chế độ khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ, tuy nhiên chế độ tử tuất chiếm tỷ trọng cao nhất trong các chế độ còn lại với tỷ lệ luôn cao hơn 3.54% có năm chiếm đến 4.58% tổng chi (năm 2002) tiếp theo là các chế độ thai sản, ốm đau, TNLĐ - BNN. Tổng số tiền mà BHXH huyện Tứ Kỳ đã phải chi trả cho các đối tượng chính sách trong 5 năm là 140.989.563 nghìn đồng và bình quân mỗi năm sau luôn phải chi nhiều hơn so với năm trước. Đặc biệt năm chi nhiều nhất là năm 2003 lớn hơn so với năm 2002 là 10.412.502 nghìn đồng, sau đó đến năm 2005 chi lớn hơn so với năm 2004 là 8.172.412 nghìn đồng, năm tăng chi ít nhất là năm 2004 so với năm 2003 nhưng cũng tăng 2.917.156 nghìn đồng. Nguyên nhân là ngày càng có nhiều người được hưởng trợ cấp hưu trí, và do Nhà nước điều chỉnh hệ số thang lương, bảng lương đã làm cho số tiền phải chi trả cho các đối tượng ngày càng tăng.
Phần trên chúng ta đã sơ lược phân tích tình hình chi trả các chế độ tại BHXH huyện Tứ Kỳ, sau đây chúng ta sẽ đi vào phân tích chi tiết một chế độ cụ thể:
b) Chế độ hưu trí – MSLĐ.
Trong giai đoạn 2001 – 2005, tổng số tiền chi trả cho các đối tượng hưu trí MSLĐ là 132.758.302 nghìn đồng.
Bảng 12: Tình hình chi trả cho chế độ hu trí - MSLĐ tại cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ trong giai đoạn 2001-2005.
Nguồn chi
2001
2002
2003
2004
2005
Số người hưởng
Số tiền
Số người hưởng
Số tiền
Số người hưởng
Số tiền
Số người hưởng
Số tiền
Số người hưởng
Số tiền
chi trả
chi trả
chi trả
chi trả
chi trả
(1000đ)
(1000đ)
(1000đ)
(1000đ)
(1000đ)
1.Do
3,698
16,611,695
3,570
15,705,798
3,633
24,047,251
3,386
24,276,476
3,476
28,329,051
NSNN
đảm bảo
2.Do quỹ
300
986,754
510
2,189,560
556
3,753,433
850
6,430,465
993
10,427,814
BHXH
đảm bảo
3.Chung
3,998
17,598,450
4,080
17,895,358
4,189
27,800,685
4,236
30,706,942
4,469
38,756,865
(Nguồn: BHXH huyện Tứ Kỳ)
Như vậy trong năm năm qua, tổng số người được nhận trợ cấp hưu trí, MSLĐ luôn luôn tăng lên. Nhìn vào bảng số liệu ta nhận thấy số tiền chi trả cho đối tượng hưởng lương từ NSNN có xu hướng giảm và số tiền chi trả cho đối tượng hưởng lương từ quỹ BHXH thì có xu hướng tăng qua các năm. Nếu tính tỷ lệ số tiền trợ cấp từ quỹ BHXH trên số tiền trợ cấp do NSNN đảm bảo qua các năm 2001-2005 ta có tỷ lệ như sau: 1/16, 1/7, 1/6, 1/4, 1/3. Qua đó chúng ta thực sự thấy được số tiền trợ cấp do quỹ BHXH đảm bảo tăng qua các năm , điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung của cả nước và phù hợp với tư tưởng chỉ đạo chung của Đảng và Chính Phủ tiến tới số tiền trợ cấp từ NSNN giảm dần và tiến tới bằng không.
Qua bảng số liệu trên ta nhận thấy số tiền chi trả cho các đối tượng có xu hướng tăng nhanh hơn số người chi trả, đó phải chăng là do sự điều chỉnh mức lương tối thiểu tăng lên trong giai đoạn này từ 180.000 đ lên 210.000 đ sau đó lên 290.000 đ và tăng lên 350.000 đ.
3. Thực trạng về quản lý chi.
BHXH huyện thực hiện chế độ báo tăng, báo giảm kịp thời khi có biến động về số đối tượng hưởng BHXH, tiền lương do BHXH tỉnh ra quyết định và thực hiện quản lý đối tượng theo danh sách chi trả. Hiện nay BHXH huyện đã thực hiện quản lý đối tượng theo sổ thống nhất từ cấp huyện xuống xã, thị trấn đảm bảo nắm rõ đối tượng do mình quản lý. Phát hiện và kiến nghị xử lý những hiện tượng tiêu cực trong giả mạo hồ sơ, chứng từ giả để hưởng chế độ BHXH, cắt giảm những đối tượng đã hết thời hạn hưởng chế độ mất sức lao động và định suất tuất. Phối hợp với các đơn vị kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ BHXH trong các đơn vị doanh nghiệp.
Năm 2002 tổng số đối tượng đang quản lý để chi trả lương hưu và trợ cấp thường xuyên là: 4.725 người.
Trong đó:
- Hưu trí: 3.235 người.
- Mất sức lao động: 845 người.
- TNLĐ - Bệnh nghề nghiệp: 65 người.
- Tuất công nhân: 580 người.
Năm 2002, BHXH huyện đã quản lý và giải quyết đầy đủ mọi chế độ cho các đối tượng hưởng BHXH về chế độ ốm đau và thai sản.
Năm 2005
Tổng số đối tượng BHXH huyện quản lý để chi trả lương hưu và trợ cấp thường xuyên tăng lên là: 5.328 người.
Trong đó:
- Hưu công nhân viên chức: 2.771 người.
- Hưu quân đội và công an: 730 người
- Mất sức lao động: 968 người.
- TNLĐ: 65 người.
- Tuất công nhân viên chức: 830 người.
- Trợ cấp 91: 5 người
Trong năm 2005 tiếp nhận và thẩm định hồ sơ giải quyết chế độ BHXH gồm:
+ Hưu 172 người
+ Nghỉ ốm (BHXH trả thay lương): 83 người
+ Nghỉ chế độ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ 358 người
+ Nghỉ thai sản (BHXH trả thay lương): 146 người
+ Giải quyết chế độ tiền tuất 79 người
+ Thăm viếng đối tượng qua đời:71 người
+ Điều chỉnh lương hưu theo Nghị định 117 và 118 của Chính Phủ là: 3501 người.
Nhìn chung công tác giải quyết các chế độ BHXH, BHYT cho đối tượng kịp thời đảm bảo đúng chế độ quy định của Nhà nước. Tuy nhiên việc tiếp nhận hồ sơ để thẩm định giải quyết các chế độ BHXH, BHYT trong một số trường hợp vẫn còn thiếu sót chưa đồng bộ, chưa đúng với quy trình hướng dẫn của BHXH Việt Nam.
4. Đánh giá kết quả công tác chi.
Trong thời gian qua BHXH huyện Tứ Kỳ đã nỗ lực, cố gắng kết hợp cùng với các cơ quan chức năng khác như bộ phận đại lý chi trả các xã phường, hệ
thống kho bạc, Ngân hàng trên địa bàn toàn huyện để tiến hành chi trả. Vì vậy công tác chi trả đã đạt được những kết quả sau:
- Công tác chi BHXH nhìn chung thực hiện chi đúng đối tượng, chi đủ tiền, chi kịp thời gian, bảo đảm an toàn tiền mặt.
- Công tác chi giám định và thường trực KCB, thực hiện khám và điều trị đúng người, đúng bệnh, tinh thần phục vụ ngày một tốt hơn.
Mặc dù vậy công tác chi trả trong thời gian qua vẫn còn tồn tại nhiều bất cập mà nguyên nhân chủ quan có từ phía bản thân BHXH huyện cũng như khách quan từ phía cơ chế chính sách của Nhà nước khiến công tác chi gặp nhiều khó khăn và không đảm bảo được nguyên tắc cân bằng thu chi của quỹ BHXH, thậm chí trong một số trường hợp nó còn mất đi tính chất bảo đảm cho cuộc sống của người lao động.
Các tồn tại xuất phát từ phía BHXH huyện Tứ Kỳ.
Trên thực tế có nhiều phương thức chi trả trợ cấp BHXH như:
+ Chi trả trực tiếp cho người lao động và đối tượng hưởng
+ Chi gián tiếp thông qua các đại lý chi trả BHXH
+ Chi trả gián tiếp thông qua hệ thống ngân hàng và bưu điện.
Tuy nhiên BHXH huyện Tứ Kỳ lựa chọn phương thức chi trả gián tiếp thông qua đại lý chi trả, phương thức này nó phù hợp với BHXH huyện Từ Kỳ vì địa bàn rộng, đối tượng hưởng BHXH đông. Bộ phận chi trực tiếp chỉ có 01 kế toán tổng hợp và 01 thủ quỹ. Do vậy không thể đảm đương chi trả theo phương thức trực tiếp được, cho nên việc giám sát đối tượng còn hạn chế. Đồng thời quan niệm đại lý chi trả là người đi làm thuê cho BHXH nên trách nhiệm của họ chưa cao, việc giám sát đối tượng chưa chặt chẽ.
- Vẫn còn một số trường hợp chi nhầm, và do nể nang cán bộ vẫn thực hiện chi khi chưa đủ hồ sơ giấy tờ theo đúng quy định của Nhà nước.
- Vẫn còn tồn tại một số tổ đại lý xã do tình cảm nể nang cấp không đúng đối tượng như: Trường hợp đối tượng đi vắng mà vẫn cấp cho người thân hoặc trường hợp chết, hết hạn hưởng chưa báo giảm kịp thời đến khi kiểm tra phát hiện mới làm thủ tục báo giảm như xã Văn Tố, An Thanh
Các tồn tại xuất phát từ cơ chế chính sách của Nhà nước.
a. Các chế độ còn có nhiều bất cập.
- Chế độ trợ cấp thai sản: Việc nghỉ để thực hiện biện pháp kế hoạch hoá gia đình hưởng theo chế độ ốm đau là không hợp lý vì đây là thai sản. Chế độ này không quy định thời gian dự bị nên dễ bị các tổ chức, cá nhân trục lợi. Trên thực tế, có những chủ doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hoặc văn phòng đại diện, kể cả chủ doanh nghiệp tư nhân tuyển dụng lao động có thai 5 hoặc 6 tháng, thậm chí có trường hợp mới đóng được 1 tháng đã nghỉ đẻ để hưởng chế độ thai sản với ít nhất là 5 tháng tiền lương, sau đó không tiếp tục tham gia đóng BHXH gây thiệt hại cho quỹ BHXH. Đây là điều không công bằng trong chế độ BHXH.
- Chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN: Chế độ này không quy định cụ thể thế nào là TNLĐ-BNN như vậy dẫn đến sự trợ cấp cho các trường hợp rất rộng, gây khó khăn cho việc trợ cấp và gây tốn kém cho quỹ BHXH. Vì vậy cần sự quy định cụ thể khái niệm TNLĐ-BNN giúp cho việc tiến hành giải quyết chi trả trợ cấp được dễ dàng hơn. Chế độ này có quy định trợ cấp cho người lao động khi họ bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc. Như vậy trong trường hợp này rất khó xác định được đâu là tuyến đường mà người lao động đi từ nhà đến cơ quan và ngược lại bởi vì trên thực tế rất ít người ngày nào cũng đi một tuyến đường duy nhất từ nhà đến cơ quan. Hơn nữa mức lương làm căn cứ tính trợ cấp đó là tiền lương tối thiểu, điều này là không công bằng đối với từng người lao động vì khi đóng BHXH thì tính theo mức lương thực tế, khi hưởng lại tính theo mức lương tối thiểu.
Ngoài ra việc phân phối nhóm tỷ lệ suy giảm khả năng lao động như hiện nay là chưa hợp lý bởi vì khoảng cách tổ quá lớn, hơn nữa chỉ cần khác nhau 1% suy giảm là mức hưởng đã khác nhau lớn. Ví dụ:
Mức suy giảm khả năng lao động
Mức trợ cấp một lần
Từ 5% đến 10%
Từ 11% đến 20%
Từ 21% đến 30%
4 tháng tiền lương tối thiểu
8 tháng tiền lương tối thiểu
12 tháng tiền lương tối thiểu
Như vậy những người bị suy giảm 20% cũng chỉ được hưởng giống người bị suy giảm 11% trong khi đó người bị suy giảm 21% lại được hưởng gấp 1.5 lần người bị suy giảm 20% sức khoẻ. Do vậy không đảm bảo công bằng giữa người lao động và dễ dẫn đến trục lợi BHXH.
Một vấn đề nữa chúng ta phải quan tâm đó là việc trợ cấp đối với người chăm sóc đối với người bị rất nặng còn quá thấp 0.8 tháng lương tối thiểu /tháng. Những bất cập trên khiến cho công tác chi trả BHXH nói chung và chi trả tại huyện Tứ Kỳ nói riêng gặp không ít khó khăn, sự thắc mắc của người lao động
- Chế độ trợ cấp tử tuất: Chế độ này mang tính nhân đạo cao cả nhất. Chế độ này đã giúp cho thân nhân người chế có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chết; khi xây dựng chế độ này đã tính đến yếu tố đóng góp của người tham gia bảo hiểm và yếu tố xã hội giữa người sống và người chết. Song việc quy định đối tượng được hưởng bao gồm cả bố mẹ bên vợ, bên chồng là chưa hợp lý. Vì bố mẹ bên vợ, bên chồng còn có thân nhân của cả hai bên chịu trách nhiệm. Điều này cần phải căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể để thống nhất quy định…Trên thực tế mức trợ cấp còn quá thấp (bằng 40% mức tiền lương tối thiểu/ 1 tháng , trong trường hợp thân nhân không có nguồn thu nhập nào khác và không có người thân trực tiếp nuôi dưỡng thì mức tiền tuất hàng tháng chỉ là 70% mức tiền lương tối thiểu/ 1tháng)
- Chế độ trợ cấp ốm đau: ốm đau dài ngày đối với một số bệnh thực tế là tàn phế như: xuất huyết não, tâm thần …áp dụng chế độ ốm đau dài ngày không có giới hạn về thời gian hưởng, gây khó khăn cho người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Có người thời gian đóng BHXH dưới 5 năm, hưởng trợ cấp ốm đau dài ngày nhiều năm, có mức hưởng cao hơn so với người có thời gian đóng BHXH từ 15 đến 20 năm hết tuổi lao động được hưởng trợ cấp hưu 45 đến 55 % tiền lương bình quân 5 năm cuối.
b. Mức trợ cấp chưa hợp lý
Việc áp dụng mức lương bình quân 5 năm cuối làm căn cứ tính mức chi trả chế độ nghỉ hưu là chưa hợp lý, cần có biện pháp điều chỉnh. Bởi vì giả sử nếu bà H làm việc trong khu vực hành chính đến năm 50 tuổi với mức lương 600.000đ/ 1 tháng, đến khi đó bà xin làm sang liên doanh với mức lương 3.5 triệu đồng/ 1 tháng trong 5 năm cuối thì khi về hưu căn cứ tính lương hưu của bà H là mức lương bình quân 5 năm cuối theo quy định. Như vậy quy định trên là không hợp lý cần phải điều chỉnh để đảm bảo cân bằng cho quỹ và công bằng đối với mọi người lao động.
c. Các chế độ BHXH còn đan xen với các chính sách xã hội.
Các chế độ BHXH còn đan xen với các chế độ chính sách xã hội khác như chính sách ưu đãi đối với người có công với đất nước, chính sách kế hoạch hoá gia đình, chính sách sắp xếp lại lao động tinh giản bộ máy… đã làm giảm một phần vai trò và ý nghĩa vốn có của BHXH.
Chương III
Một số kiến nghị nhằm tăng cường công tác thu, chi quỹ BHXH tại cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ.
I. Phương hướng phát triển trong thời gian tới của BHXH huyện Tứ Kỳ.
Đã bước sang quý II năm 2006 cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ luôn làm việc tích cực để hoàn thành nhiệm vụ trong năm 2006. Hai quý đầu của năm nào cũng vậy số thu của cơ quan thường thấp, chỉ bằng 20% số thu của cả năm. Số tiền thu chủ yếu tập trung ở quý cuối, nhất là tháng cuối cùng trong năm. Việc có hoàn thành kế hoạch được giao hay không phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực trong những tháng cuối này của lãnh đạo, và các cán bộ trong cơ quan. Năm 2006 BHXH tỉnh Hải Dương giao kế hoạch cho BHXH huyện Tứ Kỳ chỉ tiêu số tiền thu BHXH là 8 tỷ đồng tăng so với năm 2005 là 0.324 tỷ đồng. Để hoàn thành được chỉ tiêu này đòi hỏi phải có sự nỗ lực ngay từ đầu của toàn bộ cơ quan BHXH.
Với mục tiêu hoàn thành kế hoạch được giao, cơ quan BHXH đã đưa ra phương hướng hoạt động trong năm 2006 là:
1. Tham mưu cho Ban giám đốc BHXH tỉnh Hải Dương và Huyện Uỷ, UBND huyện triển khai thực hiện Nghị quyết số: 46/NQ – TW ngày 23 tháng 02 năm 2005 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới, Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế.
2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền BHYT – TN trong nhân dân toàn huyện.
3. Phối hợp với các ngành tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác BHXH, BHYT nhất là tổ chức BHYT-TN toàn dân vào năm 2010.
4. Tăng cường đôn đốc các cơ quan, đơn vị đóng BHXH, BHYT đầy đủ, kịp thời đúng quy định.
5. Giải quyết kịp thời các chế độ BHXH theo đúng quy định của Nhà nước cho người lao động, kịp thời điều chỉnh mức lương hưu cho đối tượng hưu trí khi có hướng dẫn của Chính phủ.
6. Tiếp tục thực hiện công tác cấp, chốt sổ BHXH cho người lao động theo chỉ đạo của ngành nhằm đảm bảo cho người lao động yên tâm làm việc, các cơ quan, đơn vị tích cực đóng BHXH theo đúng quy định.
7. Thực hiện chi đúng, chi đủ, chi theo dự toán được duyệt không chi vượt quá hạn mức, mọi chi tiêu đều đảm bảo chứng từ hợp pháp.
8. Tăng cường quản lý đối tượng theo dõi cắt giảm kịp thời những trường hợp chết, hết hạn hưởng…
9. Duy trì tốt công tác quản lý lưu trữ hồ sơ, đảm bảo thuận tiện khi khai thác, an toàn trong lưu trữ, đáp ứng mọi yêu cầu của đơn vị và cá nhân về hồ sơ khi cần thiết.
10. Giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu tố theo đúng pháp luật quy định
11. áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý các nghiệp vụ từ đó giúp công tác quản lý thu trở lên hiệu quả.
12. Phấn đấu xây dựng đơn vị trong sạch vững mạnh, phấn đấu năm 2006 đạt danh hiệu đơn vị tiên tiến xuất sắc.
13. Xây dựng kế hoạch liên ngành kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động thực hiện BHXH, BHYT cho người lao động.
14. Làm tốt công tác sơ kết, tổng kết và biểu dương kịp thời tập thể, cá nhân có thành tích thực hiện tốt chế độ BHXH, BHYT và BHYT-TN.
II. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục khó khăn và nâng cao hiệu quả công tác thu, chi BHXH tại huyện Tứ Kỳ.
1. Đối với cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ.
Thứ nhất: Cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ cần phải bám sát cơ sở, nhất là các tháng đầu, quý đầu để đôn đốc và tuyên truyền hướng dẫn các chủ sử dụng lao động biết được trách nhiệm của mình trong việc thực hiện BHXH theo quy định, nếu thấy cơ sở còn khó khăn phải phối hợp cụ thể với đơn vị để giải quyết khó khăn, đối với các đơn vị có số nợ đọng lớn hoặc dây dưa kéo dài thì giám đốc hoặc phó giám đốc BHXH huyện sẽ tiếp cận và bàn biện pháp giải quyết hoặc đề nghị các cấp các ngành liên quan hỗ trợ.
Thứ hai: Cần tăng cường công tác tuyên truyền về chính sách BHXH đến với những chủ doanh nghiệp, cũng như người lao động trong doanh nghiệp. Giải thích cho họ hiểu về quyền lợi của mình khi tham gia BHXH: như giúp họ ổn định cuộc sống, có thu nhập khi về già, được hưởng trợ cấp khi ốm đau. Giải thích để người lao động thấy rằng số tiền họ phải trích từ lương ra đóng là hợp lý và hữu ích, họ chỉ phải đóng 1/4 số tiền mà thôi còn chủ sử dụng lao động, doanh nghiệp sẽ phải đóng 3/4 số tiền còn lại, như vậy khuyến khích người lao động đấu tranh với các doanh nghiệp để được hưởng quyền lợi tham gia BHXH. Thông qua các tổ chức công đoàn để tuyên truyền chính sách BHXH đến người lao động và từ đó họ đấu tranh, đòi người sử dụng lao động nộp BHXH cho họ.
Trong công tác BHYT tự nguyện phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách BHYT như tuyên truyền qua đài truyền thanh của huyện, phát tài liệu phổ cập trong nhân dân phổ biến cho họ hiểu quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia, lấy những tấm gương, những hình ảnh thiết thực để thuyết phục mọi người. Đặc biệt kết hợp với các trường học để tuyên truyền BHYT học sinh: góp phần nâng cao nhận thức của đội ngũ thầy cô cũng như nhận thức của học sinh về mục đích ý nghĩa tính ưu việt bản chất nhân đạo, tính cộng đồng của BHYT học sinh. Từ đó đội ngũ này tích cực tuyên truyền, vận động phụ huynh tham gia cho con em.
Thứ ba: Để khuyến khích các đối tượng tham gia BHYT tự nguyện, để BHYT thực sự trở thành người đồng hành trong cuộc sống của mọi người dân, tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2010 theo tinh thần Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ chính trị, cơ quan BHXH huyện không chỉ tiến hành tuyên truyền vận động mà phải phối hợp với Bệnh viện đa khoa huyện, các trạm y tế tại các xã, thị trấn khám chữa bệnh tổ chức chăm sóc sức khoẻ chu đáo tận tình cho người tham gia BHYT để tạo dựng lòng tin về một chính sách nhân đạo cần thiết đối với mọi người trong xã hội. Với dân số đông nếu thực hiện tốt công tác BHYT tự nguyện thì BHXH huyện Tứ Kỳ sẽ tăng được một nguồn thu đáng kể vào quỹ.
Thứ tư: Trong công tác thu BHXH phải liên tục phối hợp chặt chẽ đồng bộ với các ngành chức năng như: Phòng Lao động – Thương binh -Xã hội…UBND huyện để theo dõi quá trình tham gia BHXH của các doanh nghiệp. Đồng thời để làm tốt công tác quản lý thu BHXH trên địa bàn huyện Tứ Kỳ cần phải tăng cường công tác phân công cán bộ chuyên quản trực tiếp đối với các đơn vị sử dụng lao động, tình hình quỹ lương và biến động quỹ lương. Thường xuyên bám sát các đơn vị sử dụng lao động để đôn đốc tiến độ thực hiện nộp BHXH.
Vì mỗi cán bộ phải quản lý rất nhiều đơn vị nên cần có thêm các chế độ hỗ trợ về vất chất cho các cán bộ thu để họ đi xuống các cơ sở đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra việc thực hiện BHXH tại các doanh nghiệp, các đơn vị…Cần có những ưu đãi như hỗ trợ phương tiện đi lại, chi phí coi như đi công tác …thực hiện tốt những điều này góp phần khuyến khích cán bộ thu tích cực trong công tác tuyên truyền vận động, đôn đốc thu với các đơn vị.
Thứ năm: Lãnh đạo cũng như cán bộ công nhân viên chức trong cơ quan cần quan tâm sát sao hơn nữa, nhiệt tình hơn nữa trong công việc chuyên môn nghiệp vụ để khắc phục những tồn tại trong những năm qua. Đặc biệt là tình hình tham gia BHXH ở một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãnh đạo và các cán bộ thu phải thường xuyên xuống các cơ sở kiểm tra đối chiếu với thang lương, bảng lương đảm bảo thu đúng theo mức lương thực tế của người lao động. Đồng thời phải đôn đốc nhắc nhở một số cơ quan HCSN tránh tình trạng nợ đọng tiền BHXH kéo dài.
Thứ sáu: Trong công tác chi BHXH huyện phải tiến hành đồng thời các biện pháp sau:
- Tiến hành rà soát hồ sơ hưởng BHXH dài hạn trên toàn huyện, đối chiếu giữa phiếu trung gian và danh sách chi trả cả về tiền lương, trợ cấp BHXH và đối tượng.
- Phối hợp các chính quyền địa phương cấp xã, thị trấn về quản lý hộ khẩu thường trú đối với các đối tượng hưởng chế độ BHXH trong thời gian hưởng chế độ BHXH ở địa phương.
- Tăng cường công tác lập dự toán chi hàng tháng trên cơ sở đó rà soát đối tượng chi trả, tránh tình hình hưởng trùng chế độ BHXH.
- Gắn trách nhiệm của chính quyền cấp xã, thị trấn vào công tác chi trả.
- Tăng cường công tác quản lý thông qua công tác kiểm tra, chế độ báo cáo và tiến độ báo cáo.
- Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Nhà nước trong quá trình xét duyệt các chế độ BHXH ngắn hạn.
Thứ bẩy: Bộ phận chi trả cần nâng cao ý thức trách nhiệm nghề nghiệp hơn nữa, tránh những trường hợp chi nhầm chi sai gây thiệt hại quỹ BHXH. Chỉ được phép chi khi có đủ hồ sơ giấy tờ theo đúng quy định của Nhà nước.
Thứ tám: Mặt khác cần tăng cường kiểm tra, thanh tra các đơn vị thực hiện, lập hòm thư khiếu nại tố cáo để kịp thời xử lý các sai phạm. Nhưng cũng tránh tình trạng kiểm tra chồng chéo dẫn đến hiệu quả thấp .
2. Đối với cơ quan BHXH cấp trên.
2.1 Cần phải nhanh chóng hoàn thiện và ban hành luật BHXH.
BHXH ở nước ta còn nhiều tồn tại cần giải quyết trong đó có việc ban hành các văn bản pháp luật về BHXH. Với một hệ thống văn bản khá cồng kềnh do nhiều cơ quan chức năng ban hành đã làm cho việc hướng dẫn thực hiện, kiểm tra các văn bản trên gặp nhiều khó khăn, tạo ra nhiều kẽ hở dẫn đến hoạt động BHXH kém hiệu quả, quỹ BHXH trở thành gánh nặng cho NSNN. Do vậy trong thời gian tới cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Cần phải sắp xếp, rà soát lại toàn bộ một hệ thống các văn bản BHXH từ trước tới nay, xem xét hiệu quả việc thực hiện các văn bản đó để điều chỉnh, loại bỏ hoặc đổi mới cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Các văn bản không phải mang tính mệnh lệnh đơn thuần mà phải phù hợp với nguyện vọng của phía người tham gia để việc thực hiện đạt kết quả cao.
- Các văn bản pháp luật về BHXH sắp ban hành phải đảm bảo được chất lượng và khả năng thực thi của các văn bản, đồng thời luật BHXH phải phù hợp với mọi thành phần kinh tế và mọi hoạt động kinh tế trong nước để đảm bảo tính chất xã hội hoá của BHXH và phải đáp ứng được tiến trình đổi mới kinh tế xã hội của đất nước, đáp ứng mục tiêu chiến lược về con người trong giai đoạn công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Phải xác định rõ trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, vai trò của công đoàn để đảm bảo đầy đủ quyền lợi hợp pháp và bình đẳng cho mọi đối tượng tham gia. Luật xác định rõ hệ thống tổ chức và hệ thống hoạt động có cơ chế kiểm tra, kiểm soát đảm bảo quyền lợi cho người lao động và nguồn quỹ dồi dào.
- Nhanh chóng xây dựng luật BHXH tạo hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động thu, chi quỹ BHXH. Cơ chế chính sách BHXH phải phù hợp với cơ chế đổi mới của Đảng và Nhà nước, phải thực sự tạo mọi điều kiện thuận lợi cho mọi người lao động ở các thành phần kinh tế đều có quyền tham gia BHXH. Quỹ phải được hạch toán độc lập, cân bằng thu chi và có dự phòng.
2.2 Hoàn thiện tổ chức bộ máy.
Hiện tại, theo nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam và quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 606/TTg ngày 26/09/1995, ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt nam, hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH đã được thành lập từ Trung ương đến địa phương theo mô hình 3 cấp Tung ương, tỉnh, huyện và đã đi vào hoạt động đồng bộ từ 1/10/1995.
Đến nay sau 5 năm hoạt động, bộ máy BHXH Việt Nam đã làm tốt chức năng nhiệm vụ do Chính phủ và Thủ tướng giao, góp phần phát triển sự nghiệp BHXH của nước nhà, được Đảng và Nhà nước đánh giá cao. Điều đó đã khẳng định mô hình quản lý tập trung thống nhất thành hệ thống dọc từ Trung ương tới địa phương, trực thuộc Thủ tướng Chính phủ như hiện tại là hợp lý.
Trong thời gian tới, để thực hiện chiến lược phát triển sự nghiệp BHXH Việt nam tổ chức bộ máy cần được sắp xếp, bổ sung và kiện toàn trên cơ sở hệ thống bộ máy hiện có, trong đó cần hướng vào các khâu đây:
- Kiện toàn Hội đồng quản lý- cơ quan cao nhất của BHXH Việt nam trên cơ sở mở rộng quyền hạn chức năng, nhiệm vụ và số lượng thành viên của Hội đồng quản lý để giúp Chính phủ chỉ đạo, kiểm tra , giám sát việc thực hiện thu, chi , quản lý quỹ BHXH .
- Thành lập mới một số đơn vị trực thuộc BHXH Việt nam để chuyên trách giúp Tổng giám đốc quản lý một số mặt chuyên môn đã và sẽ phát triển mạnh như đầu tư tăng trưởng quỹ, hợp tác quốc tế, báo BHXH, công nghệ thông tin trong đó phải kể đến vai trò của công nghệ thông tin, nó góp phần quan trọng trong quá trình quản lý hoạt động thu BHXH .
2.3 Mở rộng đối tượng tham gia BHXH.
Hiện nay việc thực hiện BHXH cho mọi người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế đang là nguyện vọng và phương hướng xây dựng Nhà nước XHCN. Khi mọi người lao động đều được tham gia BHXH chính là đã tạo ra mạng lưới bảo vệ rộng khắp, che chắn cho mọi người lao động không bị rơi vào cảnh túng quẫn, một xã hội có sự liên kết cộng đồng tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Để mở rộng đối tượng tham gia BHXH, Nhà nước ta cần ban hành các chính sách BHXH tự nguyện. Hình thức BHXH này đã được Bộ Luật lao đông và Nghị định 12/CP khẳng định song vẫn chưa được thực hiện. ở nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, thực hiện cơ cấu nhiều thành phần nên số lượng lao động ngày càng tăng. Trong khi đó đối tượng của BHXH hiện nay mới chỉ dừng lại ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể và các đơn vị có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Mà nước ta là một nước nông nghiệp 80% dân số sống bằng nghề nông, ngoài ra còn có thợ thủ công, người buôn bán nhỏ … các đối tượng này chiếm đại bộ phận trong tổng số lao động nước ta vẫn chưa tham gia BHXH. Do vậy cần có biện pháp hữu hiệu để cho mọi người lao động đều được tham gia BHXH.
2.4 Nâng cao việc đào tạo và sử dụng cán bộ.
BHXH là một ngành có chuyên môn sâu về kinh tế, tài chính, xã hội. Xuất phát từ đặc điểm đó, trong thời gian tới, công tác cán bộ của ngành BHXH cần tập trung thực hiện các mặt sau:
- Xây dựng tiêu chuẩn hóa chức danh cán bộ công chức của ngành trên cơ sở quy định của Nhà nước.
- Rà soát sắp xếp đội ngũ cán bộ công chức của ngành sao cho phù hợo với năng lực, sở trường và chức năng nhiệm vụ được giao.
- Tuyển lựa thêm đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt của ngành trong các vị trí phòng ban là các chuyên gia giỏi, trẻ để thực thi nhiệm vụ và thay thế trong tương lai.
- Nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ công chức trên cơ sở bồi dưỡng và đào tạo lại cán bộ công chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong năm tới: giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt, hết lòng phục vụ nhân dân, sự nghiệp BHXH .
Việc tuyển dụng cán bộ phải chú ý đến số lượng và chất lượng đặc biệt là đối với các chức vụ giám đốc và kế toán trưởng. Cần lựa chọn các cá nhân tiêu biểu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quan điểm lập trường đúng đắn, có tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp, gắn bó với người lao động
Đặc biệt đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ. Để thu hút nhân tài nên tuyển trực tiếp sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành bảo hiểm, hỗ trợ cho các sinh viên xuất sắc để khi tốt nghiệp sẽ về công tác cho cơ quan BHXH.
Muốn xây dựng hệ thống BHXH của Việt Nam vững mạnh thì Đảng và Nhà nước phải tăng cường đầu tư cho ngành này để có một chương trình đào tạo và sử dụng hợp lý khoa học. Bên cạnh đó ngành BHXH cũng phải nỗ lực triển khai các chương trình đào tạo đó
2.5 Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền.
Với mục đích nâng cao nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, trách nhiệm và quyền lợi của mọi người lao động và chủ sử dụng lao động về chính sách, chế độ BHXH. Cần phải coi thông tin tuyên truyền là nhiệm vụ quan trọng hiện nay và lâu dài. Để thực hiện tốt công tác tuyên truyền cần phải làm tốt công việc sau:
- Tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ BHXH, giải đáp hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành…Đặc biệt quan tâm tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của BHXH. Việc làm này sẽ làm thay đổi tâm lý nặng nề hiện nay là bắt buộc phải đóng BHXH. Từ đó họ sẽ tự giác, tự nguyện tham gia BHXH và có trách nhiệm nộp BHXH.
- Tạp chí BHXH Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công tác tuyên truyền về BHXH. Thời gian qua, tạp chí BHXH đã đóng góp rất lớn trong việc tuyên truyền kiến thức về BHXH. Tuy nhiên trên thực tế số lượng, chất lượng các bài viết chưa thực sự cao. Đặc biệt tạp chí BHXH còn ra ít ấn phẩm (một quý một lần) và tạp chí chưa thực sự phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Vì vậy để phục vụ độc giả ngày một tốt hơn, đưa tạp chí thành người bạn thân thiết của nhân dân cần phải đa dạng hoá nội dung và hình thức thể hiện đồng thời tăng số lượng phát hành (một tháng một lần).
- Phải đảm bảo kinh phí, phương tiện, trang thiết bị làm việc cho hoạt động thông tin tuyên truyền.
- Lựa chọn cán bộ có trình độ hiểu biết về BHXH chuyên trách làm công tác thông tin tuyên truyền từ cấp trung ương đến cấp tỉnh, thành phố.
- Không coi tuyên truyền BHXH là công tác riêng của ngành BHXH mà đòi hỏi các cấp, các ngành, đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh, huyện hệ thống thông tin tuyên truyền ở các xã, phường cùng phối hợp,
- Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp trong đó có đại diện của cơ quan BHXH, chủ sử dụng lao động, đại diện của người lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về BHXH giúp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của các chính sách BHXH, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
2.6 Thiết kế mức đóng BHXH cho phù hợp.
trước đây người lao động không phải đóng BHXH, nhưng từ năm 1993 bắt đầu đóng BHXH với tỷ lệ 5% tiền lương hàng tháng, nhưng tại thời điểm đó mức thu nhập của người lao động còn thấp, đến thời điểm này mức thu nhập của người lao động được cải thiện rất nhiều thì chúng ta phải có trách nhiệm đóng thêm cho quỹ. Đối với các nước khác, tất cả các nguồn thu đều có thể kiểm soát thông qua tài khoản cá nhân. Đối với nước ta, thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt việc kiểm soát rất khó khăn, cho nên cần có các giải pháp đồng bộ trên nhiều khía cạnh mới kiểm soát được.
2.7 Xây dựng hệ thống thống kê cho BHXH.
Để hệ thống BHXH hoạt động một cách tự chủ có hiệu quả cần thiết phải xây dựng một hệ thống kê, hệ thống này có thể tập trung được các số liệu có liên quan đến toàn bộ sự tham gia của các thành viên như: Số lượng đơn vị người lao động tham gia BHXH, tổng quỹ lương phải đóng BHXH. Từ đó tính ra số tiền đóng BHXH, số người hưởng trợ cấp BHXH hàng năm và số tiền chi trả cho những người hưởng trợ cấp từ các chế độ này.
Ngoài ra từ số liệu thống kê và tài liệu phân tích thống kê chúng ta còn biết được số lượng người tham gia BHXH theo từng độ tuổi, từng thành phần kinh tế, từng khu vực kinh tế từ đó có hướng đề suất phù hợp nhằm mở rộng hoạt động BHXH trong tương lai.
Kết luận
Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách xã hội của một nước. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, BHXH đang trở thành một nhu cầu cấp bách và đòi hỏi khách quan của người lao động. BHXH là phương tiện để bảo vệ che chở người lao động khỏi ảnh hưởng trực tiếp những hạn chế trong cơ chế kinh tế mới và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội.
Là cơ quan BHXH cấp địa phương, BHXH huyện Tứ Kỳ luôn hoàn thành nhiệm vụ của mình được cấp trên giao, luôn bám sát các văn bản pháp quy về BHXH, thực hiện đúng các chế độ chính sách và nguyên tắc quản lý tài chính của Nhà nước.
Trên địa bàn huyện số doanh nghiệp, số lao động tham gia BHXH, cũng như số thu BHXH luôn tăng quan các năm nhất là trong những năm gần đây khi có văn bản về việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Qua công tác tuyên truyền tích cực của các bộ BHXH huyện Tứ Kỳ tới các doanh nghiệp và người dân mà tỷ lệ doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cũng như tỷ lệ nhân dân tham gia BHYT tự nguyện ngày càng tăng. Là một đơn vị luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; lãnh đạo, cán bộ BHXH huyện Tứ Kỳ đã tự khắc phục những khó khăn, năng động nhiệt tình công tác, có kinh nghiệm và chuyên môn cao. Việc thực hiện tốt chính sách BHXH ở huyện Tứ Kỳ đã góp phần giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn huyện, góp phần thúc đẩy toàn ngành BHXH phát triển.
Trong thời gian tới BHXH huyện Tứ Kỳ tiếp tục phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ ngày càng khó khăn mà BHXH tỉnh giao phó. Nhận thức thu BHXH là một nhiệm vụ then chốt của toàn ngành. BHXH huyện Tứ Kỳ sẽ xây dựng các biện pháp nhằm quản lý thu đạt hiệu quả hơn, có các biện pháp cần thiết để đôn đốc nhắc nhở các đơn vị tham gia BHXH đầy đủ cho người lao động. Cán bộ của BHXH huyện Tứ Kỳ luôn tâm niệm phải thu đúng, thu đủ để đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như bảo toàn nguồn quỹ BHXH. Song song với nhiệm vụ thu là nhiệm vụ chi: BHXH huyện Tứ Kỳ luôn xác định phải thực hiện đúng phương châm đó là: Chi đúng đối tượng, chi đủ số tiền, chi kịp thời gian, bảo đảm an toàn tiền mặt. Công tác chi giám định và thường trực KCB, thực hiện khám và điều trị đúng người, đúng bệnh, tinh thần phục vụ tận tình, kiểu mẫu.
Đề tài “Thực trạng thu, chi và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thu, chi BHXH tại BHXH huyện Tứ Kỳ – Tỉnh Hải Dương” đã trình bày những lý luận chung nhất về BHXH và hoạt động thu, chi BHXH, tình hình thực hiện công tác thu, chi quỹ BHXH ở cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương từ đó đưa ra những kiến nghị nhăm nâng cao hiệu quả công tác thu, chi BHXH tại huyện Tứ Kỳ trong thời gian tới.
Trên đây là toàn bộ kết quả nghiên cứu của đề tài. Hoàn thành được chuyên đề này ngoài sự nỗ lực của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của Th.s Nguyễn Ngọc Hương, sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Gám đốc, các anh, các chị trong cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của cô, Ban Giám đốc, các anh, các chị đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế Bảo hiểm - Trường ĐH Kinh tế quốc dân - Hà nội.
2. Tạp chí lao động và xã hội các số năm 2003, 2004.
3. Hệ thống các văn bản hiện hành về BHXH.
4. Tạp chí BHXH các số năm 2003, 2004, 2005.
5. Báo cáo “ BHXH Việt Nam 10 năm xây dựng và phát triển 1995 – 2005”
6. Báo cáo kết quả công tác các năm 2001,2002,2003,2004,2005 của cơ quan BHXH huyện Tứ Kỳ.
7. Các văn bản khác có liên quan.
Mục lục
Trang
Bảng các chữ viết tắt
Chữ viết tắt
ý nghĩa
BHXH
Bảo hiểm xã hội
BHYT
Bảo hiểm y tế
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
DN NQD
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
TNLĐ - BNN
Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
HTX
Hợp tác xã
HCSN
Hành chính sự nghiệp
XN
Xí nghiệp
MSLĐ
Mất sức lao động
BHYT – TN
Bảo hiểm y tế tự nguyện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36282.doc