Trong bối cảnh đất nước đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá như hiện nay thì vấn đề người lao động và các chế độ chính sách đối với người lao động ngày càng trở lên quan trọng bởi nó không chỉ có ý nghía về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội sâu sắc. Hơn thế nữa, sự mở ra của nhiều thành phần kinh tế đã và đang gây không ít khó khăn cho các nhà quản lý vĩ mô trong việc chăm lo cuộc sống và điều kiện làm việc của người lao động. Để có thể giải quyết tốt vấn đề này, trong những năm vừa quan Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quan tâm cho công tác BHXH. Từ đó giúp người lao động yên tâm hơn trong công tác.
Qua 5 năm từ khi chính thức đi vào hoạt động, những kết quả ban đầu mà BHXH Việt Nam đã làm được là rất đáng trân trọng, góp phần giúp chính phủ giải quyết tốt các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác BHXH cho người lao động. Trong thời gian hoạt động vừa qua, BHXH Việt Nam đã chứng tỏ vai trò quan trọng trong việc góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, tạo nguồn vốn khá lớn để đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngoài ra, từ khi thực hiện cơ chế mới trong thu chi BHXH cũng đã tạo ra một thói quen và nhận thức mới tốt hơn, toàn diện hơn cho người lao động và người sử dụng lao động về BHXH.
BHXH Việt Nam luôn được sự quan tâm chỉ đạo của chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan nhưng vẫn không tránh khỏi những khó khăn và hạn chế. Những khó khăn trong công tác BHXH có nguyên nhân từ phía người lao động, người sử dụng lao động và cả nguyên nhân chủ quan từ phía BHXH Việt Nam. Đó là sự thiết hụt trong nhận thức của khá nhiều người lao động đặc biệt là trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, điều này dẫn đến nhiều thiếu hụt cho người lao động khi có rủi ro xảy ra. Bên cạnh đó, nhiều chủ doanh nghiệp không thực sự tuân thủ các quy định trong thực hiện nghĩa vụ về BHXH cho người lao động mà họ sử dụng vì vậy càng làm tăng khó khăn cho quỹ BHXH. Ngoài ra, các cơ chế và quy định cho đầu tư quỹ BHXH chưa thực sự thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho BHXH có thể thực hiện tốt nhiệm vụ bảo toàn và phát triển nguồn quỹ.
Tuy có những khó khăn và hạn chế như vậy trong công tác BHXH nhưng có thể khẳng định thuận lợi là cơ bản và nếu có sự hỗ trợ hơn nữa của Chính phủ, các bộ ngành và đặc biệt là sự nỗ lực của bản thân BHXH Việt Nam thì trong thời gian tới chúng ta tin tưởng các chính sách chế độ về BHXH cho người lao động sẽ được thực hiện tốt hơn đáp ứng lòng mong mỏi và trông đợi của hàng triệu người lao động Việt Nam sống trên mọi miền đất nước. Từ đó góp phần tích cực, tạo điều kiện tăng thu cho quỹ BHXH Việt Nam. Hơn thế nữa, việc làm tốt công tác BHXH cũng là sự khẳng định trong tương lai không xa chúng ta có thể bắt kịp các quốc gia khác trên thế giới không chỉ bằng thành tự kinh tế mà còn bằng những giá trị đạo đức trong bảo vệ và tôn trọng quyền lơị của người lao động, một trong những ưu việt của chế độ XHCN mà chúng ta đang quyết tâm xây dựng.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân, cảm ơn thầy giáo Nguyễn Văn Định - Tiến sĩ, chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các cán bộ nhân viên Trung tâm thư viện - trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
84 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oản và trụ sở đóng trên địa bàn của tỉnh theo phân cấp quản lý như sau:
- BHXH tỉnh thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại tỉnh, bao gồm:
+ Các đơn vị thuộc Trung ương quản lý đóng trên địa bàn tỉnh (riêng lực lượng vũ trang hưởng BHXH theo Nghị định số 45/CP có hướng dẫn ở văn bản khác).
+ Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý.
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Các đơn vị, tổ chức quốc tế có trên địa bàn tỉnh, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
+ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng 50 lao động trở lên.
Trường hợp BHXH các huyện thuộc tỉnh không đủ điều kiện để thực hiện nhiệm vụ thu BHXH của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh dưới 50 lao động hoặc các đơn vị Trung ương, đơn vị thuộc tỉnh có số lao động không nhiều thì Giám đốc BHXH tỉnh quyết định việc phân cấp thu đối với từng đơn vị cụ thể cho BHXH huyện.
- BHXH huyện thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại huyện, bao gồm:
+ Các đơn vị thuộc cấp huyện trực tiếp quản lý.
+ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng từ 10 lao động đến 50 lao động.
+ Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu theo quyết định phân cấp thu.
Trường hợp BHXH tỉnh mở rộng đối tượng thu BHXH tự nguyện đối với doanh nghiệp sử dụng lao động dưới 10 lao động phải báo cáo BHXH Việt Nam để trình Hội đồng quản lý xem xét quyết định.
- Đối với một số đơn vị có các đơn vị trực thuộc đóng trụ sở và hoạt động ở địa bàn thuộc nhiều tỉnh muốn nộp BHXH cho các đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh nơi đóng trụ sở chính thì phải có sự thống nhất của BHXH các nơi có liên quan (nơi có trụ sở các đơn vị trực thuộc đóng) và được BHXH Việt Nam chấp thuận.
2.3.4. Lập kế hoạch thu nộp BHXH
a. Đối với các đơn vị sử dụng lao động:
- Hàng tháng, căn cứ vào số biên chế và kế hoạch quỹ tiền lương của đơn vị mình lập kế hoạch nộp BHXH trong quý và đăng ký ngày nộp tiền từng tháng gửi cho cơ quan BHXH vào ngày 20 của tháng cuối quý trước.
b. Đối với cơ quan BHXH tỉnh, huyện:
- Hàng tháng, BHXH huyện tổng hợp kế hoạch thu BHXH của các đơn vị do mình chịu trách nhiệm tổ chức thu và ghi sổ BHXH gửi cho BHXH tỉnh vào ngày 25 của tháng cuối quý trước.
- Hàng quý, BHXH tỉnh tổng hợp kế hoạch thu BHXH của các đơn vị do BHXH tỉnh trực tiếp thu BHXH. Tổng hợp kế hoạch thu BHXH trên địa bàn toàn tỉnh, nộp cho BHXH Việt Nam vào ngày 30 của tháng cuối quý trước. Riêng kế hoạch thu BHXH của cả năm do BHXH tỉnh lập bao gồm tất cả các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh và tổng hợp theo địa bàn.
2.3.5. Tổ chức thu BHXH và ghi sổ BHXH cho người lao động
- Hàng tháng, căn cứ vào kế hoạch nộp tiền BHXH do các đơn vị sử dụng lao động đã đăng ký, BHXH tỉnh, huyện đôn đốc và tổ chức thu BHXH bằng 20% quỹ lương (đơn vị sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ lương, người lao động đóng 5% tiền lương tháng) vào ngày của kỳ lương đầu tiên trong tháng.
- Tháng cuối quý, đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm lập danh sách nộp BHXH của người lao động thuộc đơn vị mình, tính đủ số tiền phải nộp BHXH theo lương của người lao động trong quý gửi cho cơ quan BHXH 2 bản.
- Cán bộ phụ trách thu thuộc cơ quan BHXH có trách nhiêm kiểm tra tiền lương, mức đóng góp của từng người lao động và tổng số tiền phải nộp BHXH của toàn bộ đơn vị sử dụng lao động. Cuối mỗi quý cùng với đơn vị sử dụng lao động đối chiếu với số đã nộp với số phải nộp BHXH, lập bản xác nhận về việc nộp BHXH trong quý. Nếu có chênh lệch giữa số đã nộp và số phải nộp thì phải nộp tiếp vào tháng đầu của quý sau (nếu có chênh lệch thiếu) hoặc coi như đã nộp trước cho tháng đầu của quý sau (nếu có chênh lệch thừa). Sau đó, cán bộ phụ trách thu tiến hành ghi sổ BHXH cho từng người lao động và xác nhận vào 2 bản danh sách đóng BHXH của đơn vi sử dụng lao động, trả lại cho đơn vị sử dụng lao động 1 bản, 1 bản lưu tại cơ quan BHXH.
- Trường hợp chậm nộp BHXH hàng tháng thì số tiền nộp chậm sẽ phải nộp phạt theo lãi suất tiền gửi ngắn hạn của Ngân hàng tại thời điểm truy nộp là 0,7% tháng.
- Người lao động và đơn vị sử dụng lao động cố tình không nộp BHXH theo đúng thời hạn và đủ mức theo quy định, thì cơ quan BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam có quyền từ chối việc chi trả các chế độ BHXH của tất cả người lao động thuộc đơn vị đó; đồng thời báo cáo lên cơ quan BHXH cấp trên và thông báo cho các cơ quan hữu quan để có biện pháp giải quyết.
- Bộ phận Kế toán - Tài chính thuộc BHXH các tỉnh, các huyện thực hiện chuyển tiền thu BHXH lên BHXH cấp trên đúng thời hạn theo quy định tại công văn số 193 CV/LN ngày 9/9/1995 của liên ngành BHXH Việt Nam và Kho bạc Nhà nước Trung ương.
- Chế độ báo cáo thu BHXH:
+ Đình kỳ 10 ngày 1 lần vào các ngày 5, 15 hàng tháng, cơ quan BHXH các huyện báo cáo về tình hình thu BHXH gửi về BHXH tỉnh.
Đình kỳ 10 ngày 1 lần vào các ngày 7, 17 hàng tháng, BHXH tỉnh tổng hợp số thu BHXH trên địa bàn báo cáo gửi về BHXH Việt Nam.
+ Chậm nhất là ngày 28 hàng thàng, BHXH các huyện tổng hợp, lập báo cáo về số thu BHXH trong tháng được xác định từ ngày 26 của tháng trước đến ngày 25 của tháng báo cáo, có xác nhận của cơ quan Kho bạc Nhà nước nơi mở tài khoản gửi về cho BHXH tỉnh.
Cơ quan BHXH tỉnh, tổng hợp số thu trên toàn địa bàn trong tháng được xác nhận từ ngày 29 của tháng trước đến ngày 28 của tháng báo cáo có xác nhận của Kho bạc Nhà nước nơi mở tài khoản, gửi về cho BHXH Việt Nam chậm nhất là ngày 30 hàng tháng.
Riêng tháng 12 hàng năm số liệu được xác định đến hết ngày 31/12.
+ Chậm nhất là ngày 5 tháng 1 năm sau BHXH huyện phải nộp báo cáo cho BHXH tỉnh về số thu BHXH năm trước có xác nhận của cơ quan Kho bạc Nhà nước huỵện. BHXH tỉnh tổng hợp báo cáo số thu BHXH trên toàn địa bàn trong năm có xác nhận của cơ quan Kho bạc Nhà nước tỉnh gửi cho BHXH Việt Nam chậm nhất là ngày 10/1 năm sau.
3. Tình hình thu nộp BHXH
3.1. Công tác thu nộp BHXH
Đây là nhiệm vụ được xác định là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành và tăng trưởng quỹ BHXH. Vì vậy ngay từ khi mới thành lập, trên cơ sở những văn bản hướng dẫn hoạt động BHXH và danh sách các đơn vị sử dụng lao động nhận bàn giao từ cơ quan Lao động – Thương binh & xã hội, Tài chính, Liên đoàn Lao động. BHXH các tỉnh, thành phố đã đã tập trung nắm tình hình hoạt động và sử dụng lao động của các đơn vị có trong danh sách được bàn giao, cũng như các đơn vị ngoài danh sách bàn giao nhưng trong diện phải tham gia BHXH theo quy định của pháp luật. Nhờ có sự cố gắng trên, toàn ngành BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tích nhất định, khẳng định được vị trí của mình, khẳng định được sự tồn tại và phát triển thông qua các hoạt động của ngành. Đó là số thu BHXH ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước. Thể hiện:
3.1.1. Tình hình đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động
Theo quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ, các cơ quan đơn vị doanh nghiệp thuộc diện đóng bắt buộc phải đóng BHXH bằng 15% tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH. Từ quý IV/1995 đến năm 2000, tổng số tiền đóng BHXH là 14.765.691 triệu đồng, số liệu cụ thể các năm như sau:
- Quý IV/1995 : 296.250 triệu đồng.
- Năm 1996 : 1.927.300 triệu đồng.
- Năm 1997 : 2.584.208 triệu đồng.
- Năm 1998 : 2.906.967 triệu đồng.
- Năm 1999 : 3.139.541 triệu đồng.
- Năm 2000 : 3.911.425 triệu đồng.
3.1.2. Tình hình đóng BHXH của người lao động
Từ khi BHXH Việt Nam chính thức hoạt động(tháng 10/1995) đến nay, tổng số tiền mà cơ quan BHXH đã thu được từ người lao động là 4.921.896 triệu đồng, trong đó:
- Quý IV/1995 : 98.750 triệu đồng.
- Năm 1996 : 642.433 triệu đồng.
- Năm 1997 : 861.403 triệu đồng.
- Năm 1998 : 968.989 triệu đồng.
- Năm 1999 : 1.046.513 triệu đồng.
- Năm 2000 : 1.303.808 triều đồng.
3.1.3. Nguồn đóng và hỗ trợ thêm từ Ngân sách Nhà nước
Trong thời gian từ tháng 10/1995 đến hết tháng 12/2000, tổng số tiền hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước cho quỹ BHXH để chi trả cho các đối tượng nghỉ chế độ BHXH có thời gian tham gia BHXH từ năm 1995 trở về trước là 26.966.679 triệu đồng, cụ thể như sau:
Quý IV/1995 : 1.112.030 triệu đồng.
- Năm 1996 : 4.387.903 triệu đồng.
- Năm 1997 : 5.163.093 triệu đồng.
- Năm 1998 : 5.128.425 triệu đồng.
- Năm 1999 : 5.025.620 triệu đồng.
- Năm 2000 : 6.159.608 triệu đồng.
Bảng 6: tình hình thu nộp BHXH do BHXH việt Nam quản lý từ quý IV/1995 đến năm 2000
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Quý
IV/95
1996
1997
1998
1999
2000
1
Số đơn vị SDLĐ
Đơn vị
18.566
30.789
34.815
49.628
59.176
61.577
2
Số LĐ tham gia BHXH
- % so với năm trước
Nghìn người
%
2.276
-
2.821
-
3.162
112,1
3.355
106,1
3.579
106,7
3.843
107,4
3
Số thu BHXH
- % so với năm trước
Tỷ đồng
%
395,0
-
2.569,7
-
3.445,6
134,1
3.876,0
112,5
4.186,0
108,0
5.215,2
124,6
4
Tỷ lệ thu so với chi
%
34,2
54,4
59,9
65,9
70,2
70,5
5
Chênh lệch thu - chi BHXH
Tỷ đồng
353,0
2.186,5
2.852,1
3.124,4
3.245,6
3.974,7
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng 6 cho ta thấy, kết quả nổi bật trong công tác thu nộp BHXH từ 1/10/1995 đến năm 2000 là số lao động tham gia và số thu BHXH mỗi năm một tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Phân tích các chỉ tiêu cho ta thấy như sau:
- Chỉ tiêu số 1 và 2 là: nếu cuối năm 1995 cả nước có 2,2 triệu lao động tham gia BHXH thì đến năm 2000 con số này đã lên tới 3,8 triệu lao động, tăng 1,6 triệu lao động (chưa kể mỗi năm có khoảng 15 vạn người nghỉ việc) và bằng khoảng 10% lực lượng lao động xã hội. Điều đó cho thấy, việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH đến các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên cùng với chính sách thu BHXH phù hợp nên số các đơn vị sử dụng lao động lẫn người lao động tham gia BHXH đã ngày một tăng. Tuy nhiên, con số 10% lực lượng lao động tham gia BHXH so với các nước còn ở mức rất thấp, ví dụ: Malaysia : 90%, Mỹ : 95%... cùng với đó là tốc độ gia tăng số lao động tham gia BHXH hàng năm còn chậm và ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng lên từ 6,1% năm 1998 lên 7,4% năm 2000. Qua tham khảo số liệu cho thấy, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân ngoài quốc doanh có tốc độ tăng cao nhất, cụ thể là: năm 1995 có 30.063 người, năm 1996 có 56.280 người, năm 1997 có 84.058 người, năm 1998 có 122.685 người, năm 1999 có 125.279 người và năm 2000 có 206.890 người, bình quân tăng 47,1%/năm. Tiếp đến là tốc độ tăng của lao động làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn vốn đầu tư nước ngoài: năm 1995 có 78.791 người, năm 1996 có 125.889 người, năm 1997 có 214.596 người, năm 1998 có 242.108 người, năm 1999 có 361.522 người và năm 2000 có 369.857 người, bình quân tăng 36,2%/năm.
- Bên cạnh sự tăng lên về số lao động tham gia BHXH thì cũng chính nhờ chính sách thu BHXH phù hợp với điều kiện thu nhập và tiền lương của người lao động còn thấp mà số thu BHXH ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước được thể hiện rõ nét ở chỉ tiêu số 3. Thông qua chỉ tiêu này ta thấy, nếu năm 1996 số thu đạt 2569,7 tỷ đồng thì sau 5 năm, năm 2000 số thu đã lên tới 5215,2 tỷ đồng, tăng 103% so với năm 1996. Nếu so với năm 1994 là năm trước khi bước vào thời kỳ cải cách chính thức hệ thống BHXH ở nước ta thì các năm 1999 và năm 2000 đều có số thu tăng gấp hơn 10 lần. Tuy vậy, tỷ lệ tăng thu BHXH năm sau so với năm trước giảm dần từ 34,1% năm 1997 xuống còn 8% năm 1999 nhưng nhanh chóng được khắc phục bằng tỷ lệ tăng thu 24,6% năm 2000 so với năm 1999. Sự sụt giảm tốc độ tăng thu BHXH giai đoạn 1997 - 1999 phải chăng là do tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động đặc biệt là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Mặc dù vậy, thu BHXH hàng năm vẫn đạt vượt mức kế hoạch, điển hình là năm 1997 thu đạt vượt mức 24,4 % kế hoạch đặt ra. Điều đó thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của các cán bộ, công chức ngành BHXH, sự quan tâm chỉ đạo sâu sát và kịp thời của BHXH Việt Nam và các cấp uỷ Đảng, Chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Cũng nhờ vậy mà tình hình công nợ tuy có phát sinh nhưng ngày càng giảm, đã rút ngắn số ngày chiếm dụng tiền BHXH phải nộp của các đơn vị sử dụng lao động từ 73 ngày năm 1995 (ứng với 20,1% số nợ so với tổng số phải thu) xuống còn 38 ngày năm 2000 (ứng với 10,4% số nợ so với tổng số phải thu theo số liệu báo cáo nhanh của BHXH Việt Nam). Mục tiêu trong những năm tới là phải phấn đấu tiếp tục làm giảm số chiếm dụng này xuống mức thấp hơn nữa.
- Chỉ tiêu số 4 đã khẳng định rõ hơn những kết quả đạt được trong công tác thu nộp BHXH thời gian qua, đó là tỷ lệ thu BHXH từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động so với tổng chi ngày càng tăng từ 34,2% của quý IV/1995 lên 70,5% năm 2000. Điều đó nói lên rằng, công tác thu nộp BHXH đã góp phần quan trọng vào việc hình thành được quỹ BHXH tập trung, hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước, làm giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước trong việc chi trả các chế độ BHXH đồng thời tạo điều kiền cho cơ quan BHXH Việt Nam chủ động trong việc số tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng trong quỹ BHXH vào đầu tư tăng trưởng quỹ. Số tiền này được hình thành từ khoản chênh lệch thu - chi quỹ BHXH hàng năm thể hiện ở chỉ tiêu số 5 và được phản ảnh rõ nét trong đồ thị dưới đây:
Đồ thị chênh lệch thu – chi quỹ BHXH
(từ quý IV/1995 đến năm 2000)
Số tiền
(Tỷ đồng)
Năm
Qua đồ thị chênh lệch thu - chi quỹ BHXH ở trên ta thấy, khoản chênh lệch này tăng lên qua các năm từ 2.186,5 tỷ đồng năm 1996 lên 3.974,7 tỷ đồng năm 2000, tăng bình quân hàng năm là 447,1 tỷ đồng. Đây là kết quả rất đáng mừng trong thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý BHXH Việt Nam, nó đã tạo cho quỹ BHXH một khoản tiền tạm thời nhàn rỗi ngày càng lớn, một phần trong đó sẽ được đem vào đầu tư sinh lời và lại tạo ra một nguồn thu mới cho quỹ BHXH.
Đạt được những kết quả trên trước hết là nhờ sự cố gắng nỗ lực của công nhân viên chức toàn ngành, mà trước hết là những người trực tiếp làm công tác thu nộp, ngoài ra còn do các nguyên nhân chính sau đây:
- Chỉ thị 15/CP ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH đã có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy sự quan tâm của cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp đối với công tác BHXH, đặc biệt là công tác thu. ở hầu hết các địa phương, việc thực hiện nghiêm túc trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động được quy định là một trong các tiêu chuẩn cơ bản để xét danh hiệu Chi bộ, Đảng bộ trong sạch vững mạnh và các hình thức khen thưởng khác.
- BHXH các tỉnh, thành phố đã kết hợp công tác giải quyết chế độ, chính sách BHXH với công tác thu nộp theo nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi BHXH, vì vậy đã làm tăng thêm ý thức trách nhiệm của các đơn vị sử dụng lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH.
- Việc triển khai công tác cấp sổ BHXH nhằm ghi nhận quá trình làm việc và đóng BHXH của người lao động đã tạo được niềm tin cho người lao động, cũng thông qua công tác này BHXH các tỉnh, thành phố đã phát hiện kịp thời các trường hợp khai giảm số lao động và quỹ tiền lương của đơn vị sử dụng lao động, tạo điều kiện truy thu một số lượng lớn tiền đóng BHXH còn nợ đọng hoặc bỏ sót.
- Công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra và thông tin tuyên truyền đã được chú ý đẩy mạnh góp phần nâng cao hiệu quả thu nộp và ý thức thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH của người lao động và người sử dụng lao động.
Bên cạnh những kết quả đạt được của công tác thu nộp BHXH như đã nêu ở trên, trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục, cụ thể:
- Chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý toàn bộ số lao động phải tham gia BHXH và nguồn thu theo quy định của pháp luật. Trong thời gian qua, tuy số người đóng BHXH có tăng hàng năm nhưng so với tổng số lao động trong diện phải tham gia BHXH theo quy định mới đạt 86%, riêng số lao động làm việc trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tham gia BHXH mới đạt 40%, còn một lực lượng lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh kể cả người lao động đang làm việc trong khu vực sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chưa được tham gia BHXH. Kết quả thu BHXH mới chỉ đạt khoảng 90% so với tổng số phải thu, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn có hiện tượng khai giảm quỹ tiền lương, số lao động tham gia BHXH và chốn nộp BHXH dưới nhiều hình thức như: chỉ ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng hoặc không ký hợp đồng lao động... Điều đó cho thấy, mạng lưới BHXH chưa vươn tới được toàn bộ số lao động trong toàn xã hội. Vì vậy trong những năm tới, nước ta cần có nhưng giải pháp để tăng nhanh số người tham gia đóng BHXH, nhằm đảm bảo quyền lợi cho mọi người lao động.
- Mức thu BHXH ở nước ta còn thấp so với nhiều nước, cộng với tình trạng nợ đọng tiền BHXH vẫn còn lớn, tính đến nay số nợ đọng lên tới gần 490 tỷ đồng chiếm khoảng 10 - 11% so với tổng số phải thu. Nếu kéo dài tình trạng này sẽ làm nẩy sinh nhiều vấn đề phức tạp và khó khăn, trước hết là thiếu nguồn chi trả cho người hưởng BHXH, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người lao động.
- Nhận thức về BHXH của mọi người dân nói chung và người lao động nói riêng còn bị hạn chế, chưa thấy rõ bản chất ưu việt của BHXH, còn có nhiều người nhầm lẫn giữa BHXH với BHTM.
- Trình độ của cán bộ, công nhân viên chức trong hệ thống BHXH Việt Nam nói chung, cán bộ làm công tác thu nói riêng còn bất cập; còn hạn chế cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn năng lực công tác; chưa năng động, sáng tạo; còn làm việc theo lối hành chính, chưa quen với cách làm việc như hoạt động của một ngành dịch vụ; còn thiếu cán bộ nghiên cứu, đề xuất chính sách và hoạch định chiến lược phát triển lâu dài, nên chưa đáp ứng kịp với tiến trình đổi mới sự nghiệp BHXH.
- Chính sách BHXH trong thời gian qua còn thiếu đồng bộ, thay đổi nhiều lần và vẫn còn một số nội dung chưa hợp lý cho nên cần được tiếp tục nghiên cứu và xây dựng thành luật BHXH để tập trung thống nhất quản lý nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành còn nghèo nàn và thiếu thốn. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý trong lĩnh vực này hiện nay chưa có, các công việc thuộc nghiệp vụ chủ yếu vẫn làm thủ công là chính, máy vi tính được trang bị còn ít, các công nghệ phần mềm đang còn trong giai đoạn nghiên cứu thử nghiệm chưa được áp dụng rộng rãi.
- Hệ thống BHXH Việt Nam chưa có mối quan hế chặt chẽ với các nước khác. Điều này làm hạn chế khả năng phát triển, thiếu thông tin, khó khăn trong việc hiện đại hoá ngành.
3.2. Công tác đầu tư tăng trưởng quỹ
Mục tiêu hoạt động của quỹ là tự cân đối thu - chi do đó quỹ BHXH luôn luôn phải có một lượng tiền tích luỹ để chi trả cho các chế độ dài hạn như: hưu trí, tử tuất, thương tật. Lượng tiền tồn tích này (lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng trong quỹ BHXH) được phép đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH theo quy định tại Mục 2, Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam, như sau:
- Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
- Cho vay đối với Ngân sách Nhà nước, quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
- Đầu tư vào một số dự án lớn và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Chính phủ cho phép và bảo trợ.
Thực hiện Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ, BHXH Việt Nam về tiến hành các hoạt động đầu tư tăng trưởng. Tính đến ngày 31/12/1999, BHXH Việt Nam đã cho vay được 10.628.002 triệu đồng. Cụ thể như sau:
Bảng 7: tình hình đầu tư của quỹ BHXH
(tính đến 31/12/1999)
STT
Đơn vị vay
Số tiền
(triệu đồng)
Cơ cấu đầu tư
(%)
1
Ngân sách Nhà nước
1.087.636
10,2
2
Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia
4.200.000
39,5
3
Ngân hàng đầu tư
2.000.000
18,8
4
Các ngân hàng thương mại
2.425.000
22,8
5
Mua tín phiếu, trái phiếu
915.366
8,7
Cộng
10.628.002
100,0
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng số liệu số 7 ta thấy, trong cơ cấu đầu tư vào các lĩnh vực, đơn vị thì đầu tư vào Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia chiếm tỷ trọng lớn nhất bằng 39,5% so với tổng số tiền đầu tư. Và phần lớn các dự án đầu tư tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH đều theo sự chỉ định của Thủ tướng Chính phủ, kể cả tổng mức đầu tư, lãi suất, thời hạn vay... Vì vậy, mức lãi suất thực hiên thấp, bình quân chỉ 6- 7%/ năm, có năm thấp hơn cả tỷ lệ trượt giá (năm 1998 trượt giá 9,2%/ năm). Tổng số tiền lãi thu được tính đến hết năm 1999 là: 1.351.488 triệu đồng. Với kết quả này, quỹ BHXH đã có tác dụng tích cực góp phần vào việc phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước.
Về sử dụng lãi đầu tư: Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ tiền sinh lời do hoạt động đầu tư quỹ BHXH được phân bổ như sau:
- Được trích 50% trong 5 năm để bổ xung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của toàn hệ thống BHXH.
- Trích 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi bằng 3 tháng lương thực tế toàn ngành.
- Phần còn lại bổ xung vào quỹ BHXH để bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, BHXH Việt Nam đã sử dụng tiền sinh lời do đầu tư tăng trưởng đúng mục đích là xây dưng cơ sở vật chất của toàn ngành và trích lập quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng. Ngoài các khoản chi trên, phần còn lại của lợi nhuận đầu tư được nộp vào quỹ BHXH.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được của công tác đầu tư tăng trưởng quỹ, trong thời gian qua cũng còn một số vấn đề tồn tại:
- Lãi suất đầu tư chưa hình thành và vận động theo quy luật lãi suất của thị trường. Hầu hết lãi suất được hình thành theo sự chỉ định của Chính phủ và thường là lãi suất thấp. Theo em để đảm bảo việc đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả, vấn để đầu tư quỹ nên phân ra 2 lĩnh vực như sau:
+ Nếu cho Ngân sách Nhà nước hoặc Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia vay theo sự chỉ định của Chính phủ thì có thể thực hiện lãi suất thấp, ưu đãi dưới mức cho vay trên thị trường. Vì Ngân sách Nhà nước hoặc Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia vay không phải là để kinh doanh, mà để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế quốc dân, hoặc chi tiêu cho mục đích của Chính phủ.
+ Nếu cho các ngân hàng thương mại vay thì phải theo lãi suất thị trường. Vì các ngân hàng thương mại vay là để kinh doanh lấy lãi. Lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại theo thị trường, trong khi đó lãi suất đi vay của quỹ BHXH lại theo lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất đi vay trên thị trường. Khoản lợi nhuận siêu ngạch đó các ngân hàng thương mại được hưởng, gây thiệt hại đến quỹ BHXH của người lao động.
- Việc phân bổ vốn đầu tư vào các dự án cũng không theo yêu cầu của quy luật cung cầu về vốn trên thị trường. Lẽ ra, theo yêu cầu của của quy luật vận động về vốn trên thị trường thì vốn phải vận động từ nơi thừa (quỹ BHXH) đến các nơi thiếu vốn, cần vốn để sản xuất kinh doanh. Nhưng trong các năm qua, vốn đầu tư của quỹ BHXH phần lớn lại theo sự chỉ đạo của Chính phủ. Nhiều lĩnh vực đầu tư đang có lợi nhuận cao, khả năng rút vốn thuận lợi thì quỹ lại không được đầu tư. Bản thân các ngân hàng thương mại biết là có biểu hiện đọng vốn, song vì lãi suất vay quá thấp nên vẫn cứ vay của quỹ BHXH, gây nên tình trạng thiếu vốn giả tạo trên thị trường.
4. Đánh giá chung
Trên đây là tình hình thu nộp BHXH từ quý IV/1995 - 2000 của BHXH các tỉnh, thành phố và toàn ngành đã đạt được trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Những kết quả trên tuy chưa nhiều nhưng có một ý nghĩa hết sức quan trọng, nó đã chứng minh và khẳng định được việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo cơ chế mới, việc tập trung thống nhất cơ quan BHXH vào một đầu mối, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Cho nên đã bước đầu hướng hoạt động sự nghiệp BHXH Việt Nam dần dần phù hợp với bản chất của nó trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đồng thời, nó cũng thể hiện được sự đúng đắn trong tư duy đổi mới và bản chất nhân văn, xuyên suốt mọi chính sách, chế độ BHXH của Đảng và Nhà nước ta tất cả là vì con người, vì người lao động nhằm đảm bảo công bằng và an sinh xã hội. Vì vậy, đã thực sự phát huy được tác dụng và đi vào cuộc sống. Để làm tốt hơn nữa những chính sách BHXH theo Chủ trương, Đường lối cả Đảng và Nhà nước đã vạch ra, nhằm đem việc thực hiên các chế độ BHXH đến với mọi người lao động, cần thiết phải có những định hướng chiến lược cũng như các giải pháp phù hợp cho từng giai đoạn, từng thời kỳ để khắc phục những tồn tại hạn chế, phát huy những ưu điểm đạt được trong công tác BHXH những năm tới.
phần thứ ba
một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp và quản lý quỹ BHXH
I. Bài học kinh nghiệm và những định hướng cơ bản
1. Bài học kinh nghiệm
1.1. Từ hoạt động BHXH của các nước trên thế giới
Qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới có hoạt động bảo hiểm xã hội phát triển, cũng như ở các nước mà các chính sách về bảo hiểm xã hội được thực hiện tốt chúng ta có thể học hỏi được ở một số vấn đề sau:
- Việc xây dựng mô hình bảo hiểm xã hội phải phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia mình. Hoạt động BHXH có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào độ chặt chẽ và tính hiệu quả của các cơ chế và chính sách và biện pháp thu BHXH.Cũng có thể dễ dàng nhận ra một thực tế đó là trong bất kỳ thể chế kinh tế xã hội nào thì hoạt động BHXH vẫn phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước ở các mức độ khác nhau, vấn đề là phụ thuộc ít hay nhiều, điều này còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế ở mỗi giai đoạn phát triển của quốc gia.
- Qua kinh nghiệm một số nước phát triển cho thấy việc đề ra các chính sách BHXH phải dựa trên nguyên tắc bắt buộc, để có thể thu hút được ngày càng nhiều hơn các đối tượng tham gia BHXH, vấn đề này ngày càng trở nên quan trọng bởi sự an toàn của quỹ BHXH. Việc chi trả các chế độ BHXH căn cứ vào mức độ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động và đặc biệt là phụ thuộc vào mức lương của người lao động dùng làm căn cứ đóng BHXH trước khi về hưu.
- Qua kinh nghiệm của Thuỵ Điển trong việc sử dụng các nguồn thu thuế từ lương của người lao động và chủ sử dụng lao động cho mục đích phúc lợi xã hội, đối với tất cả các công dân sống và làm việc tại Thuỵ Điển và công dân Thuỵ Điển làm việc ở nước ngoài nhưng có đóng thuế cho Chính phủ. Với cơ chế đóng góp như vậy chính phủ Thuỵ Điển cho rằng không cần thiết có một tổ chức riêng biệt để quản lý quỹ BHXH, việc thực hiện chi BHXH mang tính bao cấp với mục đích điều tiết thu nhập cá nhân đảm bảo sự công bằng xã hội, và vì vậy những người được hưởng các chế độ BHXH đều nhận được các khoản phúc lợi xã hội vượt quá mức đóng góp của mình. Mô hình xây dựng hệ thống BHXH theo kiểu Thuỵ Điển chỉ phù hợp với điều kiện của nền kinh tế phát triển, những nước có mức phúc lợi xã hội cao. Trước đây, chúng ta đã xây dựng mô hình BHXH gần tương tự như mô hình của Thuỵ Điển, tuy vậy nó đã tỏ ra không phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế của Việt Nam bởi sự bao cấp quá lớn của ngân sách Nhà nước và bởi mức độ phát triển thấp của nền kinh tế.
Như vậy, việc xây dựng mô hình BHXH phải phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam trong từng thời kỳ, ngoài ra trong điều kiện đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì việc tăng cường khả năng đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động để có thể giảm nhẹ sự phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước là một trong những hướng chính trong xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH ở Việt Nam hiện nay.
1.2. Từ hoạt động BHXH thực tiễn trong nước
Thứ nhất: nắm chắc chủ trương chính sách BHXH của Đảng, Nhà nước và quy định quản lý của ngành để tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, sự phối hợp giúp đỡ của các ngành liên quan, đặc biệt gắn kết chặt chẽ mối quan hệ ba bên: người sử dụng lao động, người lao động và cơ quan BHXH tạo sự phối hợp đồng bộ, kịp thời trong việc tổ chức thu nộp và giải quyết các chế độ BHXH.
Thứ hai: Thực hiện đúng điều lệ BHXH cùng với các văn bản quy định quản lý thu, chi BHXH của BHXH Việt Nam và các Bộ, ngành trung ương. Tổ chức xét duyệt và chi trả các chế độ BHXH kịp thời, đầy đủ, tận tay đối tượng được hưởng, thực sự là chỗ dựa tin cậy của người lao động khi tham gia BHXH.
Thứ ba: Tăng cường phối hợp với các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ngành chức năng trong việc kiểm tra xử phạt những trường hợp vi phạm Bộ luật lao động về BHXH, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền có biện pháp ràng buộc đối với các đơn vị sử dụng lao động cố tình né tránh không tham gia BHXH, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Thứ tư: Xét duyệt và thực hiện đúng chế độ chính sách BHXH, tạo sự công bằng giữa những người tham gia BHXH, đảm bảo có đóng BHXH thì được hưởng thụ, không gây phiền hà cho người sử dụng lao động và người lao động, đồng thời tăng cường kiểm tra không để tiêu cực xảy ra làm thất thoát ngân quỹ.
Thứ năm: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng chế độ chính sách BHXH đến với người lao động để mọi người hiểu: tham gia BHXH là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi mang tính xã hội nhân đạo sâu sắc. Chính sách BHXH rất đa dạng, phong phú và phức tạp, vì vậy cần nghiên cứu để xem xét, giải quyết những kiến nghị, thắc mắc của đối tượng một cách thoả đáng về chế độ và quyền lợi BHXH, vừa đảm bảo đúng chính sách, vừa đảm bảo quyền lợi của người được hưởng đúng với sự cống hiến của họ, trách quan liêu cửa quyền, sách nhiễu trong việc giải quyết chính sách BHXH.
Thứ sáu: Giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ ngành là yếu tố quyết định thắng lợi cho mọi hoạt động; đề cao trách nhiệm và tinh thần phục vụ của ngành, kiện toàn tổ chức, sắp xếp phân công cán bộ hợp lý; chú trọng công tác đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức có đủ phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chăm lo đời sống của cán bộ, viên chức thật sự ổn định, yên tâm công tác, gắn bó với ngành; đẩy mạnh các phong trào thi đua, thực sự tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch trên giao.
2. Những định hướng cơ bản
Trong thời gian tới, BHXH Việt Nam cần được phát triển theo những định hướng sau:
- Tiếp tục xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống pháp luật về BHXH. Trước mắt cần xúc tiến ngay việc xây dựng Luật BHXH để tiến tới quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này bằng pháp luật.
- Mở rộng đối tượng tham gia BHXH tới mọi người lao động, dù họ tham gia lao động trong bất cứ ngành nghề nào, thuộc thành phần kinh tế nào,miễn là họ tham gia đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH như luật định.
- Thực hiện đầy đủ các hình thức BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện để khuyến khích những người giầu có tích cực tham gia BHXH, thực hiện một bước phân phối lại thu nhập trong cộng đồng, góp phần đảm bảo công bằng xx hội và an sinh xã hội.
- Bộ máy quản lý cần tinh giảm, gọn nhẹ, đa chức năng trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và quy chế làm việc cụ thể.
- Cán bộ, công nhân viên chức của ngành cần được đào tạo và đào tạo lại một cách cơ bản và hệ thống cả về chuyên môn nghiệp vụ, lẫn nhận thức tư tưởng, đạo đức, thấm nhầm sâu sắc quan điểm phục vụ người lao động. Làm tốt công tác cán bộ từ khâu đào tạo, tuyển dụng, sử dụng đến khâu đãi ngộ để phát huy hết năng lực, sở trường của họ.
- áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý Nhà nước, đặc biệt là trong quản lý nghiệp vụ sự nghiệp BHXH như quản lý các đối tượng tham gia BHXH, quản lý thu – chi BHXH, quản lý tài chính, thống kê, kế toán BHXH...
- Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ cho ngành, đảm bảo nganh tầm thời đại và hoà nhập vào cộng đồng quốc tế.
- Thực hiện tốt các biện pháp bảo toàn và đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
- Mở rộng mối quan hệ mật thiết giữa BHXH Việt Nam với các cơ quan hữu quan, với các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường và mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa BHXH Việt Nam với các tổ chức BHXH, An sinh xã hội quốc tế, trước mắt là hội nhập vào các nước trong khu vực.
- Tăng cường quyền lực Nhà nước và các chế tài pháp lý cho BHXH Việt Nam trong việc quản lý Nhà nước về BHXH. Đồng thời làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước về BHXH.
III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH
3.1. Tăng cường công tác quản lý thu nộp BHXH.
Kiểm soát chặt chẽ thu, chi BHXH là hết sức cần thiết. Do đó công tác thu phải được hoàn chỉnh từng bước bằng việc theo dõi danh sách đối tượng tham gia đóng BHXH, biến động của đối tượng và mức đóng góp. Cần tiếp tục nghiên cứu, cải tiến phương pháp quản lý thu với các biện pháp đồng bộ nhằm thu đúng, thu đủ và kịp thời tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động, các đơn vị sử dụng lao động theo đúng pháp luật, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Chỉ có như vậy mới thúc đẩy và cải thiện được tình hình thu BHXH, đáp ứng nhu cầu về BHXH của người lao động trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay.
Trên cơ sở thực hiện đổi mới sự chỉ đạo điều hành nền kinh tế - xã hội của chính phủ BHXH Việt Nam cũng cần phải đổi mới sự chỉ đạo, điều hành thì mới đạt được kết quả như mong muốn. Sự đổi mới ở đây chính là sự phân công, phân cấp rõ về chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan BHXH ở trung ương và BHXH các tỉnh, thành phố nhằm nâng cao trách nhiệm, chiến lược quản lý và phục vụ ngày càng tốt hơn nhưng vẫn đảm bảo thống nhất về hướng dẫn chính sách, chế độ BHXH của Nhà nước và sự chỉ đạo về nghiệp vụ của cơ quan BHXH Việt Nam.
Trong những năm tới, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quản lý chặt chẽ và không ngừng nâng cao quỹ BHXH; tập trung thu ngoài quốc doanh theo quy định của Bộ luật lao động, kiện toàn bộ máy: sắp xếp, bố trí, sử dụng hợp lý nhân sự, đào tạo và đào tạo lại, hoàn chỉnh cải cách thủ tục hành chính; ứng dụng tin học vào công tác quản lý BHXH, tăng cường công tác thi đua, thanh tra và kiểm tra, tham gia vào phát triển kinh tế; bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Về lâu dài, quỹ BHXH nên được quản lý theo dõi riêng theo từng loại tương ứng với từng chế độ BHXH, kể cả phần tích luỹ từ mỗi quỹ, không sử dụng lẫn lộn quỹ này để bù đắp sự thiếu hụt của quỹ khác. Sở dĩ làm như vậy là nhằm để dễ dàng cho việc theo dõi, phân tích và đánh giá tình hình hoạt động của từng quỹ mà vẫn đảm bảo sự thống nhất quản lý của cơ quan BHXH Việt Nam.
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Xuất phát từ phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới, vấn đề hoàn thành hệ thống pháp luật về BHXH là rất cần thiết tuy nhiên cần thực hiện từng bước cụ thể:
- Để có thể có được một hệ thống pháp luật về BHXH đầy đủ và đồng bộ thì trước hết là phải sắp xếp, rà soát lại toàn bộ các văn bản pháp quy về hoạt động BHXH trước đây và hiện hành với mục đích loại bỏ hoặc điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với nhu cầu quản lý trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
- Nâng cao khả năng thực thi của các văn bản pháp lý trong lĩnh vực BHXH. Muốn thực hiện được những điều này, ngoài sự đóng góp xây dựng và hoàn thiện của các chuyên gia, cán bộ có kinh nghiệm trong và ngoài ngành thì việc học tập kinh nghiệm xây dựng khung pháp lý trong các văn bản quy định về BHXH của các nước khác cũng là việc nên làm.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực BHXH cần khẩn trương soạn thảo Luật BHXH để có thể tình quốc hội trong thời gian sớm nhất và đưa luật vào áp dụng điều chỉnh, hướng các hoạt động BHXH đi theo đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
3.3. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH.
Việc tuyên truyền, giải thích nhằm nâng cao nhận thức về BHXH của người lao động và chủ sử dụng lao động có ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp bách trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế thực hiện chế độ, chính sách BHXH hiện nay. Đây không chỉ là công việc của ngành BHXH mà là nhiệm vụ chung của nhiều ngành, nhiều cấp, của toàn xã hội. Nó bao gồm những nội dung sau:
- Trước hết, đó là việc phải xác định rõ nội dung tuyên truyền. Phải tuyên truyền, giải thích về bản chất, nội dung của chính sách BHXH. Từ đó, người lao động hiểu được bản chất nhân văn, nhân đạo của BHXH, họ có thể phân biệt rõ hơn sự khác nhau giữa BHXH và các loại hình BHTM khác.
- Mặt khác, cũng phải tuyên truyền và giới thiệu cho họ về nội dung các chế độ BHXH mà người lao động tham gia BHXH được hưởng. Đặc biệt cần phải nhấn mạnh nội dung "tham gia BHXH vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của người lao động". Ngoài ra việc giải đáp những vướng mắc của người lao động trong quá trình thực hiện các chế độ BHXH, việc phản ánh tâm tư, nguyện vọng, các kiến nghị bổ sung sửa đổi những bất hợp lý về chế độ BHXH cũng hết sức cần thiết và bổ ích.
Những nội dung nói trên cần phải được thể hiện bằng nhiều hình thức, phương pháp phù hợp thì mới đạt được hiệu quả cao. Như chúng ta biết, đối tượng tuyên truyền về BHXH là người lao động và chủ sử dụng lao động nên phải sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau mới có thể phù hợp với nhận thức tâm lý và trình độ của họ. Đối với người lao động nên sử dụng nhiều hình thức trực quan sinh động như truyền hình, tạp chí BHXH, sách hỏi đáp về BHXH, tờ gấp giới thiệu về BHXH, các loại ấn phẩm tuyên truyền... Đặc biệt, các nội dung tuyên truyền cần được biên tập cô đọng, dễ hiểu, hấp dẫn. Các ấn phẩm tuyên truyền cần được phổ cập một cách rộng rãi đến tận người lao động và đơn vị sử dụng lao động dưới dạng tặng phẩm tuyên truyền, cần có các biện pháp tăng cường phát hành tạp chí BHXH đến tận cơ sở nhằm góp phần nâng cao nhận thức của người lao động và chủ sử dụng lao động về BHXH.
Nhìn chung, việc nhận thức đúng đắn của người lao động và chủ sử dụng lao động về ý nghĩa, tầm quan trọng của BHXH đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền về BHXH cả về bề rộng lẫn chiều sâu của hoạt động này. Nó đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ có hiệu quả trong công tác tuyên truyền về BHXH giữa BHXH Việt Nam với các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống tổ chức công đoàn và các cơ quan có liên quan trong xã hội. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn.
3.4. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hiện đại hoá hoạt động ngành BHXH.
Việt Nam trên bước đường thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước cần nhanh chóng tích cực đổi mới hiện đại hoá mọi mặt công tác trong đó đặc biệt đáng quan tâm là công tác đào tạo nguồn nhân lực. Đối với ngành BHXH, trong thời gian tới cần cải tiến và đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực theo các hướng sau:
- Phương châm trong công tác cán bộ là giảm nhẹ về số lượng nhưng nâng cao về chiến lược để làm việc có hiệu quả hơn đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ khi số lượng đối tượng BHXH tăng lên nhiều. Và để theo kịp được sự phát triển chung của toàn xã hội, ngoài các phương tiện hiện đại, các phương pháp quản lý tiên tiến cần được áp dụng đồng bộ thì ngoại ngữ, tin học cũng là việc cần thiết cho mỗi cán bộ công chức nhằm làm chủ các phương tiện và mở cửa "kho tàng tri thức" của nhân loại nói chung, về BHXH nói riêng. Do đó trên bước đường hiện đại hoá, công tác đào tạo bổ sung, đào tạo nâng cao chắc chắn sẽ có vai trò ngày càng cần thiết. Đặc biệt là đào tạo các chuyên gia giỏi về tin học, nhất là về phần mềm; các chuyên gia về chính sách BHXH; các chuyên gia về pháp lý; các chuyên gia về tính toán BHXH; các cán bộ kiểm tra. Từ đó nhằm nâng cao trình độ cả về chuyên môn và chính trị cho cán bộ đảng viên; rèn luyện phẩm chất đạo đức người công chức để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự yêu ngành, yêu nghề, có trách nhiệm với công việc được giao và vì sự nghiệp chung của BHXH.
- Công tác tuyển dụng cán bộ cần xem xét đến trình độ, học vấn và đặc biệt là những kiến thức đó phải phù hợp với công tác được giao. Ngoài ra, để có thể thu hút những người có phẩm chất đạo đức tốt và năng lực chuyên môn giỏi giúp họ yên tâm công tác thì BHXH cũng nên kiến nghị với Nhà nước có những chế độ đãi ngộ và sự hỗ trợ giáo dục đào tạo thoả đáng hơn.
3.5. Mở rộng đối tượng tham gia và phạm vi BHXH.
Bảo hiểm xã hội là một hoạt động sự nghiệp, không mang tính kinh doanh như các loại hình bảo hiểm khác. Vì vậy, việc mở rộng đối tượng tham gia và phạm vi BHXH là một chủ trương mang tính xã hội cao và nhân đạo sâu sắc của Nhà nước ta. Nó bao gồm những vấn đề sau:
- Mục tiêu lâu dài của BHXH là mọi người đều được tham gia BHXH nhằm thực hiện bình đẳng xã hội giữa các thành phần kinh tế. Trước mắt, có thể thực hiện BHXH cho lao động trong các doanh nghiệp có dưới 10 lao động, bỏ quy định doanh nghiệp từ 10 lao động trở lên và hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên mới tham gia BHXH bắt buộc, mà quy định doanh nghiệp có thuê mướn lao động và người lao động được trả lương ổn định thì phải tham gia BHXH, từng bước mở rộng diện áp dụng cho lao động tiểu, thủ công nghiệp, lao động trong nông nghiệp và nông thôn, lao động phi kết cấu ... theo các loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện.
- Để cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH, thiết nghĩ ngành BHXH cần sớm ban hành luật BHXH Việt Nam với những điều khoản áp dụng chung cho tất cả các đối tượng lao động, nhanh chóng xây dựng một cơ chế gọn nhẹ thông thoáng, thuận tiện để người lao động làm việc ở mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực, mọi tổ chức đều được tham gia BHXH. Đồng thời từng bước hoàn thiện và bổ sung các chế độ BHXH, đa dạng hóa các hình thức và loại hình tham gia bảo hiểm xã hội. Đặc biệt là việc xác định tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ, tuổi nghỉ hưu giữa các loại lao động có ngành nghề khác nhau, trong đó cần nghiên cứu tuổi nghỉ hưu của lao động "chất xám" của các nhà quản lý và việc nghiên cứu triển khai 2 chế độ BHXH hưu trí, tử tuất cho người lao động ở khu vực nông thôn, chế độ BHXH thất nghiệp cho người lao động trong thời gian tạm thời mất việc nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho họ.
3.6. Nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi.
Quỹ BHXH hoạt động theo nguyên tắc thu trước - chi sau, nên phải có trách nhiệm bảo đảm an toàn và phát triển quỹ trong một cơ chế luật pháp ít rủi ro nhất. Với tư cách là quỹ của người lao động, quỹ tài chính tập trung, một tổ chức tài chính vô vị lợi, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nguồn vốn của quỹ cần được hoà vào dòng chảy của ngân sách Quốc gia, tham gia tích cực có chọn lọc vào thị trường tài chính:
- Trước hết, cần tạo lập những quy định mang tính pháp lý và cơ chế tài chính để ngân quỹ của BHXH có thể tham gia đầu tư tài chính theo phương thức an toàn, ít rủi ro nhất và trong thị trường có sự bảo đảm, đặc biệt là việc duy trì và kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhằm tránh hiện tượng số tiền đầu tư từ ngân quỹ nhàn rỗi lại nhận được mức lãi suất thấp hơn mức lạm phát hàng năm. Cần phân biệt đầu tư tài chính của BHXH với đầu tư tài chính của BHTM, lợi nhuận thu được từ đầu tư ngân quỹ BHXH hoàn toàn không mang tính lợi nhuận thương mại và được dùng để bảo tồn, phát triển quỹ, không phải là đối tượng chịu thuế. BHXH có thể mua bảo hiểm để bảo hiểm, bù đắp và chia sẽ rủi ro trong đầu tư tài chính.
- Thứ hai, cần tính toán một cách có căn cứ khoa học số ngân quỹ tối đa có thể dùng để đầu tư tài chính, thời hạn cần thiết và an toàn cho đầu tư. Cơ quan BHXH nên có những kiến nghị với chính phủ trong việc mở rộng các lĩnh vực đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả. Có thể xem xét tới việc cho một số Bộ, ngành, hoặc tổng công ty lớn trực tiếp vay vốn để thực hiện vào các dự án, phát triển cơ sở hạ tầng xây dựng bởi các nhu cầu này sẽ không ngừng tăng lên trong những năm tới và khả năng thu hồi vốn, có lãi là tương đối cao. Tuy vậy, đối với mỗi dự án luôn cần có sự thẩm định kỹ lưỡng về đơn vị được vay vốn và khả năng thu hồi vốn của dự án. Đối với mỗi quyết định cho vay như vậy sẽ được trình Chính phủ trước khi thực hiện. Còn phần dư của ngân quỹ cần đảm bảo khả năng chi trả cho toàn hệ thống trong mọi thời điểm với mức độ cao nhất. Đây là việc làm khó, nhưng hoàn toàn có thể làm được và phải tính toán thận trọng bằng phương pháp nghiệp vụ và thống kê kinh nghiệm
3.7. ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý.
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hoạt động là một trong những mục tiêu hàng đầu, và đa dạng được các nhà quản lý quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nghiệp vụ BHXH không chỉ có lợi ích giảm chi phí, mà còn giúp thống nhất cách nhìn của nhiều người, nhiều đơn vị, dưới cùng một tiêu chuẩn thống nhất. Tạo ra phong cách làm việc khoa học và hiệu quả, xây dựng các nguyên tắc bảo mật an toàn, có sự kiểm tra và tính toán khoa học khi lưu trữ, xây dựng được sự tin cậy đối với các đối tượng tham gia quan hệ BHXH... từ đó nâng cao chiến lược phục vụ. Để ngày càng ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH, cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
- Coi trọng hơn nữa quan hệ giữa các yếu tố cần thống nhất trong nghiệp vụ thu - chi, kế toán, chế độ chính sách. Từ đó cùng với những đổi mới về kỹ thuật, công nghệ, xây dựng được hệ thống xử lý số liệu BHXH có chiến lược, hiệu quả. Muốn vậy, phải có sự phối hợp đồng bộ từ trung ương đến địa phương, giữa các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố với nhau.
- Để có một mạng máy tính mạnh cho hệ thống BHXH, chúng ta phải mạnh dạn ứng dụng kỹ thuật hiện đại bằng việc quan tâm đầu tư trang bị máy móc, thiết bị hiện đại cho toàn hệ thống, đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu. Điều quan trọng và cần làm trước hết là xây dựng cho được hệ thống các tiêu chuẩn trong các nghiệp vụ BHXH. Chẳng hạn: chuẩn hoá các mã quản lý, danh mục các báo biểu, các chỉ tiêu thống kê và phương pháp tính.
- Ngoài ra, còn phải đầu tư cho các phần mềm đáp ứng nhu cầu tự động hoá có khả năng thích ứng với sự thay đổi về chế độ chính sách. Trong tương lai gần, hệ thống thông tin BHXH Việt Nam cần được nối mạng toàn ngành, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển với các ngành nghề khác. Đồng thời thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, nâng cao chiến lược hoạt động BHXH, góp phần đưa ngành BHXH Việt Nam lên một tầm cao mới
3.8. Hợp tác trong nước và quốc tế về BHXH
Với đặc thù là hoạt động mang tính xã hội và nhân đạo nên việc hợp tác với các tổ chức trong nước và quốc tế là hoạt động hết sức cần thiết đối với cơ quan bảo hiểm xã hội. Trong điều kiện mới được thành lập của BHXH Việt Nam, cộng với sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước còn lớn cho quỹ BHXH, chính vì vậy cần tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế và đẩy mạnh hơn nữa hợp tác với các cơ quan, đoàn thể trong nước tạo điều kiện cho thực hiện các hoạt động BHXH tốt hơn. Đẩy mạnh hơn nữa quan hệ với các tổ chức BHXH, lao động quốc tế với mục đích trao đổi, đào tạo cán bộ, chuyên gia để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm về công tác BHXH.
Kết luận
Trong bối cảnh đất nước đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá như hiện nay thì vấn đề người lao động và các chế độ chính sách đối với người lao động ngày càng trở lên quan trọng bởi nó không chỉ có ý nghía về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội sâu sắc. Hơn thế nữa, sự mở ra của nhiều thành phần kinh tế đã và đang gây không ít khó khăn cho các nhà quản lý vĩ mô trong việc chăm lo cuộc sống và điều kiện làm việc của người lao động. Để có thể giải quyết tốt vấn đề này, trong những năm vừa quan Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quan tâm cho công tác BHXH. Từ đó giúp người lao động yên tâm hơn trong công tác.
Qua 5 năm từ khi chính thức đi vào hoạt động, những kết quả ban đầu mà BHXH Việt Nam đã làm được là rất đáng trân trọng, góp phần giúp chính phủ giải quyết tốt các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác BHXH cho người lao động. Trong thời gian hoạt động vừa qua, BHXH Việt Nam đã chứng tỏ vai trò quan trọng trong việc góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, tạo nguồn vốn khá lớn để đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngoài ra, từ khi thực hiện cơ chế mới trong thu chi BHXH cũng đã tạo ra một thói quen và nhận thức mới tốt hơn, toàn diện hơn cho người lao động và người sử dụng lao động về BHXH.
BHXH Việt Nam luôn được sự quan tâm chỉ đạo của chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan nhưng vẫn không tránh khỏi những khó khăn và hạn chế. Những khó khăn trong công tác BHXH có nguyên nhân từ phía người lao động, người sử dụng lao động và cả nguyên nhân chủ quan từ phía BHXH Việt Nam. Đó là sự thiết hụt trong nhận thức của khá nhiều người lao động đặc biệt là trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, điều này dẫn đến nhiều thiếu hụt cho người lao động khi có rủi ro xảy ra. Bên cạnh đó, nhiều chủ doanh nghiệp không thực sự tuân thủ các quy định trong thực hiện nghĩa vụ về BHXH cho người lao động mà họ sử dụng vì vậy càng làm tăng khó khăn cho quỹ BHXH. Ngoài ra, các cơ chế và quy định cho đầu tư quỹ BHXH chưa thực sự thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho BHXH có thể thực hiện tốt nhiệm vụ bảo toàn và phát triển nguồn quỹ.
Tuy có những khó khăn và hạn chế như vậy trong công tác BHXH nhưng có thể khẳng định thuận lợi là cơ bản và nếu có sự hỗ trợ hơn nữa của Chính phủ, các bộ ngành và đặc biệt là sự nỗ lực của bản thân BHXH Việt Nam thì trong thời gian tới chúng ta tin tưởng các chính sách chế độ về BHXH cho người lao động sẽ được thực hiện tốt hơn đáp ứng lòng mong mỏi và trông đợi của hàng triệu người lao động Việt Nam sống trên mọi miền đất nước. Từ đó góp phần tích cực, tạo điều kiện tăng thu cho quỹ BHXH Việt Nam. Hơn thế nữa, việc làm tốt công tác BHXH cũng là sự khẳng định trong tương lai không xa chúng ta có thể bắt kịp các quốc gia khác trên thế giới không chỉ bằng thành tự kinh tế mà còn bằng những giá trị đạo đức trong bảo vệ và tôn trọng quyền lơị của người lao động, một trong những ưu việt của chế độ XHCN mà chúng ta đang quyết tâm xây dựng.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân, cảm ơn thầy giáo Nguyễn Văn Định - Tiến sĩ, chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các cán bộ nhân viên Trung tâm thư viện - trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân
; NXB Thống kê - Hà Nội - 2000 -
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân; NXB Giáo dục - 1998
3. Giáo trình Thống kê bảo hiểm trường Đại học Kinh tế Quốc dân; NXB Thống kê - Hà Nội 1996 -
4. Sách Hỏi - Đáp về BHXH; NXB Lao động - xã hội - 1999
5. Hệ thống các văn bản pháp quy về BHXH - BHXH Việt Nam.
6. Tạp chí BHXH - số 1, 4 năm 1999 và các số năm 2000
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0073.DOC