Bảo hiểm Y tế ra đời đã thực sự là "Cứu cánh" cho hàng ngàn người dân thủ đô chống lại mọi rủi ro về ốm đau và bệnh tật. Trong thời gian đầu triển khai, BHYT còn khá mới mẻ đối với quần chúng nhân dân do vậy nhiều của BHYT Hà Nội cũng như của toàn hệ thống BHYT Việt Nam đối với việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT một cách rộng rãi, tối ưu hoá hiệu quả hoạt động của ngành là khá nặng nề. Song với tinh thần nhiệt tình hăng say, năng động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhân viên cơ quan thì việc khẳng định BHYT trong lòng nhân dân thủ đô cũng như cả nước là hoàn toàn có thể.
Hà Nội là trung tâm văn hoá, chính trị của cả nước, những lợi thế này là tiền đề thúc đẩy mạnh mẽ BHYT thủ đô. Như vậy, việc triển khai rộng rãi BHYT trên đại bàn thành phố là có ưu thế hơn so với các địa phương khác trong cả nước.
Mong rằng, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo có trình độ cao, đội ngũ cán bộ nhân viên của BHYT Hà Nội trẻ khoẻ, năng động nhiệt tình và cùng với những lợi thế kể trên, BHYT Hà Nội sẽ sớm khẳng định được mình và sẽ là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân thủ đô chống lại rủi ro bệnh tật.
83 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng tình hình thu Bảo hiểm y tế và một số biện pháp nhằm tăng nguồn thu ở Bảo hiểm y tế Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t 19,35% và sau đó xu hướng tăng này lại giảm qua các năm biểu hiện năm 1999 so với năm 1998 tăng 7,95%; năm 2000 so với năm 1999 tăng 2,28%; cho đến năm 2001 tốc độ này lại tăng lên đạt 6,34%.
Cũng theo bảng trên cho thấy: tỷ lệ so với tổng số đối tượng tham gia qua các năm đều có xu hướng tăng cụ thể: năm 1997 tỷ lệ này chiếm 65,49%, năm 1998 chiếm 68,34%, năm 1999 chiếm 73,69%, năm 2000 chiếm 73,48%. Cùng với sự tăng lên của tỷ lệ này thì số người tham gia BHYT bắt buộc cũng tăng lên qua các năm, biểu hiện: năm 1997 có 482.000 đối tượng tham gia BHYT cho đến năm 2001 đã có 673.169 đối tượng tham gia. Điều này một phần cho thấy nền kinh tế của nước ta luôn có tỷ lệ tăng trưởng dương qua các năm trên, mặt khác cũng cho thấy hiệu quả khai thác của BHYT Hà nội đối với loại đối tượng bắt buộc ngày càng tăng lên qua các năm.
Cho đến năm 2001 tỷ lệ loại đối tượng bắt buộc so với tổng đối tượng tham gia là 71,48% (năm 2000 tỷ lệ này là 73,58%), sở dĩ có hiện tượng giảm này là do tron năm 2001 đối tượng tham gia BHYT tự nguyện đã tăng trở lại.
Còn về nguồn thu ta có số liệu sau về nguồn thu:
Năm
Thu BHYT bắt buộc (1000đ)
Tổng thu (1000đ)
Tỷ lệ so với tổng thu
Tốc độ tăng, giảm
1997
48682986
53582986
90,86%
1998
66712085
72212085
92,38%
37,03%
1999
75.988.586
80.865.586
93,97%
13,91%
2000
93.023.997
99.487.997
93,50%
22,42%
2001
120.773.199
127.778.811
94,52%
29,83%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Qua bảng số liệu trên cho thấy tổng thu BHYT bắt buộc luôn tăng qua các năm, cụ thể: năm 1997 tổng thu chỉ đạt 37,695 tỷ đồng nhưng cho đến năm 2001 tổng thu BHYT bắt buộc này đã đạt tới 127,733 tỷ đồng. Điều này đạt được là do BHYT Hà nội đã tích cực triển khai thác cũng như trong giai đoạn này Luật doanh nghiệp ra đời đã cải tiến phần nào thủ hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp mới lần lượt được ra đời điều này đồng nghĩa với số lao động tăng nhanh dẫn đến số tham gia BHYT bắt buộc cũng tăng nhanh và đưa đến tổng thu cũng tăng lên.
Ngoài ra do mức đóng của BHYT bắt buộc dựa vào lương của đối tượng tham gia, do đó một sự tăng lên của lương sẽ làm cho tổng thu BHTY bắt buộc tăng lên, mà trong thời gian trên mức lương cơ bản của người lao động không ngừng được tăng lên từ 144.000 đồng cho đến này mức lương cơ bản đã là 210.000 đồng.
Để cụ thể hơn ta đi vào chi tiết từng nguồn thu của đối tượng bắt buộc:
Thứ nhất: Với đối tượng là khối hành chính sự nghiệp.
Với loại hình đối tượng này BHYT Hà nội đã tiến hành khai thác và trong thời gian qua thu được những kết quả sau:
Năm
Số tham gia (người)
Tổng số tg bắt buộc (người)
Tỷ lệ so với tổng bắt buộc
Mức tăng giảm (người)
Tốc độ tăng, giảm
1997
120093
506134
23,73%
1998
122352
537523
22,76%
2259
1,88%
1999
124856
618924
20,17%
2504
2,05%
2000
123075
633007
19,44%
-1781
-1,43%
2001
121319
673169
18,02%
-1756
-1,43%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Theo số liệu ở bảng trên tốc độ tăng giảm của số đối tượng tham gia khối này đầu tiên có xu hướng tăng cụ thể năm 1998 so với năm 1997 tăng 1,88% về số tuyệt đối tăng 2259 người; năm 1999 so với năm 1998 tăng 2,05% về số tuyệt đối tăng 2.504 người rồi sau đó trong hai năm liền tốc độ này đều giảm 1,4% về số tuyệt đối năm 2000 so với năm 1999 giảm 1781 người, năm 2001 so với năm 2000 giảm 1756 người. Sở dĩ có hiện tượng giảm này là do trong thời gian qua nước ta có chủ trương cải cách thủ tục hành chính, từ đó tinh giảm biên chế lao động. Để hiểu rõ thêm về nguồn thu chịu tác động như thế nào qua sự tinh giảm biên chế trên ta xét thêm bảng số liệu sau:
Năm
Tổng thu hành chính (1000đ)
Tổng thu bắt buộc (1000đ)
Tỷ lệ so với tổng thu bắt buộc
Mức tăng, giảm (1000đ)
Tỷ lệ tăng, giảm
1997
9.265.786
48.682.986
19,03%
1998
14.358.684
65.606.832
21,89%
5.092.898
54,96%
1999
15.965.541
75.988.586
21,01%
1.606.857
11,19%
2000
19.902.352
93.023.997
21,39%
3.936.811
24,66%
2001
25.153.706
120.773.199
20,83%
5.251.354
26,39%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Qua số liệu ở bảng trên cho ta thấy tuy đối tượng tham gia qua các năm có xu hướng tăng giảm khác nhau. Nhưng với nguồn thu thì luôn tăng qua các năm. Cụ thể tỷ lệ tăng năm 1998 so với năm 1997 là 54,96%, về số tuyệt đối tăng 5,092 tỷ đồng; năm 1999 so với năm 1998 tăng 11,19%, về số tuyệt đối tăng 1,606 tỷ đồng; năm 2000 so với năm 1999 tăng 24,66%, về số tuyệt đối tăng 3,936 tỷ đồng, năm 2001 so với năm 2000 tăng 26,39%, về số tuyệt đối tăng 5,251 tỷ đồng.
Lý giải cho điều này là do sự tăng lên của mức lương cơ bản cũng như tổng lương của người lao động trong khối hành chính sự nghiêp không ngừng được tăng lên qua các năm, nên mặc dù trong hai năm 2000 và 2001 số lượng đối tượng tham gia có giảm nhưng tổng thu vẫn tăng lên.
Thứ hai: Với đối tượng là xí nghiệp, doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh.
Hà nội là một trong những trung tâm kinh tế lớn của cả nước, do vậy ở trên địa bàn tập trung nhiều loại hình doanh nghiệp. Từ đó việc huy động được nguồn thu đầy đủ của loại đối tượng này sẽ đảm bảo cho nguồn quỹ của BHYT Hà nội không ngừng tăng trưởng, điều này tất yếu dẫn đến công tác chăm sóc sức khoẻ cho người lao động sẽ được đảm bảo phục vụ tốt hơn. Để hiểu rõ hơn về thực trạng của việc khai thác loại hình đối tượng này ta xét bảng số liệu sau về đối tượng tham gia:
Năm
Số tham gia (người)
Tổng số tg bắt buộc (người)
Tỷ lệ so với tổng bắt buộc
Mức tăng giảm (người)
Tốc độ tăng, giảm
1997
149.687
506.134
31,06%
1998
172.183
537.523
33,22%
22.496
15,03%
1999
208.722
618.924
33,72%
36.539
21,22%
2000
224.005
633.007
35,39%
15.283
7,32%
2001
228.952
673.169
34,01%
4.947
2,21%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Theo số liệu ở bảng trên cho thấy: số người tham gia của loại đối tượng này đều tăng qua các năm, và đồng thời tỷ lệ của loại đối tượng này so với tổng số tham gia bắt buộc cũng có xu hướng tăng qua các năm, cụ thể năm 1997 chiếm 31,06% và đến năm 2000 chiếm 35,39%, năm 2001 chiếm 34,01% so với tổng thu.
Còn về tốc độ tăng của loại đối tượng này có xu hướng giảm dần qua các năm, cụ thể năm 1998 so với năm 1997 tăng 15,03% về số tuyệt đối tăng 22.496 người; năm 1999 so vơi năm 1998 tăng 21,22% về số tuyệt đối tăng 36.539 người rồi sau đó đã xuất hiện xu hướng giảm, biểu hiện năm 2000 tốc độ tăng chỉ đạt 7,32% về số tuyệt đối chỉ đạt 15.283 người, năm 2001 tốc độ tăng còn 2,21% về số tuyệt đối chỉ còn lại 4.947 người.
Sở dĩ năm 1999 có số lượng đối tượng tham gia về số tuyệt đối tăng nhiều nhất là do Nghị định số 58/CP của Chính phủ ra ngày 13/08/1998, cùng một số Thông tư hướng dẫn thi hành một cách chi tiết hơn do đó số đối tượng tham gia ở năm này tăng cao nhất.
Ngoài ra khi Luật doanh nghiệp ra đời cũng phần nào làm cho loại đối tượng này tăng khá nhanh trong năm 2000. Cụ thể ta xét bảng số liệu chi tiết về sự tham gia của các loại hình doanh nghiệp qua hai năm 2000 và 2001 như sau:
Chỉ tiêu
Năm
2000
2001
Tham gia (người)
Tỷ lệ
Tham gia (người)
Tỷ lệ
1. Doanh nghiệp Nhà nước:
196.398
87,68%
197.226
86,14%
2. Doanh nghiệp tư nhân:
8.288
3,70%
11.384
4,97%
3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
19.319
8,62%
20.342
8,88%
Tổng:
224.005
100,00%
228.952
100,00%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Qua số liệu ở bảng trên cho thấy khối doanh nghiêp Nhà nước vẫn chiếm ưu thế về số đối tượng tham gia, sau đó là đến loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cụ thể năm 2000 doanh nghiệp Nhà nước chiếm tới 87,68% trong tổng số đối tượng tham gia của loại hình doanh nghiệp; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm hơn 12%
Sang năm 2001 doanh nghiệp Nhà nước tuy có giảm nhưng vẫn chiếm ưu thế so với hai loai hình còn lại chiếm tới 86,14% trong tổng số ba loại hình. Sở dĩ có điều này là nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường do vậy các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn chiếm tỷ trọng nhỏ, cũng như lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta là chưa lớn lắm do đó mới sảy ra tình trạng trên.
Bây giờ ta xét về tổng thu của ba loại hình trên qua các năm:
Năm
Tổng thu doanh nghiệp (1000đ)
Tổng thu bắt buộc (1000đ)
Tỷ lệ so với tổng thu bắt buộc
Mức tăng, giảm (1000đ)
Tốc độ tăng, giảm
1997
17.890.102
48.682.986
36,75%
1998
29.713.461
66.712.085
44,54%
11.523.359
66,09%
1999
33.453.156
75.988.586
44,02%
3.739.695
12,59%
2000
44.506.253
93.023.997
47,84%
11.053.097
33,04%
2001
52.311.398
120.773.199
43,31%
7.805.145
17,54%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Qua số liệu ở bảng trên cho ta thấy tổng thu của loại hình tăng qua các năm và đồng thời về cơ bản tốc độ tăng của nguồn thu của loại đối tượng này tăng qua các năm. Điều này cũng dễ hiểu vì tổng số đối tượng tham gia là tăng qua các năm, cũng như trong thời gian trên mức lương cơ bản, tổng lương của người lao động không ngừng được nâng lên.
Cũng qua số liệu cho thấy tỷ trọng của tổng thu BHYT doanh nghiệp chiếm trong tổng thu BHYT bắt buộc về cơ bản là tăng qua các năm và đồng thời tỷ trọng này chiếm tỷ lệ gần 50% tổng thu bắt buộc điều này phần nào cho thấy tầm quan trọng của loại đối tượng này.
Để chi tiết hơn ta xem xét nguồn thu của từng loại doanh nghiệp:
Chỉ tiêu
Năm
2000
2001
Khoản thu (1000đ)
Tỷ lệ
Khoản thu (1000đ)
Tỷ lệ
1. Doanh nghiệp Nhà nước:
30.779.916
69,16%
35.705.452
68,26%
2. Doanh nghiệp tư nhân:
1.021.308
2,29%
1.986.238
3,80%
3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
12.705.029
28,55%
14.619.708
27,95%
Tổng:
44.506.253
100,00%
52.311.398
100,00%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Theo bảng số liệu chi tiết hai năm (2000 và 2001) ở trên thì doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu, tiếp đến là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng sang năm 2001 tỷ trọng nguồn thu BHYT của doanh nghiệp Nhà nước lại giảm, biểu hiện năm 2000 tỷ trong này là: 69,16%; bước sang năm 2001 tỷ trọng này còn lại 68,26%, còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì tỷ trọng này lại tăng từ 2,29% năm 2000 lên 3,8% năm 2001. Điều này chứng tỏ, với cơ chế quản lý doanh nghiệp thông thoáng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân ra đời góp phần vào sự phát triển kinh tế của nước nhà, đồng thời tăng nguồn thu cho BHYT Hà nội.
Thứ ba: Đối tượng hưu trí mất sức:
Đối tượng hưu trí, mất sức đối tượng hay bị ốm đau, cũng như có nhu cầu khám chữa bệnh cao hơn so với các loại đối tượng khác. Do vậy việc đảm bảo chăm sóc tốt sức khoẻ cho đối tượng này thông qua hình thức tham gia BHYT sẽ giúp gia đình của loại đối tượng này bớt được một phần gánh nặng khi không may đối tượng này bị ốm đau bệnh tật. Để hiểu rõ hơn việc thực hiện chính sách
này ở thành phố Hà nội ta xét bảng số liệu sau:
Năm
Số tham gia (người)
Tổng số tg bắt buộc (người)
Tỷ lệ so với tổng bắt buộc
Mức tăng giảm (người)
Tốc độ tăng, giảm
1997
204802
506134
40,46%
1998
210321
537523
39,13%
5519
2,69%
1999
216638
618924
35,00%
6317
3,00%
2000
223063
633007
35,24%
6425
2,97%
2001
229375
673169
34,07%
6312
2,83%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Theo số liệu ở bảng trên ta thấy loại đối tượng này có xu hướng tăng khá đồng đều qua các năm từ 1997 đến 2001 và tỷ lệ so với tổng số người tham gia của BHYT bắt buộc cũng khá cao cụ thể năm 1997 chiếm tới 40,46% tổng, năm 1998 chiếm tới 39,13% điều này cho thấy đây cũng là một nguồn thu lớn của quỹ BHYT.
Đồng thời tốc độ tăng giảm của loại đối tượng này cũng khá đồng đều trong những năm trên, cụ thể: năm 1998 so với năm 1997 tăng 2,69% về số tuyệt đối tăng 5.519 người; năm 1999 so với năm 1998 tăng 3,00% về số tuyệt đối tăng 6.317 người; năm 2000 so với năm 1999 tăng 2,97% về số tuyệt đối tăng 6.425 người; năm 2001 so với năm 2000 tăng 2,83% về số tuyệt đối tăng 6.312 người.
Ta có bảng số liệu về nguồn thu của đối tượng này như sau:
Năm
Tổng thu hu trí mất sức (1000đ)
Tổng thu bắt buộc (1000đ)
Tỷ lệ so với tổng thu bắt buộc
Mức tăng, giảm (1000đ)
Tỷ lệ tăng, giảm
1997
20168198
41.359.986
48,76%
1998
21534687
66.712.085
32,28%
1.366.489
6,78%
1999
23221145
75.988.586
30,56%
1.686.458
7,83%
2000
25129408
93.023.997
27,01%
1.908.263
8,22%
2001
38521167
120.773.199
31,90%
13.391.759
53,29%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Qua số liệu ở bảng trên ta thấy tổng thu của BHYT đối với loại đối tượng này luôn tăng qua các năm, cụ thể tốc độ tăng như sau: năm 1998 so với năm 1997 tăng 6,78% về số tuyệt đối tăng 1,366 tỷ đồng; năm 1999 so với năm 1998 tăng 7,83% về số tuyệt đối tăng 1,686 tỷ đồng; năm 2000 so với năm 1999 tăng 8,22% về số tuyệt đối tăng 1,908 tỷ; năm 2001 so với năm 2000 tăng 53,29% về số tuyệt đối tăng 13,391 tỷ đồng. Sở dĩ có sự tăng lên của nguồn thu qua các năm trên là do đối tượng về hưu qua các năm trên đều tăng. Mặt khác năm 2001 có tổng thu tăng mạnh nhất là do bước vào đầu năm 2001 thì ở nước ta bắt đầu áp dụng mức lương cơ bản là 210.000 đồng dẫn đến tổng quỹ lương của đối tượng về hưu tăng lên theo, ngoài ra trong năm này tổng số đối tượng về hưu cũng tăng lên 6312 người.
Thứ tư: Với đối tượng là người nghèo.
Với phương châm giúp người nghèo, thoát khỏi cảnh nghèo túng. Trong thời gian qua thành phố Hà nội đã có nhiều sự trợ giúp loại đối tượng này BHYT là một trong những hình thức trợ giúp thiết thực nhất. Vì đăc điểm của loại đối tượng này là thường hay bị ốm đau, do vậy việc trợ giúp thông qua cấp miến phí thẻ BHYT trong những năm qua đã thực sự giúp người nghèo tự vươn lên trong cuộc sống, để hiểu rõ hơn về tình hình thực hiện chính sách này ta xem xét hai bảng số liệu sau:
Bảng về tổng số thẻ phát hành cho người nghèo:
Năm
Số tham gia (người)
Tổng số tg bắt buộc (người)
Tỷ lệ so với tổng bắt buộc
Mức tăng giảm (người)
Tốc độ tăng, giảm
1997
31552
506134
6,23%
1998
32667
537523
6,08%
1115
3,53%
1999
37068
618924
5,99%
4401
13,47%
2000
35791
633007
5,65%
-1277
-3,45%
2001
65136
673169
9,68%
29345
81,99%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Năm
Tổng thu hu trí mất sức (1000đ)
Tổng thu bắt buộc (1000đ)
Tỷ lệ so với tổng thu bắt buộc
Mức tăng, giảm (1000đ)
Tỷ lệ tăng, giảm
1997
1358900
41.359.986
3,29%
1998
1105253
66.712.085
1,66%
-253.647
-18,67%
1999
1536130
75.988.586
2,02%
430.877
38,98%
2000
1452770
93.023.997
1,56%
-83.360
-5,43%
2001
2228603
120.773.199
1,85%
775.833
53,40%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Qua số liệu ở hai bảng trên cho thấy số đối tượng người nghèo được cấp thẻ BHYT qua các năm đều có xu hướng tăng giảm khác nhau cụ thể năm 1998 so với năm 1997 tăng 3,53%, nhưng năm 2000 so với năm 1999 số thẻ phát hành lại giảm 3,45% và sang năm 2001 tổng số thẻ BHYT phát hành cho đối tượng này lại tăng 81,99%.
Đồng thời tỷ lệ số thẻ phát hành của loại đối tượng này so với tổng số thẻ phát hành cho toàn bộ đối tượng bắt buộc là khác nhau qua các năm, cụ thể năm 1997 số thẻ phát hành cho loại đối tượng này chiếm 6,23% so với tổng thẻ băt buộc; sang năm 2000 tỷ lệ này là 5,65% và đến năm 2001 tỷ lệ này lại đạt 9,68% so với tổng số thẻ bắt buộc. Cùng với sự tăng giảm không đồng đều về số thẻ phát hành cho người nghèo, số thu từ ngân sách cũng tăng giảm không đồng đều qua các năm.
Sở dĩ xảy ra sự tăng giảm số thẻ BHYT phát hành cho loại đối tượng này là do tiều chuẩn đánh giá hộ nghèo của thành phố Hà nội là khác nhau qua các năm. Do đó đưa đến số thẻ phát hành cho loại đối tượng này là khác nhau qua các năm và từ đó tổng thu từ ngân sách cũng khác nhau qua các năm.
Thứ năm: Với các loại hình khác được ngân sách nhà nước bao cấp.
Các loại đối tượng còn lại này gồm: người có công với cách mạng, cán bộ xã phường thị trấn, Hội đồng nhân dân, lưu học sinh. Ta xét bảng số liệu sau về loại hình thứ năm này:
Năm Đối tượng tham gia
1999
2000
2001
1. Người có công với cách mạng
24.013
23.659
22.952
2. Cán bộ xã phường thị trấn
1.578
2.196
3.174
3. Hội đồng nhân dân
566
836
1.453
4. Lưu học sinh
483
454
808
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Năm
Đối tượng tham gia
2000
2001
Mức tăng, giảm (người)
Tốc độ tăng, giảm
Mức tăng, giảm (người)
Tốc độ tăng, giảm
1. Người có công với cách mạng
-354
-1,47%
-707
-2,99%
2. Cán bộ xã phường thị trấn
618
39,16%
978
44,54%
3. Hội đồng nhân dân
270
47,70%
617
73,80%
4. Lưu học sinh
-29
-6,00%
354
77,97%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Theo số liệu ở bảng trên cho ta thấy:
Thứ nhất với đối tượng người có công với cách mạng: số thẻ cấp cho loại đối tượng này có tốc độ giảm qua các năm, cụ thể năm 2000 so với năm 1999 giảm 1,47% về số tuyệt đối giảm 354 người; năm 2001 so với năm 2000 giảm 2,99% về số tuyệt đối giảm 707 người. Việc giảm này là dễ hiểu bởi vì các đối tượng này hầu như đã cao tuổi
Thứ hai với đối tượng cán bộ xã, phường, thị trấn: Với đối tượng này qua các năm số đối tượng có xu hướng tăng lên, cụ thể năm 2000 so với năm 1999 tăng 39,16% về số tuyệt đối tăng 618 người; năm 2001 so với năm 2000 tăng 44,54% về số tuyệt đối tăng 978 người.
Thứ ba với đối tượng hội đồng nhân dân đối tượng này cũng có xu hướng tăng qua các năm, cụ thể năm 2000 so với năm 1999 tăng 47,7% về số tuyệt đối tăng 270 người; năm 2001 so với năm 2000 tăng 73,8% về số tuyệt đối tăng 617 người.
Thứ tư với đối tượng là lưu học sinh thì tốc độ tăng giảm thất thường qua các năm. Xảy ra điều này vì tuỳ thuộc vào số lượng lưu học sinh của các nước sang học ở nước ta.
Ta có bảng tổng thu của các đối tượng trên như sau:
Năm
Tổng thu của loại hình (1000đ)
Tổng thu bắt buộc (1000đ)
Tỷ lệ so với tổng thu
tốc độ tăng
1999
1.812.614
75.988.586
2,39%
2000
2.033.214
93.023.997
2,19%
12,17%
2001
2.558.325
120.773.199
2,12%
25,83%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Qua số liệu ở bảng trên ta nhận thấy tổng thu của các đối tượng trên từ ngân sách qua các năm đều có xu hướng tăng tốc độ tăng khá mạnh, nhưng tỷ lệ tổng thu của loại hình so với tổng thu bắt buộc rất nhỏ.
Qua sự phân tích nguồn thu trong những năm trên cho thấy số thu và phát hành thẻ BHYT tăng lên qua các năm. Nguyên nhân là do chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, có sự chỉ đạo quan tâm sát sao của Thành uỷ, HĐND, UBND thành phố, sự quan tâm giúp đỡ của các cấp uỷ Đảng chính quyền, các ngành, các đoàn thể, các trường học, bệnh viện, các cơ sở y tế, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp... trên địa bàn thành phố, đặc biệt là sự trực tiếp chỉ đạo thực hiện của Sở y tế và sự đoàn kết nhất trí nỗ lực cố gắng phấn đấu của cán bộ nhân viên cơ quan BHYT Hà nội.
4. Đánh giá kết quả:
Qua gần 10 năm thực hiện chính sách BHYT trên địa bàn thủ đô, được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và sự phối hợp của các cấp, các ngành BHYT Hà nội đã có những bước phát triển cả về đội ngũ cũng như chất lượng công tác chuyên môn. Công tác tuyên truyền chính sách, chế độ BHYT được quan tâm, đã tổ chức được nhiều hoạt động tuyên truyền với nhiều hình thức, nội dung phong phú, trải rộng và đi sâu tới từng đối tượng tuyên truyền để mọi người hiểu và tích cực tham gia BHYT. Do công tác tuyên truyền được thực hiện tốt nên ngay từ năm đầu triển khai, số người tham gia BHYT đã đạt được kế hoạch chỉ tiêu đề ra, năm 1993 có 272.273 người tham gia, bằng 12,6% dân số Hà nội; số người tham gia ngày càng tăng qua mỗi năm và đến năm 2001 đã đạt tới con số 741.941 người tham gia đạt tỷ lệ 34,19% dân số thành phố Hà nội và đưa Hà nội trở thành một trong những địa phương có số người cũng như tỷ lệ người dân tham gia BHYT cao nhất trong cả nước.
Cùng với số người tham gia BHYT tăng nhanh, loại hình BHYT cũng như đối tượng BHYT ngày càng được mở rộng. Nếu những năm đầu mới chỉ tập trung phát triển đối tượng BHYT bắt buộc, thì những năm sau Hà nội đã chú ý phát triển loại hình BHYT tự nguyện cho các đối tượng là người nghèo (100% người nghèo ở Hà nội đã có thẻ BHYT), BHYT học sinh - sinh viên (40% học sinh thủ đô có thẻ BHYT) và đặc biệt là chương trình BHYT toàn dân đang được tổ chức triển khai thí điểm trên địa bàn huyện Sóc Sơn, nhằm góp phần thực hiện công tác xã hội hoá chăm sóc sức khỏe toàn dân.
Việc phát triển đối tượng và số người tham gia BHYT ở Hà nội đã huy động được nguồn kinh phí đáng kể, phục vụ công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Nguồn thu của BHYT Hà nội tăng qua từng năm và bù đắp được nguồn chi trả chi phí khám chữa bệnh của đối tượng tham gia BHYT, cụ thể ta có bảng số liệu sau:
Năm
Tổng thu (1000đ)
Chí phí KCB (1000đ)
1997
53.582.986
49.225.000
1998
72.212.085
66.500.000
1999
80.865.586
70.000.000
2000
99.487.997
71.300.000
2001
127.778.811
78.000.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 1997-2001 của phòng khai thác BHYT Hà nội).
Bảo hiểm y tế đã góp phần khắc phục những khó khăn về mặt kinh tế của người lao động khi không may họ gặp phải ốm đau bệnh tật. Người lao động, người sử dụng lao động và một số bộ phận dân cư ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về sự cần thiết của BHYT đối với việc chăm sóc sức khoẻ cho bản thân và trách nhiệm với cộng đồng xã hội. Đông đảo người lao động có thu nhập từ trung bình trở xuống, đặc biệt là những người nghỉ hưu, mất sức, ưu đãi xã hội và một số bộ phận người nghèo yên tâm hơn khi ốm đau vì đã có chế độ BHYT. Và với việc huy động được nguồn thu như trên đã góp phần phục vụ ngày càng tốt hơn người có thẻ BHYT.
Phần III: Một số vấn đề tồn tại và những biện pháp nhằm tăng cường nguồn thu cho BHYT Hà nội.
I. Những vấn đề tồn tại trong việc huy động nguồn thu ở BHYT Hà nội
A- Về cơ chế chính sách:
1. Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh.
BHYT ra đời và phát triển đến nay đã sang năm thứ 10, trong thời gian qua nhờ chính sách về BHYT đã được ban hành cũng như đã được sửa đổi để ngày một phù hợp với thực tế. Tuy vậy trong thời gian chưa phải là dài và với một hoạt động chưa hề có một tiền lệ trước, với một điều kiện kinh tế xã hội cũng không giống với một số nước mà hệ thống BHYT đã phát triển lầu đời, hệ thống các chính sách của ta vẫn còn nhiều vấn đề cần bổ khuyết hay nói một cách khác là môi trường pháp lý cho BHYT vẫn chưa hoàn chỉnh. Điều này ảnh hưởng nhiều tới sự phát triển hoạt động hiện tại của hệ thống BHYT cả nước nói chung và BHYT Hà nội nói riêng mà trước hết là hoạt động khai thác, phát hành thẻ.
Đầu tiên là điều lệ BHYT ban hành theo Nghị định 299/HĐBT đã có ý nghĩa hết sức cần thiết và quan trọng trong thời kỳ đầu mới tổ chức triển khai thực hiện nhưng càng về sau nhiều điều quy định không còn phù hợp với những chính sách mới của Nhà nước có liên quan và thực tế hoạt động trong những năm qua. Do đó hoạt động BHYT đã dần dần bị mất đi tính đích thực của nó, nó đã gần như trở thành một nguồn ngân sách bao cấp lại trong y tế, không còn nằm trong những nguyên lý và quỹ đạo hoạt động bảo hiểm. Cụ thể các Thông tư: số 12/TT-LB ngày 18/09/1993; số 16/BYT-TT ngày 26/08/1994; số 15/BYT-TT ngày 24/10/1995 là những thí dụ điển hình. Bên cạnh đó các văn bản do Chính phủ và các Bộ ban hành cũng có nhiều mâu thuẫn gây khó khăn cho việc thực thi chính sách BHYT: như là đối với việc thu BHYT thì hai văn bản: Nghị định số 47/CP ngày 06/06/1994 của Chính phủ và công văn số 3037/TC-HCVX ngày 18/11/1994 của Bộ tài chính cùng nói về thu BHYT nhưng một bên là thu 3% tiền lương còn một bên quy định thu 3% thu nhập. Những trái ngược này gây khó khăn cho công tác thu phí và phát hành thẻ BHYT.
Do những điều không còn phù hợp của Nghị định 299 cùng một số Thông tư văn bản khác, đến cuối năm 1999 vừa qua Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/NĐ-CP kèm theo điều lệ BHYT mới để thay thế Nghị định 299. Cùng với Nghị định mới là một số Thông tư như Thông tư số 15/1998/TTLT-BYT/BLĐTBXH, Thông tư số 17/1998/TT-BYT...
Mặc dù đã có những thay đổi căn bản trong Nghị định số 58 làm cho hoạt động BHYT được triển khai dễ dàng và thuận tiện hơn. Nhưng có thể nói rằng môi trường pháp lý vẫn chưa hoàn chỉnh bởi vì tính pháp chế chưa có đối với một số các đơn vị, cơ quan, xí nghiệp không tham gia BHYT. Điều này được thể hiện ở chỗ Nhà nước quy định một số đối tượng phải tham gia BHYT bắt buộc nhưng lại không ban hành quy định nào về việc xử lý vi phạm điều lệ BHYT, làm cho nhiều cơ quan doanh nghiệp coi thường không tham gia hay tham gia không đầy đủ, ngắt quãng BHYt ảnh hưởng tới việc huy động nguồn quỹ cũng như thực hiện công bằng xã hội.
2. Cơ chế quản lý ba bên còn nhiều sơ hở.
Hoạt động của bảo hiểm bao giờ cũng dựa trên cơ sở lấy số đông bù số ít, đặc biệt với BHYT thì ở đây số đông là rất lớn. Với một số lượng lớn thì công tác quản lý gặp nhiều khó khăn và chi phí quản lý rất cao nhất là với việc BHYT cho cả khám ngoại trú và nội trú của đối tượng bảo hiểm. Do vậy không như các loại hình bảo hiểm khác, BHYT đã tiến hành việc ký kết hợp đồng trực tiếp với các bệnh viện để thông qua đó chi trả và phục vụ cho người có thẻ BHYT. Từ đó trong BHYT tồn tại mối quan hệ ba bên, phức tạp, khó quản lý và nhiều sơ hở.
Mọi hoạt động chi trả cho người có thẻ BHYT đều phải thông qua cơ sở khám chữa bệnh. Do vậy chất lượng phục vụ của BHYT phụ thuộc rất nhiều vào người cung cấp dịch vụ là cơ sở khám chữa bệnh, thái độ của họ sẽ kết quả của việc dụng hoà giữa lợi ích của người bệnh (người tham gia BHYT) lợi ích của người cung cấp tài chính (cơ quan BHYT) và của chính họ (cá nhân nói riêng và cơ sở khám chữa bệnh nói chung). Việc dung hoà lợi ích giữa các bên là rất khó khăn vì ai cũng muốn giành phần lợi về cho mình càng nhiều càng tốt và lại sợ mình bị mất đi một phần lợi ích nào đó, do đó mỗi bên đều tìm cách khai thác tối đa lợi của mình và nhiều khi còn tìm mọi cách để lạm dụng nguồn quỹ của BHYT từ đó làm ảnh hưởng tới quỹ BHYT. Từ đó làm giảm chất lượng khám chữa bệnh dẫn đến làm giảm đi niềm tin của mọi người vào BHYT, gây nên những khó khăn nhất định cho công tác khai thác và phát hành thẻ BHYT từ đó ảnh hưởng đến nguồn thu của BHYT trong cả nước nói chung và BHYT Hà nội nói riêng.
B- Về tổ chức thực hiện.
Một trong những nguyên nhân làm giảm nguồn thu đầu vào của BHYT Hà nội là công việc tổ chức thực hiện ở các khâu chưa thật tốt, điều này gây ra một số vấn đề sau:
1. Tình trạng thất thu đầu vào.
Theo báo cáo của BHYT Hà nội năm 1998 mới có khoảng 83% đơn vị tham gia BHYT, đạt 86% số người phải tham gia BHYT bắt buộc, do đó số thất thu ước tính khoảng 3,5 tỷ đồng.
Như vậy, số thất thu ở đầu vào là đáng kể, và có thể liệt kê một số nguyên nhân dẫn đến việc đó như sau:
+ Nhiều doanh nghiệp của Nhà nước, trong đó có những doanh nghiệp lớn chưa tham gia hết BHYT. Khu vực liên doanh và doanh nghiệp tư nhân khai thác được rất ít.
+ Nhiều doanh nghiệp tham gia nửa vời, đóng một tháng rồi lại thôi không đóng hoặc chỉ đóng cho một số ít lao động của doanh nghiệp nhưng khi nào có người ốm đau, rơi vào diện chưa đóng BHYT thì lập tức đến mua bổ sung để sử dụng.
+ Nhiều doanh nghiệp kê khai mức thu nhập để đóng BHYT thấp hơn nhiều so với thu nhập thực tế của người lao động để khoản phải đóng của doanh nghiệp thấp, dấn đến số đóng BHYT cũng thấp đi tương ứng.
2. Tình trạng nợ tiền đóng bảo hiểm, nộp chậm, nộp ngắt quãng vẫn còn nhiều.
Hiện nay BHYT Hà nội đã chấm dứt việc cho nợ tiền đóng BHYT. Nhưng tình trạng nộp chậm và ngắt quãng ở các đơn vị vẫn còn nhiều, điều này dẫn đến ảnh hưởng đến quỹ BHYT cũng như việc theo dõi quản lý và phục vụ lợi ích cho người lao động. Còn có cơ quan đơn vị đến hạn không tới đóng BHYT mà phải tới lúc cơ quan có người ốm, cần sử dụng mới đi làm thẻ. Mặt khác khi nộp BHYT lại không chịu nộp phần thời gian ngắt quãng điều này gây khó khăn cho các khai thác viên.
Ngày 01/07/1994 liên Bộ y tế - Tài chính đã có Thông tư số 02/TT-LB hướng dẫn truy thu BHYT đối với các đối tượng thuộc diện bắt buộc, do các đối tượng nàykhông thi hành Nghị định của Chính phủ, không đóng BHYT cho cán bộ công nhân viên chức của đơn vị. Tình hình thực hiện Thông tư này đem lại kết quả khá cao, tuy vậy nộp chậm, nộp ngắt quãng vẫn còn tồn tại và chưa được giải quyết tận gốc. Truy thu là biện pháp cần thiết, nhưng thụ động, nó không gắn trách nhiệm của chủ lao động với người lao động, người lao động không được hưởng quyền lợi của mình, không nâng cao ý thức chấp hành các chính sách bắt buộc về BHYT của Nhà nước áp dụng cho các chủ doanh nghiệp.
Nói tóm lại hiện nay chưa có biện pháp hữu hiệu thật sự để giúp đỡ mọi người tham gia BHYT một cách tự nguyện, đúng kỳ hạn, tuân theo pháp luật của Nhà nước và coi đó là quyền và nghĩa vụ của mình.
3. Tình trạng khai thác BHYT tự nguyện còn chậm.
BHYT Hà nội mới chỉ tiến hành triển khai BHYT tự nguyện cho đối tượng là học sinh - sinh viên và mới đây (cuối năm 2001) đã tiến hành thí điểm tại huyện Sóc Sơn, nhưng qua đợt I vừa qua kêt quả đạt được không mấy khả quan lắm. Như vậy thị trường BHYT tự nguyện, một thị trường chủ yếu và tiểm năng vẫn còn bị bỏ ngỏ chưa khai thác hết và chưa có cơ chế để khai thác. Hiện nay có nhiều người làm ăn tự do muốn tham gia bảo hiểm, các công chức viên chức muốn mua BHYT cho con cái, cha mẹ (những đối tượng không thuộc diện khai thác)... nhưng không được tham gia.
Và việc triển khai BHYT cho đối tượng là học sinh - sinh viên, cho người nghèo và cho nông dân cũng chưa được tốt, chưa đạt kế hoạch đề ra. Chẳng hạn như đối với BHYT tự nguyện cho đối tượng là học sinh - sinh viên, kế hoạch khai thác đề ra là phải khai thác được 80% số học sinh - sinh viên trên toàn thành phố. Nhưng thực tế mới chỉ khai thác được gần 50%, do vậy phải có biện pháp để khai thác triệt để đối tượng tham gia BHYT tự nguyện.
4. Công tác tuyên truyền quảng cáo còn nhiều hạn chế.
Bảo hiểm y tế là một chính sách mới, còn rất nhiều người chưa biết, chưa hiểu hoạc hiểu rất ít về nó do đó công tác tuyên truyền quảng cáo là rất quan trọng. Nhưn công tác này chưa được làm thường xuyên, chưa sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng như phát thành, truyền hình, sách báo... hầu như không mấy khi nhắc đến BHYT, không tuyên truyền giải thích cho người dân hiểu ý nghĩa và tâm quan trọng của BHYT. Vì vậy, nhiều người dân chưa biết BHYT là gì, nếu có biết thì cũng không hiểu được bản chất nhân đạo của BHYT, nên không tự giác tham gia. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho công tác khai thác BHYT, đặc biệt đối với BHYT tự nguyện.
C- Về vấn đề xã hội.
Vấn đề xã hội được để cập ở đây chính là nhận thức của người tham gia. Thực hiện chế độ BHYT ngoài việc phụ thuộc vào các chính sách do Nhà nước ban hành nó còn phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của người tham gia BHYT. Hiện nay công tác BHYT ở nước ta nói chung và ở BHYT Hà nội nói riêng còn nhiều vướng mắc là do còn nhiều tồn tại trong ý thức của người dân, sở dĩ có điều này là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất: trình độ dân trí chưa cao, tư duy bao cấp còn nặng nề điều này là do trong một thời gian dài nhân dân ta được hưởng chính sách bao cấp toàn bộ về y tế, mà không trực tiêp phải trả chi phí cho việc khám chữa bệnh của mình cũng như mua BHYT, thêm đó khái niệm BHYT cũng không tồn tại trong tiềm thức của đại bộ phận nhân dân, hiểu biết về bảo hiểm nói chung BHYT nói riêng là còn hạn chế nhiều nơi, nhiều người hầu như không biết gì. Điều này là do trình độ dân trí chưa cao đặc biệt là ở vùng nông thôn. Do đó việc tham gia BHYT không được coi trọng và không được nhìn nhận đúng mức.
Thứ hai: Mức thu nhập bình quân thấp, thu nhập bình quân ở nước ta đến nay mới khoảng gần 300 USD cho một người/năm do vậy đời sống kinh tế rất khó khăn, không đủ để phát triển đời sống văn hoá của mình cũng như không thể nghĩ tới việc phải trích một khoản tiền đều đặn vào một quỹ mà mình. không biết có dùng tới hay không. Điều này ảnh hưởng đến thái độ của người dân với bảo hiểm nói chung và BHYT nói riêng.
Thứ ba: Người dân chưa tin tưởng vào BHYT, BHYT xuất hiện ở nước ta đến nay đã được gần 10 năm, một thời gian chưa phải là dài và đối tượng tham gia vẫn chủ yếu là đối tượng bắt buộc nên người dân còn nhiều hoài nghi, thêm vào đó trong quá trình hoạt động chính sách này lại bộc lộ nhiều nhược điểm như:
+ Tình trạng phân biệt đối sử giữa bệnh nhân có thẻ BHYT và bệnh nhân khám dịch vụ, việc này thường đem lại phần thiệt thòi cho bệnh nhân có thẻ BHYT. Đồng thời nhiều cơ sở y tế còn gây phiền hà đối với những người bệnh có thẻ BHYT, cũng như tinh thần phục vụ không tốt của một số ít y, bác sỹ đối với bệnh nhân có thẻ BHYT điều này gây ra sự mất long tin của người tham gia đối với chính sách BHYT.
+ Cơ chế bảo hiểm chưa hoàn toàn linh hoạt: bệnh nhân BHYT nhìn chung phải khám chữa bệnh theo đúng nơi đã đăng ký khám chữa bệnh ban đầu ghi trên thẻ, phải khám theo đúng tuyến chuyên môn kỹ thuật mới được thanh toán đầy đủ.
+ Chất lượng dịch vụ y tế phục vụ cho bệnh nhân BHYT nhiều khi không được đảm bảo.
Những điều đó làm niềm tin vào BHYT của người dân bị giảm sút, nhiều người có thẻ không muốn dùng nó vì sợ qua nhiều thủ tục phiền hà, mặt khác mức thanh toán quy định trong hợp đồng thấp hơn so với chi phí thực. Từ đó dẫn đến thái độ của mọi người trong việc mua thẻ BHYT là không muốn tham gia BHYT từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến nguồn thu của bảo hiểm.
II. Một số biện pháp nhằm tăng cường nguồn thu cho BHYT Hà nội.
A- Về cơ chế chính sách:
1. Hoàn thiện môi trường pháp lý.
Việc Bảo hiểm y tế xác nhập vào Bảo hiểm xã hội đã phần nào giải quyết được việc chồng chéo trong công tác quản lý. Nhưng để tăng cường hiệu lực pháp lý thì đòi hỏi phải có một bộ Luật quy định chặt chẽ các điều luật liên quan đến hoạt động của BHYT. Điều này sẽ nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về BHYT bằng pháp luật.
Như vậy có nghĩa Bộ y tế - Bộ tài chính - Bộ Lao động thương binh và Xã hội cùng các ngành các cấp có liên quan khác nên chăng sớm nghiên cứu sửa đổi những điều không hợp lý trong các văn bản ban hành cho BHYT, cũng như việc bổ sung các điều vào dự thảo luật bảo hiểm xã hội (vì sự xác nhập trên) đồng thời hoàn thiện các văn bản pháp luật và đưa ra thực thi một cách có hệ thống. Qua đó tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân tạo sự hiểu biết về quyền và trách nhiệm của mỗi người với BHYT. Từ đó tạo ra được một môi trường pháp lý đối với cả ba bên trong BHYT.
Nên chăng Chính phủ nên ban hành văn bản quy định về xử phạt vi phạm điều lệ BHYT đối với các cơ quan, đơn vị, tập thể, cá nhân trong việc tham gia, sử dụng thẻ BHYT và trách nhiệm của họ đối với cơ quan BHYT. Thêm vào đó nữa là nên chăng BHYT cũng được giao một quyền lực đủ lớn để trực tiếp xử lý các vi phạm BHYT từ phía người tham gia BHYT cũng như các cơ sở khám chữa bệnh ký hợp đồng khám chữa bệnh với cơ quan BHYT, đồng thời xác định rõ cơ quan pháp luật chịu trách nhiệm giải quyết các vi phạm trong hợp đồng BHYT của cơ quan BHYT với các đối tượng liên quan.
2. Giải quyết tốt mối quan hệ ba bên - đem lại lòng tin cho người tham gia.
Để giải quyết tốt mối quan hệ ba bên nên chăng cơ quan BHYT phải kết hợp chặt chẽ với các cơ sở khám chữa bệnh để đầu tư cho việc nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, chọn lọc được đội ngũ y, bác sỹ có đầy đủ trình độ nghề nghiệp và y đức để đem lại quyền lợi cho người tham gia BHYT.
Cơ chế thị trường một mặt tác động tốt đến nền kinh tế mặt khác nó cũng gây ra những mặt tiêu cực. Trong y tế nhiều cán bộ đều muốn tăng thu nhập bằng nhiều cách trong đó họ thường thích khám chữa bệnh dịch vụ hơn là khám chữa bệnh bằng BHYT, điều này dẫn đến những tiêu cực ảnh hưởng đến chính sách BHYT. Để khăc phụ tình trạng này nên chăng ngành y tế, cơ quan BHYT nên có chế độ tiền lương thưởng phù hợp để khuyến khích các y, bác sỹ tân tâm với công việc, đồng thời khắc phục tình trạng tiêu cực hiện nay trong các bệnh viện, nâng cao được y đức của người thầy thuốc.
Nên chăng cơ quan BHYT nên lựa chọn các cơ sở khám chữa bệnh có uy tín để ký kết hợp đồng, qua đó đảm bảo quyền lợi cho người tham gia, tạo niềm tin cho họ từ đó khuyến khích mọi người trong xã hội tích cực tham gia BHYT. Đồng thời việc ký kết hợp đồng với các bệnh viện Quân y cũng sẽ giúp giảm được tình trạng quá tải trong các bệnh viện dân sự, từ đó nâng cao được chất lượng phục vụ cho người có thẻ BHYT.
Nên chăng BHYT Hà nội nên đẩy nhanh nhịp độ đưa dịch vụ khám chữa bệnh đến cơ sở, mở rộng các cơ sở khám chữa bệnh ngay ở địa phương, cơ quan xí nghiệp để người đi khám chữa bệnh BHYT không phải chờ đợi. Các cơ sở khám chữa bệnh nên chọn ở vị trí trung tâm, nơi thuận tiện dễ dàng cho người có thẻ BHYT đến khám chữa bệnh. Còn vấn đề đơn thuốc không nên khống chế mà phải theo thực tế của bệnh. Một số bác sỹ kê đơn theo “trần giá” là máy móc vì BHYT khoán cho quỹ khám chữa bệnh ngoại trú là tổng thể do vậy bác sỹ phải kê đơn thuốc tuỳ theo bệnh, còn kinh phí thì người nhẹ bù cho người nặng, quỹ tháng này bù cho tháng khác, cần phải có biện pháp ngăn chặn thuốc giả, thuốc kém chất lượng.
Hiện nay ở nước ta đặc biệt là ở các thành phố lớn có hiện tượng chồng chéo trong việc tổ chức các tuyến khám chữa bệnh BHYT. Cơ quan BHYT phải kết hợp với các bệnh viện, trạm y tế để tổ chức lại các tuyến khám chữa bệnh cho hợp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho người có thẻ BHYT khi đi khám chữa bệnh. Cần nâng cao hơn nữa chất lượng khám chữa bệnh ở các cơ sở khắc phục tâm lý muốn khám chữa bệnh tại các bệnh viện lớn của người bệnh, tránh tình trạng quá tải ở một số bệnh viện Trung ương hiện nay.
Công tác giám định có vai trò quan trọng trong việc giám sát các hoạt động của các cơ sở khám chữa bệnh BHYT. Vì vậy phải tăng cường kiểm tra, thành tra đối với các hoạt động của các cơ sở khám chữa bệnh để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai phạm ví dụ như tình trạng lạm dụng quỹ khám chữa bệnh BHYT ở các cơ sở. Vấn đề thanh toán chi phí khám chữa bệnh phải hợp lý, đúng quy định, chi trả kịp thời, như vậy mới tạo điều kiện để các cơ sơ khám chữa bệnh phục vụ tốt hơn người có thẻ BHYT. Đồng thời tăng cường đầu tư cho các cơ sở y tế mua sắm các trang thiết bị, phương tiện, vật tư y tế để nâng cao chất lượng phục vụ trong chăm sóc và điều trị sức khoẻ cho bệnh nhân.
B- Về mặt tổ chức thực hiện.
1. Chống thất thu đầu vào.
Để làm tốt công tác thu, bên cạnh những điều kiện pháp lý cần thiết như quy định mức đóng (với BHYT tự nguyện), tỷ lệ đóng so với thu nhập (với một số đối tượng bắt buộc), BHYT Hà nội cần vận dụng nhiều biện pháp tổng hợp như: tiếp tục tuyên truyền mục đích, ý nghĩa và trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với viêc chăm sóc sức khoẻ của người lao động, kết hợp chặt chẽ với các cơ quan tài chính, thuế, lao động thương binh và xã hội, cơ quan đăng ký kinh doanh các cấp để tập trung thu đúng, thu đủ, tranh thủ tối đa sự chỉ đạo của UBND các cấp và cuối cùng là việc bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ khai thác có năng lực và năng động để bám sát đối tượng thu, có khả năng thuyết phục vận động các đối tượng tham gia bảo hiểm.
Công việc đầu tiên có liên quan đến việc trực tiếp chống thất thu đầu vào hiện nay ở BHYT Hà nội đó là tiến hành thanh tra một loạt các đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố.
Ngày 03/06/2001 UBND thành phố Hà nội đã lập đoàn thành tra thực hiện chế độ BHYT đối với người lao động tại một số doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. Trong 6 tháng đầu năm đoàn thanh tra đã tiến hành thanh tra tại 43 doanh nghiệp. Trong đó có 22 doanh nghiệp Nhà nước; 9 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 12 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Qua kiểm tra nhận thấy có 17 đơn vị chưa tham gia đóng BHYT, 11 đơn vị chưa thực hiện đúng việc trích nộp BHYT và chỉ có 15 đơn vị tham gia đóng BHYT đầy đủ.
Đợt thanh tra này là sự mở đầu kết hợp quản lý ngành với địa phương đã mang lại kết quả tốt. Ngoài việc làm rõ đúng, sai, tìm biện pháp khắc phục thiếu sót khuyết điểm để tăng cường quản lý thì UBND thành phố đã có thêm kinh nghiệm để chỉ đạo nhắc nhở các đơn vị thuộc địa bàn thành phố phải nghiêm chỉnh làm tốt chính sách BHYT đối với người lao động. Do đó sau khi có quyết định thanh tra, nhiều doanh nghiệp đã tự giác thực hiện chế độ BHYT. Cuộc thanh tra mới mở ra được một tháng đã có 29 doanhg nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài đã thực hiện tham gia BHYT với tổng số tiền là 564.788.065 đồng, với số lao động là 2.458 người. Điều đó chứng tỏ rằng nếu có cơ chế phối hợp tốt giữa quản lý ngành với quản lý lãnh thổ thì chính sách BHYT sẽ đi vào cuộc sống một cách thiết thực hơn.
2. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền.
Thông tin tuyên truyền là một quá trình thông tin nhằm truyền đạt tới đối tượng nhận tin một thông điệp nào đó. BHYT là một loại hình bảo hiểm tương đối mới mẻ, do đó công tác tổ chức thông tuyên truyền có ý nghĩa to lớn đối với việc vận động các cơ quan, đơn vị, cá nhân tham gia bảo hiểm. Thực trạng ở nước ta hiện nay, sự hiểu biết về bảo hiểm còn thấp, bảo hiểm chưa trở thành tập quán của người dân, họ cũng chưa rõ được hưởng quyền lợi như thế nào khi tham gia BHYT. Do đó nên chăng cần thực hiện một số biện pháp sau trong công tác thông tin tuyên truyền:
+ Thực hiện chiến lược thông tin tuyên truyền gắn với chủ trương đưa công tác khám chữa bệnh BHYT về y tế cơ sở. Kết hợp giữa lời nói đi đôi với việc làm, bên cạnh việc tổ chức tốt công tác khám chữa bệnh cần có các hình thức thông tin tuyên truyền phù hợp tại phòng khám, trạm y tế xã, y tế cơ quan, đơn vị, y tế nhà trường, có tổ chức khám chữa bệnh BHYT để mọi người hiểu biêt chế độ chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ trong việc thực hiện chính sách BHYT.
+ Chú trọng hơn công tác tuyên truyền, hướng dẫn giải thích trực tiếp tại cơ sở khám chữa bệnh, gắn liền với chủ trương thực hiện cải cách hành chính trong khám chữa bệnh BHYT như: làm bảng chỉ dẫn; dán áp phích, tranh cổ động BHYT; phối hợp với bệnh viện tổ chức các buổi toạ đàm giữa bác sỹ và bệnh nhân; phát tài liệu tuyên truyền, tờ rơi; thông báo quyền lợi và trách nhiệm khi khám chữa bệnh BHYT; tuyên truyền qua băng hình tại phòng chờ khám chữa bệnh, băng ghi âm qua hệ thống loa phóng thanh trong bệnh viện...
+ Triển khai thực hiện công tác thông tin tuyên truyền đi vào chiều sâu qua hệ thống Tuyên giáo các cấp: hợp tác tuyên truyền thường xuyên qua bản tin thông tin sinh hoạt chi bộ, báo cáo, giới thiệu trực tiếp về chính sách BHYT để lực lượng Tuyên giáo các cấp, Đảng viên nắm bắt và lãnh đạo, chỉ đạo quần chúng thực hiện tốt chủ chương chính sách BHYT của Đảng và Nhà nước. Hợp tác chặt chẽ hơn với hệ thống các cơ quan thông tin đại chúng ở địa phương, và xây dựng đội ngũ công tác viên trong và ngoài ngành tích cực cho công tác thông tin tuyên truyền, đồng thời có chế độ thù lao động viên khuyến khích kịp thời những cộng tác viên, thông tin viên tích cực, cộng tác có hiệu quả cho công tác thông tin tuyên truyền BHYT. Cơ quan BHYT có kế hoạch tuyên truyền cụ thể theo yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn và cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu thông tin tuyên truyền cho các báo trí ở địa phương để tổ chức các chương trình, chuyên mục tuyên truyền thường xuyên liên tục.
+ Tiếp tục sử dụng các tác phẩm tranh cổ động BHYT do BHYT Việt nam chọn gửi, mỗi tỉnh dựng tối thiểu hai panô lớn tại các trung tâm đông dân cư, sử dụng tờ rơi, tờ gấp các ấn phẩm truyền thông phù hợp khác.
+ Tổ chức công tác thông tin tuyên truyền tại các hội nghị tổng kết, hội nghị khách hàng, hội nghị triển khai BHYT tự nguyện thông qua nội dung báo cáo, tài liệu, báo trí, tờ rơi, tờ gấp, băng hình, các ý kiến phát biểu chỉ đạo của lãnh đạo các cấp các ngành, các tham luận có giá trị tuyên truyền tại chỗ.
+ Chủ động trong công tác thông tin tuyên truyền BHYT tự nguyện, đặc biệt là BHYT học sinh - sinh viên. Có kế hoạch thông tin tuyên truyền ngay sau khi đề án, kế hoạch về BHYT tự ngukyện đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trong toàn ngành cần triển khai thực hiện tốt hơn BHYT học sinh - sinh viên, bằng việc làm thực tế đi đôi với công tác thông tin tuyên truyền minh chứng lợi ích, tính chất ưu việt nhân đạo của BHYT học sinh, tìm tiếng nói đồng tình, ủng hộ của dư luận xã hội, kiến nghị Nhà nươc xem xét đưa học sinh - sinh viên vào đối tượng BHYT bắt buộc, mở rộng các đối tượng tham gia BHYT bắt buộc tiến tới thực hiện BHYT bắt buộc toàn dân.
+ Thiết lập mạng lưới thông tin tuyên truyền trong toàn ngành, thực hiện công tác đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, phương pháp tổ chức, trang bị kỹ năng tuyên truyền cho cán bộ thông tin tuyên truyền, giải thích khi tiếp xúc với đối tượng tham gia BHYT, bệnh nhân BHYT.
+ Tổ chức tốt việc xuất bản Tạp trí BHYT Việt nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới; đổi mới nâng cao chất lượng nội dung thông tin tuyên truyền, cải tiến hình thức thể hiện; tăng ký hạn và số lượng xuất bản, mở rộng phạm vi phát hành tới các đối tượng cần tuyên truyền; có chính sách động viên khuyến khích mở rộng đội ngũ công tác viên; nâng cao ý thức trách nhiệm của các cán bộ viên chức BHYT trong toàn ngành, phát huy nội lực, tập trung chí tuệ xây dựng và phát triển Tạp trí BHYT Việt nam xứng đáng là cơ quan ngôn luận tuyên truyền về chính sách BHYT.
3. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện.
Như ta đã biết nguồn khai thác chính của BHYT là các đối tượng tự nguyện. Do đó BHYT Hà nội phải sớm mở rộng BHYT tự nguyện cả về đối tượng tham gia và nội dung chi trả, tạo nguồn để phát triển quỹ BHYT miễn phí nhằm thu hút sự đóng góp, ủng hộ của các tổ chức từ thiện, các cá nhân có lòng hảo tâm thực hiện BHYT cho người nghèo dưới hình thức tài trợ trong nước, ngoài nước, đồng thời tích cực triển khai mở rộng BHYT rộng rãi trong học sinh - sinh viên, và nhân dân thành thị, nông thôn.
Khẩn trương kiến nghị với cơ quan quản lý các cấp và Nhà nước về BHYT đối với người nước ngoài tại Việt nam.
Đối với đồng bào dân tộc ít người sống ở vùng sâu vùng xa, ở những vùng kinh tế xã hội chậm phát triển thì việc thực hiện BHYT cũng cân phải được quan tâm và có chế độ ưu đãi, nguồn kinh phí nên chăng được ngân sách Nhà nước hỗ trợ hoàn toàn.
Đối với người nông dân, người lao động tự do thì phải kết hợp cả hai nguồn quỹ của địa phương và của cá nhân để tham gia BHYT. Đây là lực lượng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dân cư, thực hiện BHYT cho đối tượng này phải bắt đầu từ các cụm dân cư, các xã, phường tới quận huyện. Thực hiện BHYT cho đối tượng này phải đươc bắt đầu tư mô hình BHYT gia đình, như vậy sẽ thu được nhiều lợi ích như chỉ cần một mức đóng thấp nhưng sẽ có sự bù đắp san sẻ giữa các thành viên bằng nguồn lực lớn cho số ít người bị rủi ro bệnh tật, những người có chi phí khám chữa bệnh lớn, hay bị ốm đau bệnh tật.
Đối với những thành viên trong gia đình thuộc người lao động (mà chưa tham gia BHYT) trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng cần phải được thực hiện BHYT. Phải coi đây là trách nhiệm của cả chủ doanh nghiệp cũng như trách nhiệm của người lao động theo phương theo phương thức cùng đóng góp. Trách nhiệm đóng góp BHYT cho gia thuộc của người lao động nên chăng được thể chế hoá tại các luật có liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật đâu tư...
6. Sự vận động của bản thân ngành BHYT.
Cải tiến và kiện toàn một cách hoàn chỉnh hệ thống tổ chức BHYT theo phương thưc quản lý thống nhất, tập trung và hạch toán toàn ngành. Tăng cường củng cố, hoàn thiện đội ngũ cán bộ chuyên môn. Việc hạch toán toàn ngành sẽ tập trung được nguồn thu tài chính để cân đối thu chi cho nhu cầu khám chữa bệnh, điều tiết được nguồn lực của toàn hệ thống nhằm tăng cường chất lượng phục vụ người bệnh ở mọi vùng dân cư, thực hiện việc sinh lời nguồn vốn để nâng cao lợi ích của người tham gia BHYT. Mặt khác tránh được yếu tố cục bộ vị phạm lợi ích của người có thẻ BHYT, người cung cấp dịch vụ y tế.
Các chế độ chính sách về BHYT phải được thống nhất triển khai thực hiện trong toàn quốc và phù hợp với từng địa phương. Tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ BHYT cả về năng lực quản lý và trình độ nghiệp vụ chuyên môn.
Cán bộ BHYT phải được đào tạo cơ bản phù hợp với sự vận động của nền kinh tế thị trường. Xây dựng đội ngũ cán bộ BHYT vững mạnh là trách nhiệm của Nhà nước đồng thời là trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức, viên chức ngành BHYT. Đội ngũ cán bộ BHYT phải được đào tạo và tăng cường theo hướng: đủ về số lượng, vững vàng về chính trị và tư tưởng, có trình độ nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm và kỹ năng thực hành tốt, làm việc có chất lượng và hiệu quả. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ BHYT phải gắn liền giữa hình thức đào tạo dài hạn với bổ túc ngắn hạn, thường xuyên; đào tạo trong và ngoài nước; bổ túc cả về năng lực quản lý nghiệp vụ chuyên môn cũng như về trình độ chính trị. Kết hợp chặt chẽ vấn đề đào tạo cán bộ với việc nâng cao đời sống cán bộ, đảm bảo những quyền lợi chính đáng của người lao động.
Kết luận
Bảo hiểm Y tế ra đời đã thực sự là "Cứu cánh" cho hàng ngàn người dân thủ đô chống lại mọi rủi ro về ốm đau và bệnh tật. Trong thời gian đầu triển khai, BHYT còn khá mới mẻ đối với quần chúng nhân dân do vậy nhiều của BHYT Hà Nội cũng như của toàn hệ thống BHYT Việt Nam đối với việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT một cách rộng rãi, tối ưu hoá hiệu quả hoạt động của ngành là khá nặng nề. Song với tinh thần nhiệt tình hăng say, năng động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhân viên cơ quan thì việc khẳng định BHYT trong lòng nhân dân thủ đô cũng như cả nước là hoàn toàn có thể.
Hà Nội là trung tâm văn hoá, chính trị của cả nước, những lợi thế này là tiền đề thúc đẩy mạnh mẽ BHYT thủ đô. Như vậy, việc triển khai rộng rãi BHYT trên đại bàn thành phố là có ưu thế hơn so với các địa phương khác trong cả nước.
Mong rằng, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo có trình độ cao, đội ngũ cán bộ nhân viên của BHYT Hà Nội trẻ khoẻ, năng động nhiệt tình và cùng với những lợi thế kể trên, BHYT Hà Nội sẽ sớm khẳng định được mình và sẽ là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân thủ đô chống lại rủi ro bệnh tật.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0060.doc