Có thể nói, trong thời gian tới sẽ rất quan trọng đối với Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc, bởi vì khi gia nhập WTO cùng với hoạt động ngoại thương nước ta phát triển mạnh mẽ thì nhu cầu tham gia bảo hiểm hàng hoá XNK của các doanh nghiệp cũng vì thế mà tăng lên. Đặc biệt là sau những cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam tại WTO sẽ tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức cho các Công ty bảo hiểm Việt Nam nói chung và Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc nói riêng. Chính vì thế, để đạt được hiệu quả kinh doanh cao và giành được thị phần lớn trong khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển từ các đối thủ cạnh tranh cả trong và ngoài nước thì Công ty phải đề ra những chiến lược kinh doanh hợp lý, mở rộng quy mô hoạt động cả về chiều rộng và chiều sâu trên bước đi tiếp theo.Trong thời gian thực tập tại Công ty, em đã có dịp tìm hiểu tình hình hoạt động khai thác nghiệp vụ này ở Công ty, em xin đưa ra một số giải pháp với mong muốn nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả khâu khai thác trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển trong Công ty.
74 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1630 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo hiểm dầu khí Khu vực Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cấp cho người bảo hiểm những bằng chứng về số tiền được bảo hiểm theo tất cả các HĐBH khác.
Nhìn chung, điều kiện bảo hiểm C giống điều kiện bảo hiểm FPA, trừ việc điều kịên bảo hiểm C không bồi thường tổn thất do mất nguyên kiện hàng và cũng không phân biệt TTTB hay TTBP. Bảo hiểm theo điều kiện C không phù hợp với hàng thành phẩm (nhất là hàng có giá trị lớn) do các rủi ro về mất cắp, bị cướp, hư hỏng trong quá trình vận chuyển hoặc do việc trông coi không cẩn thận. Do đó, khi ký kết HĐBH thường phải ký các điều kiện bảo hiểm mở rộng đối với các rủi ro này.
2.2. Điều kiện bảo hiểm B
Theo điều kiện này, ngoài các rủi ro được bảo hiểm theo điều kiện C, Công ty bảo hiểm còn phải bồi thường tổn thất, thiệt hại xảy ra đối với hàng hóa được bảo hiểm do: động đất; núi lửa; sét đánh; bị nước biển cuốn khỏi tàu; nước biển, nước sông, hồ xâm nhập vào hầm tàu, vào côngtenơ hoặc nơi để hàng; tổn thất do mất nguyên đai, nguyên kiện hàng trong quá trình xếp dỡ, vận tải.
Bảo hiểm theo điều kiện B có áp dụng mức miễn thường nhưng không phân biệt TTTB và TTBP.
2.3. Điều kiện bảo hiểm A
Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi rộng nhất, bảo hiểm cho tất cả những hư hỏng, mất mát của hàng hóa được bảo hiểm, kể cả rủi ro cướp biển, chỉ trừ những rủi ro loại trừ theo quy định. Các rủi ro loại trừ về cơ bản giống điều kiện bảo hiểm B, C trừ rủi ro “thiệt hại cố ý hoặc phá hoại” theo điều kiện bảo hiểm A vẫn được bồi thường.
Bảo hiểm theo điều kiện này cũng không áp dụng mức miễn thường.
2.4. Điều kiện bảo hiểm chiến tranh dùng cho hàng hóa chuyên chở bằng đường biển
Theo điều kiện bảo hiểm này, người bảo hiểm phải bồi thường những mất mát, hư hỏng của hàng hóa được bảo hiểm do các nguyên nhân sau:
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự phát sinh từ những biến cố đó hoặc bất kỳ hành động thù địch nào.
-Bị chiếm đoạt, bị tịch thu, bị bắt, bị kiềm chế hoặc giữ lại phát sinh từ những biến cố nói trên và hậu quả của chúng hoặc âm mưu tiến hành những hoạt động đó.
- Mìn, thuỷ lôi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác
- TTC và chi phí cứu nạn
Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm đối với rủi ro chiến tranh hẹp hơn các rủi ro thông thường khác. Bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực khi hàng hóa được xếp lên tàu biển và kết thúc khi được dỡ khỏi tàu tại cảng cuối cùng hoặc khi hết hạn 15 ngày kể từ nửa đêm ngày tàu đến cảng dỡ cuối cùng, tuỳ theo điều kiện nào xảy ra trước. Nếu có chuyển tải bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi hết hạn 15 ngày kể từ nửa đêm ngày tàu đến cảng chuyển tải
Còn đối với rủi ro do mìn và ngư lôi, trách nhiệm của người bảo hiểm được mở rộng ra cả khi hàng hóa còn ở trên xà lan để vận chuyển ra tàu hoặc từ tàu vào bờ nhưng không vựơt quá 60 ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu, trừ khi có thoả thuận đặc biệt.
2.5. Điều kiện bảo hiểm đình công
Theo điều kiện bảo hiểm này, chỉ bảo hiểm cho những mất mát, hư hỏng của hàng hóa được bảo hiểm do:
Người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây rối, bạo động hoặc nổi dậy
Hành động khủng bố hoặc âm mưu chính trị
- TTC và chi phí cứu nạn
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HÓA XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BHDK KHU VỰC TÂY BẮC
I. VÀI NÉT VỀ TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN BHDK VIỆT NAM VÀ CÔNG TY BHDK KHU VỰC TÂY BẮC
1. Thông tin chung về doanh nghiệp
Tên doanh nghiệp:
Tên tiếng Việt: Tổng Công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí Việt Nam
Tên tiếng Anh: PetroVietnam Insurance Joint Stock Corporation
Ngày thành lập: 23/1/1996
Địa chỉ: 154 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội
Tel: 84 4 7335588
Fax: 84 4 7336284
Chủ tịch hội đồng quản trị : Ông Lê Văn Hùng
Tổng giám đốc : Ông Nguyễn Anh Tuấn
Lĩnh vực hoạt động: Bảo hiểm phi nhân thọ
Phạm vi hoạt động: Hoạt động trên phạm vi cả nước
Các mốc phát triển và những giải thưởng cao quý:
Năm 1996: thành lập công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam.
Năm 1998: đạt doanh thu trên 100 tỷ đồng
Năm 2001: doanh thu xấp xỉ 200 tỷ đồng, được nhận bằng khen của Thủ tướng.
Năm 2002: - thu xếp thành công chương trình tái bảo hiểm năng lượng cố định với thị trường London.
- được 02 tổ chức là DNV và Quacert cấp chứng chỉ quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 : 2000
- đạt doanh thu xấp xỉ 500 tỷ đồng, được nhận cờ “Đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua” của Thủ tướng Chính phủ.
Năm 2003: đạt doanh thu trên 500 tỷ đồng.
Năm 2004: đạt doanh thu trên 600 tỷ đồng và được nhận Huân chương Lao động hạng III.
Năm 2005: đạt doanh thu trên 775 tỷ đồng và được nhận giải thưởng Sao vàng đất Việt.
Năm 2006: đạt doanh thu trên 1000 tỷ đồng
Năm 2007: tiến hành cổ phần hóa thành công - Tổng Công ty cổ phần BHDK Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ ngày 20/3/2007
2. Các lĩnh vực kinh doanh:
Kinh doanh bảo hiểm
Bảo hiểm năng lượng
Bảo hiểm hàng hải
Bảo hiểm kỹ thuật
Bảo hiểm tài sản
Bảo hiểm trách nhiệm
Bảo hiểm con người
Bảo hiểm cơ giới
Bảo hiểm y tế tự nguyện
Bảo hiểm chi phí y tế và vận chuyển cấp cứu
Bảo hiểm khác
Kinh doanh tái bảo hiểm:
Nhượng tái bảo hiểm
Nhận tái bảo hiểm
Hoạt động đầu tư vốn
Dịch vụ khác:
Hoạt động tư vấn và quản lý rủi ro; thực hiện các dịch vụ giám định điều tra, tính toán, phân phối tổn thất, đại lý giám định, giải quyết bồi thường và đòi người thứ ba…
3. Sơ đồ tổ chức
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN TỔNG GIÁM ĐỐC
BAN KIỂM SOÁT
CÁC CÔNG TY LIÊN DOANH & PVI THAM GIA CỔ ĐÔNG
TRỤ SỞ TỔNG CÔNG TY
CÁC CÔNG TY THÀNH VIÊN
BAN
TIN HỌC – THÔNG TIN
VĂN PHÒNG II
VĂN PHÒNG
BAN KẾ HOẠCH & PHÁT TRIỂN KINH DOANH
BAN
TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
BAN
TỔ CHỨC NHÂN SỰ
BAN
GIÁM ĐỊNH BỒI THƯỜNG
BAN
TỔNG HỢP PHÁP CHẾ
BAN
BẢO HIỂM NĂNG LƯỢNG
BAN
BẢO HIỂM KỸ THUẬT
BAN
BẢO HIỂM HÀNG HẢI
BAN
TÁI BẢO HIỂM
BAN
BẢO HIỂM DỰ ÁN
BAN
ĐẦU TƯ
PVI HÀ NỘI
PVI TP. HỒ CHÍ MINH
PVI KV DUYÊN HẢI
PVI VŨNG TÀU
PVI KV TÂY BẮC
PVI KHU V ỰC TÂY NAM
PVI KHU VỰC ĐÔNG BẮC
PVI NAM TRUNG BỘ
PVI KV BẮC TRUNG BỘ
PVI KV ĐẦ NẴNG
PVI ĐÔNG ĐÔ
PVI KHU VỰC ĐỒNG NAI
PVI KHU VỰC NAM ĐỊNH
PVI KV KHÁNH HÒA
PVI SÀI GÒN
4. Khái quát về Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc:
Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc là một trong 13 đơn vị của Tổng Công ty cổ phần BHDK Việt Nam
Địa chỉ: số 10 Trần Phú, Hà Đông.
Giám đốc Công ty: Ông Nguyễn Văn Hải
Kể từ khi thành lập (4/2002) đến nay Công ty không ngừng nỗ lực phấn đấu vượt qua những khó khăn, hạn chế, hoàn thành nhiều chỉ tiêu kế hoạch Tổng Công ty giao. Doanh thu năm 2006 của Công ty đạt 29 tỷ đồng bằng 163% so với năm 2005.
Thuận lợi:
- Đảng uỷ và Ban Tổng giám đốc Công ty đã đề ra những cơ chế, chính sách chiến lược kinh doanh đúng đắn, tạo sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thương trường, thường xuyên quan tâm và chỉ đạo sát sao các hoạt động kinh doanh của các Chi nhánh.
- Tổng Công ty đã tạo được vị thế và uy tín vững chắc trong quan hệ hợp tác với các khách hàng và các đối tác trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Công ty có các cán bộ, lãnh đạo quản lý đơn vị, được đào tạo bài bản, có tinh thần trách nhiệm và hăng say công việc.
Khó khăn:
- Năm 2006 Công ty gặp nhiều khó khăn về công tác tổ chức nhân sự. Lực lượng cán bộ nòng cốt còn thiếu ở nhiều bộ phận, hoạt động kinh doanh còn yếu kém đã tác động không tốt tới tinh thần cán bộ nhân viên.
- Tình hình thị trường bảo hiểm cạnh tranh gay gắt gây nhiều khó khăn cho chi nhánh trong việc triển khai xây dựng và phát triển hệ thống đại lý chuyên nghiệp tại địa bàn các tỉnh do Công ty quản lý. Hệ thống đại lý mới thành lập hoạt động còn nhiều khó khăn nên kết quả chưa cao.
- Lãnh đạo các phòng ban của Công ty đa số là những cán bộ trẻ, mới được đề bạt, kinh nghiệm trong công tác quản lý chưa nhiều. Nhiều chuyên viên tại các phòng trong Công ty mới được tuyển dụng, thiếu kinh nghiệm làm việc và chuyên môn.
- Tinh thần chủ động sáng tạo trong một số công việc quản lý, kinh doanh của các cán bộ Đảng viên chưa cao.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM HÀNG HÓA XNK CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Hoạt động XNK của Việt Nam trong những năm qua
Việt Nam đang trên con đường hiện đại hóa nền kinh tế với sự phát triển mạnh mẽ của mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh XNK.Đặc biệt, khi Việt Nam gia nhập WTO thì hoạt động XNK diễn ra càng mạnh mẽ, hàng hóa và dịch vụ của nước ta không những đứng vững ở thị trường trong nước mà còn có khả năng vươn ra thị trường nước ngoài góp phần làm tăng kim ngạch XNK cho đất nước. Kể từ năm 2001 đến nay, kim ngạch XNK của nước ta tăng nhanh trung bình khoảng trên 20%/ năm. Tổng kim ngạch XNK năm 2006 ước đạt 39, 6 tỷ USD, vượt 4,9 % so với mục tiêu đề ra và tăng 22,1 % so với năm 2005. Trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng đột biến với tổng trị giá đạt 22,9 tỷ USD, tăng 23,2 % so với năm 2005. Xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước đạt 16,7 tỷ USD tăng 20,5 %. Cơ cấu xuất khẩu được cải thiện một bước theo hướng giảm dần xuất khẩu hàng thô, tăng hàng chế biến và tăng giá trị gia tăng trong hàng hóa xuất khẩu. Kết quả này cho thấy hàng xuất khẩu của Việt Nam đã bắt đầu có những mặt hàng có quy mô rất lớn. Chất lượng hàng hóa cũng gia tăng mạnh mẽ, sức cạnh tranh bắt đầu có tiến bộ. Điều đó cho thấy các doanh nghiệp ngày càng có kinh nghiệm trong xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, duy trì thị trường cũ và phát triển thị trường mới. Dự kiến năm 2007 kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 47 – 47,5 tỷ USD, vượt năm 2006 từ 7 – 7,5 tỷ USD, sẽ hứa hẹn một tiềm năng rất lớn đối với thị trường bảo hiểm.
Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng có vai trò hết sức quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, hướng mục tiêu phục vụ cho sự phát triển của thị trường nội địa, cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Năm 2003 ước tính kim ngạch nhập khẩu lên tới 20 tỷ đô la Mỹ và giữ vững mức độ tăng trưởng xấp xỉ 20 % /năm cùng với tăng kim ngạch nhập khẩu. Tổng kim ngạch nhập khẩu cả năm 2006 ước đạt 44,4 tỉ USD, tăng 20% so với năm 2005, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,4 tỷ USD tăng 19,9 %; các doanh nghiệp 100 % vốn đầu tư trong nước đạt 28 tỷ USD tăng 20,2 %. Phần lớn các mặt hàng quan trọng đối với sản xuất trong nước được nhập khẩu với khối lượng khá so với năm 2005 như: giấy, bông, vải, sợi, hóa chất, cao su, kim loại màu, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu… Trong đó đáng chú ý là nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị tăng hơn 24,1 % so với cùng kỳ năm 2005
Có thể nói, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo việc làm cho người lao động, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK của Việt Nam
Lịch sử bảo hiểm hàng hóa XNK của Việt Nam đã có từ lâu. Ngay từ khi thành lập, Công ty bảo hiểm Việt Nam đã được giao nhiệm vụ bảo hiểm cho hàng hóa XNK của nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cho đến nay, hoạt động bảo hiểm cho hàng hóa XNK do các công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành vẫn còn ở mức rất hạn chế, tốc độ tăng trưởng không cao. Ngành bảo hiểm nước nhà đã bỏ phí một lượng hàng hóa tham gia bảo hiểm khổng lồ bởi nghiệp vụ này chủ yếu được nhường cho các Công ty bảo hiểm nước ngoài. Theo số liệu thống kê, tổng số tiền bảo hiểm mà các nhà bảo hiểm trong nước thu được từ bảo hiểm hàng hóa XNK tăng từ 3 tỷ USD năm 1996 lên 12,21 tỷ USD năm 2004, tỷ lệ phí bảo hiểm trung bình thu được là 0,15%. Đây là một con số tăng rất hạn chế chưa phù hợp với tốc độ tăng trưởng của kim ngạch XNK (22%) và tổng khối lượng hàng hóa lưu chuyển trong nước. Tính đến cuối năm 2004 các nhà bảo hiểm trong nước mới chỉ bảo hiểm cho khoảng 4,8% kinh ngạch nhập khẩu và 23,1 % kim ngạch xuất khẩu ( Theo “Thế giới thương mại số 1 – năm 2005”). Như vậy còn lại 95,2 % kim ngạch xuất khẩu và 76,9 % kim ngạch nhập khẩu thuộc về các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài điều này chứng tỏ chúng ta đang chảy máu một lượng ngoại tệ không nhỏ. Thực trạng trên là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, hoạt động XNK của nước ta chủ yếu áp dụng phương thức xuất khẩu theo điều kiện giao hàng FOB và nhập khẩu theo điều kiện giao hàng CIF. Với việc nhập khẩu theo điều kiện CIF thì đối tác nước ngoài tuỳ ý thuê tàu và mua bảo hiểm, thông thường họ ký hợp đồng với các công ty bảo hiểm của nước mình. Do đó đã hạn chế khả năng ký kết của các công ty bảo hiểm Việt Nam.
Thứ hai, năng lực hoạt động của các doanh nghịêp bảo hiểm Việt Nam còn hạn chế, chưa mang tầm quốc tế. Trình độ cán bộ làm công tác bảo hiểm nói chung còn bất cập so với đòi hỏi của thị trường và còn non yếu so với mặt bằng thế giới. Theo đánh giá khách quan, các nhà XNK nước ngoài chưa thực sự yên tâm khi mua bảo hiểm ở Việt Nam và điều này làm giảm tính thuyết phục khi các nhà đàm phán ngoại thương yêu cầu đối tác nước ngoài trao cho ta quyền mua bảo hiểm.
Thứ ba, các nhà XNK Việt Nam đã quen với tập quán thương mại xuất khẩu theo điều kịên FOB, nhập khẩu theo điều kiện CIF. Việc thay đổi tập quán này khó thực hiện trong một sớm một chiều. Tuy vậy, ở một khía cạnh nào đó với phương thức giao hàng như trên, phía Việt Nam sẽ tránh được nghĩa vụ thuê tàu và mua bảo hiểm, đôi khi công việc này khó thực hiện do phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đối tác nước ngoài trong bối cảnh năng lực hoạt động của các công ty bảo hiểm và đội tàu biển Việt Nam còn hạn chế.
Bên cạnh đó, một số Công ty XNK mới thành lập, năng lực còn hạn chế, họ ý thức được vịêc mua bảo hiểm là cần thiết nhưng đã không mua bảo hiểm để giảm chi phí.
III. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HÓA XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BHDK KHU VỰC TÂY BẮC
1. Những thuận lợi và khó khăn đối với Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc khi khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển
1.1. Những mặt thuận lợi đối với Công ty trong việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển
Trong thời kì hậu WTO cùng với việc Chính Phủ Mỹ trao cho nước ta quy chế PNTR vĩnh viễn thì hoạt động thường mại quốc tế của nước ta diễn ra càng sôi động, mạnh mẽ. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã coi Việt Nam như một môi trường đầu tư hấp dẫn, đầy hứa hẹn. Do đó vị thế thương mại của Việt Nam ngày càng đựơc nâng lên, khả năng phát triển thị trường XNK sẽ tăng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu chính điều này sẽ tác động đến thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK nói chung và của Công ty nói riêng.
Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc nằm trên địa bàn thuận lợi gần thị trường Hà Nội, thủ đô và là trung tâm giao lưu kinh tế văn hoá của nước ta, nên có nhiều thuận lợi trong việc triển khai tìm kiếm khách hàng, mở rộng mạng lưới kinh doanh. Ngoài ra, Công ty luôn được sự ủng hộ và giúp đỡ liên tục cả về công tác quản lý và kinh doanh từ phía Tổng Công ty. Cơ chế chính sách được Tổng Công ty giao có nhiều ưu đãi và khuyến khích phát triển, có nhiều cơ hội tiếp cận với nhiều dự án lớn thuộc nhiều loại hình bảo hiểm.
Luật kinh doanh bảo hiểm do Quốc hội thông qua năm 2000 đã tạo ra một hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động và phát triển. Đây cũng là một mốc đánh dấu sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, làm tăng tính chuyên nghiệp của thị trường thúc đẩy các doanh nghiệp cố gắng hết mình và cạnh tranh lành mạnh hơn. Cùng với sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (năm 2004) sẽ góp phần thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới. Đặc biệt, Nghị định 42/2001/NĐ – CP ban hành vào ngày 7/8/2001 quy định tất cả các hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam đều bắt buộc phải tham gia bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm có trụ sở tại Việt Nam (trừ những trường hợp các doanh nghiệp có trụ sở ở Việt Nam không thể cung cấp những sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng ).
Với những thuận lợi trên nếu Công ty biết nắm chắc thời cơ, tình hình để lựa chọn phương án kinh doanh phù hợp nhất thì sự thành công sẽ đến với Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc..
1.2. Một số khó khăn đối với Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc
Thị trường bảo hiểm ngày càng cạnh tranh quyết liệt, gay gắt cụ thể ở việc giảm tỷ lệ phí bảo hiểm, các công ty bảo hiểm khác đều triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK nên thị trường ngày càng bị chia nhỏ. Trong cơ cấu mặt hàng XNK của Việt Nam ta thấy chủ yếu là hàng nông, lâm thuỷ sản, hàng công nghiệp nhẹ và hàng công nghiệp khoáng sản. Đối với hàng nông lâm thuỷ sản (chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu), các nhà xuất khẩu Việt Nam thường có thói quen xuất hàng theo giá FOB như vậy người nhập khẩu đương nhiên sẽ tham gia bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm nước ngoài. Và cho dù kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và công nghiệp khoáng sản chiếm gần 60% tổng kim ngach xuất khẩu của Việt Nam đã mở ra thị trường bảo hiểm lớn, tuy thế các nhà xuất khẩu Việt Nam vẫn chưa có thói quen mua bảo hiểm. Số lượng hàng hóa XNK trốn mua bảo hiểm lên tới 15 – 20% tổng kim ngạch XNK.
Mặc dù luật bảo hiểm mới đã ra đời nhưng không tránh khỏi những thiếu sót, quy định về tham gia bảo hiểm hàng hóa XNK tại các doanh nghiệp có trụ sở tại Việt Nam chưa có tính bắt buộc cao, thủ tục hải quan còn rườm rà nên gây khó khăn cho các chủ hàng làm các thủ tục XNK hàng hóa.
Ngoài ra, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK có một bề dày truyền thống và hiện đã phát triển cao đòi hỏi cán bộ bảo hiểm phải có trình độ nghiệp vụ tương đối cao, có nhiều kinh nghiệm đã gây không ít khó khăn cho Công ty trong việc khai thác khi mà năng lực, trình độ chuyên môn của nhiều cán bộ chuyên viên còn hạn chế về nhiều mặt, năng lực khai thác dịch vụ và kỹ năng thương trường của nhiều chuyên viên còn rất yếu kém.
2. Kết quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển
Mặc dù mới thành lập được hơn 4 năm, nhưng những thành tích của Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc đạt được đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của chung của Tổng Công ty cổ phần BHDK Việt Nam. Năm 2006 Công ty là một trong những đơn vị đạt doanh thu tương đối cao trên 80% kế hoạch mà Tổng Công ty giao cho. Đặc biệt, đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển các cán bộ của Công ty nói chung và cán bộ khai thác phòng Hàng hải nói riêng đều đã nỗ lực cố gắng hết mình. Bằng sự khéo léo, kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn và sự tâm huyết với nghề họ đã xây dựng cho mình một hệ thống khách hàng phong phú đầy tiềm năng. Và trong thời gian hoạt động trên thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK Công ty cũng gặt hái được những thành công.
Bảng 1: Tỷ trọng phí bảo hiểm hàng hoá XNK của Công ty qua các năm
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
2006
1
Phí bảo hiểm hàng hoá XNK của Công ty
tỷ đồng
1,42
2,8
3,5
5,8
2
Phí bảo hiểm toàn Công ty
tỷ đồng
7,43
9,1
18,5
29
3
Tỉ trọng phí bảo hiểm hàng hoá XNK trong Công ty
%
19,11
30,77
18,92
20
4
Phí bảo hiểm hàng hoá XNK toàn Tổng Công ty
tỷ đồng
19,79
17,025
16,78
19,62
5
Tỷ trọng phí bảo hiểm hàng hoá XNK của Công ty trong Tổng Công ty
%
7,18
16,27
20,86
29,56
(Nguồn: Sổ theo dõi khai thác bảo hiểm hàng hóa XNK của Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc qua các năm)
Là công ty bảo hiểm chuyên ngành thuộc Tổng Công ty dầu khí Việt Nam, Tổng Công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí cũng như Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc nói riêng luôn có lợi thế trong việc khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm trong ngành như bảo hiểm năng lượng, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm hàng hải.
Qua bảng 1 ta thấy doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK liên tục tăng qua các năm và luôn đóng góp từ 18 – 30% tổng doanh thu toàn Công ty điều này chứng tỏ nghiệp vụ này khá quan trọng trong chiến lược kinh doanh của Công ty. Nó chiếm một tỷ lệ khá cao so với doanh thu của nghiệp vụ này trong Tổng Công ty (trên 15%, riêng năm 2006 đạt tới 29,56%). Để biết rõ hơn kết quả khâu khai thác ta tập trung vào phân tích số liệu của bảng 1và bảng 2:
Bảng 2: Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình khai thác bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
2006
1
Tổng kim ngạch bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển
tỷ đồng
1012
1280
1920
2880
2
Doanh thu phí của nghiệp vụ
tỷ đồng
1,42
2,8
3,5
5,8
3
Số đơn bảo hiểm cấp
đơn
123
180
230
295
4
Số tiền bảo hiểm bình quân 1 đơn
triệu đồng/đơn
11,54
15,56
15,22
19,66
5
Tốc độ tăng của kim ngạch bảo hiểm
%
-
26,48
50
50
6
Tốc độ tăng doanh thu phí hàng năm
%
-
97,18
25
65,7
7
Tốc độ tăng của số đơn bảo hiểm
%
-
16,34
27,78
28,26
8
Tỷ lệ phí bảo hiểm bình quân = (2) / (1)
%
0,14
0,218
0,182
0,201
( Nguồn: Phòng bảo hiểm hàng hải – Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc)
Năm 2003 mặc dù doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ còn khiêm tốn chỉ đạt 1,42 tỷ đồng ( chiếm 19,11% doanh thu toàn Công ty). Phí bảo hiểm bình quân 1 đơn là 11,54 triệu đồng nhưng với sự nỗ lực hết mình của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty đã bước đầu xây dựng cho mình một lượng khách hàng tiềm năng. Đây có thể được coi là bước đệm, mở đầu cho những thành công trong các năm sau này của Công ty đối với nghiệp vụ khai thác bảo hiểm hàng hóa XNK.
Năm 2004 bằng kinh nghiệm có được cùng với sự tận tình, nhiệt huyết với công việc, doanh thu phí nghiệp vụ của Công ty đã tăng lên 97,18% ( tương ứng là 1,3 tỷ đồng). Một năm khá thành công của Công ty trong việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK khi mà doanh thu phí bảo hiểm hàng hoá XNK chiếm trên 30% doanh thu phí toàn Công ty. Số đơn bảo hiểm cấp tăng 16,34% ( tăng từ 123 đơn lên 180 đơn) chứng tỏ lượng khách hàng tham gia bảo hiểm ngày càng đông hơn. Phải chăng Công ty đã làm tốt khâu chăm sóc khách hàng, khâu đề phòng hạn chế tổn thất, tạo được sự tin tưởng đối với khách hàng? Có lẽ vì thế mà mặc dù tỷ lệ phí bảo hiểm có tăng lên nhưng không phải vì thế mà lượng khách hàng tham gia bảo hiểm giảm đi (tổng kim ngạch hàng hoá XNK tham gia bảo hiểm tại Công ty tăng 26,48% so với năm 2003 tương ứng đạt 1280 tỷ đồng). Công ty vẫn thu hút được số đông khách hàng tham gia bảo hiểm với giá trị lớn, được thể hiện rõ ở phí bảo hiểm bình quân một đơn cấp tăng so với năm 2003, đạt 15,56 triệu đồng/ đơn.
Năm 2005, mặc dù doanh thu phí và số đơn bảo hiểm đều tăng nhưng tăng chậm và thấp hơn so với các nghiệp vụ khác mà Công ty triển khai khai thác. Chính vì thế, dù doanh thu phí tăng 25% (tương ứng là 3,5 tỷ đồng) nhưng tỷ trọng của nghiệp vụ này lại giảm chỉ còn chiếm 18,92% doanh thu phí toàn Công ty. Nguyên nhân là do trong năm 2005 các hoạt động sản xuất kinh doanh trong cả nước gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng của biến động của nền kinh tế thế giới, thị trường bảo hiểm Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức như: bệnh dịch hoành hành, nhiều biến cố thiên tai nặng nề, nhiều vụ tai nạn thảm khốc…Mặt khác, thị trường cũng ngày một sôi động hơn với sự xuất hiện của các Công ty bảo hiểm nước ngoài. Tính cạnh tranh gay gắt, khốc liệt do các công ty thi nhau hạ phí bảo hiểm để thu hút khách hàng về phía mình. Thị phần bảo hiểm hàng hoá XNK bị chia nhỏ và “đe doạ ” bởi các nhà bảo hiểm nước ngoài chuyên nghiệp, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu bảo hiểm đa dạng của nhà XNK. Trước khó khăn chung của thị trường, Công ty đã nỗ lực hết mình : một mặt giảm phí (xuống còn 0,182%), mặt khác tăng cường công tác đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao công tác phục vụ khách hàng nên Công ty vẫn giữ được những khách hàng quen thuộc, những khách hàng truyền thống. Ta thấy kim ngạch bảo hiểm tăng từ 1280 tỷ đồng năm 2004 lên 1920 tỷ đồng trong năm 2005, số đơn bảo hiểm cấp tăng lên 50 đơn cùng với sự giảm xuống của tỉ lệ phí bảo hiểm và phí bảo hiểm bình quân một đơn cấp (15,22 triệu đồng/ đơn ) như vậy Công ty đã thu hút được nhiều khách hàng nhưng với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn. Có lẽ Công ty đã chú trọng mục tiêu hiệu quả thể hiện ở mức tăng cao của doanh thu phí.
Đứng trước những khó khăn và thử thách của thị trường, Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc đã kịp thời đánh giá, phân tích những kết quả kinh doanh đạt được của năm 2005 để phát huy, đồng thời chỉ ra những khó khăn cần khắc phục và tiềm năng khai thác mới. Bước sang năm 2006, toàn bộ cán bộ khai thác của phòng Hàng hải cùng với các đại lý cộng tác viên đã bắt tay ngay vào việc thực hiện kế hoạch khai thác mà Công ty giao cho. Cũng trong năm 2006 với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở ra một xu thế hội nhập mới cho nền kinh tế Vịêt Nam. Hoạt động XNK diễn ra mạnh mẽ. Kim ngạch XNK của cả nước tăng 23,18% so với năm 2005 trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 39,6 tỷ USD tăng 22,1% , kim ngạch nhập khẩu đạt 44,1 tỷ tăng 20,1%. Cơ cấu mặt hàng XNK có nhiều thay đổi. Một số lượng lớn hàng hoá, máy móc thiết bị của những công trình đầu tư xây dựng, các nhà máy điện, ximăng, các nguyên vật liệu phục vụ sản xuất xuất khẩu đều đã tham gia bảo hiểm trong nước. Điều này đã mở ra một tiềm năng mới cho thị trường bảo hiểm hàng hoá XNK. Ta thấy tốc độ tăng doanh thu phí bảo hiểm hàng hóa XNK của Công ty năm 2006 tương đối cao, lên tới 65,7%, đạt 5,8 tỷ đồng chiếm gần 30% doanh thu nghiệp vụ này trong Tổng Công ty. Chứng tỏ nghiệp vụ chiếm một vị trí khá quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc. Bên cạnh đó số đơn bảo hiểm cấp trong năm cũng tăng lên từ 230 đơn lên 295 đơn cho thấy ngoài những khách hàng truyền thống Công ty còn thu hút thêm được đông đảo lượng khách hàng tham gia với gía trị bảo hiểm khá cao ( Xem bảng 3).
Nhìn chung tốc độ tăng của số đơn bảo hiểm, tốc độ tăng kim ngạch bảo hiểm, tốc độ tăng doanh thu phí, số tiền bảo hiểm bình quân một đơn và tỷ lệ phí bảo hiểm bình quân qua các năm từ 2003 đến 2006 là không đều, có năm tốc độ cao nhưng cũng có năm lại giảm. Điều này chứng tỏ sự bất ổn định của Công ty trong việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển.
Bảng 3:Một số khách hàng lớn tham gia bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc năm 2006
Stt
Tên khách hàng
Ngày tham gia
Tổng giá trị hợp đồng (triệu đồng)
1
Công ty thiết bị và chuyển giao công nghệ CETT
12/5/2006
29,875
2
Công ty cổ phần thép Việt Ý
24/8/2006
39,047
3
Công ty TNHH thép Mêlinh
13/10/2006
82,768
4
Công ty TNHH Nam Vang
22/9/2006
197,855
5
Công ty TNHH Việt Thanh
29/5/2006
8,394
6
Công ty cổ phần mày và thiết bị Hà Nội
16/6/2006
10,748
7
Công ty TNHH Vina New Tarps
29/9/2006
4,401
(Nguồn: Phòng bảo hiểm hàng hải – Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc)
Mặc dù vậy với thị trường cạnh tranh như hiện nay thì Công ty đã luôn cố gắng làm sao để đạt được kết quả cao và hiệu quả tối ưu trong khâu khai thác.Vì thế, vấn đề điều chỉnh tỷ lệ phí luôn được Công ty cân nhắc kỹ càng. Có thể thấy tỷ lệ phí bảo hiểm bình quân có sự biến động không đồng đều qua các năm. Tỷ lệ này ngày càng có xu hướng giảm đi hoặc có tăng thì tốc độ tăng cũng giảm dần qua các năm. Cụ thể tỷ lệ phí bảo hiểm bình quân năm 2005 (0,182%) giảm so với năm 2004 (0,218%), năm 2006 (0,201%) có tăng lên so với năm 2005 nhưng vẫn giảm so với năm 2004. Xu hướng giảm này cũng được khẳng định khi quan sát và theo dõi tỷ lệ phí bảo hiểm đối với từng mặt hàng cụ thể ở Công ty. Tỷ lệ phí bảo hiểm ở các mặt hàng riêng biệt giảm đi phù hợp với điều kiện hiện nay khi mà sự cạnh tranh diễn ra gay gắt thì việc giảm tỷ lệ phí là phù hợp nhất và tỷ lệ phí linh động là một biện pháp cạnh tranh hiệu quả. Nó không những giúp Công ty vẫn giữ được lượng khách hàng quen biết, khách hàng lâu năm hoặc những khách hàng tham gia với giá trị bảo hiểm lớn mà còn thu hút khách hàng mới, tăng doanh thu cho Công ty. Cũng có thể khách hàng mới sẽ là những Công ty mới gia nhập thị trường, họ tham gia với kim ngạch nhỏ nhưng bước khởi đầu tốt đẹp sẽ giúp Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc giữ được khách hàng, nâng cao uy tín của mình đảm bảo hiệu quả lâu dài.
Để phân tích rõ hơn doanh thu phí bảo hiểm của nghiệp vụ đem lại ta hãy xem xét các nhân tố (số đơn bảo hiểm cấp, phí bảo hiểm bình quân một đơn) ảnh hưởng đến tổng doanh thu phí bảo hiểm qua 2 năm (2005, 2006 ), qua phương pháp chỉ số tổng hợp:
Bảng 4:Tình hình khai thác một số mặt hàng XNK quan trọng ở Công ty qua 2 năm
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Số đơn bảo hiểm
(To)
Tổng doanh thu phí
(Lo)
Phí bảo hiểm bình quân 1 đơn
Số đơn bảo hiểm (T1)
Tổng doanh thu phí
(L1)
Phí bảo hiểm bình quân 1 đơn
LoT1
1. Sắt thép
40
1020
25,5
45
1290
28,67
45900
2. Các thiết bị máy móc xây dựng, dây chuyền
37
1130
30,54
40
1380
34,5
45200
3. Linh kiện điện tử
36
650
18,06
39
980
25,13
25350
4. Hàng khác
117
1700
14,52
171
2150
12,57
290700
Chung
230
3500
295
5800
407150
= = = = 1325,696
= = = =1759,729
I = = x x
= = x x = x x
1,703 = 1,275 x 1,041 x 1,283
214209,975 = 11970,2 x 16069,53 x 86170,24
Ta thấy doanh thu phí bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển năm 2006 tăng 70,3% (tương ứng tăng 214,209 tỷ đồng so với năm 2005 ) là do ảnh hưởng của 3 nhân tố sau:
Do bản thân doanh thu phí bảo hiểm của từng loại mặt hàng tăng làm doanh thu phí bảo hiểm hàng hóa XNK bình quân tăng 27,5% từ đó làm tổng doanh thu phí của nghiệp vụ này tăng 11,97 tỷ đồng
Do kết cấu của từng loaị mặt hàng tham gia bảo hiểm thay đổi làm doanh thu phí bình quân tăng 4,1% từ đó làm tổng doanh thu phí nghiệp vụ tăng tương ứng là 16,069 tỷ đồng
Do số đơn bảo hiểm hàng hóa XNK cấp năm 2006 so với năm 2005 tăng 28,3% làm tổng doanh thu phí tăng 86,17 tỷ đồng
Nguyên nhân làm cho mức tăng trưởng khá cao có thể là do :
Các ngành kinh tế đều tăng trưởng khá cao dẫn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước tăng cao.
Trong thời gian qua Công ty đã rất chú trọng đến khâu đánh giá rủi ro, đề phòng hạn chế tổn thất, làm tốt công tác giám định bồi thường và đặc biệt là khâu chăm sóc khách hàng. Do đó khách hàng rất hài lòng, tin tưởng tham gia bảo hiểm ở Công ty
Cơ cấu mặt hàng tham gia bảo hiểm ở Công ty đa dạng, phong phú hơn. Ngoài các mặt hàng truyền thống như: sắt thép, thiết bị điện tử, máy móc…còn có thêm các mặt hàng nông sản, phân ure…
Trong công tác khai thác, để có doanh thu, Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc cũng phải bỏ ra một khoản chi phí thích hợp. Đó là những khoản chi phí cần thiết hỗ trợ cho hoạt động khai thác. Đối với mỗi loại nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau thì chi phí cho khai thác ứng với một tỷ lệ khác nhau của doanh thu phí bảo hiểm. Phần chi phí khai thác này bao gồm chi phí quản lý (do Công ty trích 4% doanh thu phí bảo hiểm ) để chi cho các khoản: in ấn đơn bảo hiểm , chi gặp gỡ tiếp xúc khách hàng… và phần chi cho đại lý. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa chi phí hoa hồng nghiệp vụ do Bộ Tài chính ban hành theo Thông tư 98 quy định là 6% phí bảo hiểm thực thu (đã bỏ 10% VAT). Do đó, có thể nói, với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK thì Công ty phải chi 10% doanh thu và đó chính là chi cho hoạt động khai thác.
Để đánh giá hiệu quả khai thác ta áp dụng công thức:
Kết quả khai thác trong kì
Hiệu quả khai thác bảo hiểm =
Chi phí khai thác trong kì
Trong đó : kết quả khai thác có thể tính theo phí bảo hiểm thực thu hoặc số đơn bảo hiểm cấp trong kì; chi phí khai thác được tính là tất cả các chi phí bỏ ra để đơn bảo hiểm được cấp trong kỳ
Ta xét kết quả khai thác theo đơn bảo hiểm cấp :
Hiệu quả khai thác Số đơn bảo hiểm hàng hóa XNK cấp trong kỳ
Bảo hiểm hàng hoá XNK =
10% doanh thu phí bảo hiểm hàng hoá XNK trong kỳ
Công thức trên cho biết cứ 1 đồng chi phí khai thác bỏ ra trong kì sẽ đem lại cho Công ty bao nhiêu đơn bảo hiểm
Ta có bảng thống kê hiệu quả khai thác bảo hiểm hàng hoá XNK qua các năm như sau:
Bảng 5: Hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK qua các năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
2006
Số đơn bảo hiểm cấp
Đơn
123
180
230
295
Chi phí khai thác
triệu đồng
142
280
350
580
Hiệu quả khai thác
0,866
0,643
0,657
0,509
(Nguồn: Phòng bảo hiểm hàng hải – Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc)
Qua bảng trên, ta thấy hiệu quả khai thác của nghiệp vụ giảm dần qua các năm. Năm 2003, cứ 1 đồng chi phí khai thác bỏ ra Công ty khai thác được 0,866 đơn bảo hiểm. Năm 2004, 1 đồng chi phí khai thác bỏ ra thu được 0,643 đơn bảo hiểm, chứng tỏ năm 2003 khai thác hiệu quả hơn năm 2004. Mặc dù năm 2005 hiệu quả khai thác có tăng lên (Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí khai thác thu lại được 0,657 đơn bảo hiểm ) nhưng mức tăng này còn khiêm tốn. Đó là do sự cạnh tranh của thị trường ngày càng trở nên gay gắt, mạnh mẽ. Có lẽ thế mà năm 2006 hiệu quả này lại giảm xuống cũng 1 đồng chi phí khai thác bỏ ra nhưng chỉ đem lại cho Công ty 0,509 đơn bảo hiểm. Nếu so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường bảo hiểm Việt Nam thì chi phí mà Công ty bỏ ra như vậy là còn thấp. Các doanh nghịêp bảo hiểm khác luôn tìm mọi cách để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị trường nên họ bỏ ra rất nhiều chi phí, chi phí quảng cáo, tiếp xúc gặp gỡ khách hàng…Những khoản chi phí này sử dụng đúng mục đích sẽ mang lại hiệu quả cao cho công ty.Nên chăng Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc nên có những điều chỉnh hợp lý trong việc sử dụng phần chi phí cho phép để nâng cao hơn nữa hiệu quả khai thác của nghịêp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM HÀNG HÓA XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BHDK KHU VỰC TÂY BẮC
I. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY BHDK KHU VỰC TÂY BẮC
Quán triệt định hướng kinh doanh năm 2007 của Tổng Công ty, Công ty đề ra mục tiêu cơ bản cho năm 2007 như sau: quyết tâm thực hiện tốt kế hoạch doanh thu năm 2007 đạt 40 tỷ đồng tăng 10 - 15% so với năm 2006, trong đó doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK phấn đấu đạt 7 tỷ tăng 20% so với năm 2006.
Để đạt được mức tăng trưởng đề ra, Công ty đã đề ra phương hướng hoạt động:
-Thực hiện tốt khâu giám định, bồi thường, đề phòng, hạn chế tổn thất
- Tập trung duy trì được những khách hàng cũ, đặc biệt là những khách hàng lớn và khách hàng truyền thống. Thực hiện dịch vụ trọn gói theo khách hàng để khai thác tối đa dịch vụ bảo hiểm
- Chú trọng công tác quảng cáo, marketing từ đó mở rộng mạng lưới kinh doanh cũng như dần chiếm lĩnh thị phần, mở rộng khách hàng
- Mở rộng địa bàn khai thác, phát triển mạng lưới đại lý kinh doanh bảo hiểm đa dạng trên toàn khu vực Hà Nội kết hợp đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm với nâng cao chất lượng bảo hiểm thông qua các hoạt động tư vấn dịch vụ trước và sau bán hàng. Đặc biệt nên xem xét đến công tác khai thác qua Ngân hàng
- Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, gửi những người có năng lực, giỏi ra học tập ở nước ngoài
- Công ty áp dụng các chính sách cơ chế mềm dẻo, khuyến khích cán bộ cũng như đại lý trong hoạt động khai thác nghiệp vụ
- Tận dụng thương hiệu mạnh của ngành dầu khí và tiềm lực tài chính, kết hợp đầu tư với khai thác bảo hiểm tập trung vào các công trình có tỷ suất lợi nhuận cao.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BÀO HIỂM HÀNG HÓA XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BHDK KHU VỰC TÂY BẮC
Nếu đánh giá một cách nghiêm túc thì công tác phát triển thị trường và doanh thu bảo hiểm gốc của Công ty là chưa tương xứng với thị trường tại Hà Nội và khu vực Tây Bắc, chưa tận dụng triệt để những lợi thế mà Tổng Công ty tạo cho. Năm 2006 là một năm đánh dấu nhiều sự kiện mang tính cột mốc của bảo hiểm dầu khí và cũng là một năm thành công của Việt Nam. Quá trình hội nhập với một loạt các sự kiện quan trọng diễn ra trong năm 2006 như Việt Nam chính thức gia nhập WTO, Chính phủ Mỹ thông qua quy chế PNTR đối với Việt Nam, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC và hàng loạt các bước đi khác theo lộ trình mở cửa, hội nhập đã và đang tạo ra không ít những cơ hội cũng như thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng. Trong thời gian tới thị trường sẽ diễn ra tình trạng sát nhập, liên doanh, liên kết, mua bán công ty, cùng với sự ra đời của một loạt các công ty bảo hiểm nước ngoài với rất nhiều thế mạnh, do đó với diễn biến như vậy thì doanh nghiệp bảo hiểm nào có sức khỏe tốt mới có thể tồn tại và phát triển trong môi trường mới được, còn những doanh nghiệp yếu kém sẽ bị đào thải, xóa sổ khỏi bản đồ thị phần.
Muốn xây dựng được thương hiệu mạnh trong kinh doanh bảo hiểm thì Công ty luôn phải duy trì chữ tín đối với khách hàng. Trong thời gian tới Công ty cần tiếp tục hoàn thiện mình hơn nữa, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh hơn nữa, phát triển theo đúng định hướng của Tổng Công ty, duy trì và tăng trưởng những thế mạnh, những kết quả kinh doanh đã đạt được, xây dựng lộ trình chi tiết cho kế hoạch phát triển. Để làm được điều đó cũng cần phải có thời gian, có sự nỗ lực nhất định từ bản thân Công ty, sau đây em xin đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
1. Đối với công tác khai thác
Trong quá trình triển khai bảo hiểm, khâu khai thác luôn là một khâu vô cùng quan trọng bởi nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của một nghiệp vụ bảo hiểm. Vì vậy, để làm tốt khâu này cần phải có sự phối hợp với các khâu khác:
1.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo
Đặc thù của ngành bảo hiểm là cung cấp các sản phẩm vô hình hơn nữa lại kinh doanh về rủi ro nên hoạt động marketing là vô cùng quan trọng và cần thiết trong kinh doanh bảo hiểm. Thông qua hoạt động tuyên truyền về bảo hiểm, hình ảnh của Tổng Công ty, khả năng tài chính, các sản phẩm đang triển khai, dịch vụ chăm sóc khách hàng…sẽ giúp tăng uy tín của Công ty làm cho khách hàng biết đến, tin tưởng và tham gia bảo hiểm tại Công ty. Trong bảo hiểm hàng hóa XNK việc tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo lại càng cần thiết hơn bao giờ hết khi mà tỷ lệ tham gia bảo hiểm hàng hóa trong nước còn thấp, thị trường bảo hiểm trong nước đang cạnh tranh gay gắt.
Tại Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc, hoạt động tuyên truyền quảng cáo cũng được Công ty để ý tới, song vẫn còn nghèo nàn và đơn điệu chủ yếu là những quảng cáo dựa vào hình ảnh của Tổng công ty được dựng trên một số đường phố, thỉnh thoảng vài dòng trên báo…Trong khi đó các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài quảng cáo rất rầm rộ thường xuyên và gây ấn tượng. Do đó, để tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh, thu hút được khách hàng tham gia bảo hiểm tại Công ty, em thiết nghĩ Công ty nên chú trọng hơn nữa vào khâu quảng cáo tên Công ty, các sản phẩm bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hóa XNK nói riêng. Hình thức quảng cáo nên áp dụng phong phú, đa dạng như pano, áp phích, tờ rơi, truyền hình, báo chí…và phải cải tiến thường xuyên, liên tục.
Marketing không chỉ đơn thuần là quảng cáo mà còn là tìm hiểu và nghiên cứu thị trường. Đối với các cán bộ, đại lý đảm nhận khâu khai thác cần được đào tạo và đào tạo lại thường xuyên để trang bị những kiến thức, thông tin mới về thị trường hàng hóa XNK cũng như thị trường bảo hiểm để phục vụ công việc
1.2. Làm tốt hơn nữa công tác phục vụ khách hàng
Ngoài việc xem xét nhu cầu của khách hàng, phân loại nhu cầu đó sao cho hợp lý để có chiến lược khai thác phù hợp thì nhân viên khai thác cần phải giải thích rõ cho khách hàng các điều kiện, điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm để khách hàng tuân thủ đúng và đầy đủ những quy định trong hợp đồng, tránh tình trạng hiểu lầm khi có tổn thất xảy ra:
- Tư vấn hướng dẫn khách hàng trong nước nhập hàng theo giá FOB và xuất hàng theo giá CIF
- Tư vấn cho khách hàng thuê tàu chở hàng là những tàu có mua bảo hiểm P & I, những tàu có chất lượng tốt
- Tư vấn cho khách hàng cách bốc xếp, bảo quản hàng hóa
- Đối với những bạn hàng truyền thống, có lượng hàng hóa XNK ổn định Công ty có thể khuyến khích và tạo điều kiện cho họ ký HĐBH bao
1.3. Thực hiện tốt công tác đánh giá rủi ro trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm
Công tác đánh giá rủi ro là một khâu không thể thiếu trong khâu khai thác bảo hiểm, nếu không làm tốt khâu này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Do đó những biện pháp sẽ phần nào giúp Công ty thực hiện tốt khâu này hơn là:
- Công ty nên hợp tác tốt với những công ty đăng kiểm về tàu đạt những tiêu chuẩn quốc tế để việc đánh giá chất lượng được tốt hơn
- Yêu cầu người được bảo hiểm kê khai trung thực và đầy đủ các thông tin cần thiết vào giấy yêu cầu bảo hiểm sau đó gửi cho Người bảo hiểm phân tích, đánh giá trước khi ký kết hợp đồng
- Quan hệ tốt với những đội tàu trong nước để có thể tư vấn cho khách hàng tham gia bảo hiểm những dịch vụ tốt nhất
1.4. Không ngừng mở rộng mạng lưới đại lý, cộng tác viên khai thác
Việc xây dựng hệ thống đại lý là rất quan trọng đối với các công ty bảo hiểm , đặc biệt là các đại lý chuyên nghiệp, bởi lẽ chính đội ngũ đại lý sẽ giúp cho các công ty đa dạng hóa các kênh phân phối sản phẩm, phủ kín địa bàn, khai thác triệt để lượng khách hàng tiềm năng. Đồng thời đây cũng là một cách để giúp công ty cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ để đáp ứng tốt hơn nhu cầu và đòi hỏi của khách hàng. Theo em một số biện pháp cần thiết mà Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc nên áp dụng đó là:
- Trang bị cho đại lý những kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ từ khâu tìm kiếm khách hàng đến khâu chăm sóc khách hàng sau khi ký kết hợp đồng. Công ty phải biến đại lý từ những người thụ động cấp đơn bảo hiểm thành những người chủ động tìm kiếm khách hàng
- Trang bị cho đại lý những kiến thức cần thiết về Luật kinh doanh bảo hiểm. Điều này rất cần thiết vì trong thời gian tới nó sẽ làm cho đội ngũ đại lý, cộng tác viên trong Công ty làm việc một cách chuyên nghiệp hơn.
- Cần phải cho đại lý những quyền hạn nhất định để khi có sự cố xảy ra có thể giúp đỡ khách hàng giải quýêt ngay một số vấn đề. Từ đó, tạo ra sự tin tưởng của khách hàng đối với Công ty
- Áp dụng những biện pháp để khuyến khích đại lý khai thác tốt hơn như tổ chức các buổi giao lưu, học hỏi trao đổi kinh nghiệm…hoặc cho đại lý đi học lớp nâng cao trình độ
- Công ty nên có những chính sách hỗ trợ khác cho các đại lý ngoài tiền hoa hồng như trả thêm chi phí khai thác, cần quan tâm đến quyền lợi và các mặt khác của đại lý chuyên nghiệp, coi hệ thống đại lý chuyên nghiệp như một bộ phận quan trọng trong tổ chức của Công ty
Nên chăng Công ty nên sử dụng nhiều hơn kênh phân phối là môi giới, kết hợp cả đại lý và môi giới sẽ giúp Công ty khai thác hiệu quả hơn nhiều khi mà thị trường đã thực sự phát triển, tính cạnh tranh ngày càng gay gắt.
2.Đối với công tác giám định bồi thường
- Công ty nên chuyên môn hóa khâu giám định và bồi thường thông qua việc đào tạo và trang bị kiến thức chuyên sâu cho giám định viên bảo hiểm của mình, tổ chức các lớp tập huấn nâng cao trình độ cho giám định viên, có thể lựa chọn những người có khả năng để cho đi học tập ở nước ngoài
- Có chế độ ưu đãi hợp lý cho nhân viên giám định hàng hóa vì họ thường hay phải đi làm việc ở hiển trường rất vất vả
- Các giám định viên trước khi giám định hàng hóa cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia. Ngoài ra cần tăng cường vai trò giám sát khâu bốc xếp hàng hóa. Đối với những hàng hóa xuất khẩu như gạo, thì nên cần nhắc nhở việc xếp hàng sao cho đúng (ví dụ như gạo khi xếp trong boong phải được bố trí hợp lý có khe thoáng, chống ẩm…)
- Phối hợp tốt với bộ phận hải quan và cứu hộ trên biển để thực hiện tốt hai khâu này
3. Các giải pháp khác
3.1. Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Có thể nói công tác đề phòng và hạn chế tổn thất là hai khâu có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu thực hiện tốt hai khâu này các Công ty bảo hiểm sẽ hạn chế được chi phí bồi thường khi xảy ra các rủi ro, doanh thu sẽ tăng thông qua việc đưa ra các mức phí cạnh tranh đối với các đối thủ.
Chính vì thế để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn Công ty nên áp dụng các biện pháp sau :
Tư vấn cho khách hàng những thông tin cần thiết về cách đóng gói, bảo quản hàng hóa, xếp dỡ, lưu kho hàng nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra. Mặt khác, Công ty cũng phải tích cực phối hợp tốt với cơ quan hải quan, phải bố trí một lực lượng chuyên giám sát quá trình bốc dỡ hàng hoá để khi có tổn thất xảy ra còn kịp thời ứng phó.
Tổ chức các nhóm chuyên trách theo dõi thống kê về tình hình để có đầy đủ các thông tin chính xác nhất về loại hàng hoá, hành trình, các khả năng xảy ra tổn thất, loại tổn thất, mức độ tổn thất…từ đó đưa ra các biện pháp đề phòng và hạn chế thích hợp
Với những khách hàng lớn hoặc đã có quan hệ lâu dài, bền vững đối với mình thì Công ty nên trang bị cho họ những dụng cụ cần thiết để tự đề phòng và hạn chế tổn thất như: phao cứu sinh, bình cứu hoả, các công cụ chống ẩm hay tràn nước vào tàu…
3.2. Thực hiện tốt công tác đào tạo và quản lý cán bộ
Xây dựng được đội ngũ CBCNV đạo đức tốt , giỏi về chuyên môn, am hiểu sâu về nghiệp vụ sẽ giúp Công ty nhanh chóng thâm nhập sâu vào những thị trường khó tính nhất từ đó nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Công ty nên quan tâm đến các yếu tố sau:
- Công ty nên tạo ra một môi trường làm việc sôi nổi, thoải mái, đoàn kết và chuyên nghiệp, khuyến khích CBCNV phát huy được sức sáng tạo năng lực của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
- Công ty cũng nên quan tâm đến đời sống của từng CBCNV, có những chính sách khen thưởng đối với các cán bộ làm việc tích cực, nhiệt tình, sáng tạo
- Thường xuyên mở các lớp đào tạo, nâng cao nghiệp vụ, gửi các cán bộ trẻ có năng lực ra học tập và nghiên cứu ở nước ngoài
- Công ty nên thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm giữa những cán bộ lâu năm và lớp kế cận.
- Nâng cao trình độ ngoại ngữ trong cán bộ khai thác bảo hiểm đặc biệt là đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, do phải thường xuyên tiếp xúc với đối tác nước ngoài
3.3. Cải tiến, đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm
Công ty nên xem xét các mức phí bảo hiểm đối với hàng hóa xuất nhập khẩu cho phù hợp, có tính cạnh tranh so với các doanh nghiệp bảo hiểm khác. Đồng thời cũng nên nghiên cứu kỹ những điều kiện bảo hiểm của Việt Nam và của thế giới để có những sửa đổi phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu của khách hàng.
3.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị nơi làm việc và hiện đại hoá công nghệ thông tin
Việc nắm bắt các thông tin một cách kịp thời sẽ giúp Công ty có thể đi trước các đối thủ, nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, đặc biệt trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu việc cạnh tranh đang diễn ra ngày càng gay gắt, phức tạp giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước với nhau và với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Công ty phải luôn luôn nắm bắt được những thông tin về khách hàng, về đối thủ cạnh tranh để từ đó có những định hướng phù hợp trong hoạt động kinh doanh giúp hoạt động khai thác có hiệu quả hơn mang lại doanh thu cho Công ty. Do đó Công ty phải hoàn thiện và nâng cấp hệ thống xử lý thông tin, các phòng ban nên trang bị đầy đủ máy vi tính, hệ thống Internet cần được sử dụng triệt để, hiệu quả trong việc khai thác thông tin tìm kiếm khách hàng.
3.5.Tích cực mở rộng mối quan hệ hợp tác với các Công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoàinganghie
Việc duy trì mối quan hệ với nhiếu công ty bảo hiểm là một việc rất cần thiết đặc biệt trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, khi mà các tổn thất xảy ra phức tạp hoặc xảy ra ở nước ngoài việc cử giám định viên đi giải quyết rất tốn kém và nhiều khi trình độ của giám định viên không đạt tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, trên cơ sơ xây dựng mối quan hệ tốt này sẽ hỗ trợ cho việc ký kết những hợp đồng tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm.
KẾT LUẬN
Có thể nói, trong thời gian tới sẽ rất quan trọng đối với Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc, bởi vì khi gia nhập WTO cùng với hoạt động ngoại thương nước ta phát triển mạnh mẽ thì nhu cầu tham gia bảo hiểm hàng hoá XNK của các doanh nghiệp cũng vì thế mà tăng lên. Đặc biệt là sau những cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam tại WTO sẽ tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức cho các Công ty bảo hiểm Việt Nam nói chung và Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc nói riêng. Chính vì thế, để đạt được hiệu quả kinh doanh cao và giành được thị phần lớn trong khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển từ các đối thủ cạnh tranh cả trong và ngoài nước thì Công ty phải đề ra những chiến lược kinh doanh hợp lý, mở rộng quy mô hoạt động cả về chiều rộng và chiều sâu trên bước đi tiếp theo.Trong thời gian thực tập tại Công ty, em đã có dịp tìm hiểu tình hình hoạt động khai thác nghiệp vụ này ở Công ty, em xin đưa ra một số giải pháp với mong muốn nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả khâu khai thác trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển trong Công ty.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, GSTS Nguyễn Văn Định và các anh, chị trong phòng bảo hiểm Hàng Hải – Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 4 năm 2007
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Ninh Giang
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình bảo hiểm – NXB Thống kê, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội
Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm – NXB Thống kê
3. Tập bài giảng thống kê bảo hiểm – GSTS Nguyễn Văn Định
4. Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm hàng hóa – GSTS Trương Mộc Lâm
5. Giáo trình vận tải và giao nhận trong ngoại thương – PGSTS Nguyễn Hồng Đàm, NXB Giao thông vận tải
6. Vận tải, giao nhận quốc tế và bảo hiểm hàng hải – Dương Hữu Mạnh, NXB Thống kê
7. Giáo trình kinh tế ngoại thương - Đại học Ngoại thương Hà Nội
8. Tạp chí bảo hiểm số 1/2001, 4/2003, 2/2004
9. Tạp chí thương mại số 11/2005, 3/2006, 1/2007
10. Tạp chí ngoại thương số 2/2006, 1/2007
11. Quy tắc bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển – Công ty bảo hiểm dầu khí
12. Những khía cạnh kinh tế và luật pháp về bảo hiểm hàng hoá trong thương mại quốc tế - Nguyễn Vũ Hoàng, NXB Chính trị Quốc gia
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31884.doc