Chuyên đề Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Tổng Công ty bảo hiểm PJICO, Thực trạng và giải pháp

Với kinh nghiệm nhiều năm hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, tuy đó chưa phải là một thời gian dài song hoạt động của PJICO nói chung và phòng bảo hiểm hàng hóa nói riêng đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của công ty. Doanh thu của nghiệp vụ này qua mỗi năm đều có sự tăng trưởng vượt bậc, tuy nhiên doanh thu này chưa tương xứng với một thị trường đầy tiềm năng và khả năng của công ty. Trong giai đoạn sắp tới khi Việt Nam đã và đang gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực một cách đầy đủ và toàn diện hơn kéo theo sự phát triển của ngành ngoại thương thì tiềm năng của thị trường này sẽ còn lớn hơn nhiều. Đồng thời khi đó các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng có nhiều cơ hội hơn để xâm nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam vì thế sự cạnh tranh trên thị trường này sẽ ngày một mạnh lên. Song để cho ngành bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng không ngừng phát triển tương xứng với sự phát triển của ngoại thương thì hiện nay vấn đề đặt ra cho các công ty bảo hiểm trong nước cũng như PJICO là phải tự hoàn thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, cải tiến các sản phẩm cho phù hợp hơn với các yêu cầu của khách hàng. Về phía nhà nước cũng cần phải có những biện pháp hỗ trợ để hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam được bảo hiểm tại thị trường trong nước nhằm thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển cũng như tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

doc83 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1548 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Tổng Công ty bảo hiểm PJICO, Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n động đổ vỡ… 3.3 Lập biên bản giám định. Sau khi hoàn tất việc giám định, giám định viên chọn lọc các chi tiết cơ bản để phản ánh toàn bộ những gì đã chứng kiến tại hiện trường vào một văn bản gọi là “biên bản giám định”. Đây là kết quả của quá trình giám định và cũng là cơ sở pháp lý để khiếu nại người có trách nhiệm với vụ tổn thất đó. Nội dung của biên bản giám định phải đảm bảo các yêu cầu trung thực, chính xác, rõ ràng, cụ thể, các số liệu trên biên bản phải phù hợp với thực tế tổn thất và thống nhất với các tài liệu khác liên quan đến chuyến hành trình. Điểm quan trọng nhất, cũng là nội dung chính của biên bản giám định là phải ghi rõ mức độ và nguyên nhân gây ra tổn thất đó. 3.4.Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định. Sau khi lên biên bản giám định, cán bộ giám định của PJICO sẽ cung cấp cho người hoặc tổ chức yêu cầu giám định. Việc cấp thêm biên bản cho bất cứ người nào khác phải được sự đồng ý của người yêu cầu giám định bằng văn bản và phải tính thêm phí nếu cần. Đối với các chi phí và công lao động đã thực hiện trong quá trình giám định, theo yêu cầu của người nhận hàng, giám định viên có thể ghi thêm vào biên bản giám định và phải ghi thêm vào chứng từ, hoá đơn đầy đủ về các chi phí đó. Về nguyên tắc, chi phí giám định chỉ được thu trực tiếp từ người yêu cầu giám định nếu lô hàng không tham gia. Nếu bảo hiểm tại PJICO thì phí giám định được tính vào số tiền hàng bồi thường hoặc PJICO tự chịu trong trường hợp tổn thất không thuộc trách nhiệm của mình. Ngoài ra, trong trường hợp PJICO giám định hộ các đơn vị khác trong công ty thì phí giám định được tính vào số tiền bồi thường, số tiền này đơn vị nhờ giám định sẽ phải trả cho PJICO. Quy trình được áp dụng ở tất cả các đơn vị khác trong công ty. Trong một số trường hợp, tuỳ theo điều kiện đã thoả thuận trong đơn bảo hiểm thì khi xảy ra tổn thất, PJICO có thể phối hợp với một tổ chức giám định khác đã được chỉ định trong đơn để cùng tham gia giám định. Do giám định là một công việc rất khó khăn phức tạp, đòi hỏi giám định viên phải có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao và am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực như vất lý, hoá học, sinh học, tâm lý học, cơ khí …nên để đảm bảo tính chính xác và công bằng trong khâu giám định, hiện nay công ty thường thuê các chuyên gia giám định về tổn thất hàng hoá có uy tín như: Công ty giám định nhà nước (Vinacontrol), hay công ty liên doanh giám định là công ty Davicontrol và FCC. Căn cứ vào biên bản mà các chuyên gia cung cấp, công ty sẽ lên biên bản chính thức và từ đó làm căn cứ giải quyết bồi thường cho những hàng hoá được bảo hiểm. Bảng 2:Tình hình chi giám định và chi đề phòng hạn chế tổn thất của nghiệp vụ (2003-2007): Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 DT phí Tr đồng 62474,24 71845,37 79029,91 70550,00 72440,55 Chi GĐ Tr đồng 281,13 404,13 806,11 158,74 335,67 Chi ĐPHCTT Tr đồng 1249,48 1436,91 1580,59 1411,00 1490,00 Tỷ lệ chi giám định % 0,45 0,56 1,02 0,23 0,46 Tỷ lệ chi ĐPHCTT % 2 2 2 2 2 Nguồn: phòng giám định, bồi thường-PJICO Qua bảng trên ta thấy, chi giám định và đề phòng hạn chế tổn thất của nghiệp vụ liên tục tăng từ 2003-2005, chi giám định tăng từ 281.13tr đồng năm 2003 lên 806.11 tr đồng vào năm 2005, đến năm 2006 giảm xuống còn 158.74 tr đồng.Sau đó lại tăng lên 335.67tr đồng trong năm 2007. Còn chi ĐPHCTT là 2%/DT mỗi năm. Riêng năm 2006 khoản chi giám định của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển có giảm chút rồi lại tăng lên trong năm 2007. IV. Giải quyết khiếu nại đòi bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển của PJICO. Quy trình giải quyết bồi thường ở PJICO được tiến hành theo các bước sau: 4.1Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại bồi thường. Bộ hồ sơ khiếu nại đối với tổn thất hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển có: Hợp đồng bảo hiểm và giấy sửa đổi bổ xung (nếu có). Vận đơn đường biển ( bản gốc). Phiếu đóng gói (bản gốc). Biên bản giám định (bản gốc). Các chứng từ giao nhận hàng của cảng hoặc cơ quan chức năng Thông báo tổn thất Hợp đồng vận chuyển Hoá đơn biên lai các chi phí khác Các chứng từ liên quan (nếu tổn thất phát sinh do lỗi của người thứ ba). 4.2.Kiểm tra chứng từ. Khi tiếp nhận, cán bộ làm công tác giải quyết bồi thường của công ty sẽ kiểm tra cẩn thận tính đầy đủ và hợp pháp của bộ chứng từ. Nếu có thiếu sót, nhầm lẫn thì phải yêu cầu khách hàng bổ xung hoặc hiệu đính lại. 4.3.Xác minh phí Kiểm tra xem người được bảo hiểm có thực hiện và thực hiện đúng nghĩa vụ đóng phí của mình không đây là một trong các biện pháp ngăn ngừa tình trạng gian lận trong bảo hiểm có ý đồ trục lợi cho riêng mình. Nói chung đối với mọi trường hợp (trừ khi có thoả thuận khác bằng văn bản) thì việc chưa đóng phí bảo hiểm theo hợp đồng vào thời điểm phát sinh khiếu nại đều đồng nghĩa với việc tổn thất nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm. 4.4.Xem xét tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm của hợp đồng hay không? Lúc này cán bộ làm công tác bồi thường sẽ nghiên cứu những vấn đề sau : Người khiếu nại có quyền lợi bảo hiểm không? Tổn thất xảy ra có trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm không ? Tổn thất có phải do những rủi ro loại trừ gây ra không? Tổn thất có được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm như đã thoả thuận không? Chỉ cần không đáp ứng được một trong các câu hỏi trên thì có nghĩa là nó đã nằm ngoài phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Khi đó công ty sẽ lập công văn gửi người khiếu nại (bằng Fax hoặc gửi qua bưu điện) để từ chối việc bồi thường tổn thất mà anh ta yêu cầu. Trong công văn phải nêu tóm tắt sự việc và lý do khước từ trách nhiệm bảo hiểm sao cho có tình có lý nhất. 1.Nếu tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Cán bộ xét bồi thường lúc này phải tính đến số tiền dự tính bồi thường, rồi làm tờ trình để trình lãnh đạo theo phân cấp bồi thường xem xét và cho ý kiến về việc bồi thường. Cách tính số tiền dự tính bồi thường của công ty cũng tuân theo phương pháp chung như đã giới thiệu ở trên. 2.Thanh toán bồi thường Giai đoạn cuối cùng trong quá trình giải quyết bồi thường là việc thanh toán bồi thường. Sau khi lãnh đạo xem xét và đồng ý phê duyệt bồi thường, cán bộ xét bồi thường phải gửi thông báo số tiền bồi thường để lấy ý kiến chấp nhận từ phía khách hàng, đồng thời chuẩn bị hồ sơ để đòi người nhận tái bảo hiểm hay đòi người thứ ba nếu có. Khi nhận được ý kiến chấp nhận của khách hàng số tiền bồi thường sẽ được chuyển khoản theo số tài khoản của khách hàng. Bên cạnh hoạt động khai thác, thu phí thì xét giải quyết bồi thường cũng là một khâu then chốt tác động đến số lãi thực thu của công ty nói chung và trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng, nếu hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại bồi thường nâng lên thì góp phần giảm khoản chi, từ đó tăng lợi nhuận và cũng là hiệu quả kinh doanh. Để hiểu rõ hơn kết quả chi bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển ở PJICO, ta hãy nghiên cứu tình hình thực hiện công tác này qua bảng sau: Bảng 3: Tình hình chi bồi thường tổn thất nghiệp vụ (2002-2007): Chỉ tiêu Đơn vị 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Doanh thu Tỷ đồng 25,061 62,474 71,845 79,029 70,55 72,44 Chi bồi thường Tỷ đồng 13,015 22,49 32,33 53,74 12,7 14,5 Tỷ lệ bồi thường % 25 39 45 68 18 20 Nguồn: phòng giám định, bồi thường-PJICO Qua số liệu trên cho thấy tỷ lệ bồi thường có xu hướng tăng qua các năm từ 25% năm 2002 lên tận 68% năm 2005,số tiền thực chi bồi thường lại tăng lên qua các năm. Mặc dù công ty đã chú trọng hơn trong công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhưng số tiền bồi thường vẫn tăng lên rất lớn, tốc độ tăng chi bồi thường năm 2002 so với năm 2001 lên đến 60.7%, tỷ lệ bồi thường là 25%, tương ứng với số tiền là: 13.015 tỷ đồng.Nguyên nhân: không phải do công tác đề phòng hạn chế tổn thất không tốt mà do có nhiều hợp đồng trong năm 2001 mà sang năm 2002 mới tổn thất. Tuy nhiên số tiền bồi thường 13.015 tỷ vẫn là có thể chấp nhận được và nằm trong khả năng khống chế của công ty và vẫn mang lại lợi nhuận cho công ty. Mặt khác trong năm này mặt hàng gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty đi IRAQ thường xuyên bị tổn thất nên chi phí bồi thường tăng. Ta co thể thấy rõ hơn qua biểu đồ so sánh tổng phí thu và chi bồi thường của công ty qua các năm( 2002- 2007 ) sau đây. Biểu 1: So sánh tổng phí thu và chi bồi thường của công ty qua các năm. Từ năm 2003 đến năm 2007 chi bồi thường vẫn tăng,Trong đó năm 2005 hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ có giảm đi nhiều, bởi vì tuy doanh thu tăng so với năm 2004 (79.029 tỷ đồng /2005 so với 71.845 tỷ đồng/2004) nhưng do khoản chi bồi thường lớn, có thể nói là lớn nhất từ trước đến nay (53.740 tỷ đồng) nên lợi nhuận thu được chỉ đạt 22.903 tỷ đồng. Trong 1 đồng chi phí chi ra chỉ thu về 1.408 đồng doanh thu và 0.408 đồng lợi nhuận. Năm 2005 được đánh giá là năm kém thành công của PJICO trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK. Trong hai năm 2006 và năm 2007 doanh thu của công ty giảm so với năm 2005.Tuy nhiên chi bồi thường tổn thất cũng giảm nhiều . Có thể nói đây là hai năm thành công nhất của PJICO trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển. Doanh thu năm 2006và năm 2007 của PJICO thấp là do: - Công ty nhận thấy việc khai thác các mặt hàng xá có mở rộng thiếu hụt trọng lượng do cân lỗ nhiều lần so với phí thu được nên đã có chính sách thắt chặt trong việc khai thác các mặt hàng này, vì thế số đơn khai thác được giảm so với năm 2005, nhưng bù lại công ty không bị lỗ trong việc triển khai nghiệp vụ này, nhờ đó tăng hiệu quả kinh doanh của công ty lên rất nhiều. - Các đơn BH hàng gạo xuất khẩu của công ty cho Tổng Công Ty Lương Thực Miền Bắc đã bị chuyển một phần sang các công ty bảo hiểm khác. Đó cũng là lý do làm cho doanh thu của công ty giảm sút. - Thị trường bảo hiểm đang ngày càng phát triển, các công ty bảo hiểm nước ngoài đang dần lấn sân của các công ty trong nước, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, việc thị phần của công ty bị chia nhỏ là tất yếu. V. Kết quả đạt được trong kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO. Qua hoạt động trên thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, công tác khai thác của PJICO đã đạt được những thành công đáng kể. Kết quả khai thác nghiệp vụ được đánh giá chủ yếu qua doanh thu phí khai thác được. Doanh thu phí của nghiệp vụ giai đoạn 2002-2007 được thể hiện qua bảng sau: Bảng 4: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại PJICO (2002-2007) STT Chỉ Tiêu Đơn vị 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1 Doanh thu Phí nghiệp vụ Tr đồng 52061,86 62474,24 71845,37 79029,91 70550 72440 2 Kế hoạch thu phí nghiệp vụ Tr đồng 45000 53000 68000 73000 80000 85000 3 tốc độ tăng (giảm) doanh thu hàng năm % 20 15 10 -10,73 2,67 4 Mức hoàn thành kế hoạch % 115 117 105 108 88 87,27 Nguồn: Phòng hàng hóa-PJICO Năm 2002: Sau năm 2001 có thể nói là năm đầy khó khăn và thử thách đối với PJICO.Những tác động chủ yếu đưa đến tình trạng này là: Nền kinh tế thế giới đang trên đà suy giảm nhịp độ tăng trưởng cộng thêm ảnh hưởng tiêu cực của vụ khủng bố ngày 11/9/2001 vào trung tâm thương mại thế giới tại mỹ. Năm 2002 là năm đánh dấu sự phục hồi khá nhanh của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại PJICO.Doanh thu phí tăng trưởng đáng kể và đã đạt được 52.061 tỷ đồng. Năm 2003: Sau khi qua được giai đoạn khó khăn của năm 2001 cùng với sự sự phục hồi khá nhanh trong năm 2002 đã tạo được tiền đề vững chắc cho sự bùng nổ trong năm 2003.Được sự tin yêu, ủng hộ của khách hàng cùng với sự nỗ lực của tập thể cán bộ của công ty, có thể nói năm 2003 là một năm khá nhất đối với PJICO kể từ ngày thành lập.Tốc độ tăng doanh thu lên tới 20%.Vươt mức kế hoạch là 17%.Tông doanh thu phí của PJICO trong năm 2003 đạt 62.47 tỷ đồng. Năm 2004: Cùng với đà tăng trưởng trong năm 2003 thì ngiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại PJICO năm 2004 cũng đã đạt được những thành quả khá ấn tượng.Với doanh thu phí ngiệp vụ khá cao đạt con số 71.84 tỷ đồng.Hoàn thành và vượt kế hoạch đặt ra. Năm 2005: Đây là năm PJICO đạt được con số kỉ lục về doanh thu phí ngiệp vụ, cao nhất từ trước đến nay là 79.029 tỷ đồng.Hoàn thành và vượt kế hoạch đặt ra là 8%.Tốc độ tăng giảm doạnh thu là 10%.Mặc dù trong năm 2005 công ty có gặp một số khó khăn trong nội bộ.Nhất là vụ trục lợi bảo hiểm của giám đốc Trần Nghĩa Vinh và một số lãnh đạo của công ty, Song do đang trên đà tăng trưởng của năm 2003 và 2004 nên doanh thu phí vẫn đạt mức khá cao. Năm 2006-2007: Trong năm 2006 doanh thu phí ngiệp vụ của công ty giảm sút đáng kể.Doanh thu phí ngiệp vụ chỉ còn là 70.550 tỷ đồng , giảm 8.479 tỷ đồng so với năm 2005.Không đạt được mục tiêu đề ra là 80 tỷ đồng.Trong năm 2007 mặc dù có tiến triển hơn chút so với năm 2006 nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự khôi phục lại doanh thu đã đạt được như trong năm 2005.Doanh thu ngiệp vụ mới chỉ đạt được 72.44 tỷ đồng.Vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra là 85 tỷ đồng.Sự giảm sút doanh thu trong hai năm nguyên nhân là do. Sau vụ trục lợi bảo hiểm công ty TNHH Việt – Thái Phong có sự tham gia của Tổng Giám Đốc công ty Trần Nghĩa Vinh và phó tổng giám đốc Hồ Mạnh Quân cùng một số cán bộ trong hệ thống PJICO đã làm giảm lòng tin của khách hàng ,Từ đó dẫn đến việc mất đi một lượng khách nhất định làm cho doanh thu phí của ngiệp vụ cũng giảm sút đáng kể. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tăng trưởng thấp do Công ty chủ động bỏ không khai thác bảo hiểm hàng xá do luôn bị lỗ ở mảng thị trường này , đây là mặt hàng trọng điểm có doanh thu cao, các khách hàng của PJICO đã chuyển sang tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt, Bảo Minh, PVI…Bắt đầu từ quý III năm 2007, do công tác kiểm soát, quản lý rủi ro chung đối với mặt hàng này của toàn thị trường được cải thiện đáng kể, PJICO đã quay lại khai thác mặt hàng này và hy vọng sẽ có sự tăng trưởng tốt trong năm 2008. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là nghiệp vụ đem lại nguồn thu khá lớn cho các Công ty bảo hiểm. Vì vậy, hầu hết các Công ty Bảo hiểm thương mại Việt Nam đều triển khai nghiệp vụ này và coi nó là nghiệp vụ truyền thống. Cũng chính điều này, đã khiến cho thị trường Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam càng trở nên sôi động và mang tính cạnh tranh cao. Hiện nay các Công ty triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm này bao gồm: Bảo Việt, Bảo Minh, Pjico, PVI, Bảo long, PTI và một số Công ty Bảo hiểm nước ngoài khác. Thị phần của các công ty được phân chia như sau: Bảng 5 : Thị phần của một số công ty bảo hiểm trong ngiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển qua các năm. Công ty 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Bảo Việt 37,18 35,94 33,87 27,35 28,06 29,5 Bảo Minh 30,25 29,51 28.35 20,23 19,81 22,2 PJICO 9,51 11,43 12,31 19,59 15,61 14 PVI 6,82 5,5 5,68 5,45 11,26 8,5 PTI 3,76 4,35 5,19 6,5 4,67 10,2 Bảo Long 4,07 4,21 5,74 8,28 5,4 15,6 Các công ty khác 8,51 9,06 8,86 12,6 15,19 29,5 Nguồn : bản tin hiệp hội bảo hiểm. VI. Đánh giá những tồn tại và nguyên nhân . 6.1. Tổng quan thị trường bảo hiểm hàng hoá XNK ở Việt Nam. Bảo hiểm hàng hoá XNK là một trong những loại hình bảo hiểm được thực hiện từ rất sớm ở nước ta. Đây cũng chính là nghiệp vụ được các công ty bảo hiểm phi nhân thọ đặc biệt chú ý. Theo thống kê, kim ngạch XNK của Việt Nam tăng trưởng không ngừng, với chính sách khuyến khích hoạt động XNK, từ năm 1991 đến nay, trung bình kim ngạch xuất khẩu tăng 19.6%/ năm, kim ngạch nhập khẩu tăng 29%/ năm. - Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2007 đạt 8,5%, là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua. Tổng GDP đạt 1.144.000 tỷ đồng, GDP bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng (835 USD/ đầu người) - tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế nhờ sự phát triển ngoạn mục của khu vực xuất nhập khẩu, dịch vụ và một số lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp. -Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt 3,1% kế hoạch năm. Một số ngành hàng có sự tăng trưởng xuất khẩu lớn như sản phẩm cơ khí (tăng 120%), cà phê (50%), dệt may (32%), tuy nhiên nhóm hàng chủ lực dầu thô lại giảm (giảm 7,4%). Khu vực đầu tư nước ngoài tiếp tục dẫn đầu, chiếm 56,9% tổng kim ngạch xuất khẩu… Tổng kim ngạch XK so với GDP đạt 67.9%, thuộc loại cao ở Châu Á và thế giới, tuy nhiên nhập siêu cả năm đã lên tới trên 10 tỷ USD, tăng 70% so với 2006, trong đó một số mặt hàng nhập khẩu lớn có mức tăng mạnh là ô tô nguyên chiếc (tăng 132%), linh kiện ô tô (tăng 64%), thép (tăng 56,4%), phôi thép (tăng 37%)… - Đây là tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nói chung và bảo hiểm hàng hoá XNK nói riêng. Tuy nhiên, thực tế thì sao? Hoạt động khai thác bảo hiểm nghiệp vụ này của các công ty bảo hiểm trong nước chỉ dừng lại ở con số vô cùng khiêm tốn. Năm 2003, lượng hàng nhập được bảo hiểm trong nước chỉ đạt 20%. Năm 2005, xuất khẩu trong nước tăng trưởng tốt, đạt 32.23 tỷ USD, tăng 5.73% so với năm 2004, hàng xuất lên tới 36.88 tỷ USD, tăng 15.4% so với năm 2004. Tuy vậy, các công ty bảo hiểm trong nước cũng chỉ bảo hiểm được khoảng 26-28% giá trị hàng nhập và 4-5% giá trị hàng xuất. - Trong đó, hơn 90% kim ngạch hàng xuất và 70% kim ngạch hàng nhập vẫn chưa được các nhà bảo hiểm trong nước khai thác. Điều này cho thấy, bảo hiểm hàng hoá XNK, đặc biệt là bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển ở Việt Nam chưa xứng tầm với tiềm năng to lớn có được, nguyên nhân nội tại là ở đâu? Theo một cuộc điều tra gần đây, các nhà XNK chưa thực sự yên tâm khi mua bảo hiểm tại Việt Nam. Công nghệ bảo hiểm chưa hiện đại, các khâu đánh giá rủi ro, giám định, thu phí bảo hiểm, bồi thường…còn nhiều hạn chế. Trong nghiệp vụ này, Các công ty cạnh tranh gay gắt để giành quyền bảo hiểm từ khách hàng quen thuộc cũng như những mặt hàng nhạy cảm, có tỷ lệ tổn thất cao ( phân bón, sắt thép, bột mỳ, khô đậu nành…) vẫn diễn ra phổ biến. Bên cạnh đó, bảo hiểm hàng hoá XNK phải đối đầu với thực tế là khách hàng san sẻ dịch vụ cho các công ty bảo hiểm, công ty này một số lô hàng rồi yêu cầu công ty khác chào giá cạnh tranh và cấp đơn cho các lô tiếp theo. Mỗi lần chào giá cạnh tranh sẽ dẫn đến giảm phí, trong khi vẫn áp dụng điều kiện điều khoản của các đơn trước, công ty bảo hiểm trước, hoặc thậm chí còn mở rộng quá mức cho phép, đôi khi vì chạy theo doanh thu, nhiều công ty bảo hiểm đã chấp nhận mức phí thấp hơn mức bình thường 30-40% mức cho phép. Đơn cử, năm 2005, doanh thu phí toàn thị trường đạt hơn 20 triệu USD, tăng 8% so với năm 2004, trong khi đó số tiền bảo hiểm tăng tới 27 lần. Hiện tại, có khoảng 16 công ty bảo hiểm phi nhân thọ hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, gần như tất cả các công ty đều triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK. Việc mở rộng quy mô khai thác và tính kiêm nhiệm của khai thác viên giúp đem lại dịch vụ nhiều hơn, tuy nhiên, mặt trái của hoạt động này là dẫn đến thực trạng thiếu khai thác viên có chuyên môn nghiệp vụ và có kinh nghiệm. Ở một số công ty, đơn bảo hiểm cấp ra đôi khi chưa phù hợp, lấy điều khoản nghiệp vụ khác áp dụng cho loại hình này, không loại trừ những loại trừ có sẵn trong đơn bảo hiểm hàng hoá chuẩn, không áp dụng mức miễn thường…dẫn đến khó khăn và thiệt hại cho kinh doanh bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm. Hơn nữa, một số công ty vẫn chấp nhận bảo hiểm rủ ro thiếu hụt qua cân cho các mặt hàng nhạy cảm, mặc dù họ đều biết bảo hiểm cho mặt hàng này gần như chắc chắn lỗ. Tỷ lệ bồi thường bình quân của nghiệp vụ trong năm rất cao, khoảng 60-65%. Ngoài ra, năm 2006, cạnh tranh khai thác hàng sắt thép và gỗ tròn nhập khẩu cũng gay gắt không kém. Có lô sắt thép giảm phí 50-60% phí áp dụng năm trước đó, tổn thất loại mặt hàng này cũng rất cao, trung bình mỗi vụ thiệt hại khoảng 300.000-400.000 USD. Từ thực trạng khai thác như trên, tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá XNK, đặc biệt là hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển trong những năm qua tương đối cao, trung bình 65%-70%. Theo thống kê của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam năm 2006, doanh thu phí toàn thị trường trong bảo hiểm hàng hoá XNK là 162.521 triệu VNĐ, trong đó số tiền bồi thường là 120.320 triệu VNĐ, tỷ lệ bồi thường là 58.95%. 6.2 . Một số thuận lợi và khó khăn của PJICO. 6.2.1 Thuận lợi. Việc triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở PJICO có một số thuận lợi chủ yêu sau: Thứ nhất: hiện nay, xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ, Việt Nam đang trong quá trình chuyển mình để hoà nhập vào xu thế chung đó. Việt Nam là thành viên của Hiệp Hội các nước Đông nam á, tham gia vào diễn đàn hợp tác kinh tế châu á thái bình dương, Đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới được hơn 1 năm , hiệp dịnh thương mại Việt - Mỹ được ký kết... Đây là những nhân tố hết sức thuận lợi cho sự gia tăng kim nghạch xuất nhập khẩu, góp phần thúc đẩy bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu phát triển. Cũng với xu thế quốc tế hoá này, việc mở rộng quan hệ quốc tế sẽ giúp cho PJICO nói riêng và bảo hiểm trong nước nói chung có cơ hội để trao đổi, hợp tác để đưa bảo hiểm trong nước đạt tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là trong nghiệp vụ đối ngoại này. Thứ hai: Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu hàng nhập chủ yếu là: Máy móc, thiết bị vật tư phục vụ cho sản xuất, linh kiện phụ tùng phục vụ cho việc lắp giáp. Cơ cấu hàng xuất chủ yếu là nông hải sản, nguyên liệu thô. Những mặt hàng này do tính chất thương phẩp của nó nên buộc các nhà xuất nhập khẩu phải tham gia bảo hiểm. Thứ ba: luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội thông qua tháng 12/2000 và có hiệu lực ngày 1/4/2001, điều nàyđã tạo một hành lang pháp lý cho các công ty bảo hiểm hoạt động và phát triển. Cũng trong năm 2000, hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã chính thức được thành lập, đây là nơi các nhà bảo hiểm họp bàn và đưa ra các biện pháp tốt nhất nhằm thúc đẩy thị trường bảo hiểm ngày càng phát triển. Thứ tư: Việt Nam cũng là nước được thiên nhiên ưu đãi rất nhiều vì có tới hơn 3200 km đường biển rất thuận lợi để xây dựng các cảng biển hoặc có thể làm cảng chuyển giao. Vì thế là một thuận lợi lớn cho các công ty triển khai bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển có thể phát triển nghiệp vụ này. Thứ năm: Nền kinh tế nước ta đang có mức tăng trưởng cao và ổn định, tình hình chính trị - xã hội ổn định, đảng và nhà nước ta đã và đang có những chính sách kinh tế vĩ mô tạo điều kiện thuận lợi lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu và mơ rộng thị trường bảo hiểm trong nước. Thứ sáu: PJICO luôn có được sự tin tưởng của các đối tác cũng như khách hàng bởi tinh thần làm việc nghiêm túc, sự nhiệt tình của các nhân viên khi tiếp xúc với khách hàng, chi trả bồi thường nhanh tróng, hợp tình, hợp lý khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Công ty có sự hậu thuẫn rất lớn về tài chính từ các cổ đông nên có thể mở rộng thị trường, đa dạng hóa những sản phẩm bảo hiểm. Kinh nghiệm quản lý đã được đúc kết qua gần 10 năm hoạt động sẽ giúp công ty phát triển hơn nữa trong thời gian tới. 6.2.2 Khó khăn. Khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển PJICO nói riêng và các công ty bảo hiểm khác nói chung gặp phải những khó khăn chủ yếu sau: Thứ nhất: Nghiệp vụ bảo hiểm này có giá trị bảo hiểm rất lớn, trong khi đó năng lực bảo hiểm trong nước còn hạn chế cả về vốn, chuyên môn, năng lực khai thác cũng như đề phòng hạn chế tổn thất. Nên thật sự chưa tạo được niềm tin đối với khách hàng nhất là đối tác nước ngoài. Thứ hai: Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước, một mặt thường phụ thuộc vào đối tác nước ngoài trong việc lựa chon điều kiên xuất nhập khẩu, mặt khác do thói quen cũ để lại là xuất CIF, nhập FOB. Do vậy, gây khó khăn rất lớn cho các công ty Bảo hiểm trong nước. Thứ ba: Thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nước ta còn nhỏ bé, có nhiều tiềm năng phát triển, song đã có sự cạnh tranh gay gắt giữa các Công ty Bảo hiểm trong nước để dành khách hàng thông qua tỷ lệ phí chaò hàng làm cho tỷ lệ phí liên tục bị giảm. Sự hạ thấp phí quá mức này một mặt gây ra nguy cơ tiềm tàng về mất khả năng thanh toán cho Công ty bảo hiểm, mặt khác làm cho các công tác như đề phòng hạn chế tổn thất, đánh giá rủi ro,cũng như dịch vụ sau bán hàng bị coi nhẹ. Việc này dẫn tới giảm hiệu quả kinh doanh và gây ảnh hưởng xấu đên uy tín của các công ty bảo hiểm trong nước. Thứ tư:Trên địa bàn Thủ Đô, một mặt PJICO phải đối mặt với các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài với nguồn lực tài chính khổng lồ, hàng trăm năm kinh nghiệm và các công ty bảo hiểm liên doanh, Công ty cổ phần năng động, hiệu quả. Mặt khác nghiệp vụ bảo hiểm này được triển khai lại (từ năm1997) sau một số năm gián đoạn. Chính những điều này gây không ít khó khăn cho PJICO. Thứ năm: Tình hình trục lợi bảo hiểm ngày càng tinh vi hơn mà chưa có cách khắc phục hiệu quả, đặc biệt là bây giờ đã có sự tham gia của các bên thứ ba như hải quan, công an hay chính là nhân viên trong Công ty. Thứ sáu : Một khó khăn nữa có thể kể đến là ở nước ngoài có sự gắn bó chắt chẽ giữa nhà xuất nhập khẩu, nhà Bảo hiểm và người vận chuyển. Do vậy gây chở ngại đáng kể cho PJICO nói riêng và các công ty Bảo hiểm trong nước khác nói chung mở rộng và chiếm lĩnh thị trường này. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PJICO. I/ Mục tiêu và phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới Nhằm tăng cường lợi thế cạnh tranh, giữ vững thị phần đáp ứng nhanh chóng nhu cầu bảo hiểm của khách hàng, PJICO tiếp tục phát triển mạng lưới đại lý cộng tác viên song song với việc củng cố và hoàn thiện các chi nhánh, nâng cao năng suất lao động và trình độ quản lý đồng thời học hỏi và phát triển kỹ thuật bảo hiểm nước ngoài. Mục đích cơ bản của PJICO trong thời gian tới là cố gắng thoát khỏi trì trệ, cũng cố lực lượng để phù hợp với sự chuyển biến của thị trường bảo hiểm trong nước. Các biện pháp cần thực hiện: + Cải tiến việc xây dựng theo dõi thực hiện kế hoạch kinh doanh. - Kế hoạch kinh doanh phải xây dựng trên cơ sở phân tích thị trường, đối thủ cạnh tranh và tự nhận định về bản thân. - Xây dựng hệ thống đòn bẩy kinh tế, cải tiến phương pháp phân phối tiền lương, tiền thưởng, định mức chi phí,... - Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị, nhân viên. + Cũng cố hệ thống các chi nhánh và mở rộng phát triển hệ thống đại lý bảo hiểm, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị hữu quan. - Nâng cao trình độ các giám đốc, phó giám đốc, trình độ kế toán viên và cán bộ nghiệp vụ. - Củng cố và mở rộng tổng đại lý ở các tỉnh. - Thiết lập mối quan hệ bằng hợp đồng thoả thuận quan hệ hợp tác với các cơ quan hữu quan như các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, các công ty giám định, luật sư,... + Đẩy mạnh công tác đầu tư vốn. - Quản lý chặt chẽ vốn đầu tư dài hạn: các công ty liên doanh cổ phần, trái phiếu ... thu lãi sớm từ các công ty này. - Tập trung vốn kịp thời cho các khoản đầu tư ngắn hạn (chủ yếu là gửi ngân hàng có thời hạn, mua trái phiếu ngắn hạn,...). II/ các kiến nghị đối với công ty Từ năm 1995 với sự ra đời của hàng loạt các công ty bảo hiểm liên doanh cũng như các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài phát triển mạnh dẫn đến thị trường bảo hiểm bị chia sẻ và mức độ cạnh tranh cao. Tuy còn rất nhiều tiềm năng song các công ty bảo hiểm hiện nay còn thực hiện chủ yếu các nghiệp vụ truyền thống. Cũng vì lý do này, một mặt sự cạnh tranh của các công ty bảo hiểm ngày càng tăng và có phần thiếu lành mạnh. Nhằm lôi kéo khách hàng về phía doanh nghiệp mình, các doanh nghiệp đã tuỳ tiện giảm phí, tuỳ tiện bồi thường,... Mặt khác, việc chỉ khai thác các nghiệp vụ truyền thống với cách làm truyền thống đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của thị trường bảo hiểm Việt Nam. PJICO là một công ty nằm trên địa bàn có sự góp mặt của nhiều công ty bảo hiểm tầm cỡ nên vấn đề này ngày càng trở nên khó khăn hơn, nan giải hơn. Đứng trước những thức thách đó, đồng thời để khắc phục những tồn tại của mình, trong thời gian tới PJICO phải tìm được hướng đi riêng cho mình, đồng thời cũng phải cũng phải củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để tăng thị phần giúp công ty có thể đứng vững và phát triển trong tình hình mới. Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu tình hình thực tế ở công ty, với mong muốn góp phần hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm này, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến sau: 1. Về công tác khách hàng Công tác khách hàng là khâu quan trọng nhất trong trong chiến lược marketing của mỗi doanh nghiệp, nhất là trong cơ chế thị trường việc thu hút khách hàng là phương châm, triết lý kinh doanh của mỗi một doanh nghiệp. Là một doanh nghiệp bảo hiểm, hiệu quả kinh doanh chủ yếu dựa vào niềm tin và sự tín nhiệm của khách hàng thì công tác khách hàng là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Để thực hiện tốt công tác này, trước hết phải kể đến việc nghiên cứu thị trường của công ty. Công ty phải tổ chức nghiên cứu kỹ thị trường thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước. Ngoài các doanh nghiệp xuất nhập khẩu quốc doanh, công ty cần chú ý đến các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và các doanh nghiệp tư nhân. Các thành phần kinh tế này hiện nay rất phát triển và ngày một lớn mạnh vì họ hoạt động và nắm bắt thị trường rất nhanh nhạy. Đây đang trở thành bộ phận thị trường có tiềm năng rất lớn. Công việc này cần làm trước để hoạch định những bộ phận thị trường nào mà doanh nghiệp hoạt động có lợi thế nhiều nhất. Hàng năm công ty cần có kế hoạch thu thập thông tin về hạn ngạch xuất nhập khẩu của từng loại mặt hàng, nắm bắt được định hướng xuất nhập khẩu trong năm, đồng thời cử cán bộ trực tiếp đến tiếp cận khách hàng để nắm bắt được nhu cầu xuất nhập khẩu chính xác của mỗi một doanh nghiệp. Từ những thông tin đó, công ty tổng hợp số liệu để xác định những mặt hàng nào là trọng tâm cần khai thác thế mạnh và những mặt hàng nào cần hạn chế. Mặt khác, cũng thông qua tiếp cận với khách hàng, tìm hiểu nhu cầu xuất nhập khẩu của từng đơn vị để phân khúc thị trường thành từng nhóm như: nhóm khách hàng có nhu cầu thường xuyên, nhu cầu không thường xuyên hay nhóm khách hàng chuyên xuất các mặt hàng: gạo, nông thuỷ sản, hoa quả tươi, đồ hộp, hàng thủ công mỹ nghệ ...; nhóm khách hàng chuyên nhập các mặt hàng phục vụ cho sản xuất như xi măng, sắt thép, phân bón, thiết bị phụ tùng, linh kiện điện tử hay hàng tiêu dùng. Đồng thời, căn cứ vào nhu cầu thực tế của từng đơn vị để có thể lập được một bảng kế hoạch chi tiết trong đó có sự phân nhóm rõ ràng và kế hoạch tiếp cận, khai thác đối với từng đối tượng cụ thể để từ đó xác định phí chào hợp lý và khuyến khích họ mua bảo hiểm tại công ty. Một việc làm thiết yếu nữa là công ty phải cải tiến sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Công ty nên áp dụng những điều khoản của nước ngoài mà khách hàng yêu cầu nếu xem xét thấy hợp lý, đảm bảo được quyền lợi của khách hàng và không trái với pháp luật Việt Nam. Công ty nên tiếp tục đi sâu nghiên cứu các diều khoản bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu sang Mỹ và Canada để có thể đáp ứng được tốt nhu cầu của khách hàng trong điều kiện quan hệ buôn bán giữa Mỹ và Việt Nam đang ngày càng được mở rộng như hiện nay. Công ty cũng cần tổ chức tốt công tác thống kê để biết được số lượng của từng loại hàng hoá, từng chuyến vận chuyển, phương tiện vận chuyển trong năm từ đó dự đoán số liệu cho các năm tới và trên cơ sở đó xác định việc tính phí và các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất. Bên cạnh đó công ty cũng cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ khách hàng. Trên thị trường bảo hiểm hiện nay việc cạnh tranh của các công ty bảo hiểm chủ yếu dựa vào giảm phí để thu hút khách hàng. Đây cũng là một trong những biện pháp thu hút khách hàng để tăng thị phần nhưng hiện nay không phải không có một số doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh không lành mạnh bằng cách hạ phí quá thấp. Xét ở một khía cạnh nào đó phương pháp này ảnh hưởng đến doanh thu của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và đây cũng chưa phải là phương pháp tối ưu. Để có được thị phần cao trên thị trường bảo hiểm hiện nay và doanh thu cao thì chi nhánh cũng như công ty cần phải tiến hành tổng hợp nhiều biện pháp để phục vụ khách hàng được tốt hơn chiếm được lòng tin và sự tín nhiệm của khách hàng. Đối với nghiệp vụ này các biện pháp đó có thể xác định được ở một số tiêu thức các giấy tờ thủ tục khi cấp đơn bảo hiểm, thời gian, thủ tục giải quyết khiếu nại, bồi thường khi có tổn thất xảy ra, thái độ phục vụ của các nhân viên bảo hiểm, mức bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm,...Để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, các nhân viên bảo hiểm của công ty cần phải nắm vững địa bàn, đi sâu tìm hiểu và thường xuyên tạo mối quan hệ, giao lưu tốt với khách hàng. Đối với những khách hàng lớn, tham gia bảo hiểm liên tục nhiều năm lãnh đạo công ty nên có kế hoạch thăm hỏi và láng nghe những ý kiến góp ý của họ. Việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng mới chính là chính sách lâu dài của công ty giúp công ty đứng vững và phát triển lớn mạnh trong thời gian tới. Công ty nên xây dựng kênh phân phối sản phẩm sao cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Đặc biệt cần quan tâm tới việc thiết lập các quan hệ với các môi giới khai thác hàng hoá xuất nhập khẩu trong thời gian qua, lực lượng này đã mang lại cho công ty không dưới 60% kim ngạch bảo hiểm mỗi năm. Do đó công ty phải có chính sách khuyến khích đối với đại lý, cộng tác viên, có chế độ khen thưởng hợp lý đối với những người hoạt động có hiệu quả và doanh thu cao. Một vấn đề nữa cũng rất quan trọng trong công tác khách hàng đó là công tác tuyên truyền quảng cáo. So với các nước khác trên thế giới hiện nay, ngành bảo hiểm ở nước ta còn quá non trẻ và đang ở giai đoạn đầu. Trình độ dân trí và hiểu biết về tác dụng của bảo hiểm trong đa số các tầng lớp dân cư còn rất thấp. Thêm vào đó sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm vô hình, nếu không có sự hướng dẫn cặn kẽ thì rất khó hiểu. Nếu việc kinh doanh bảo hiểm chỉ dựa vào các mối quan hệ kinh tế thông thường và sự giới thiệu đơn giản thì ngành bảo hiểm phát triển sẽ rất chậm. Để mọi người dân có thể hiểu được tác dụng của bảo hiểm các công ty bảo hiểm nên tiến hành quảng cáo dưới nhiều hình thức và cách giới thiệu dễ hiểu. Trong bối cảnh chung hiện nay, PJICO cần sớm có biện pháp đầu tư thích đáng cho hoạt động này để mở rộng thị trường và khuếch trương sự lớn mạnh của công ty. Ngoài ra công ty nên tổ chức thường xuyên hơn hội nghị khách hàng, tổ chức các hội thảo để phổ biến kinh nghiệm về đề phòng và hạn chế tổn thất trong vận chuyển và bốc dỡ hàng hoá đồng thời thông báo những tin tức liên quan đến hoạt động hàng hải và xuất nhập khẩu cho khách hàng. Điều này sẽ tác động tích cực tới khách hàng, thúc đẩy họ tiếp tục tham gia các nghiệp vụ bảo hiểm của công ty tạo mối quan hệ khăng khít hơn giữa khách hàng và nhà bảo hiểm 2.Về phí bảo hiểm Như chúng ta đã biết, sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm vô hình, đó là một cơ chế chuyển giao rủi ro với đặc tính là có hiệu quả xê dịch và có chu trình sản xuất kinh doanh đảo ngược - "thu trước chi sau". Với những đặc điểm đó người mua rất khó nhận biết và đánh giá cụ thể lợi ích của việc mua bảo hiểm. Khách hàng hiện nay thường quan tâm đến tới mức phí và các cam kết của các nhà bảo hiểm chứ chưa xem xét tới chất lượng của các nhà bảo hiểm sau này. Đó là lý do tại sao đối với cùng một loại rủi ro, khách hàng lại muốn mua bảo hiểm tại công ty bảo hiểm có mức phí thấp nhất. Phí bảo hiểm chính là giá bán của sản phẩm bảo hiểm trên thị trường. Hiện nay ở PJICO việc tính phí bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển được xây dựng trên cơ sở thống kê rủi ro, tổn thất qua các năm, từ đó sẽ xác định được phí thuần sau khi cộng thêm một số chi phí khác. Ngoài ra công ty còn phải căn cứ vào một số yếu tố khác như thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh,... sau đó mới đưa ra được biểu phí cho khách hàng. Trong thời kỳ cạnh tranh như hiện nay, việc tính toán và đưa ra mức phí hợp lý là rất cần thiết: Phí bảo hiểm không thể quá cao làm cho khách hàng chuyển sang tham gia bảo hiểm ở công ty khác dẫn đến thiệt hại kinh doanh cho công ty, thế nhưng cũng không được quá thấp vì còn đủ để bồi thường các khiếu nại dự tính trong suốt thời gian bảo hiểm và trang trải các chi phí: chi hoa hồng, chi quản lý, trích lập dự phòng nghiệp vụ ... Để góp phần làm hoàn thiện công tác định phí, theo tôi công ty nên thực hiện một số giải pháp trong thời gian tới. - Thống kê đầy đủ số vụ tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm của chi nhánh và giá trị bồi thường của từng vụ đã xảy ra, đồng thời dựa vào một số công cụ thống kê để dự tính một cách khoa học và chính xác xu hướng của chúng trong thời gian tới. - Thu thập các thông tin về thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh trong các vấn đề liên quan đến phí bảo hiểm như mức phí, biểu phí mà các công ty khác đang áp dụng, thái độ của khách hàng đến mức phí của từng công ty, chiến lược cạnh tranh, xu hướng thị trường,... Việc tiến hành này có thể qua nhiều kênh khác nhau: qua đội ngũ cán bộ bảo hiểm phòng hàng hóa hay qua mạng lưới đại lý, cộng tác viên của chi nhánh, bằng cách thăm dò hay phỏng vấn điều tra. Sau đó những thông tin này sẽ được sắp xếp, phân loại, sử lý sơ bộ rồi gửi về phòng nghiệp vụ của công ty. Ngoài ra trong quá trình áp dụng, công ty cần thường xuyên theo dõi ảnh hưởng của mức phí tới tâm lý khách hàng cũng như so sánh với biểu phí của các công ty khác để phản hồi về phòng nghiệp vụ của công ty nhằm làm cho biểu phí phù hợp với tình hình thực tế kinh doanh của mỗi thời kỳ. 3. Về công tác đề phòng, hạn chế tổn thất Với những đặc điểm của mình, vận tải đường biển thường gặp phải rất nhiều rủi ro bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau.Vì thế, để công tác đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả cần được thực hiện ngay từ khi xếp hàng lên tàu và tiếp tục duy trì trong suốt hành trình cho đến khi dỡ hàng tại cảng đến. Hiện nay việc đề phòng hạn chế tổn thất đang được công ty thực hiện bằng cách chỉ định một chi nhánh khác của bảo hiểm tại bến cảng hoặc thuộc đơn vị chuyên trách tiến hành giám sát quá trình bốc xếp hàng hoá lên, xuống tàu nhằm ngăn chặn những công nhân bốc xếp không làm đúng quy cách hoặc dùng phương tiện không thích hợp trong việc bốc xếp hàng hoá. Từ những biện pháp này, công ty đã hạn chế số vụ tổn thất bồi thường trong thời gian qua. Công ty cũng tăng cường công tác đề phòng hạn chế tổn thất qua việc tăng chi cho công tác này. Năm 2006, Công ty đã tăng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất 1,53% trong tổng chi nghiệp vụ. Hiệu quả được thể hiện là trong năm 2006 và năm 2007, thực chi bồi thường của công ty đã giảm rõ rệt. Công ty nên tiếp tục phát huy và làm tốt hơn một số vấn đề như: Đối với luồng vận chuyển, từng chuyến hành trình công ty vẫn nghiên cứu kỹ những đặc điểm của cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải, cảng lánh nạn (nếu có), những rủi ro có thể xảy ra... Đồng thời với các con tàu vận chuyển cho từng chuyến hàng, chi nhánh cũng cần xem xét, tìm hiểu các đặc tính như cấp hạn tàu, tuổi tàu cỡ hạn tàu, chủ tàu... Trên cơ sở đó phòng hàng hóa sẽ lập ra bản hướng dẫn đối với những khách hàng mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu bao gồm: Một bản chung áp dụng cho tất cả các khách hàng trong đó ghi thông tin về tất cả các đặc điểm của luồng vận chuyển, từng nhóm tàu kèm theo là lời khuyên nên chọn nhóm tàu nào và biện pháp cho việc phòng tránh rủi ro. Một bản khác sẽ được sử dụng trong từng trường hợp cụ thể đối với từng khách hàng và hợp đồng cụ thể trên đó phân tích các đặc tính của tàu, của lô hàng tham gia bảo hiểm và kèm theo các khuyến cáo về phòng tránh rủi ro, tổn thất. Đối với các khách hàng tham gia hợp đồng bảo hiểm bao, PJICO nên đề nghị khách hàng thông báo gửi về cho công ty trước mỗi chuyến hành trình, phải ghi thật đầy đủ, cụ thể về các đặc điểm của chuyến hàng từ đó công ty sẽ thông báo lại cho khách hàng về con tàu nên thuê, cách thức đóng gói, bốc, dỡ, chất xếp hàng cần làm... Bên cạnh đó công ty cũng nên tham mưu cho khách hàng về các mặt: điều kiện bảo hiểm tốt nhất, chất lượng hàng, bao bì đóng gói, điều kiện bốc dỡ, đóng gói , tình trạng tàu, tình trạng tài chính của chủ tàu. Nếu như lô hàng có giá trị lớn, số lượng nhiều, chiếm một khoảng không gian đáng kể trong hầm tàu thì chủ hàng nên đề nghị chủ tàu tiến hành việc nâng hàng và chăm sóc hàng ngay từ đầu. Trong trường hợp khách hàng lớn, thường xuyên tiến hành xuất nhập khẩu và hay bốc dỡ tại một cảng nào đó thì công ty cũng nên để khuyến cáo khách hàng cần có đề xuất với cảng chấp nhận phương án sau. Nếu trong một thời gian nhất định (có thể là một quý hoặc 1 năm) các lô hàng hoá xuất nhập khẩu trong quá trình bốc xếp không xảy ra mất mát, hao hụt, trả lại hoặc có xảy ra nhưng với điều kiện nhỏ hơn mức độ ấn định thì cũng sẽ được thưởng một khoản tiền tương xứng. Còn nếu ngược lại là các giá trị tổn thất xảy ra vượt quá mức cho phép thì cảng phải trả cho chủ hàng một số tiền tỷ lệ với giá trị tổn thất. Bằng cách này sẽ nâng cao được trách nhiệm của cảng đối với hàng hoá, qua đó có thể giảm được đáng kể các tổn thất khi bốc dỡ và xếp hàng. 4.Nâng cao chất lượng công tác giám định-bồi thường: Giám định bồi thường một cách nhanh chóng, chính xác và hợp lý là cách thức tốt nhất để tạo uy tín của công ty trên thị trường. Thực hiện tốt công tác giám định-bồi thường ở PJICO. Hiện nay là hết sức quan trọng hơn bao giờ hết, bởi tỷ lệ phí Bảo Hiểm sau một số năm đã giảm đáng kể do vậy việc giảm tỷ lệ phí trong năm 2007 và những năm tiếp theo là khá hạn chế do đó PJICO cần thực hiện thật tốt công tác này để nâng cao khả năng cạnh tranh duy trì và thu hút khách hàng về công ty mình. Để tăng cường chất lượng công tác giám định, đồng thời đảm bảo tiết kiệm chi phí, một mặt công ty cần không ngừng đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ giám định, mặt khác nên chuyên môn hóa khâu giám định bằng cách phân công mỗi cán bộ trong phòng Bảo Hiểm hàng hóa đảm nhận giám định cho một số mặt hàng, nhóm hàng cụ thể, theo đó họ sẽ có khả năng đi sâu nghiên cứu và chuyên môn hoá trong lĩnh vực của mình nhằm giảm bớt các chi phí phát sinh và nâng cao hiệu suất công việc. Ngoài ra để tăng cường chất lượng công tác này công ty PJICO cần xây dựng mối quan hệ rộng khắp với các công ty, tổ chức, đại lý giám định trong nước và quốc tế. Khách hàng chỉ thực sự thấy được ý nghĩa của bảo hiểm khi họ nhận được tiền bồi thường cho những tổn thất của họ. Do vậy công ty cần bồi thường cho khách hàng nhanh chóng kịp thời chính xác và dứt điểm, tránh tình trạng thủ tục rườm rà gây khó khăn cho khách hàng nhận tiền bồi thường. Thực hiện tốt công tác giám định bồi thường, đảm bảo việc trực 24/24 giờ, chắc chắn PJICO sẽ giữ chân khách hàng đã từng tham gia ở PJICO cuốn hút được nhiều khách hàng mới. 5. Công tác bồi thường Hiệu quả công tác bồi thường phụ thuộc rất lớn vào việc triển khai các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất và đơn giản hoá các thủ tục trong quá trình xét giải quyết khiếu nại, đòi bồi thường. Vì thế, để nâng cao chất lượng công tác này, công ty không chỉ cần làm tốt các yếu tố trên mà còn phải có những biện pháp ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra trong quá trình khiếu nại đòi bồi thường. Để ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra tổn khi xem xét khiếu nại đòi bồi thường tổn thất, Công ty cần tìm hiểu và xác định rõ các tổn thất. Kinh nghiệm thực tế và trình độ chuyên môn của các cán bộ của công ty có ảnh hưởng rất lớn trong việc xác mịnh tổn thất. Vì vậy công ty nên đề ra những chuẩn mực và các điểm chú ý cần thiết trong quá trình giải quyết khiếu nại cho tất cả cán bộ phòng hàng hóa của công ty. Mặt khác, công ty cũng cần đề ra những yêu cầu đối với khách hàng về tinh thần trung thực cũng như thiện chí khi ký kết hợp đồng, đặc biệt là đối với những khách hàng mới. Nếu họ vi phạm những thoả thuận đó thì công ty có thể sử phạt tuỳ theo mức độ nặng nhẹ. Có thực hiện được như trên thì mới tạo được những hiệu quả thiết thực trong việc ngăn ngừa gian lận trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại bồi thường của công ty. 6. Về công tác cán bộ Hiện nay ở PJICO, đội ngũ cán bộ công tác trong phòng hàng hóa đều rất tâm huyết với công việc và có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Những cán bộ này được đào tạo các kiến thức về chuyên ngành bảo hiểm, hàng hải, ngoại thương, luật trong các trường đại học có uy tín. Ngoài ra hàng năm các cán bộ này còn tham gia nhiều khoá huấn luyện hội thảo trong nước cũng như ngoài nước (Anh, Mỹ, Hàn quốc...). Mặt khác đa phần trong số họ đều làm việc cho công ty ngay từ những ngày đầu thành lập nên rất am hiểu thực trạng của công ty, vị thế của công ty trên thị trường, các khách hàng truyền thống,... Đây có thể nói là những thuận lợi của công ty về mặt nhân sự, có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của công ty trong thời gian qua. Tuy nhiên hiện nay số cán bộ trong phòng hàng hóa của công ty còn ít so với khối lượng đồ sộ của công việc và thường xuyên phải thực hiện những chuyến công tác dài ngày để giám định và bồi thường tổn thất. Vì vậy xin đề nghị với công ty lưu tâm hơn tới chế độ đãi ngộ cũng như lương thưởng đối với các cán bộ phòng bảo hiểm để khuyến khích họ ngày càng làm việc tốt hơn và hiệu quả hơn. III. Một số kiến nghị nghiệp vụ. Cùng với việc mở cửa của thị trường bảo hiểm, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy không dài song mức độ và tính chất đã diễn ra rất gay gắt thậm chí nhiều lúc đã mang tính tiêu cực, vì thế sự can thiệp của Nhà nước nhằm định hướng cho ngành bảo hiểm nước ta liên tục phát triển một cách bền vững và lành mạnh để có thể đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. Để phát triển ngành bảo hiểm còn non trẻ của đất nước, chính phủ và các bộ ban ngành có liên quan cần thực hiện một số giải pháp: - Để tránh tình trạng hạ phí quá thấp ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của thị trường, các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm mà trực tiếp là vụ quản lý bảo hiểm thuộc Bộ tài chính cần xây dựng hành lang biểu phí cho cụ thể, thống nhất hoặc có quy định mức phí trần và sàn cho từng nghiệp vụ bảo hiểm một cách hợp lý. Các công ty bảo hiểm nếu muốn thay đổi biểu phí của mình thì cần phải trình báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuẩn y trước khi đưa ra thực hiện. - Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường Việt Nam, khuyến khích hoạt động tái bảo hiểm trong nước trước khi tái ra nước ngoài. - Chấn chỉnh, nâng cao công tác bốc xếp, hệ thống kho bãi tại các cảng. - Nhà nước cần xem xét lại mức thuế, thuế VAT đối với doanh nghiệp bảo hiểm (vì mức 10% là qúa cao so với thuế suất, thuế doanh thu trước kia) đồng thời cũng nên nghiên cứu việc đánh thuế VAT cho phần doanh thu nhượng lại vì các doanh nghiệp bảo hiểm cho rằng đây là hình thức đánh thuế chồng lên thuế. - Riêng đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Nhà nước cần có quy định cụ thể đối với các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp nhập hàng theo đơn đặt hàng của nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng để trả nợ mua bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, tạo mối quan hệ qua lại giữa các doanh nghiệp này với các doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hoá mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm trong nước thì lợi ích không chỉ dừng lại ở việc thúc đẩy các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phát triển mà còn hạn chế dòng chảy ngoại tệ ra nước ngoài. Để làm tốt công việc trên chăng nhà nước và các cơ quan có chức năng nên phối hợp tổ chức hội nghị khách hàng, tạo điều kiện cho các công ty bảo hiểm và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tiếp xúc và phối hợp làm việc với nhau. KẾT LUẬN Với kinh nghiệm nhiều năm hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, tuy đó chưa phải là một thời gian dài song hoạt động của PJICO nói chung và phòng bảo hiểm hàng hóa nói riêng đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của công ty. Doanh thu của nghiệp vụ này qua mỗi năm đều có sự tăng trưởng vượt bậc, tuy nhiên doanh thu này chưa tương xứng với một thị trường đầy tiềm năng và khả năng của công ty. Trong giai đoạn sắp tới khi Việt Nam đã và đang gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực một cách đầy đủ và toàn diện hơn kéo theo sự phát triển của ngành ngoại thương thì tiềm năng của thị trường này sẽ còn lớn hơn nhiều. Đồng thời khi đó các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng có nhiều cơ hội hơn để xâm nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam vì thế sự cạnh tranh trên thị trường này sẽ ngày một mạnh lên. Song để cho ngành bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng không ngừng phát triển tương xứng với sự phát triển của ngoại thương thì hiện nay vấn đề đặt ra cho các công ty bảo hiểm trong nước cũng như PJICO là phải tự hoàn thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, cải tiến các sản phẩm cho phù hợp hơn với các yêu cầu của khách hàng. Về phía nhà nước cũng cần phải có những biện pháp hỗ trợ để hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam được bảo hiểm tại thị trường trong nước nhằm thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển cũng như tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế bảo hiểm – chủ biên : PGS.TS Nguyễn Văn Định Giáo trình Quản Trị kinh Doanh Bảo Hiểm- chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Văn Định Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm hàng hóa- GS-TS Trương Mộc Lâm Tạp chí bảo hiểm- tái bảo hiểm Tạp chí Thị trường tài chính Tạp chí thương mại Các bản tin của hiệp hội bảo hiểm Thị trường bảo hiểm- Bộ tài chính ( Các năm 2002- 2007) Tạp chí bảo hiểm Web bảo hiểm Bản cáo bạch PJICO Báo cáo thường niên các năm của PJICO Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển trong lãnh thổ Việt Nam- PJICO 2005 Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường biển- PJICO 2008 MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33295.doc
Tài liệu liên quan