Có thể nói, thanh toán TDCT là phương thức thanh toán có vai trò ngày càng quan trọng và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch TTQT của các NHTM VN. Tuy là một phương thức có nhiều ưu việt, tuy nhiên phương thức này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể xảy ra cho các bên có liên quan. Rủi ro là một điều tất yếu và không thể loại bỏ hoàn toàn. Điều quan trọng là các bên liên quan phải có những hiểu biết về những rủi ro tiềm ẩn đó để có thể xây dựng các biện pháp phòng ngừa và hạn chế nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra. Do đó, vấn đề quản trị rủi ro trong TTQT là một vấn đề rất quan trọng của các NHTM VN.
Đối với NHNT VN, trải qua gần 45 năm hoạt động, tuy là một lĩnh vực truyền thống của NH, tuy nhiên rủi ro trong TTQT là điều không thể tránh khỏi. Luôn là ngân hàng dẫn đầu về lĩnh vực TTQT nhưng vấn đề nâng cao chất lượng thanh toán và hạn chế rủi ro trong hoạt động này luôn được ngân hàng quan tâm và chú trọng. NHNT VN luôn nghiên cứu và tìm hiểu những biện pháp phòng ngừa rủi ro. Và trên thực tế các biện pháp này đã được áp dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả vào hoạt động của NH và đã đạt được những thành công nhất định.
74 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và bài học kinh nghiệm rút ra từ những rủi ro trong hoạt động thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẽ kiểmm tra nội dung yêu cầu mở, nếu phát hiện sai sót hoặc mâu thuẫn với hợp đồng, NH sẽ liên lạc yêu cầu khách hàng xem xét sửa đổi lại. Bất kì một sự sửa đổi nào trên đơn xin mở L/C phải có chữ kí xác nhận của người có thẩm quyền. Sauk hi hoàn tất hồ sơ mở L/C, NH sẽ phát hành L/C ra nước ngoài và khách hàng có thể liên hệ với cán bộ NH để lấy bản L/C gốc.
Sửa đổi L/C: Khi muốn sửa đổi L/C, khách hàng phải điền vào mẫu yêu cầu sửa L/C của ngân hàng, kèm theo các chứng từ khác như phụ lục hợp đồng (nếu có) hoặc thỏa thuận sửa đổi giữa người bán và người mua.
Hủy L/C: Trường hợp hủy L/C trong thời hạn hiệu lực của L/C, khách hàng phải làm công văn xin hủy, NHNT sẽ đại diện cho NHTB L/C xin hủy, L/C sẽ ược hủy khi NHNT nhận được điện chấp nhận từ NH nước ngoài. Sau đó NHNT sẽ giải tỏa số tiền kí quỹ cho khách hàng khi L/C đã được hủy và hoặc sau 60 ngày kể từ ngày L/C hết hạn, nếu khách hàng muốn số tiền kí qũy được giải tỏa trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hiệu lực của L/C thì phải làm công văn cam kết với NH. Tuy nhiên NHNT không chấp nhận hủy L/C khi khách hàng đẫ nhận hàng thông qua bảo lãnh nhận hàng của NHNT hoặc có tranh chấp thương mại mặc dù hai bên bán và mua đã đồng ý hủy nhưng chưa được sự chấp thuận hủy của các NH có liên quan.
Thanh toán L/C:
Tiếp nhận và kiểm tra chứng từ: Sau khi nhận được bộ chứng từ từ ngân hàng nước ngoài, NHNT sẽ kiểm tra bộ chứng từ trên và sẽ làm thông báo bằng văn bản về tình trạng bộ chứng từ. Nếu chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều kiện của L/C, khách hàng phải nhanh chóng làm thủ tục thanh toán và đến NH lấy chứng từ. Nếu chứng từ có sai sót, NHNT sẽ thông báo sai sót bằng văn bản, khách hàng phải xem xét các sai sót đó và trả lời ngân hàng bằng văn bản trong 02 ngày làm việc để NH có cơ sở trả lời ngân hàng nước ngoài.
Yêu cầu phát hành Bảo lãnh nhận hàng/Ủy quyền nhận hàng: Trường hợp hàng đã về đến cảng mà bộ chứng từ chưa về đến ngân hàng:
Khách hàng đã có B/L gốc, NHNT sẽ kí hậu B/L. Sau đó phát hành thư ủy quyền nhận hàng trên cơ sở yêu cầu kí hận vận đơn/ yêu cầu phát hành ủy quyền nhận hàng của khách hàng.
Khách hàng không có B/L gốc, ngân hàng sẽ phát hàng bảo lãnh nhận hàng trên cơ sở yêu cầu phát hành bảo lãnh của khách hàng.
Tuy nhiên lưu ý là NHNT chỉ kí hậu B/L, phát hành ủy quyền nhận hàng, phát hành bảo lãnh nhận hàng khi khách hàng đã có đủ nguồn vốn để thanh toán khi bộ chứng từ về đến ngân hàng.
Thanh toán L/C: NHNT sẽ trích từ tài khoản của đơn vị để thanh toán cho ngân hàng nước ngoài theo quy định của L/C khi nhận được bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều kiện của L/C.
Thanh toán xuất
Thông báo L/C
Khách hàng là người hưởng lợi L/C sẽ được NHNT thông báo bằng điện thoại/ fax ngay sau khi ngân hàng nhận được L/C và kiểm tra tính chân thực của L/C và/ hoặc tu chỉnh L/C từ NHPH/NHTB. Khi nhận được bản gốc L/C và/hoặc tu chỉnh L/C do NHNT thông báo, khách hàng sẽ phải kiểm tra chi tiết các điều khoản và điều kiện của L/C và liên hệ với người mở L/C để yêu cầu sửa đổi những điều khoản bất lợi hoặc không thể đáp ứng được. Trong trường hợp từ chối nhận L/C, tu chỉnh L/C đề nghị khách hàng thông báo ngay bằng văn bản cho NHNT để ngân hàng thông báo kịp thời cho NHTB.
Xuất trình chứng từ thanh toán L/C
Sau khi giao hàng và lập xong bộ chứng từ, khách hàng có thể xuất trình bộ chứng từ tại NHNT để thực hiện việc lập chứng từ đòi tiền và chiết khấu nếu khách hàng yêu cầu.
Hồ sơ xuất trình gồm có:
Thư yêu cầu thanh toán chứng từ hành xuất theo hình thức L/C theo mẫu của NHNT được điền đầy đủ thông tin và được ký, đóng dấu thủ trưởng đơn vị.
L/C gốc và các bản gốc tu chỉnh L/C (nếu có).
Các chứng từ yêu cầu xuất trình trong L/C đầy đủ số lượng và chủng loại (thêm 01 Commercal Invoice lưu tại NHNT).
Chuyển nhượng L/C
NHNT sẽ căn cứ vào L/C và các tập quán chung trong TTQT để kiểm tra bộ chứng từ, nếu có sai sót, thanh toán viên sẽ thông báo và hướng dẫn khách hàng cụ thể những điểm sai sót để khách hàng sửa chữa hoặc định đoạt. NHNT gửi bộ chứng từ thực hiện thanh toán theo quy định L/C và yêu cầu của khách hàng. Thanh toán viên sẽ theo dõi việc thanh toán và thực hiện báo Có vào tài khoản của khách hàng trong ngày nhận báo có từ NH nước ngoài. Nếu khách hàng đề nghi chiết khấu bộ chứng từ, NHNT sẽ xem xét tỉ lệ chiết khấu phù hợp trong từng trường hợp cụ thể. Khách hàng có thể xuất trình những L/C do ngân hàng khác thông báo để thực hiện thanh toán tại NHNT. Những khách hàng có tài khoản và cam kêt xuất trình chứng từ tại NHNT có thể yêu cầu kiểm tra chứng từ trước qua fax.
Chuyển nhượng L/C: Với những L/C chuyển nhượng (Transferable) khách hàng có thể yêu cầu NHNT thực hiện việc chuyển nhượng bằng cách gửi Giấy yêu cầu chuyển nhượng Thư tín dụng chứng từ và L/C, tu chỉnh L/C gốc.
Mức biểu phí của NHNT cho các dịch vụ trên hiện nay như sau:
1. Hàng xuất khẩu
Phí
1.1 Thông báo L/C
10USD
1.2 Thông báo sửa đổi L/C (Bao gồm cả sửa tăng trị giá)
5 USD
1.3 Thanh toán một bộ chứng từ
1.3.1. Bộ chứng từ có trị giá dưới 100.000 USD
0.1% trị giá bộ chứng từ gửi đi.
Tối thiểu: 10 USD
Tối đa: 120 USD
1.3.2. Bộ chứng từ có trị giá trên 100.000 USD
0.06% trị giá bộ chứng từ gửi đi.
Tối thiểu: : 10 USD
Tối đa: 120 USD
1.4. Chuyển nhượng
Trong nước
30 USD/giao dịch
Ngoài nước
40 USD/ giao dịch
1.5. Xác nhận L/C của NH đại lý phát hành
Thu theo biểu phí áp dụng cho các NH đại lý
2. Hàng nhập khẩu
2.1. Mở L/C
0.1%
Tối thiểu: 20 USD
Tối đa: 300 USD
2.2. Sửa đổi tăng tiền
0.1%
Tối thiểu: 20 USD
Tối đa: 300 USD
2.3. Sửa đổi khác
10 USD
2.4. Hủy L/C
10 USD
2.5. Thanh toán một bộ chứng từ
0.2%
Tối thiểu: 20 USD
Tối đa: 350 USD
2.6. Phí thực hiện hoàn trả theo L/C
25 USD/ hoàn trả
2.7. Rút vốn vay nước ngoài
0.2%
Tối thiểu: 20 USD
- Ngân hàng trực tiếp kí đơn rút vốn
Tối đa: 400 USD
- Ngân hàng đồng ý đơn rút vốn
Tối đa: 300 USD
2.3. Những rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT tại NHNT VN
2.3.1 Những rủi ro thường gặp trong thanh toán L/C nhập khẩu tại NHNT VN
Khi phát hành một L/C nhập khẩu, NHNT đã trở thành NHPH, và điều này có nghĩa là NHNT là ngân hàng có nghĩa vụ thanh toán cho người xuất khẩu. Đối với NHNT VN nói riêng và với các NHTM khác nói chung, có thể nói, đây là một trong những nghiệp vụ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Vì vậy, tuy đã xây dựng cho mình một quy trình thanh toán hàng nhập khá hoàn thiện, theo đúng các chuẩn mực quốc tế và quy định pháp luật trong nước nhưng NHNT cũng gặp phải rất nhiều rủi ro. Chúng ta hãy xem xét những rủi ro cụ thể gắn liền với quy trình thanh toánL/C nhập khẩu tại NHNT VN
- Phát hành L/C:
Tại NHNT, khi khách hàng muốn mở một L/C cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
Đơn yêu cầu phát hành thư tín dụng theo mẫu của NHNT.
Hợp đồng mua bán ngoại thương hoặc các giấy tờ có giá trị tương đương như hợp đồng (nếu có).
Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ quản lý chuyên ngành đối với hàng nhập khẩu có điều kiện.
Sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu phát hành L/C từ phía khách hàng, nhân viên ngân hàng sẽ kiểm tra tính hợp lệ của bộ hồ sơ và yêu cầu khách hàng kí quỹ. Tại NHNT, tất cả các yêu cầu ban đầu của khách hàng sẽ được nhận tại phòng quan hệ khách hàng. Hàng năm, vào đầu năm sẽ xây dựng hạn mức tín dụng cho khách hàng căn cứ vào tài sản thế chấp, hoạt động của khách hàng, hạn mức tín dụng này bao gồm cả phần tài trợ thương mại, bảo lãnh, dư nợ vay,… Do vậy, khi khách hàng có yêu cầu mở thư tín dụng, phòng quan hệ khách hàng là phòng đầu tiên tiếp nhận yêu cầu của khách hàng, sau đó căn cứ vào hạn mức tín dụng đã có hoặc xây dựng mới với khách hàng mới để thực hiện yêu cầu mở thư tín dụng theo mức kí quỹ bao nhiêu. Còn phần không kí quỹ sẽ trừ vào hạn mức tín dụng của khách hàng. Nếu khách hàng kí qũy 100% thì sẽ chuyển sang phòng thanh toán quốc tế. Sau khi hoàn thành bước kí quỹ, NHNT sẽ phát hành một L/C với các nội dung được căn cứ vào đơn yêu cầu mở L/C của khách hàng. Ngân hàng cần phải xác định một tỉ lệ kí quỹ hợp lý để vừa tạo điều kiện cho khách hàng (nhằm thu hút khách hàng, mở rộng thị trường), vừa tránh được những rủi ro có thể xảy ra. Đã xảy ra nhiều trường hợp, sau khi mở L/C, nhưng do biến động giá cả trên thị trường gây bất lợi cho người nhập khẩu nên người nhập khẩu không muốn nhận hàng, và do đó không thanh toán cho ngân hàng mặc dù ngân hàng đã thanh toán cho bên xuất khẩu. Hoặc cũng có trường hợp do không đánh giá đúng tình hình tài chính của khách hàng mà đến lúc ngân hàng đòi tiền khách hàng thì mới phát hiện ra khách hàng không đủ khả năng thanh toán cho NH. Vì vậy việc xác định tỉ lệ kí quỹ thích hợp là rất quan trọng.
- Tiếp nhận và kiểm tra chứng từ:
Sau khi nhận được bộ chứng từ từ NH nước ngoài gửi về, NHNT lúc này với tư cách là NHPH sẽ phải kiểm tra tính phù hợp của bộ chứng từ so với những quy định trong L/C. Đây là một công việc rất quan trọng. Kết quả của việc kiểm tra tính phù hợp của bộ chứng từ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định thanh toán hay không thanh toán của NH.Nếu bộ chứng từ có lỗi nhưng ngân hàng không phát hiện ra thì ngân hàng việc sẽ có thể phải chịu thiệt hại về mặt kinh tế mà còn bị giảm uy tín với khách hàng. Còn nếu như, bộ chứng từ là hoàn hảo nhưng NH lại từ chối thanh toán thì không những NH vẫn phải thanh toán cho bộ chứng từ đó mà còn phải chịu một mức lệ phí phạt cao, và uy tín của NH cũng sẽ bị tổn thương. Tuy nhiên đây việc tiếp nhận và kiểm tra chứng từ cũng là một công việc rất phức tạp. Và do đó, đây là khâu trong thực tế hay xảy ra rủi ro nhất.
- Hủy L/C
Khi có yêu cầu hủy L/C từ người làm đơn mở L/C, NH cần phải thông báo ngay cho các bên có liên qua và yêu cầu các bên có liên quan trả lời bằng văn bản về quyết định chấp nhận hay không việc hủy bỏ L/C đã mở. NH không chấp nhận hủy L/C trong trường hợp khách hàng đã nhận hàng thông qua bảo lãnh nhận hàng của NH và xảy ra tranh chấp thương mại mặc dù 2 bên đã đồng ý hủy những chưa được sự chấp thuận hủy L/C của các ngân hàng có liên quan. Tuy nhiên có nhiều trường hợp, một số chi nhánh của NHNT vì quyền lợi của khách hàng của mình mà làm trái quy trình nghiệp vụ.
Bảo lãnh ủy quyền nhận hàng theo L/C:
NHNT chỉ phát hành ủy quyền nhận hàng, kí hậu B/L, phát hành bảo lãnh nhận hàng khi khách hàng phải cam kết chấp nhận thanh toán và phải có thư yêu cầu. Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ủy quyền nhận hàng có nghĩa là ngân hàng đã cho phép nhà nhập khẩu đi lấy hàng khi nhà nhập khẩu chưa thanh toán bộ chứng từ cho ngân hàng. Vì vậy nghiệp vụ này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Đã xảy ra những trường hợp NHNT mở L/C nhập hàng và bảo lãnh cho một số doanh nghiệp đi nhận hàng khi chưa thanh toán nhưng sau đó các doanh nghiệp này rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán (phá sản, vỡ nợ,…) hoặc các doanh nghiệp này cố tình không thanh toán cho ngân hàng. Khi rơi vào tình huống này, ngân hàng sẽ phải chịu thiệt hại về mặt tài chính và quan trọng là uy tín của NH sẽ bị giảm đi đáng kể. Và thông thường, NHNT phải đàm phán, thương lượng với phía ngân hàng nước ngoài để xin gia hạn thời gian thanh toán. Trong trường hợp đối tác nước ngoài không đồng ý sự gia hạn, theo thông lệ quốc tế, NHNT sẽ phải chịu trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng nước ngoài thay cho người nhập khẩu. Và thông thường thì khả năng thu hồi tiền từ người nhập khẩu từ những trường hợp này là không cao.
Rủi ro trên cũng là một rủi ro hay xảy ra khi NHNT phát sinh một L/C trả chậm. Trong thời gian trả chậm, nếu như tình hình tài chính của người nhập khẩu không có vấn đề gì và họ có thiện chí trả tiền thì mọi việc sẽ hoàn toàn thuận lợi. Tuy nhiên, nếu trong thời gian trả chậm, người nhập khẩu gặp khó khăn về mặt tài chính, mất khả năng thanh toán thì đến hạn để đảm bảo uy tín của mình, NHNT sẽ phải đứng ra thanh toán cho NH nước ngoài.
2.3.2. Những rủi ro thường gặp trong thanh toán L/C nhập khẩu tại NHNT VN
Khác với trường hợp L/C xuất khẩu, trong trường hợp này, NHNT đóng vai trò là ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu. Và do đó nhiệm vụ của NHNT là kiểm tra bộ chứng từ do người xuất khẩu xuất trình để gửi đi đòi tiền NH nước ngoài. Những rủi ro trong thanh toán L/C xuất khẩu thường là ở các bước sau:
Tiếp nhận và sửa đổi L/C:
Khi NHNT nhận được bộ chứng từ từ ngân hàng nước ngoài gửi đến, nhiệm vụ của NHNT lúc này là kiểm tra tính chân thực bề ngoài của L/C đó. Vì lúc này NHNT vừa đóng vai trò là NHTB vừa đóng vai trò là NHđCĐ nên công việc kiểm tra tính chân thực bề ngoài của L/C là rất quan trọng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tính an toàn của chính mình. Nếu như NHNT không xác minh được tính chân thực bề ngoài của L/C thì phải ghi rõ là thông báo sơ bộ chưa có hiệu lực thi hành và không ràng buộc bất cứ trách nhiệm nào về phía ngân hàng để tránh việc người thụ hưởng hiểu nhầm rằng đó là L/C có hiệu lực và đã xác minh tính chân thực bề mặt. Nếu như trong bước này NHNT không xác định đúng là L/C đó có tính chân thực bề ngoài hay không, hay nói cách khác L/C đó có phải là một L/C giả hay không thì sau này NH sẽ gặp rất nhiều rủi ro. Và theo quy định của UCP 600 hiện nay thì NHNT lúc đó sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với các bên có liên quan. Do NHNT lúc này là ngân hàng của nhà xuất khẩu nên NHNT phải xem xét các điều khoản trong L/C để xem các yêu cầu trong L/C có thể thực hiện được hay không (có tính khả thi hay không). Nếu NHNT thông báo cho người xuất khẩu những L/C có những điều kiện không thể thực hiện được hoặc có những điều kiện gài bẫy thì lúc đó cả NHNT lẫn người xuất khẩu sẽ gặp phải rủi ro, vì đến lúc lập bộ chứng từ sẽ không đáp ứng được các yêu cầu trong L/C (điều này có nghĩa là không đòi được tiền từ NH nước ngoài). Thêm vào đó, nếu xảy ra rủi ro này thì uy tín của NHNT đối với khách hàng trong nước lẫn với NH nước ngoài cũng bị ảnh hưởng.
Thông báo kèm xác nhận:
Trong nhiều trường hợp, NHNT được đề nghị làm NHXN. Về nguyên tắc, NHNT sẽ không xác nhận những L/C mà NHPH không có quan hệ đại lý với NHNT. Việc quyết định có chấp nhận làm NHXN không là rất quan trọng. NHNT đã gặp một số trường hợp, NHPH là những ngân hàng không có uy tín cao, tình hình tài chính không đảm bảo, và kết quả là khi NHPH không đủ khả năng thanh toán cho người xuất khẩu, NHNT đã phải đứng ra thanh toán. Hoặc cũng có trường hợp NHPH không có thiện chí trả tiền dẫn đến tranh chấp. Và cho dù cuối cùng có đòi được tiền từ NHPH, NHNT cũng bị kéo vào việc tranh chấp, kiện tụng, gây ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Tiếp nhận và kiểm tra chứng từ:
Khi nhận được bộ chứng từ từ nhà xuất khẩu, nhiệm vụ của NHNT là kiểm tra bộ chứng từ đó xem có phù hợp với các yêu cầu được quy định trong L/C. Đây là một nghiệp vụ rất quan trọng và phức tạp. NHNT sẽ kiểm tra về loại chứng từ, hình thức chứng từ, số lượng từng loại chứng từ, nội dung từng chứng từ. Thực tế vì Việt Nam mới bước vào thương mại quốc tế nên do thiếu kinh nghiệm nên nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thường mắc rất nhiều lỗi trong bộ chứng từ, từ những lỗi như hình thức chứng từ, số lượng chứng từ, hay nghiêm trọng hơn là những lỗi về nội dung chứng từ.
Về hình thức chứng từ: Hiện nay chưa có một mẫu thống nhất nào về các chứng từ dùng trong thanh toán TDCT, do đó thông thường hiện nay các chứng từ là do doanh nghiệp tự lập. Nhiều doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm hoặc do cẩu thả đã mắc các lỗi vì hình thức. Thông thường các lỗi hay gặp là số tiền ghi bằng số và bằng chữ không khớp nhau, sai đơn vị tiền tệ, in sai, in lệch,…
Về mặt số lượng chứng từ: Nhiều doanh nghiệp do không hiểu hoặc do tập quán thương mại khác nhau giữa các vùng nên đã xuất trình không đủ chứng từ so với yêu cầu trong L/C.
Về mặt nội dung chứng từ: Thực tế hiện nay, phần lớn các bộ chứng từ do doanh nghiệp gửi đến NH đều có những sai sót về mặt nội dung. Những sai sót về mặt nội dung mà các khách hàng khi gửi bộ chứng từ đến NHNT hay gặp có là: về mô tả hàng hóa trên hóa đơn thương mại khác với mô tả hàng hóa trong L/C, sai mẫu chữ kí hoặc không có chữ kí đăng kí, hối phiếu ghi trả theo lệnh của người bán (thực tế phải ghi là hối phiếu trả theo lệnh của NHPH), trên hóa đơn thương mại ghi sai mã hàng, số lượng hàng hóa so với trong L/C, ghi sai cảng giao hàng, cảng dỡ hàng,…
Trên đây là những lỗi mà khách hàng hay gặp phải khi nộp bộ chứng từ lên NHNT. Việc kiểm tra kĩ bộ chứng từ để phát hiện ra những lỗi này là vô cùng quan trọng. Vì vậy có thể nói đây là một khâu tiềm ẩn khá nhiều rủi ro của ngân hàng. Ngân hàng cần phải kiểm tra kĩ bộ chứng từ trong một thời gian nhanh nhất có thể, để nếu phát hiện ra lỗi thì phải thông báo ngay cho khách hàng để khách hàng có đủ thời gian sử chữa lại nhữg sai sót để có thể xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng nước ngoài trong thời hạn xuất trình. Nếu vì một lý do nào đó, ngân hàng bỏ qua lỗi và gửi bộ chứng từ có lỗi đi đòi tiền ngân hàng nước ngoài. Lúc đó việc ngân hàng nước ngoài từ chối trả tiền cho bộ chứng từ đó là hoàn toàn có thể xảy ra. Và lúc này việc có trả tiền hay không phụ thuộc vào thiện chí trả tiền của ngân hàng nước ngoài và của người nhập khẩu. Trong trường hợp này, người sẽ gặp phải rủi ro lớn nhất đó là người xuất khẩu. Hàng đã giao nhưng lại đứng trước nguy cơ không đòi được tiền. Còn ngân hàng, khi đó, tuy không gặp rủi ro về tài chính nhưng sẽ mất uy tín đối với khách hàng trong nước và với ngân hàng nước ngoài.
Chiết khấu chứng từ:
NHNT chấp nhận chiết khấu bộ chứng từ dưới hai hình thức là truy đòi và miễn truy đòi.
Các điều kiện để NHNT thực hiện chiết khấu miễn truy đòi là:
L/C trả ngay và cho phép đòi tiền bằng điện.
L/C quy định: vận đơn lập theo lệnh của NHPH và toàn bộ vận đơn gốc sẽ được xuất trình qua NHNT.
Chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều kiện và điều khoản quy định trong L/C.
NHPH phải là ngân hàng có uy tín trên thị trường quốc tế, thường xuyên giao dịch với NHNT, thanh toán sòng phẳng.
Thị trường truyền thống
Một số thông tin khác liên quan đến mặt hàng và giá cả trên thị trường của mặt hàng xuất khẩu vào thời điểm chiết khấu.
Thư yêu cầu thanh toán đề nghị chiết khấu miễn truy đòi phải có đầy đủ chữa kí của Chủ tài khoản và Kế toán trưởng (nếu có đăng kí kế toán trưởng).
Điều kiện để NHNT chấp nhận chiết khấu truy đòi:
NHPH là ngân hàng có uy tín.
Thị trường truyền thống.
Khách hàng có tín nhiệm, có quan hệ thanh toán tốt, mở tài khoản và hoạt động thường xuyên tại NHNT.
Khách hàng có tín nhiệm, có quan hệ thanh toán tốt, mở tài khoản và hoạt động thường xuyên tại NHNT.
Khách hàng cam kết hoàn trả số tiền NHNT đã chiết khấu trong trường hợp ngân hàng trả tiền từ chối thanh toán.
Thư yêu cầu chiết khấu truy đòi phải có đầy đủ chữ kí của chủ tài khoản và kế toán trưởng (nếu có đăng kí kế toán trưởng).
Chiết khấu khi nhận được điện chấp nhận thanh toán và hoặc hối phếu được kí hậu chấp nhận thanh toán vào ngày đáo hạn bởi NHPH/NHXN L/C đối với những bộ chứng từ hàng xuất trả chậm có thời hạn từ 60 ngày đến 360 ngày.
Lãi suất chiết khấu thường nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất cho vay ngoại tệ trong cùng thời kì.
Tỷ lệ chiết khấu thường nhỏ hơn 100% trị giá hóa đơn.
Trong thực tế, hiện nay, NHNT chỉ thực hiện chủ yếu là nghiệp vụ chiết khấu có truy đòi, còn nghiệp vụ chiết khấu miễn truy đòi vì tính rủi ro cao nên nghiệp vụ này không được thực hiện phổ biến ở NHNT. Tuy các điều kiện đã quy định chặt chẽ như vậy nhưng trong thực tế NHNT cũng đã gặp nhiều rủi ro từ nghiệp vụ này. Đối với nghiệp vụ chiết khấu có truy đòi trong trường hợp NH nước ngoài không thanh toán tiền cho NHNT thì tuy NHNT có quyền truy đòi khoản tiền đó từ người xuất khẩu, tuy nhiên, luc đó việc có thanh toán cho NHNT hay không không chỉ phụ thuộc vào thiện chí trả tiền của khách hàng mà còn phụ thuộc vào khả năng tài chính của khách hàng vào thời điểm đó. Đã xảy ra nhiều trường hợp, sau khi NHNT thực hiện chiết khấu cho khách hàng như sau đó NH nước ngoài không chấp nhận thanh toán cho NHNT nên NHNT thực hiện truy đòi từ khách hàng, tuy nhiên khách hàng do không có khả năng chi trả vào thời điểm đó nên NHNT vẫn chưa thu hồi được số tiền đã chiết khấu.
2.4. Nguyên nhân gây ra những rủi ro trong hoạt động thanh toán TDCT tại NHNT VN.
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
- Hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế còn nhiều bất cập
Tuy NHNT ra đời từ năm 1963 nhưng mãi đến năm 1998 Luật ngân hàng mới ra đời. Song Luật ngân hàng hàng còn nhiều điểm còn chưa sát với những hoạt động thực tế của NH nên trong hoạt động của NH còn gặp nhiều khó khăn. Đối với hoạt động thanh toán quốc tế, hiện tại hầu chưa có một văn bản trong nước nào điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia trong hoạt động TTQT nói chung và hoạt động tín dụng chứng từ nói riêng. Trong lúc đó các nước khác trong khu vực và quốc tế đã có luật hoặc các văn bản dưới luật quy định các trách nhiệm và nghĩa vụ và chế tài xử lý các mối quan hệ trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Hiện nay ở Việt Nam, trong hoạt động thanh toán TDCT, các bên liên quan hầu hết đều lấy UCP làm căn cứ quy định trách nhiệm, quyền hạn. Tuy nhiên, như đã tìm hiểu ở phần trên, UCP không phải là thông lệ quốc tế, không phải là luật. Người ta có thể sử dụng hoặc không sử dụng UCP tùy thích. Hơn nữa, cho đến nay vẫn chưa có các văn bản thừa nhận việc áp dụng các quy định của UCP, và do đó, nếu có vi phạm thì việc xử phạt cũng chưa có một chế tài nào để căn cứ. Các văn bản quy định, hướng dẫn giao dịch thanh toán quốc tế là rất cần thiết, không chỉ đối với những chủ thể trực tiếp tham gia vào đoạt động thanh toán quốc tế mà còn đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Trong thực tế, do thiếu các các văn bản pháp lý cần thiết, nên rủi ro xảy đến với các NHTM là rất lớn. Cụ thể với NHNT, trong hoạt động thanh toán, do có những mâu thuẫn giữa thông lệ quốc tế và Việt Nam nên NHNT gặp phải rất nhiều khó khăn. Một ví dụ cho rủi ro dạng này đó là như ta đã biết trong phương thức thanh toán TDCT, ngân hàng chỉ có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ và nếu bộ chứng từ là hoàn hảo thì ngân hàng phải có nghĩa vụ trả tiền. Còn việc thực tế hàng hóa nếu không đúng trong hợp đồng thương mại thì tranh chấp đó là của hai bên xuất khẩu và nhập khẩu và hoàn toàn không liên quan đến ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam lại không phải như vậy. Đã từng xảy ra rất nhiều doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam khi nhận hàng và kiểm tra hàng hóa thấy không đúng với hợp đồng đã kiện lên tòa án Việt Nam. Và tòa án Việt Nam đã ra quyết định không cho NHNT VN thanh toán cho ngân hàng nước ngoài. Như vậy, khi thực hiện phán quyết của tòa án VN, NHNT vô hình chung đã làm trái với thông lệ, luật pháp quốc tế. Và NHNT thực tế đã bị các ngân hàng nước ngoài kiện ra tòa án quốc tế. Điều này ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến uy tín của NHNT trên thị trường quốc tế. Do đã từng xảy ra rất nhiều trường hợp như vậy , nên khi NHNT phát hành một L/C sẽ không được ngân hàng nước ngoài chấp nhận, và nếu có chấp nhận họ sẽ yêu cầu L/C đó được xác nhận bởi một ngân hàng thứ 3 mà họ đánh giá là có uy tín cao hơn. Ngoài việc mất thêm chi phí xác nhận, thì vấn đề uy tín của NHNT cũng bị ảnh hưởng rất lớn.
Bên cạnh đó, nước ta tuy đã có văn bản quy định về quản lý ngoại hối nhưng các văn bản này còn có nhiều bất cập. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, nên có nhiều điểm chồng chéo nhau nên khó áp dụng vào thực tế hoạt động của ngân hàng trong hoạt động thanh toán TDCT. Việc chuyển tiền ra nước ngoài tuy được quy định khá chặt chẽ với nhiều thủ tục đã cô tình làm cản trở, hạn chế sự phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy đã có quy định về chuyển tiền ra nước ngoài nhưng lại chưa có văn bản pháp luật nào quy định về việc chuyển tiền ra nước ngoài liên quan đến hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ. Điều này đã tạo khe hở cho các doanh nghiệp tìm cách lách luật. Cụ thể là chưa có một văn bản pháp luật nào nói rõ NHTM có cần phải kiểm tra giấy phép, Quota nhập khẩu của doanh nghiệp mở L/C hay không. Thông thường trong hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, nguồn luật thường được áp dụng là UCP, nhưng UCP hoàn toàn không đề cập đến vấn đề này. Do đó, nếu NH không kiểm tra vấn đề này, doanh nghiệp sẽ có thể mở nhiều L/C ở nhiều NH khác nhau trong khi chỉ có một Quota nhập khẩu. Nếu sự việc được đưa ra tòa án thì doanh nghiệp sẽ phải trực tiếp chịu trách nhiệm, tuy nhiên NH cũng sẽ bị liên đới, có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Vì vậy, việc xây dựng một văn bản pháp luật cụ thể điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể có liên quan đến hoạt động thanh toán TDCT là rất cần thiết và cấp bách. Vì trong hoàn cảnh hiện nay, rủi ro có thể xảy đến với các NHTM do thiếu một hành lang pháp lý là rất lớn.
Các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước còn hạn chế nhiều về kiến thức, kinh nghiệm và năng lực tài chính
Thực tế hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu VN còn rất ít kinh nghiệm, kiến thức về ngoại thương và hiểu biết về thông lệ quốc tế, trình độ ngoại ngữ còn nhiều hạn chế. Đây là một khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp khi kí kết các hợp đồng ngoại thương. Sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ công thêm thói quen của các doanh nghiệp Việt Nam là không tìm hiểu kĩ về đối tác trước khi kí kết hợp đồng đã dẫn đền nhiều doanh nghiệp đã chấp nhận những điều kiện bất lợi cho mình trong hợp đồng. Hoặc doanh nghiệp kí kết hợp đồng với những doanh nghiệp nước ngoài có uy tí không cao, thiếu trung thực, thiếu thiện chí. Điều đó dễ dàng dẫn đến việc doanh nghiệp không thể thực hiện được các điều kiện đã quy định trong L/C, và vì vậy việc không đòi được tiền là hoàn toàn có thể xảy ra hoặc doanh nghiệp nước ngoài không có thiện chí thanh toán tiền. Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt Nam thường có suy nghĩ khi đã có sự tham gia của ngân hàng thì chắc chắn mình sẽ đòi được tiền. Đây là một lối suy nghĩ hoàn toàn sai lầm. Ngân hàng chỉ có thể tư vấn cho doanh nghiệp, còn việc thỏa thuận các điều kiện trong L/C hay việc lập bộ chứng từ đều là việc của doanh nghiệp. Chính vì lối suy nghĩ sai lầm này nên khi có tranh chấp hoặc trường hợp xấu nhất là không đòi được tiền, doanh nghiệp thường đổ trách nhiệm lên ngân hàng. Bên cạnh đó, có một số ít các doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam do không hiểu biết về thông lệ quốc tế hoặc không có thiện chí thanh toán nên khi có tranh chấp xảy ra về việc hàng hóa không đúng trong hợp đồng đã trì hoãn việc trả tiền cho ngân hàng. Việc này thường đẩy ngân hàng vào những tranh chấp phát sinh không đáng có giữa khách hàng và NHNT hoặc NHNT và ngân hàng nước ngoài.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
- Công nghệ thanh toán của NHNT chưa đáp ứng hết được nhu cầu về thanh toán
Có thể nói, so với các NHTM khác ở Việt Nam hiện nay, công nghệ thanh toán của NHNT vẫn được đánh giá là khá hiện đại. Tuy nhiên, công nghệ thanh toán của NHNT vẫn chưa bắt kịp được với sự phát triển từng ngày của công nghệ ngân hàng trong khu vực và quốc tế. Công nghệ của NHNT tuy hiện đại nhưng chưa đồng bộ. Hoạt động TTQT của NHNT ngày càng phát triển, tuy nhiên hệ thống thanh toán của NHNT đã thể hiện sự quá tải. Ngoài ra, việc cập nhập và nắm bắt thông tin kinh tế thế giới và các thị trường các nước để có thể đưa ra thông tin tư vấn cho các khách hàng NHNT cũng chưa làm tốt.
- Trình độ cán bộ thanh toán của NHNT cần phải nâng cao hơn nữa
Hiện nay Việt Nam đã trở thành một thành viên chính thức của WTO, điều này sẽ sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các NHTM VN nói chung và NHNT nói riêng mở rộng và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Do đó, các thanh toán viên cần không ngừng nâng cao trình độ, tìm hiểu nghiệp vụ mới. Hơn nữa, các thanh toán viên cần phải chú ý đến quy trình nghiệp vụ, tránh dẫn đến sai sót, gây khó khăn cho khách hàng.
Chương 3
Bài học rút ra và một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán TDCT tại NHNT VN
3.1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại NHNT VN
Có thể nói, trong năm 2007 vừa qua, NHNT VN đã tiếp tục giữ vững vị thế của một NHTM NN hàng đầu với chất lượng hoạt động tốt, quy mô tăng trưởng ổn định, hiệu quả cao, thương hiệu NHNT VN đến nay đã được khẳng định tại cả thị trường trong nước và quốc tế. Đến cuối năm 2007, về cơ bản hệ thống mạng lưới của NHNT VN đã phủ sóng tới những vùng trọng điểm trên toàn quốc với gần 200 chi nhánh và phòng giao dịch, có quan hệ đại lý với hơn 1000 ngân hàng trên toàn cầu. Tổng tài sản của ngân hàng đã đạt gần 196 nghìn tỉ đồng, tăng 17,4% so với năm 2006. Tổng thu nhập trước thuế đạt hơn 3000 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước gần 1000 tỷ đồng. Đặc biệt hệ số an toàn vốn đạt hơn 12%, cao hơn mức yêu cầu thông lệ quốc tế. Cơ cấu thu nhập có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng thu nhập từ lãi và tăng tỷ trọng từ các hoạt động khác (năm 2007 các tỷ trọng này là 65%-35%). Bên cạnh việc củng cố mối quan hệ với các bạn hàng là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước lớn, NHNT đã mở rộng phát triển khách hàng ra khu vực ngoài quốc doanh, doanh nghiệp nhỉ và vừa (SME). NHNT cũng là NHTM đầu tiên trong số các NHTM trích lập đủ dự phòng rủi ro chung theo quy định trước thời hạn yêu cầu của NHNN. Không chỉ chú trọng đến hoạt động kinh doanh, NHNT còn luôn ý thức chấp hành đúng các quy định pháp luật, tích cực trong các công tác xã hội, từ thiện, có nhiều đóng góp cho xã hội được cộng đồng ghi nhận.
Khi Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO, lĩnh vực xuất nhập khẩu sẽ trở thành một trong các lĩnh vực chịu nhiều ảnh hưởng nhất từ công cuộc hội nhập này . Năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn tốc độ tăng chung, chứng tỏ khu vực này đã tận dụng được cơ hội do vị thế mới của thành viên WTO. Nếu không kể dầu thô bị sút giảm thì kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng khác của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) còn tăng cao hơn khu vực kinh tế trong nước. Nếu tình bằng USD, tính đến tháng 11 năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDP đạt 67,9% thuộc loại cao ở châu Á và thế giới. So với năm 2006 xuất khẩu tăng 21,5%. Trước sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực xuất nhập khẩu, thị trường TTQT của các NHTM VN cũng có nhiều cơ hội mới. Vốn là một lĩnh vực truyền thống của mình, NHNT đang không ngừng hoàn thiện và xây dựng một quy trình thanh toán quốc tế tiên tiến nhất. NHNT VN cũng xác định sẽ tiếp tục phấn đấu để giữ vững và mở rộng thị phần thanh toán xuất nhập khẩu.
3.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động thanh toán TDCT tại NHNT VN
3.2.1. Thận trọng trong việc lựa chọn và thẩm định khách hàng
Như đã tìm hiểu ở phần trên, có thể nói, trong hoạt động thanh toán TDCT, rủi ro đến từ phía khách hàng là rất lớn. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam còn chưa có nhiều kinh nghiệm và uy tín chưa cao với các NHTM. Ngoài các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty nhà nước, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ phần lớn chưa hiểu rõ luật pháp, thông lệ cũng như các tập quán thanh toán quốc tế. Chính vì sự thiếu hiểu biết này nên các doanh nghiệp sẽ rất dễ gặp khó khăn khi tham gia vào thị trường quốc tế. Mặt khác, các thủ đoạn lừa đảo của khách hàng ngày càng tinh vi và phức tạp, việc rủi ro từ việc lập chứng từ giả, hối phiếu giả là một trong những rủi ro thường gặp trong thời gian những năm gần đây của không chỉ NHNT VN mà còn của cả các NHTM trong nước khác. Ngoài ra, việc khách hàng mất khả năng thanh toán khi đến hạn trả tiền cho ngân hàng cũng là một rủi ro rất dễ xảy ra. Để tránh được những rủi ro này, việc quan trọng của NH đó là phải thận trọng trong việc lựa chọn và thẩm định khách hàng. NHNT cần phải thu thập thông tin của khách hàng từ nhiều nguồn khác nhau để có được những thông tin chính xác và tổng hợp về tình trạng tài chính của khách hàng cũng như uy tín của khách hàng từ trước tới nay. Việc thẩm định này vô cùng quan trọng. Nếu NH thực hiện không tốt việc thẩm định khách hàng thì hoặc NH sẽ tự làm mất khách hàng, hoặc sẽ thẩm định nhầm chất lượng khách hàng, lúc đó, rủi ro đối với khách hàng sẽ rất cao.
3.2.2. Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế và nâng cao trình của thanh toán viên.
Cùng với sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu, các nghiệp vụ thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng và phức tạp. Vì vậy, việc xây dựng một quy trình thanh toán tiên tiến, hoàn thiện là rất quan trọng. Ngoài ra, NHNT còn cần phải quan tâm đến việc nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở vật chất để có thể phát triển đồng bộ tương xứng với sự phát triển của hoạt động thanh toán của ngân hàng. Bên cạnh đó, việc nâng cao trình độ của thanh toán viên là một việc NHNT cần chú trọng thực hiện. Thanh toán viên chính là cầu nối của ngân hàng với khách hàng. Việc nâng cao trình độ của thanh toán viên chính là nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao uy tín của khách hàng. Ngoài ra, việc nâng cao uy tín của thanh toán viên còn làm giảm nguy cơ rủi ro của ngân hàng đi rất nhiều.
3.2.3. Nắm bắt thông tin về tình hình kinh tế quốc tế kịp thời và có kênh thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác về từng thị trường
Việc tìm hiểu, thu thập thông tin về các ngân hàng nước ngoài cũng như thị trường nước ngoài mà ngân hàng hoạt động là rất quan trọng. Đã có nhiều rủi ro xảy ra do ngân hàng thiếu thông tin về thị trường, về tập quán thanh toán tại thị trường đó. Ngân hàng cần tìm ra các kênh thông tin chính xác, kịp thời để ngoài việc có thể tư vấn cho khách hàng, các thông tin này còn giúp ngân hàng có thể giảm thiểu nguy cơ xảy ra các rủi ro. Ngoài việc tìm hiểu thông tin về thị trường, việc nắm bắt thông tin về những biến động giá cả của hàng hóa trong L/C, biến động tỷ giá trên thị trường, cũng là những thông tin ngân hàng cần quan tâm.
3.3. Những giải pháp cụ thể nhằm hạn chế rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT tại NHNT VN
3.3.1. Đổi mới, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng
Có thể nói, trong thế kỉ 21, công nghệ là chìa khóa mở ra mọi thành công. Và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật này. Ý thức được sự quan trọng của công nghệ đối với sự phát triển của ngân hàng, ngay từ những bước đầu phát triển, NHNT đã luôn luôn chú trọng đến việc đầu tư, phát triển công nghệ vào hoạt động của NH. Ngay từ đầu những năm 90, NHNT đã chính thức tham gia vào thị trường tiền tệ thế giới, và là một trong những ngân hàng đầu tiên của Việt Nam xác lập các quan hệ tiền tệ, gia nhập tổ chức SWIFT, tự động hóa việc chuyển tiền, trở thành ngân hàng đầu tiên tại VN phát hành các loại thẻ tín dụng quốc tế (Master, Visa,…), trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội ngân hàng Châu Á. Từ năm 2005 NHNT VN đã tiến hành một loạt các dự án có tính chiến lược là dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Mục tiêu của dự án này là ứng dụng một hệ thống tích hợp với kho dữ liệu tập trung phục vụ cho mục tiêu kinh doanh hướng tới khách hàng. Dự án bao gồm toàn bộ mảng nghiệp vụ của ngân hàng hàng: Ngân hàng lõi (thông tin khách hàng, tiền gửi, chuyển tiền, thấu chi, sổ cái), tài trợ thương mại, kinh doanh vốn, kho dữ liệu và hệ thông tin quản lý nhằm nâng cao cả hai mặt quản lý của nội bộ ngân hàng và tiện ích phục vụ khách hàng. Hiện nay, để hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc tế, NHNT đã đầu tư hệ thống công nghệ cho phép tập trung hóa và vi tính hóa mọi thông tin và xử lý giao dịch cho khách hàng. Đây là những lợi thế rất quan trọng và riêng có để NHNT luôn có thể đáp ứng các nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất cho khách hàng của mình.
Việc ứng dụng các công nghệ mới vào hoạt động của ngân hàng đã góp phần làm thay đổi về tổ chức quản trị, về cấu trúc cung ứng dịch vụ, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động trong toàn bộ quy trình cung ứng dịch vụ của ngân hàng. Hiện nay, NHNT VN vẫn là ngân hàng đi đầu trong việc ứng dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại, tiên tiến. Điều này góp phần không nhỏ trong việc nâng cao tính an toàn và hiệu quả của hoạt động thanh toán nói riêng và các hoạt động khác của ngân hàng nói chung. Cụ thể, trong hoạt động TTQT, việc áp dụng công nghệ khoa học, kĩ thuật hiện đại sẽ giúp ngân hàng rút ngắn thời gian thanh toán, giảm bớt chi phí giao dịch, nâng cao hiệu quả trong việc xác định tính chân thực của bộ chứng từ. Điều này sẽ làm giảm bớt các rủi ro có thể phát sinh trong thanh toán.
3.3.2. Đẩy mạnh và phát triển hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
Hiện nay, tại NHNT VN hoạt động TTQT và tài trợ xuất nhập khẩu luôn gắn liền với nhau. Điều này sẽ làm cho ngân hàng có thể dễ dàng mở rộng và phát triển nghiệp vụ này. Thực tế hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đều xây dựng được uy tín trên thị trường quốc tế. Thêm vào đó, nguồn vốn của các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc tạo điều kiện thuận lợi về mặt tài chính cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam về phía các doanh nghiệp sẽ là sự hỗ trợ rất lớn cho các doanh nghiệp này phát triển hoạt động thương mại quốc tế, còn về phía ngân hàng, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu sẽ giúp NH mở rộng thị trường, tăng thêm thị phần của mình trên thị trường thanh toán xuất nhập khẩu. Ngoài ra, việc tài trợ xuất nhập khẩu còn làm cho ngân hàng có thể làm phong phú thêm danh mục sản phẩm của mình, tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. Việc thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp có thể giúp cho ngân hàng hạn chế phần nào rủi ro là vì khi ngân hàng quyết định tài trợ cho doanh nghiệp, nghĩa là ngân hàng đã phải tìm hiểu rất kĩ về doanh nghiệp đó. Và vì vậy, nguy cơ rủi ro cũng được hạn chế phần nào.
3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định và liên kết với các ngân hàng khác trong công tác tìm hiểu về khách hàng
Bên cạnh việc tài trợ xuất nhập khẩu, việc thẩm định các dự án xuất nhập khẩu cũng có ý nghĩa rất quan trọng để đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Trên thực tế, rất nhiều các rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT là do ngân hàng thực hiện chưa tốt công tác thẩm định; ngân hàng thiếu các thông tin cần thiết về khách hàng, về các ngân hàng tham gia thanh toán. Để khăc phục rủi ro này, NHNT cần phải nâng cao chất lượng thẩm định, thiết lập hệ thống thông tin giữa các ngân hàng về khách hàng (như uy tín khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng,…)
3.3.4. Đa dạng hóa các hình thức thanh toán
Có thể nói, nhu cầu thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp ngày càng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, nghiệp vụ thanh toán chủ yếu là mở L/C không hủy ngang, L/C trả ngay. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, NHNT cần mở rộng thêm các hoạt động thanh toán. Ví dụ như xác nhận L/C, mở L/C trả chậm, tư vấn để khách hàng có thể sử dụng các loại L/C đặc biệt như L/C điều khoản đỏ, L/C giáp lưng, L/C dự phòng,… trong từng hoàn cảnh thích hợp. Bên cạnh đó, NHNT cần nên đa dạng hóa các hình thức kinh doanh ngoại hối, phát triển các nghiệp vụ quyền chọn, hoán đổi, kì hạn,… để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng và phục vụ tốt cho hoạt động thanh toán của NH. Mặc dù việc đa dạng hóa các hình thức thanh toán rất phức tạp, cần nhiều thời gian và có thể gặp nhiều rủi ro, tuy nhiên, trong quá trình phát triển của nền kinh tế hiện nay, xu hướng này là một điều tất yếu. Nó sẽ tạo cho NH có thể đa dạng hóa danh mục sản phẩm, nâng cao thu nhập của NH.
3.3.5. Tăng cường công tác hỗ trợ, tư vấn khách hàng
Tuy đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO, nhưng trên thực tế các doanh nghiệp XNK Việt Nam đều có rất ít kinh nghiệm và hiểu biết về nghiệp vụ ngoại thương. Chính điểm yếu này làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn bất lợi trong các hợp đồng ngoại thương như chấp nhận các điểu khoản bất lợi cho mình, chấp nhận các điều khoản không thể thực hiện được, không thể lập được bộ chứng từ hoàn hảo. Do vậy, nguy cơ xảy ra rủi ro là rất lớn cho các doanh nghiệp và cả các NHTM Việt Nam. Vì thế, NHNT cần nâng cao việc tư vấn cho khách hàng ngay từ lúc khách hàng bắt đầu kí hợp đồng ngoại thương. Những tư vấn, góp ý của NH ngay từ khâu kí hợp đồng sẽ làm hạn chế rất nhiều rủi ro về sau. Và vì vậy rủi ro của NH cũng sẽ được giảm đi rất nhiều.
3.3.6. Nâng cao trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của thanh toán viên
Có thể nói thanh toán viên chính là cầu nối giữa NH và khách hàng. Chính vì vậy việc nâng cao, bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ một công việc rât quan trọng. Các nghiệp vụ thanh toán ngày càng đa dạng và phức tạp, công nghệ ngân hàng thay đổi hàng ngày. Nếu không được bồi dưỡng nghiệp vụ một cách thường xuyên, thanh toán viên rất dễ bị tụt hậu. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả công việc, gây ra rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng. Do vậy, một trong những biện pháp làm giảm rủi ro trong thanh toán của NHNT là phải luôn luôn nâng cao, bồi dưỡng trình độ của thanh toán viên.
3.3.7. Xây dựng chính sách khách hàng phù hợp
Thực tế hiện nay, khi các NHTM ngày được thành lập càng nhiều, thị phần thanh toán nói riêng và thị phần thị trường tài chính ngân hàng nói chung sẽ bị chia sẻ đi nhiều. NHNT vốn là ngân hàng có truyền thống trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Vì vậy, để không những giữ vững thị phần của mình và mở rộng thị trường, NHNT cần phải xây dựng chính sách khách hàng hợp lý và linh hoạt. Để làm tốt điều này, NHNT nên phân nhóm khách hàng. Với từng nhóm khách hàng ngân hàng cần có những chính sách phù hợp Đối với những khách hàng truyền thống, ngân hàng cần có những chính sách hợp lý để duy trì quan hệ lâu dài với khách hàng, tạo mối quan hệ thân thiết, bền chặt với khách hàng. Với những khách hàng có giao dịch thường xuyên, NHNT cần có biểu phí hợp lý, ưu đãi, và có những chính sách khuyến mãi hợp lý. Đối với những khách hàng mới, lần đầu giao dịch, ngân hàng cần có những chính sách nhằm tạo lòng tin và tạo mối quan hệ lâu bền với khách hàng.
3.3.8. Mở rộng có hiệu quả mạng lưới ngân hàng đại lý
Có thể nói, trong xu thế hội nhập quốc tế và phát triển TTQT của các NHTM hiện nay, việc mở rộng mạng lưới các ngân hàng đại lý là vô cùng quan trọng. Việc mở rộng mạng lưới NH đại lý cần được chú trọng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Có nghĩa là ngân hàng không chỉ nâng cao số lượng ngân hàng đại lý mà còn phải lựa chọn ngân hàng đại lý là các ngân hàng lớn, có uy tín, ở những nước có nền kinh tế chính trị ổn định, và quan trọng là phù hợp với mục tiêu phát triển của NHNT VN. Việc phát triển mạng lưới ngân hàng đại lý một cách hợp lý thì hoạt động TTQT sẽ được thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn, thông tin sẽ được đáp ứng kịp thời hơn, từ đó sẽ giúp hạn chế những rủi ro và chậm trễ trong thanh toán. Để làm được điều này, NHNT cần tích cực thiết lập mối quan hệ NH đại lý với các nước trong khu vực và trên thế giới, NHNT cần chủ động tìm kiếm thông tin, đánh giá, phân loại và xếp hạng tín nhiệm các NH đại lý để có thể xây dựng một phương án tiếp cận thích hợp và hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, NHNT cần chú trọng đến việc quảng bá hình ảnh, nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế.
3.3.9. Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ
Việc nâng cao chất lượng công tác kiểm soát nội bộ tại NHNT là vô cùng quan trọng. Nếu làm tốt công tác này sẽ làm hạn chế tình trạng các cán bộ thanh toán không tuân thủ những quy định của UCP và quy trình thanh toán của ngân hàng, đồng thời sẽ có thể phát hiện một cách nhanh chóng các sai phạm đã xảy ra. Để làm được điều này, NHNT cần phải nâng cao, bồi dưỡng trình độ của cán bộ thanh tra kiểm soát một cách thường xuyê, cần có các cuôc hội thảo, trao đổi kinh nghiệm thực tiến trong hoạt động thanh tra, kiểm soát giữa các chi nhánh, sở giao dịch trong hệ thống NHNT VN.
3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế tại NHNT VN
3.4.1. Đối với Nhà nước
3.4.1.1. Hoàn thiện hệ thống quy chế pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT
Như đã phân tích ở trên, có thể thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro trong hoạt động TTQT là do hệ thống pháp luật của VN còn nhiều thiếu sót, nhiều điểm chưa đồng bộ, còn nhiều chồng chéo. Do đó, việc xây dựng một hệ thống quy chế pháp lý để điều chỉnh hoạt động TQTT nói chung và hoạt động thanh toán TDCT nói riêng là vô cùng cần thiết. Hiện nay, khi VN đã trở thành một thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, lúc này, nếu không sớm hoàn thiện hệ thống pháp lý, thì nguy cơ rủi ro đối với các NHTM và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước là vô cùng cao. Hơn nữa, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động TTQT sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động này.
3.4.1.2. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại hối theo hướng hiện đại và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Như ta đã biết, hoạt động XNK của các doanh nghiệp và hoạt động TTQT của các NHTM luôn gắn liền với thị trường ngoại hối. Vì vậy việc xây dựng một thị trường ngoại hối hoạt động có hiệu quả, có tính thanh khoản cao và thông suốt sẽ góp phần phát triển hoạt động TTQT. Hơn nữa, một thị trường ngoại hối phát triển còn góp phần đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn, các khoản đầu tư quốc tế, điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp XNK của nước ta. Và điều quan trọng là trong một thị trường ngoại hối ổn định sẽ giúp xác định tỷ giá một cách khách quan theo quy luật cung cầu, cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỉ giá cho các doanh nghiệp XNK cũng như các NHTM. Để có thể xây dựng một thị trường ngoại hối phát triển và có tính hiệu quả cao, Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách quản lý trạng thái ngoại tệ, bên cạnh đó cần nâng cao hiệu quả chất lượng và mở rộng phát triển các nghiệp vụ giao ngay, kì hạn, hoán đổi, tương lai.
3.4.2. Đối với NHNN VN
3.4.2.1. Hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên NH, tạo diều kiện để phát triển thị trường ngoại hối VN.
Việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại hối VN là một trong những điều kiện quan trọng để NH mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ của thị trường. Để có thể hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên NH, tạo điều kiện phát triển thị trường ngoại hối, NHNH cần thực hiện các giải pháp như:
Thực hiện giám sát chặt chẽ trạng thái ngoại hối của các NHTM, yêu cầu các NHTM phải xử lý tình trạng ngoại hối của mình bằng việc mua bán ngoại tệ trên thị trường tiền tệ liên NH.
Đa dạng hóa các loại ngoại tệ, các phương tiện TTQT. Khuyến khích các nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, hối phiếu ngoại tệ để có thể đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của thị trường.
Phát triển các nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ mua bán kì hạn, hoán đổi ngoại tệ, hợp đồng tương lai, hợp đồng kì hạn, quyền mua, quyền bán,, nghiệp vụ gửi tiền qua đêm trên thị trường liên ngân hàng.
Phát huy vai trò của NHNN trên thị trường liên ngân hàng. NHNN phải trở thành người mua và người bán cuối cùng tham gia tác động kịp thời giúp thị trường tiền tệ ổn định, các NHTM duy trì được trạng thái ngoại hối an toàn của mình.
3.4.2.2. Xây dựng chính sách ngoại hối hợp lý và linh hoạt.
Sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh XNK và TTQT. Vì vậy, một chính sách ngoại hối hợp lý và linh hoạt sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động XNK của các doanh nghiệp cũng như hoạt động TTQT của các NHTM. Để làm được điều này, NHNN cần phải:
Nâng cao dự trữ ngoại tệ của nhà nước tương ứng với tốc độ phát triển kim ngạch XNK.
Xác định cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý, cần đa dạng hóa rổi ngoại tệ mạnh, trong tình hình đồng USD đang có chiều hướng bị mất giá như hiện nay không nên neo giữ VNĐ chỉ với USD.
Cần xác định một cách chính xác, kịp thời các chỉ số kinh tế vĩ mô như tăng trưởng, lạm phát, lãi suất,… để có thể xây dựng một chính sách tỷ giá hợp lý trong từng thời kì cụ thể.
3.4.3. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Trong tình hình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày một nhanh và mạnh như hiện nay, để hạn chế các rủi ro, các doanh nghiệp XNK cần phải tự trang bị cho mình những kiến thức, kinh nghiệm về hoạt động XNK và TTQT. Doanh nghiệp XNK cần lựa chọn NHPH, NHXN là những ngân hàng có uy tín, chất lượng. Trước khi đặt quan hệ kinh tế, doanh nghiệp cần tìm hiểu về thị trường mà mình đang hướng đến, cần thu thập đầy đủ thông tin về đối tác định mà doanh nghiệp có ý định kí kết hợp đồng. Thêm vào đó, trong khâu kí kết hợp đồng, các doanh nghiệp cần phải chú ý đến các nội dung, điều khoản để tránh việc chấp nhận các điều khoản bất lợi cho mình. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng nên xây dựng mối quan hệ tốt với ngân hàng để có thể nhận được những lời tư vấn có giá trị trong quá trình thanh toán. Nếu làm tốt các điều này, doanh nghiệp sẽ giảm đi rất nhiều nguy cơ rủi ro trong hoạt động TTQT.
KẾT LUẬN
Có thể nói, thanh toán TDCT là phương thức thanh toán có vai trò ngày càng quan trọng và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch TTQT của các NHTM VN. Tuy là một phương thức có nhiều ưu việt, tuy nhiên phương thức này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể xảy ra cho các bên có liên quan. Rủi ro là một điều tất yếu và không thể loại bỏ hoàn toàn. Điều quan trọng là các bên liên quan phải có những hiểu biết về những rủi ro tiềm ẩn đó để có thể xây dựng các biện pháp phòng ngừa và hạn chế nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra. Do đó, vấn đề quản trị rủi ro trong TTQT là một vấn đề rất quan trọng của các NHTM VN.
Đối với NHNT VN, trải qua gần 45 năm hoạt động, tuy là một lĩnh vực truyền thống của NH, tuy nhiên rủi ro trong TTQT là điều không thể tránh khỏi. Luôn là ngân hàng dẫn đầu về lĩnh vực TTQT nhưng vấn đề nâng cao chất lượng thanh toán và hạn chế rủi ro trong hoạt động này luôn được ngân hàng quan tâm và chú trọng. NHNT VN luôn nghiên cứu và tìm hiểu những biện pháp phòng ngừa rủi ro. Và trên thực tế các biện pháp này đã được áp dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả vào hoạt động của NH và đã đạt được những thành công nhất định.
Rủi ro trong TTQT nói chung và trong thanh toán TDCT nói riêng là một vấn đề rất quan trọng không những ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của NH mà còn làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của NH. Chính vì vậy, chuyên đề đã cố gắng tổng kết một cách khái quát thực trạng rủi ro trong thanh toán TDCT tại NHNT VN và đưa ra một số kiến nghị để hạn chế những rủi ro này nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán của NH.
Do hạn chế về thời gian thực tập và nghiên cứu, chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được thông cảm và ý kiến đóng góp của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31369.doc