Tài trợ ngoại thương nói chung và tín dụng nhập khẩu nói riêng với một nước đang phát triển như Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong nền kình tế, nhất là trong khi nước ta đang tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới như hiện nay. Vì vậy, trong 15 tuần thực tập tại Chi nhánh Đông Đô-NH ĐT&PT VN, em đã chọn đề tài: Thực trạng và các giải pháp phát triển hoạt động tín dụng nhập khẩu ở Chi nhánh Đông Đô-NH ĐT&PT VN để tìm hiểu và viết Chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Qua Chuyên đề này, chúng ta có thể thấy được phần nào tình hình hoạt động kinh doanh nói chung và tình hình tín dụng nhập khẩu nói riêng tại BIDV Đông Đô, chúng ta cũng có thể thấy được những khó khăn thách thức mà Chi nhánh Đông Đô hay toàn ngành Ngân hàng phải đối mặt trong thời gian tới.
59 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và các giải pháp phát triển hoạt động tín dụng nhập khẩu ở Chi nhánh Đông Đô- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu dịch vụ hiện nay tập trung chủ yếu vẫn là dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế, dịch vụ bảo lãnh và kinh doanh ngoại tệ… các dịch vụ mới vẫn chưa được người tiêu dùng hưởng ứng. Dịch vụ ATM chưa đa dạng mới chỉ dừng ở việc rút tiền mặt, gửi tiền tiết kiệm, vấn tin tài khoản, chuyển khoản… mà chưa kết hợp được với các dịch vụ khác của ngân hàng như gửi tiền vào tài khoản, thanh toán hoá đơn điện nước và thanh toán các dịch vụ khác.
Về công tác khách hàng và phát triển mạng lưới: Đến hết năm 2006, mạng lưới hoạt động của Chi nhánh bao gồm 3 phòng giao dịch và 7 điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm. Đến thời điểm 31/12/2006 các phòng (điểm) giao dịch, quỹ tiết kiệm đã đạt số dư huy động vốn là gần 1.000 tỷ đồng, thu dịch vụ đạt 450 triệu đồng. Công tác phát triển mạng lưới đã được Chi nhánh tập trung chỉ đạo và thực sự đã có tác đụng tích cực đến việc thực hiện chỉ tiêu huy động vốn của Chi nhánh.
4. Hoạt động thanh toán
Doanh số thanh toán trong nước năm 2006 đạt trên 3.000 tỷ đồng với tổng số 24.356 món tăng 141% so với năm 2005. Không những thế, Chi nhánh đã khai thác có hiệu quả chương trình thanh toán điện tử thuộc dự án hiện đại hoá nhằm nâng cao chất lượng thanh toán, giảm thời gian thanh toán, tăng nhanh vòng luân chuyển tiền tệ đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và đông đảo dân cư. Chất lượng của công tác thanh toán cũng ngày một nâng cao, không phát sinh các sai sót dẫn đến khiếu kiện của khách hàng.
Về nghiệp vụ thanh toán quốc tế: Trong năm 2006, doanh số mở L/C và thanh toán đạt 117 triệu USD với 630 món. Có được kết quả trên là do Chi nhánh luôn tuân thủ các quy định về thanh toán theo thông lệ quốc tế và sự hướng dẫn, chỉ đạo của NH ĐT&PT VN, vì thế đã giữ vững và tăng cường uy tín của BIDV với các Ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế có quan hệ với BIDV.
Cũng trong năm 2006, dịch vụ chi trả kiều hối, chuyển tiền ước đạt 33,7 triệu USD với 4.270 món được triển khai thực hiện theo yêu cầu của Ngân hàng đề nghị thanh toán và từng bước củng cố quan hệ hợp tác giữa BIDV với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
5. Công tác quản lý nội bộ
5.1 Công tác kế toán, tài chính
Trong năm 2006, tổng thu nhập toàn Chi nhánh đạt 165 tỷ đồng tăng 44% so với năm 2005, tổng chi chi trong năm 2006 là 125 tỷ đồng, chênh lệch thu chi trước trích DPRR là 40 tỷ đồng đạt 110% so với kế hoạch năm 2006 và tăng 135% so với năm 2005. Lợi nhuận sau thuế bình quân đầu người đạt 160 triệu đồng. Công tác kế toán tài chính đã hoạt động hiệu quả, chính xác, đưa ra các định mức về chi phí hoạt động kinh doanh theo hướng tiết kiệm, chống lãng phí, đảm bảo các khoản chi dưới định mức và kế hoạch đã lập ra để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Điều này là rất cần thiết nhất là trong giai đoạn hội nhập như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam luôn bị coi là thiếu kinh nghiệm quản lý hay quản lý quá lỏng, đặc biệt là với các doanh nghiệp Nhà nước.
Thực hiện chức năng hậu kiểm với phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm, phòng kế toán đã tổ chức kiểm tra kịp thời các nghiệp vụ phát sinh, thông qua kiểm tra phát hiện các sai sót đề xuất các kiến nghị với các phòng tổ chỉnh sửa kịp thời. Chi nhánh đã tổ chức triển khai và vận hành tốt phân hệ quản lý nội bộ phục vụ cho việc quản lý tài chính, tài sản của Chi nhánh và của toàn ngành.
5.2 Công tác kho quỹ
Lượng tiền mặt thu chi qua Chi nhánh tăng trưởng cao so với năm 2005, nhưng vẫn đảm bảo an toàn, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu thanh toán tiền mặt của khách hàng. Công tác kho quỹ của Chi nhánh luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy trình quản lý, vận chuyển, giao nhận tiền mặt giữa hội sở Chi nhánh với các quỹ, điểm giao dịch. Doanh số thu chi tiền mặt thực hiện tại Quỹ nghiệp vụ của Chi nhánh trong năm 2006 như sau:
Thu đạt 2.147 tỷ VNĐ, 71 triệu USD và 5.7 triệu EUR.
- Chi: 2.180 tỷ VNĐ, 69 triệu USD và 5.8 triệu EUR.
Trong thu chi tiền mặt đã phát hiện và thu giữ kịp thời số tiền giả là 13,8 triệu đồng và 32,8 triệu đồng tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông để nộp NHNN. Trong năm qua, Chi nhánh đã trả lại tổng số tiền thừa cho khách hàng là 117 triệu đồng với 48 món.
5.3 Công tác tổ chức hành chính
Các phòng ban trong Chi nhánh được sắp xếp theo hướng tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các nghiệp vụ trọng tâm, dễ xảy ra rủi ro, do vậy yêu cầu luôn được đáp ứng đó là bố trí đủ cán bộ ở những bộ phận trọng yếu trong dây chuyền tác nghiệp.
Việc sắp xếp bổ sung cán bộ mới cho các phòng, tổ cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng phòng, tổ. Chi nhánh cũng thường xuyên tổ chức lấy phiếu thăm dò tín nhiệm phục vụ cho công tác bổ nhiệm mới, bổ nhiệm lại và công tác quy hoạch cán bộ. Trong năm 2006 Chi nhánh đã bổ nhiệm mới 4 trưởng phó phòng, 2 trưởng điểm giao dịch và bổ nhiệm lại các chức danh trưởng, phó phòng, thuộc diện phải bổ nhiệm lại. Những hoạt động trên ít nhiều gây nên những xáo trộn nhất thời trong hoạt động của một số phòng ban, song về lâu dài lại phát huy được hiệu quả cao trong hoạt động, giúp cho các nhân viên có động lực phấn đấu, hoàn thành tốt hơn công việc được giao.
Chi nhánh luôn thực hiện các chế độ về tiền lương, tiền thưởng (chuyển xếp lương kinh doanh, nâng lương hàng năm…) và các chế độ khác (BHYT, khám chữa bệnh…) kịp thời và đúng quy định đối với người lao động từ đó tạo ra sự ổn định, yên tâm làm việc của CBCNV trong Chi nhánh.
Để đáp ứng nhu cầu hội nhập và nhu cầu học hỏi của CBCNV Chi nhánh thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn tại Chi nhánh đồng thời xây dựng kế hoạch để bố trí cán bộ tham dự các lớp tập huấn do NH ĐT&PT VN tổ chức. Mặt khác, các CBCNV luôn được đảm bảo đầy đủ các điều kiện lao động như trang thiết bị, công cụ lao động… để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ được an toàn, hiệu quả đạt năng suất cao.
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHẬP KHẨU CỦA CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ-NH ĐT&PT VN
1. Khái quát về hoạt động tín dụng nhập khẩu của Chi nhánh Đông Đô
1.1 Tín dụng nhập khẩu và vai trò của tín dụng nhập khẩu
1.1.1 Khái quát về tín dụng và hoạt động tín dụng nhập khẩu
Tín dụng là hoạt động nghiệp vụ quan trọng nhất của các ngân hàng và của các trung gian tài chính nói chung, nó chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản và hoạt động này cũng tạo ra thu nhập từ lãi lớn nhất cho các ngân hàng. Tuy nhiên, điều này lại đồng nghĩa với việc đây là hoạt động mang lại rủi ro lớn nhất cho các ngân hàng. Vậy, tín dụng là gì?
Tín dụng (cho vay) là hình thức quan hệ giữa hai đối tượng: người đi vay và người cho vay, trong đó người cho vay nhượng lại quyền sử dụng vốn cho người đi vay dựa trên sự tín nhiệm và theo nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Sự hoàn trả này không chỉ bảo tồn về mặt giá trị mà vốn tín dụng còn được tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Đây chính là biểu hiện cho thấy sự khác biệt giữa tín dụng và các hình thức kinh tế khác.
Hoạt động tín dụng đã xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người, từ khi có phân công lao động và sản xuất hàng hoá. Trong quá trình trao đổi hàng hoá đã xuất hiện quan hệ tín dụng, vay mượn lẫn nhau để thanh toán.
Như đã nói ở trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản mang tính hoàn trả, xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản của mình cho người vay phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả và trả đúng hạn. Tín dụng hay credit xuất phát từ chữ latinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm) và việc các bậc tiền bối đã dùng từ “credo” hoặc “tín” để đặt tên cho “credit” hay tín dụng không phải là ngẫu nhiên.
Theo xu hướng phát triển kinh tế thế giới như hiện nay, các quan hệ kinh tế trong nước và quốc tế diễn ra hết sức sôi động, đa dạng. Đồng thời với nó là sự vận động, chu chuyển của các dòng tiền trong thanh toán. Cũng như nhiều hoạt động kinh tế khác hoạt động nhập khẩu cũng xuất hiện các nhu cầu về tín dụng. Trong đó, vai trò của các ngân hàng thương mại rất quan trọng, các ngân hàng góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang có sự hội nhập sâu và rộng với nền kinh tế thế giới thì việc tăng cường, mở rộng quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng và tạo ra sự cân đối cho nền kinh tế trong nước. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, hội nhập và kinh doanh xuất nhập khẩu các ngân hàng cần phát triển và cung ứng các loại hình dịch vụ thanh toán đa dạng để hỗ trợ và đảm bảo cho hoạt động này diễn ra thông suốt, an toàn và hiệu quả. Là một dịch vụ của nhóm các dịch vụ tín dụng thương mại của ngân hàng, dịch vụ tín dụng nhập khẩu cũng đem lại những hiệu quả thiết thực cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung và đem lại nguồn thu cho các ngân hàng, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
1.1.2 Vai trò của tín dụng nhập khẩu
Hoạt động tín dụng nhập khẩu không chỉ cần thiết mà còn rất quan trọng với mỗi nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Đã qua đi rồi cái thời “bế quan toả cảng”, “tự cấp tự túc”, ngày nay muốn phát triển kinh tế bền vững và hiệu quả thì phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tức là phải có xuất và nhập thì mới đảm bảo cho nền kinh tế phát triển. Chuyên môn hoá không chỉ diễn ra ở mỗi ngành, mỗi vùng mà ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực khác nhau. Do vậy, hoạt động tín dụng nhập khẩu không chỉ có lợi cho doanh nghiệp, ngân hàng mà còn có lợi cho các quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ giao dịch quốc tế đòi hỏi nhiều vấn đề phức tạp và tế nhị khác nhau, do vậy để hoạt động ngoại thương diễn ra thuận tiện và hiệu quả rất cần sự tham gia của các ngân hàng. Các ngân hàng bổ sung cho nhà ngoại thương những điều còn thiếu như sự hiểu biết về các nghiệp vụ ngoại thương, các thông tin về đối tác hơn nữa các ngân hàng còn là chỗ dựa về tài chính cho các doanh nghiệp trong hoạt động này. Thông qua hoạt động tài trợ tín dụng nhập khẩu cho các doanh nghiệp các ngân hàng ngoài việc thu được một khoản doanh thu đáng kể thông qua lãi suất (lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay thanh toán, lãi suất bắt buộc…), các ngân hàng còn nâng cao uy tín, tăng sức cạnh tranh của mình do mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài. Mặt khác, qua tài trợ tín dụng nhập khẩu, hoặc hoạt động tín dụng nhập khẩu tính an toàn của các khoản vốn cấp cho doanh nghiệp được đảm bảo, do được chính ngân hàng quản lý chặt chẽ nên đảm bảo nguồn vốn cho vay được sử dụng đúng mục đích đem lại hiệu quả cao. Hơn nữa, hoạt động tín dụng nhập khẩu thường diễn ra theo thương vụ cụ thể nên thời gian huy động thường là ngắn hạn, điều này phù hợp với kỳ huy động vốn của các ngân hàng thương mại nên tránh được các rủi ro trong huy động vốn cho ngân hàng.
Trong điều kiện thị trường mở cửa hiện nay, nhu cầu về hàng hoá tiêu dùng, máy móc thiết bị, phân bón…đang trở thành cơ hội với mỗi doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, vì vậy với sự hỗ trợ thiết thực của các ngân hàng, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng hiệu quả và an toàn hơn. Trang thiết bị máy móc của các doanh nghiệp nước ta lạc hậu hàng chục năm so với các nước tiên tiến, để đổi mới công nghệ không phải là điều dễ dàng, song với tín dụng nhập khẩu các doanh nghiệp có thể vay ngân hàng để đổi mới trang thiết bị nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nhờ vậy mà tăng khả năng cạnh tranh. Nhờ tín dụng nhập khẩu, các doanh nghiệp còn có thể thực hiện được các thương vụ lớn, bởi số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp không phải bao giờ cũng có sẵn và đủ lớn để thực hiện những thương vụ như vậy mà cơ hội kinh doanh tốt thì không nhiều. Đó là do đặc điểm của kinh doanh xuất nhập khẩu chủ yếu bằng đường biển nên để tiết kiệm thời gian và chi phí vận chuyển giá trị các lô hàng thường lớn, đồng nghĩa với số vốn cũng lớn thì mới hiệu quả. Mặt khác, thông qua hoạt động tài trợ của ngân hàng thì uy tín của doanh nghiệp nhập khẩu cũng tăng thêm, tạo được sự tín nhiệm của bạn hàng.
Đối với nền kinh tế, hoạt động tín dụng nhập khẩu cũng đem đến nhiều lợi ích. Trước hết phải kể đến việc đổi mới máy móc thiết bị, hoạt động này trực tiếp làm nâng cao năng suất lao động, làm tăng của cải của xã hội, đem đến sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, qua đó cũng góp phần phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, nhờ có tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại mà hoạt động ngoại thương diễn ra trôi chảy, góp phần vào sự tăng trưởng và ổn định kinh tế đất nước.
1.2 Hoạt động tín dụng nhập khẩu ở Chi nhánh Đông Đô
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, từ đây nền kinh tế nước ta bắt đầu vươn ra biển lớn. Tuy nhiên, để có thể thực hiện hiệu quả hoạt động ngoại thương thì hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu ngày càng trở nên quan trọng với sự phát triển của kinh tế đất nước, bởi nền kinh tế nước ta đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thế giới. Không nằm ngoài xu thế đó, Ban giám đốc của Chi nhánh Đông Đô luôn quan tâm và chỉ đạo hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu để đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động tín dụng nhập khẩu nói riêng. Cũng cần phải nói thêm rằng, đây là một lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro, liên quan đến những đối tác nước ngoài và thông lệ quốc tế do vậy Ban giám đốc Chi nhánh thường xuyên theo dõi, kiểm tra hoạt động của các phòng ban liên quan, chỉ đạo cho các CBCNV Chi nhánh tuân theo hướng dẫn của NH ĐT&PT VN và các quy định, thông lệ, tập quán thương mại quốc tế.
Bảng 6. Tình hình hoạt động tín dụng nhập khẩu tại Chi nhánh Đông Đô –NH ĐT&PT VN Đơn vị: Triệu đồng (quy đổi)
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Số
Tỷ trọng
Số
Tỷ trọng
Số
Tỷ trọng
Doanh số cho vay
-Ngắn hạn
-Trung-Dài hạn
35.170
100%
174.000
100%
305.140
100%
18.992
54%
104.400
60%
176.981
58%
16.178
46%
69.600
40%
128.159
42%
Doanh số thu nợ
-Ngắn hạn
-Trung-Dài hạn
10.551
100%
87.206
100%
266.153
100%
10.551
100%
56.684
65%
207.599
78%
0
0%
30.522
35%
58.554
22%
Nguồn: Phòng Tín dụng I
Ở bảng 6, doanh số tín dụng nhập khẩu cũng như doanh số thu nợ từ hoạt động này được phân loại theo kỳ hạn nợ, đây là cách phân loại giúp ngân hàng xác định được số lượng vốn cần huy động, cần tài trợ trong từng giai đoạn. Qua bảng số liệu trên ta thấy doanh số cho vay, doanh số thu nợ tín dụng nhập khẩu ngắn hạn luôn cao hơn tín dụng trung và dài hạn. So với tổng dư nợ tín dụng thì doanh số của tín dụng nhập khẩu có tỷ trọng tăng dần qua 3 năm, năm 2004 chỉ chiếm 12%, năm 2005 tăng lên 24% và đến năm 2006 đạt 22%. Chi nhánh Đông Đô được thành lập từ cuối tháng 7/2004 do vậy quan hệ tín dụng mới bắt đầu hình thành, doanh số của tín dụng nhập khẩu còn thấp chỉ chiếm 12% tương ứng với 35.170 triệu đồng. Song qua 3 năm hoạt động, doanh số và số thương vụ đều tăng, cũng như tỷ trọng tín dụng nhập khẩu cũng tăng gần gấp đôi từ 2004 đến 2005. Chỉ tính riêng trong năm 2006, Chi nhánh đã mở L/C và thanh toán khoảng 117 triệu USD, với 630 món. Về doanh số thu nợ, trong năm 2004 doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm 100%, còn 2 năm sau thì tỷ trọng doanh số thu nợ ngắn hạn đã giảm dần nhưng vẫn chiếm đa số đó là do doanh số cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn và vòng quay của vốn ngắn hạn thì nhanh hơn.
Bảng 7 Cơ cấu tín dụng nhập khẩu tại Chi nhánh Đông Đô theo thành phần kinh tế Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Dư nợ
Tỷ trọng
Dư nợ
Tỷ trọng
Dư nợ
Tỷ trọng
DNNN
245.970
85%
402.27
55%
413.4
30%
DN tư nhân
0
0%
43.884
6%
124.02
9%
Cty Cổ phần, TNHH
43.407
15%
160.908
22%
564.98
41%
Cty có vốn đầu tư NN
0
0%
124.338
17%
275.6
20%
Nguồn: Phòng Tín dụng I
Qua bảng trên ta thấy, hoạt động tài trợ tín dụng nhập khẩu của Chi nhánh trong năm 2004, 2005 chủ yếu là cho các doanh nghiệp Nhà nước, riêng doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2004 Chi nhánh đã không tài trợ, nhưng sang năm 2005, 2006 loại hình doanh nghiệp đã được Chi nhánh tài trợ và có tỷ trọng ngày càng tăng. Điều đó cho thấy, sự đổi mới trong hoạt động của Chi nhánh trong việc mở rộng đối tượng khách hàng và theo kịp xu thế chung của nền kinh tế. Loại hình công ty cổ phần và công ty TNHH có tỷ trọng tài trợ ngày càng tăng, từ 15% trong năm 2004 lên tới 41% trong năm 2006, bên cạnh đó ta thấy loại hình doanh nghiệp Nhà nước có tỷ trọng tài trợ giảm hẳn qua 03 năm, tử vị trí tuyệt đối trong năm 2004 sang đến 2006 chỉ chiếm vị trí thứ yếu sau loại hình công ty cổ phần và TNHH, điều này phù hợp với xu thế các doanh nghiệp Nhà nước đang được cổ phần hóa mạnh mẽ ở nước ta.
2. Đánh giá về hiệu quả của hoạt động tín dụng nhập khẩu ở Chi nhánh Đông Đô – NH ĐT&PT VN
2.1 Những thành tựu đã đạt được
Qua những phân tích ở trên, ta có thể thấy rằng kết quả của hoạt động tín dụng nhập khẩu ở Chi nhánh Đông Đô trong những năm qua là khá khả quan, Chi nhánh đã có nhiều đổi mới cả về phương pháp hoạt động lẫn năng lực quản lý, huy động vốn với các hình thức huy động phong phú, đa dạng và hiệu quả.
Hoạt động tài trợ ngoại thương đã không ngừng tăng trưởng cả về số thương vụ và giá trị tín dụng. Chi nhánh đã tạo được uy tín với các khách hàng thuộc nhiều thành phần kinh tế bằng chất lượng và phong cách chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên, khách hàng của Chi nhánh hôm nay không chỉ là các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ lâu dài với Chi nhánh mà còn mở rộng ra các đối tượng khác như các công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty có vốn đầu tư nước ngoài… Chính điều này cũng thể hiện sự nỗ lực của đội ngũ CBCNV của Chi nhánh trong việc tìm kiếm, mở rộng đối tượng khách hàng.
Vị trí, thị phần và thương hiệu BIDV Đông Đô đang dần được khẳng định và từng bước phấn đấu tăng thị phần trên địa bàn Hà Nội, tiếp thị được nhiều khách hàng mới, hướng tới xây dựng nền khách hàng bền vững, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của Chi nhánh. Thực hiện đa dạng hoá khách hàng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ tín dụng nhập khẩu và là một trong những chi nhánh luôn được thực hiện thí điểm áp dụng, triển khai đầu tiên các sản phẩm mới. Chi nhánh đã tích cực triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 đạt kết quả tốt và đã được các tổ chức quản lý chất lượng công nhận, cấp chứng chỉ đạt tiêu chuẩn chất lượng. Đây chính là nguồn cổ vũ lớn lao cho đội ngũ CBCNV của Chi nhánh và là sự khẳng định của xã hội, của các khách hàng đối với Chi nhánh.
Trong những năm vừa qua, tình hình thị trường trong nước có nhiều biến động, môi trường cạnh tranh trở nên gay gắt hơn nhưng hoạt động của Chi nhánh vẫn không ngừng tăng trưởng và có lãi.
2.2 Những mặt còn tồn tại
Hoạt động kinh doanh của Chi nhánh bên cạnh những thành tích, những chỉ tiêu quan trọng đã đạt được còn một số điểm hạn chế, một số chỉ tiêu quan trọng chưa đạt được theo yêu cầu như: cơ cấu tín dụng chưa cân đối giữa VNĐ và ngoại tệ, tỷ trọng sử dụng ngoại tệ còn khá thấp (21%). Nền tảng khách hàng và các sản phẩm dịch vụ tín dụng xuất nhập khẩu chưa thật phong phú còn cần phải tiếp tục đa dạng hoá và nâng cao hơn nữa tính chủ động trong việc tiếp cận khách hàng mới, có năng lực thực sự để nâng cao chất lượng và đảm bảo an toàn cho hoạt động của Chi nhánh.
Cán bộ của Chi nhánh có tuổi nghề thấp do đó còn thiếu kinh nghiệm thực tế cũng như khả năng phân tích, đánh giá thị trường, khách hàng còn hạn chế. Khả năng tìm kiếm, thiết lập các mối quan hệ với khách hàng, nhất là khách hàng lớn còn yếu, đây là điểm hạn chế lớn nhất của đội ngũ nhân viên Chi nhánh.
Mức tăng dư nợ của Chi nhánh chưa tương xứng với mức tăng nguồn vốn. Cơ cấu cho vay còn tập trung vào một số khách hàng lớn là các Tổng công ty, các công ty nhà nước, trong khi các doanh nghiệp này thường nâng cao tính hiệu quả, tính khả thi của dự án. Điều này dễ gây nên các rủi ro cho Chi nhánh, cũng như làm tăng tính phụ thuộc của Chi nhánh do họ có thể gây sức ép về lãi suất với ưu thế là các khách hàng lớn và truyền thống.
Công tác thông tin khách hàng, phòng ngừa rủi ro vẫn chưa được kịp thời, thông suốt, nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro chưa được chú trọng đúng mức.
Bên cạnh đó, còn một số điểm hạn chế khác do các yếu tố khách quan từ môi trường bên ngoài hoặc không thuộc quyền kiểm soát của Chi nhánh Đông Đô, vì vậy Chi nhánh cần kiến nghị lên các lãnh đạo cao cấp của NH ĐT&PT VN để cùng khắc phục những điểm hạn chế đó.
III. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHẬP KHẨU CỦA CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ-NH ĐT&PT VN
1. Những yếu tố khách quan từ môi trường bên ngoài
1.1 Những yếu tố tích cực
Nền kinh tế nước ta trong những năm qua vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, môi trường kinh tế - xã hội – chính trị ổn định, các chương trình kinh tế trọng điểm, các dự án lớn được triển khai mạnh và phát huy hiệu quả. Các chính sách cũng như khung pháp lý tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh đang từng bước được hoàn thiện phù hợp với thông lệ quốc tế. Hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nói chung cũng như hệ thống NH ĐT&PT VN nói riêng cũng tăng trưởng mạnh mẽ đạt kết quả cao.
Việt Nam đã gia nhập WTO từ cuối năm 2006, điều này khiến nước ta phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức song lợi ích từ việc gia nhập tổ chức này là rất lớn. Đó là việc hệ thống chính sách luật pháp của nước ta phải cải tiến, sửa đổi; quan hệ ngoại thương được mở rộng; đầu tư nước ngoài vào nước ta nhiều hơn…Điều này đồng nghĩa với việc hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế…ở các ngân hàng sẽ ngày càng nhộn nhịp hơn.
Trong năm 2006, tình hình thị trường tài chính có nhiều diễn biến phức tạp như: tỷ giá USD liên tục biến động, giá xăng dầu nhiều lần tăng giảm, đặc biệt là giá vàng và chứng khoán cũng tăng giảm đột biến… Những biến động đó đã làm ảnh hưởng tới thị trường tài chính, giá cả hàng hóa, tác động đến tâm lý các nhà đầu tư, do vậy nguồn vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh và đầu tư vào tiền gửi có sự diễn biến bất thường. Bên cạnh đó, các ngân hàng trên địa bàn liên tục tăng giảm lãi suất, đặc biệt là các NHCP, những yếu tố trên đã tác động đến hoạt động của Chi nhánh, đặc biệt là trong công tác huy động vốn. Vì vậy, lãi suất đầu tư vào ngoại tệ bắt buộc phải gia tăng ở mức cần thiết cùng với chính sách khuyến mại đi kèm để đảm bảo tính ổn định và có sự tăng trưởng về nguồn vốn huy động.
Hiện nay, không chỉ BIDV phải cạnh tranh với các ngân hàng quốc doanh mà cạnh tranh còn đến từ các ngân hàng TMCP và các ngân hàng nước ngoài, tuy nhiên cạnh tranh cũng là động lực để các ngân hàng có thể phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Xét về mức độ cạnh tranh của hệ thống ngân hàng, đã có sự gia tăng mạnh mẽ, nhất là những năm gần đây. Sự xuất hiện của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cải thiện đáng kể hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của các NHTM trong nước. Trên thực tế từ năm 1991 đến 2005, mức độ cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được nâng cao rõ rệt: Tổng tài sản có/GDP tăng từ mức 31,1%% GDP năm 1992 lên 107% GDP năm 2005, lãi suất cũng đã được tự do hoá, tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng cũng đã giảm từ 13,7% năm 1992 xuống còn 3,17% năm 2005…
1.2 Những yếu tố tiêu cực
Do đặc thù của hoạt động mua bán ngoại thương nên hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu luôn ẩn chứa những rủi ro tiềm tàng, như là:
Rủi ro đối tác: Người mua người bán thông thường không ở trong cũng một lãnh thổ và nhiều trường hợp là không hiểu biết nhau. Trong nhiều trường hợp sẽ có thể dẫn đến rủi ro do lừa đảo từ phía đối tác. Trong giao dịch tài trợ xuất khẩu, đối tác nhập khẩu lừa đảo bằng cách nhận hàng mà không thanh toán hoặc cố tình từ chối thanh toán. Trong giao dịch tài trợ nhập khẩu có thể gặp lừa đảo từ người xuất khẩu xuất trình chứng từ hoàn hảo nhưng không có hàng hóa gửi cho người nhập khẩu…
Rủi ro thị trường: Thay đổi giá cả hàng hoá trong nước hoặc trên thị trường quốc tế, người mua không muốn bán hoặc người bán không muốn nhận hàng. Đồng thời những chính sách của quốc gia nhập khẩu hoặc xuất khẩu thay đổi sẽ ảnh hưởng đến người mua hoặc người bán trong giao dịch.
Rủi ro vận tải : Hàng hóa có sự di chuyển từ quốc gia này đến quốc gia khác nên cần vận chuyển qua đường biển, đường hàng không hoặc đường bộ. Như vậy có thể xảy ra những rủi ro về hàng hóa nằm ngoài phạm vi kiểm soát của người bán và người mua. Hàng hóa trên đường vận chuyển có thể gặp rủi ro mất mát, hư hỏng, hao hụt…
Rủi ro ngoại hối : Việc thanh toán liên quan đến các đồng tiền khác với đồng bản tệ nên có thể gặp rủi ro về tỷ giá do biến động tại thời điểm thanh toán so với thời điểm ký hợp đồng. Đồng thời nếu ngoại tệ do ngân hàng cho vay tài trợ khác với ngoại tệ được qui định là đồng tiền thanh tóan trong hợp đồng ngoại thương của khách hàng, cũng có thể rủi ro khi tỷ giá biến động .
Rủi ro về thanh toán : Lựa chọn hình thức thanh toán không phù hợp, hoặc có những điều khoản trong phương thức thanh toán không bảo vệ được quyền lợi khách hàng của mình.Ví dụ: Mở thư tín dụng xác nhận, cho phép đòi tiền... Đồng thời mỗi phương thức thanh toán quốc tế có một đặc điểm riêng có lợi hoặc không có lợi cho người mua và người bán, cụ thể:
Người mua (người nhập khẩu)
An toàn à à à Rủi ro
Chuyển tiền trả sau
Nhờ thu DA
Nhờ thu DP
Tín dụng chứng từ
Chuyển tiền trả trước
Người bán (người xuất khẩu)
Rủi ro ß ß ß An toàn
Rủi ro tác nghiệp: Cán bộ ngân hàng xử lí giao dịch không đúng qui trình, qui định không phù hợp với thông lệ quốc tế gây rủi ro cho ngân hàng.
Nhận biết được các rủi ro có thể xảy ra nên Chi nhánh luôn có những biện pháp thích hợp để đề phòng và giảm thiểu rủi ro một cách tối đa.
Thuận lợi từ việc mở cửa thị trường và gia nhập WTO là rất lớn song thách thức cũng không phải là nhỏ. Ngành Ngân hàng nói chung và BIDV nói riêng đang phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ các ngân hàng nước ngoài, họ có công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý và nguồn vốn dồi dào. Nếu đánh giá về mặt công nghệ thì các ngân hàng trong nước khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn chưa được chú ý đúng mức. Hệ thống giao dịch trực tuyến và mô hình giao dịch một cửa vẫn còn là chuyện đang gây tranh cãi giữa các ngân hàng. Theo báo cáo phát triển mới được Ngân hàng Thế giới công bố cho thấy, ngân hàng là lĩnh vực chậm đổi mới nhất của nền kinh tế năng động Việt Nam.
Bên cạnh đó, cạnh tranh còn bắt nguồn từ các ngân hàng trong nước, các ngân hàng liên doanh. Hiện nay chúng ta có 4 ngân hàng thương mại nhà nước và khoảng 40 ngân hàng TMCP khác nhau, do vậy các ngân hàng này thường dùng các công cụ lãi suất cạnh tranh khiến trong thời gian qua, thị trường lãi suất của Việt Nam có nhiều biến động và người thiệt thòi thường là các doanh nghiệp. Điều này cho thấy năng lực quản trị vốn của các ngân hàng Việt Nam còn yếu và rủi ro tiềm ẩn của thị trường tiền tệ là rất lớn, trong khi NHNN chưa thể hiện được vai trò quan trọng của mình. Mục tiêu quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại là lợi nhuận. Việc chạy đua lãi suất của họ là điều đương nhiên. Những cuộc đua như vậy không thể tránh được bằng thỏa thuận lãi suất, và làm như vậy sẽ vi phạm luật cạnh tranh. Giải pháp hữu hiệu nhất là nâng cao năng lực và khả năng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN VN, sao cho mỗi khi họ đưa ra các quyết định của mình lập tức có tác động ngay đến nền kinh tế.
Với nỗ lực rất lớn của Quốc Hội, Nhà nước ta đang sửa đổi, bổ sung và ban hành rất nhiều các luật mới để hệ thống luật pháp nước ta ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế, nhất là trong điều kiện hiện nay khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO. Song, do môi trường kinh tế nước ta mới phát triển và hội nhập vào nền kinh tế thế giới nên hệ thống luật pháp chưa thực sự đồng bộ và rõ ràng, vẫn còn nhiều điểm còn chồng chéo và chưa thực sự “cởi trói” cho hoạt động kinh doanh, đầu tư. Vì vậy, hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu chưa thực sự phát triển mạnh và hiệu quả từ hoạt động này cũng chưa cao như tiềm năng của nó.
Việt Nam bắt đầu công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế từ một xuất phát điểm khá thấp về mặt công nghệ. Hiện nay, máy móc thiết bị của nhiều ngành công nghiệp lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các nước công nghiệp tiên tiến. Ngoài các doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư, chỉ khoảng 30% doanh nghiệp trong nước được coi là có trang thiết bị vào loại tương đối hiện đại, nhưng tốc độ đổi mới thiết bị công nghệ còn khiêm tốn, khoảng 10-11%. Điều đó đã hạn chế rất nhiều việc phát triển dịch vụ, nâng cao khả năng hội nhập và cạnh tranh so với các ngân hàng quốc tế. Trình độ trang thiết bị, máy móc, công nghệ chậm được đổi mới đang là cản trở đối với quá trình phát triển và hội nhập của các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng nói riêng.
Chi nhánh Đông Đô cũng như hệ thống các ngân hàng quốc doanh luôn có các khách hàng lớn và truyền thống là các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, số các doanh nghiệp này làm ăn có hiệu quả còn chiếm tỷ lệ thấp, các doanh nghiệp này còn mang nặng tư tưởng làm ăn theo lối cũ, trình độ sản xuất và năng lực quản lý chưa cao.
2. Những yếu tố thuộc bên trong Chi nhánh
2.1 Những yếu tố tích cực
Sau ba năm đi vào hoạt động, Chi nhánh đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Để đạt được những thành tựu đó, bên cạnh những thuận lợi từ môi trường bên ngoài không thể không kể đến những cố gắng vượt bậc của Ban lãnh đạo cùng các cán bộ trong Chi nhánh. Đội ngũ cán bộ của Chi nhánh không ngừng được bổ sung cả về chất lượng và số lượng đã giúp cho hoạt động nghiệp vụ của Chi nhánh ngày càng được mở rộng cả về quy mô lẫn hiệu quả hoạt động. Các CBCNV đa phần là những cán bộ trẻ chính vì vậy họ có lợi thế về việc tiếp thu các công nghệ kỹ thuật hiện đại nhanh chóng, nắm bắt những thay đổi từ môi trường kinh doanh và khả năng thích ứng cũng cao hơn. Các cán bộ ngân hàng nhất là các cán bộ làm trong lĩnh vực tín dụng xuất nhập khẩu rất cần khả năng ngoại ngữ (nhất là tiếng anh), vi tính và tinh thần ham học hỏi để có thể bắt nhịp với nền kinh tế năng động của Việt Nam.
Tình hình tài chính của Chi nhánh trong những năm qua rất khả quan, với tỷ lệ nợ xấu 0.0026% năm 2006, lợi nhuận trước thuế đạt 25,9 tỷ đồng, các chỉ tiêu tăng trưởng đặt ra đều hoàn thành và vượt mức kế hoạch. Trong điều kiện thị trường như hiện nay, những thành tích của Chi nhánh là đáng ghi nhận nhất là với một chi nhánh mới thành lập.
2.2 Những yếu tố tiêu cực
Điểm hạn chế lớn của Chi nhánh đó là do mới thành lập nên các mối quan hệ, uy tín còn hạn chế. Đội ngũ nhân viên trẻ chiếm đến 70% nên bên cạnh những thuận lợi cũng bộc lộ những hạn chế, đó là họ có kinh nghiệm chưa nhiều nên còn hạn chế trong giao tiếp, đa phần chỉ mới tập trung vào hoàn thành công tác hàng ngày được giao, chưa chủ động trong công tác tiếp thị khách hàng mới.
Công tác tiếp thị, phát triển khách hàng còn nhiều yếu kém, có sự thụ động trong quan hệ xây dựng hệ thống khách hàng, hoạt động tín dụng triển khai còn thiếu tính thị trường, chưa thật sự có tính chuyên nghiệp cao.
Công tác đào tạo cán bộ của Chi nhánh chưa có những chương trình cụ thể sát thực với yêu cầu của cán bộ cũng như đặc điểm của Chi nhánh để tổ chức cho cán bộ học tập. Cán bộ nghiệp vụ chưa phát huy được tính chủ động công tác nhất là trong việc tự nghiên cứu học tập để hiểu và nắm vững quy trình nghiệp vụ nhằm hạn chế các sai sót trong quá trình tác nghiệp.
Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của một ngân hàng thì nhiều, tích cực có tiêu cực có, nguyên nhân chủ quan và khách quan đều có. Song nắm bắt được các nguyên nhân đó, đưa ra các giải pháp cụ thể, phù hợp có tính thực tiễn và khả thi cao thì sẽ giúp cho Chi nhánh phát triển hơn nữa. Tuy nhiên có những vấn đề Chi nhánh có thể tự khắc phục được nhưng cũng có những vấn đề, nguyên nhân Chi nhánh không thể tự khắc phục được. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự quan tâm, giúp đỡ của Hội sở chính, của các ngân hàng để đưa hệ thống ngân hàng nói chung và NH ĐT&PT VN nói riêng hội nhập và phát triển hơn nữa.
CHƯƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHẬP KHẨU Ở CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ-NH ĐT&PT VN
I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHẬP KHẨU Ở CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ở Chi nhánh Đông Đô
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động nghiệp vụ chủ yếu và quan trọng nhất đối với các ngân hàng thương mại nói chung và Chi nhánh Đông Đô nói riêng. Hoạt động tín dụng cũng đem lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng. Nâng cao hiệu của công tác tín dụng luôn là vấn đề trọng tâm và xuyên suốt được Ban lãnh đạo Chi nhánh đặc biệt quan tâm. Dựa trên sự chỉ đạo, định hướng của NH ĐT&PT VN, Chi nhánh đã xác định hướng đi và biện pháp phát triển hoạt động tín dụng theo định hướng sau:
Xây dựng được một chiến lược kinh doanh hợp lý dựa trên cơ sở nguồn vốn tăng trưởng cộng với chính sách huy động vốn và khả năng của Chi nhánh, trên cơ sở phân tích các yếu tố ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài. Từ đó, Chi nhánh có thể tạo ra một nguồn vốn chủ động, giá rẻ để làm cơ sở cho việc tăng trưởng tín dụng và nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng bạn.
Triển khai nghiêm túc việc định hạng tín dụng nội bộ từ phân loại đánh giá khách hàng, trích dự phòng rủi ro và xử lý nợ trong bảng. Đây là hoạt động rất cần thiết, là cơ sở vững chắc giúp các cán bộ Chi nhánh xác định các giới hạn tín dụng cho các khách hàng, các doanh nghiệp và các tổ chức. Thực hiện tốt việc định hạng tín dụng có thể hạn chế rủi ro cho Chi nhánh, đây là một trong những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động tín dụng.
Nền kinh tế của chúng ta đang bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ, song cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do vậy, Chi nhánh cần có định hướng ưu tiên vào những ngành, lĩnh vực an toàn và đem lại hiệu quả cao. Hạn chế và kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro lớn, và Chi nhánh cũng cần đa dạng hóa các loại hình đầu tư tín dụng vào nhiều ngành, lĩnh vực để phân tán rủi ro.
Kiên quyết thiết lập các kỷ cương, tuân thủ các cơ chế, quy trình trong hoạt động tín dụng, đảm bảo thực hiện đúng các chính sách tín dụng, chính sách khách hàng, phân cấp ủy quyền và vai trò của Hội đồng tín dụng các cấp. Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ kinh doanh tín dụng với những khoản dư nợ mới tăng thêm, phát sinh.
Để tăng sức cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng Chi nhánh cần tiếp tục hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, cập nhật các công nghệ mới, tăng cường mở rộng các hoạt động dịch vụ nhằm thỏa mãn ngày càng tăng nhu cầu của khách hàng.
2. Phương hướng nâng cao hiệu quả tín dụng nhập khẩu ở Chi nhánh Đông Đô
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới như hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng được mở rộng và phát triển hơn bao giờ hết. Đây không chỉ là cơ hội cho các doanh nghiệp mà còn là cơ hội cho các ngân hàng. Do vậy, hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu sẽ là lĩnh vực có tiềm năng phát triển rất lớn. Nắm bắt được điều này, Chi nhánh Đông Đô cũng như NH ĐT&PT VN cần có định hướng, chiến lược rõ ràng để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu. Cụ thể, Chi nhánh đã có những định hướng cụ thể trong hoạt động tín dụng nhập khẩu như sau:
Luôn coi con người là yếu tố quan trọng của thành công, Chi nhánh đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ có khả năng chuyên trách hoạt động tín dụng nhập khẩu, không ngừng bồi dưỡng kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn cho họ.
Hiện nay, giá huy động ngoại tệ trên thị trường có những biến đổi không ngừng, ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn vốn cho hoạt động tín dụng nhập khẩu của Chi nhánh. Đặc biệt là đối với đồng USD, Chi nhánh đã có chủ trương áp dụng mức lãi suất linh hoạt trên cơ sở phân tích tình hình cung cầu vốn trên thị trường. Đồng thời, Chi nhánh cũng phát triển nhiều kênh huy động vốn, ngoại tệ nhằm giảm thiểu tác động của thị trường lên công tác huy động vốn.
Tiếp tục phát triển hệ thống chấm điểm đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, do một thực tế là hoạt động xuất nhập khẩu chứa đựng rất nhiều rủi ro vì vậy xác định đúng đối tượng để tài trợ là điều vô cùng quan trọng, góp phần giảm thiểu rủi ro cho Chi nhánh.
Xây dựng hệ thống hồ sơ thông tin chi tiết về tình hình hoạt động qua từng thời kỳ của các khách hàng, nhất là các khách hàng truyền thống phổ biến rộng rãi trong toàn Chi nhánh để mọi cán bộ có thể nắm vững thông tin về khách hàng mà mình phục vụ.
Thực hiện đầy đủ các quy định của NHNN về hoạt động tín dụng nhập khẩu cũng như những hướng dẫn của NH ĐT&PT VN về việc nâng cao hiệu quả hoạt động cũng là biện pháp quan trọng và cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHẬP KHẨU Ở CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ NH ĐT&PT VN
Chi nhánh luôn không ngừng đổi mới hoạt động, đề ra các biện pháp phát triển hoạt động chung của toàn Chi nhánh, cũng như hoạt động tín dụng nhập khẩu nói riêng. Là một sinh viên thực tập, qua tìm hiểu những hoạt động nghiệp vụ tín dụng của Chi nhánh em xin đề ra một số giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng nhập khẩu tại Chi nhánh.
1. Thu hút nguồn vốn huy động tại Chi nhánh
Trong điều kiện áp lực cạnh tranh và hội nhập mạnh mẽ như hiện nay, việc thu hút được những nguồn vốn rẻ, ổn định từ dân cư hay những tổ chức kinh tế là điều cần thiết để đáp ứng nhu cầu tín dụng ngày càng lớn tại Chi nhánh.
Trước hết, Chi nhánh cần có giải pháp về lãi suất nhằm thu hút khách hàng đến giao dịch. Có thể nói đây là một giải pháp chủ yếu để thu hút nguồn vốn huy động từ dân cư cũng như từ các doanh nghiệp…vì lãi suất chính là đòn bẩy và là công cụ quan trọng để thu hút khách hàng gửi tiền. Hiện nay, các ngân hàng nhất là các ngân hàng cổ phần thường huy động vốn với lãi suất cao, kỳ hạn đa dạng nên để thu hút được khách hàng Chi nhánh cần có các chính sách lãi suất linh hoạt và hấp dẫn, bám sát những thay đổi lãi suất trên thị trường để có thể đưa ra những giải pháp kịp thời, nhanh chóng. Có thể áp dụng các hình thức lãi suất bậc thang cho tất cả các kỳ hạn đang huy động tại Chi nhánh, vì tỷ lệ huy động ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao. Cần thiết phải xây dựng lãi suất dồng bộ linh hoạt, hình thức huy động đa dạng, các chương trình khuyến mãi hấp dẫn nhân dịp kỷ niệm nhân ngày lễ lớn của đất nước, chủ động đề xuất các sản phẩm huy động mới tại Chi nhánh.
Trình độ, phong cách giao dịch của nhân viên phải không ngừng được nâng cao. Điều này không chỉ đòi hỏi người cán bộ trực tiếp giao dịch phải thành thạo trong công việc, thường xuyên cập nhật các kiến thức cơ bản về vốn, lãi suất tín dụng, tỷ giá hối đoái, về thị trường tiền tệ… phải giải thích và tư vấn tốt cho khách để làm nổi bật lợi ích của khách hàng và thu hút họ bằng chính sự hiểu biết vững vàng của mình.
Một giải pháp không thể thiếu là “chính sách khách hàng”, cần công bố rộng rãi trên cơ sở đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng. Có chính sách quan tâm cụ thể đối với những khách hàng có số dư tiền gửi lớn, khách hàng truyền thống của Chi nhánh. Bên cạnh đó, hoạt động khuyến mại và hoạt động tổ chức các chương trình huy động dư nợ dự thưởng cần được làm thường xuyên để thu hút sự quan tâm của khách nhiều hơn.
Việc mở rộng và phát triển hơn nữa các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, dịch vụ gửi và rút tiền tại nhà đối với khách hàng có số dư tiền gửi lớn, thời gian gửi dài cũng được quan tâm nhiều hơn.
Trên tất cả, muốn làm tốt công tác khách hàng đòi hỏi tập thể cán bộ Chi nhánh phải có lòng yêu ngành, yêu nghề, có đạo đức nghề nghiệp có tinh thần trách nhiệm với công việc. luôn tích cực học tập những kiến thức mới, những kinh nghiệm của thế hệ đi trước và tự trau dồi chuyên môn.
Huy động vốn là một công việc quan trọng, nó chính là công tác tạo nguồn đối với mỗi doanh nghiệp. Nếu làm tốt công tác này thì hoạt động tín dụng, tín dụng nhập khẩu mới có cơ sở để phát triển và đạt hiệu quả cao.
2. Mở rộng nguồn vốn ngoại tệ và nâng cao chất lượng tín dụng nhập khẩu ở Chi nhánh
Ngân hàng cần giữ mối liên hệ thường xuyên với các khách hàng, theo dõi hoạt động của họ cũng như sự luân chuyển đồng vốn của mình để kịp thời xử lý khi có những dấu hiệu bất thường hay rủi ro xảy ra. Điều này sẽ giúp ngân hàng gần gũi hơn với khách hàng, nắm bắt được xu hướng phát triển, thay đổi của thị trường.
Có những chính sách thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay các nhà đầu tư nước ngoài, tham gia tích cực vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tăng cường trao đổi thông tin về các dối tác nước ngoài với các ngân hàng bạn để nắm bắt các thông tin về khách hàng một cách chính xác và kịp thời.
Tiếp tục đẩy mạnh và phát triển các hoạt động dịch vụ bao gồm dịch vụ gắn với tín dụng và phi tín dụng, coi trọng chất lượng dịch vụ, tăng thêm tiện ích, cải thiện các giao dịch về thời gian và các thủ tục hành chính.
Khai thác tối đa cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại có thể nghiên cứu, ứng dụng các sản phẩm dịch vụ có chất lượng và tiện ích cao. Phấn đấu trong năm 2007 triển khai từ 35-40 sản phẩm dịch vụ mới để cung ứng ra thị trường, trong đó có khoảng 5 dịch vụ phục vụ cho hoạt động tín dụng nhập khẩu.
3. Đa dạng hóa các hình thức tín dụng tài trợ nhập khẩu
Muốn nâng cao hiệu quả tín dụng nhập khẩu thì cần thiết phải đa dạng hóa các hình thức tín dụng tài trợ nhập khẩu:
Với những dự án lớn, Chi nhánh cần thực hiện hoạt động đồng tài trợ với các chi nhánh khác, ngân hàng khác như vậy sẽ giúp Chi nhánh không bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, tận dụng được các nguồn vốn nhỏ, chia sẻ rủi ro.
Phát triển các hoạt động bảo lãnh và chiết khấu chứng từ, hoạt động này đang ngày càng phát đạt và đem lại nguồn thu lớn cho các ngân hàng.
Mở rộng hoạt động thanh toán bằng L/C đối với hàng nhập khẩu, mở rộng hoạt động này có thể giúp Chi nhánh nâng cao uy tín với các doanh nghiệp,các ngân hàng bạn tạo mối quan hệ bạn hàng thân thiết với các khách hàng.
4. Mở rộng đối tượng khách hàng
Hiện nay khách hàng của Chi nhánh sử dụng tín dụng và tín dụng nhập khẩu chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, Chi nhánh đã xác định việc đa dạng hóa các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được xem là vô cùng năng động và hoạt động khá hiệu quả. Để hoạt động tín dụng, tín dụng nhập khẩu có hiệu quả cao Chi nhánh cần phải: Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có thể tiếp cận được với các dịch vụ này của Chi nhánh. Tăng cường công tác tiếp thị, tích cực tìm kiếm khách hàng mới và các dự án có hiệu quả. Thành lập các nhóm tiếp thị khách hàng, phát triển khách hàng trên cơ sở các mối quan hệ có sẵn. Bên cạnh tăng trưởng phải đi đôi với an toàn trong hoạt động tín dụng, vì vậy trong hoạt động tín dụng, bảo lãnh phải dựa trên việc tập trung phân loại khách hàng, lựa chọn các khách hàng tốt, khoản vay tốt, điều kiện tín dụng đảm bảo cho vay và tăng trưởng bền vững.
5. Xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực
Đẩy nhanh công tác đào tạo cả trình độ chuyên môn và trình độ quản lý, tập trung vào các nghiệp vụ: Tín dụng, thanh toán quốc tế, tin học, ngoại ngữ, pháp luật…, gắn đào tạo với công tác quy hoach cán bộ, đảm bảo đáp ứng nhu cầu nhân lực khi sắp xếp tổ chức và mở rộng mạng lưới kinh doanh. Tập trung bồi dưỡng cán bộ năng lực chuyên môn, có phẩm chất chính trị, có năng lực điều hành… để đề bạt bổ sung cán bộ Lãnh đạo cho các Phòng, tổ nghiệp vụ chuyên môn.
Cần rà soát, sắp xếp lại cán bộ để phát huy hết khả năng hiện có. Bố trí cán bộ theo nguyên tắc “đúng người, đúng việc” theo mô hình hiện đại hóa. Tổ chức thi đua về chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên chi nhánh, khuyến khích nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến cải tiến quy trình nghiệp vụ, phương thức làm việc trong toàn Chi nhánh.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NH ĐT&PT VN VÀ NHÀ NƯỚC
1. Một số kiến nghị với NH ĐT&PT VN
Là một trong bốn ngân hàng thương mại nhà nước lớn của Việt Nam, uy tín cũng như thương hiệu BIDV đã trở nên quen thuộc. Cũng chính vì thế mà NH ĐT&PT VN cần phải có những biện pháp đổi mới hơn nữa, tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức và quản lý để ngày càng phát huy truyền thống cũng như thương hiệu BIDV trong quá trình hiện đại hóa đất nước.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, sức ép cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng lớn, không chỉ với các ngân hàng trong nước mà cả với các ngân hàng nước ngoài. Với những lợi thế sẵn có ngân hàng cần phải nỗ lực hơn nữa, đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng, tín dụng xuất nhập khẩu. Muốn làm được điều này, cần thiết phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ yêu nghề, nhiệt huyết và có tư cách đạo đức tốt, ngân hàng phải không ngừng nghiên cứu thị trường và các nhu cầu của khách hàng để đưa ra được các sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của khách hàng, cũng như xây dựng được một chiến lược phát triển lâu dài, hiệu quả.
Để lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu ngày càng có hiệu quả hơn, đòi hỏi ngân hàng phải đầu tư công nghệ và có chiến lược phát triển lâu dài cả về vấn đề nhân lực, khách hàng, vốn và huy động vốn. Có như vậy thì hoạt động tín dụng, tín dụng nhập khẩu mới thực sự phát triển ổn định đem lại doanh thu và nâng cao sức cạnh tranh cho ngân hàng. Ngân hàng nên nới lỏng hơn các quy định trong giao dịch mua bán ngoại tệ như cho phép giao dịch liên chi nhánh và với các chi nhánh bên ngoài nhưng phải trong hạn mức cho phép. Tỷ giá mua bán ngoại tệ giữa ngân hàng TW với Chi nhánh nên mang tính chất hỗ trợ nhiều hơn, không thực hiện chênh lệch giá mua bán với Chi nhánh để tạo điều kiện cho Chi nhánh có thể tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác.
Ngân hàng phải chủ động hơn nữa tham gia vào thị trường liên ngân hàng, tạo ra một thị trường ngân hàng thống nhất đem lại sức cạnh tranh cao cho ngành ngân hàng Việt Nam trong thời hội nhập.
Tích cực phát động các phong trào thi đua trong toàn hệ thống BIDV, dần xóa bỏ những hạn chế còn tồn tại, thực hiện các hình thức tài trợ nhập khẩu đa dạng phong phú để đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của khách hàng. Chú trọng hơn nữa khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Hội sở chính nên từng bước áp dụng cơ chế một cửa trong việc giải quyết các đề xuất, kiến nghị của Chi nhánh và chế độ thông tin báo cáo của Chi nhánh với TW.
2. Một số kiến nghị với Nhà nước
Đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu, đây là lĩnh vực quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển, hội nhập của đất nước. Vì vậy, Nhà nước phải đặc biệt quan tâm tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển, đổi mới các cơ chế chính sách xuất nhập khẩu, hoàn thiện hành lang pháp lý. Nhà nước cần có biện pháp quản lý phù hợp, hướng hoạt động của các doanh nghiệp theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng tự hào, kinh tế phát triển và đời sống nhân dân được cải thiện rõ ràng. Đây là một cố gắng lớn của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân để đưa nước ta ngày càng phát triển, có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Quả thật vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao, trong năm 2006 vừa qua nước ta đã tổ chức thành công hội nghị APEC, đã trở thành thành viên chính thức của WTO sau hơn 10 năm nộp đơn xin gia nhập… Để tiếp tục phát triển và hội nhập hơn nữa, Nhà nước ta không thể không sử dụng một công cụ có tính chiến lược đó là chính sách về tiền tệ, mà thông qua hệ thống ngân hàng thì chính sách tiền tệ của Nhà nước mới phát huy được vai trò và ảnh hưởng của nó.
Hệ thống ngân hàng là nơi nắm giữ tài chính của cả nước, nó như một cái van để thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Chính vì thế, Nhà nước cần đặc biệt quan tâm, ưu đãi tạo điều kiện cho các ngân hàng phát triển hơn nữa. Nhà nước cần trao quyền tự chủ hơn nữa cho NHNN, đảm bảo NHNN là NHTW thực sự, độc lập tự chủ trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Mục tiêu chủ yếu là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng–tiền tệ, góp phần tạo dựng môi trường vĩ mô thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Tăng cường hiệu lực của NHNN về quản lý, giám sát các giao dịch ngoại hối, tự do hóa giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng kiểm soát các giao dịch vốn một cách thận trọng, phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài chính. Tăng nhanh dự trữ ngoại hối Nhà nước, thực hiện có hiệu quả cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cơ chế thị trường.
KÕt luËn
Tài trợ ngoại thương nói chung và tín dụng nhập khẩu nói riêng với một nước đang phát triển như Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong nền kình tế, nhất là trong khi nước ta đang tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới như hiện nay. Vì vậy, trong 15 tuần thực tập tại Chi nhánh Đông Đô-NH ĐT&PT VN, em đã chọn đề tài: Thực trạng và các giải pháp phát triển hoạt động tín dụng nhập khẩu ở Chi nhánh Đông Đô-NH ĐT&PT VN để tìm hiểu và viết Chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Qua Chuyên đề này, chúng ta có thể thấy được phần nào tình hình hoạt động kinh doanh nói chung và tình hình tín dụng nhập khẩu nói riêng tại BIDV Đông Đô, chúng ta cũng có thể thấy được những khó khăn thách thức mà Chi nhánh Đông Đô hay toàn ngành Ngân hàng phải đối mặt trong thời gian tới.
Chi nhánh Đông Đô vẫn luôn nỗ lực để đạt được kết quả kinh doanh cao nhất cũng như giữ vững và phát huy được truyền thống vốn có của NH ĐT&PT VN, đóng góp cho sự phát triển và hội nhập của kinh tế Việt Nam.
Do trình độ còn hạn chế nên Chuyên đề sẽ không tránh khỏi những sai sót, em mong có được sự góp ý và chỉ bảo thêm của các thầy cô giáo. Thời gian 15 tuần thực tập ở Chi nhánh Đông Đô tuy không ngắn nhưng cũng chưa phải là dài để em có hiểu biết toàn diện và sâu sắc về hoạt động kinh doanh, nghiệp vụ ở nơi đây. Tại đây, em đã có điều kiện được tìm hiểu rất nhiều về hoạt động hàng ngày của một nhân viên ngân hàng, cũng như những hoạt động nghiệp vụ của các nhân viên nơi đây. Được sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn và sự chỉ bảo tận tình của các anh chị tại phòng Tín dụng I em đã hoàn thành Chuyên đề này. Qua đây em xin chân thành cảm ơn Th.s Đinh Lê Hải Hà và các cô chú, anh chị tại Chi nhánh Đông Đô đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều.
Em xin chân thành cảm ơn!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32177.doc