Tín dụng trong ngân hàng thương mại hiện nay vẫn là nghiệp vụ mang lại nhiều lợi nhuận nhất, và nó rất cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như mới thành lập, nhưng đồng thời đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, Nhà nước phải đặc biệt quan tâm, chủ động định hướng sự phát triển, nhà nước hoàn thiện cơ chế tín dụng, các hệ thống luật khác bảo đảm phù hợp với sự phát triển đó. Thực tế xảy ra cũng có nhiều khó khăn trở ngại, cả về yếu tố khách quan cũng như chủ quan nên chúng ta cùng nhau hướng tới chất lượng tín dụng, sử dụng hiệu quả các nguồn tín dụng để xây dựng và phát triển doanh nghiệp ở mọi vùng miền, trên mọi lĩnh vực hoạt động, tạo ra lợi nhuận kinh doanh góp phần cải tạo, ổn định cuộc sống người lao động, để từ đó có được nền tảng vững chắc xây dựng và phát triển đất nước.
Nhận thấy tầm quan trọng của nghiệp vụ tín dụng nên chúng em đã cố gắng cùng nhau tìm hiểu về vấn đề này. Dưới sự hướng dẫn của thầy và các cô, cùng với sự nỗ lực của mỗi cá nhân và giúp đỡ của bạn bè chúng em đã hoàn thành xong bài tiểu luận. Chúng em đã cố gắng tìm hiểu qua nhiều tài liệu, tạp chí và các nguồn khác nhưng phần trình bày chắc sẽ không tránh khỏi thiếu sót hay sai phạm, chúng em mong thầy cô chỉ bảo thêm.
Đề tài không mới nhưng cách tiếp cận khá mới của môn học giúp chúng em chủ động tìm hiểu, bàn luận và hiểu bài hơn. Chúng em chân thành cảm ơn thầy cô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo.
86 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp cho nghiệp vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng đầu tư và các tổ chức tài chính khác.
Cho vay hợp vốn được sử dụng trong các trường hợp :
Nhu cầu vay của khách hàng vượt quá khả năng cho vay của một TCTD theo khả năng vốn hoặc vượt quá theo quy định của luật.
Khoản vay lớn, người cho vay muốn phân tán tiền vay để rủi ro.
Nhiều TCTD nhỏ muốn tiếp cận các dự án lớn có rủi ro thấp hay muốn tiếp cận với các TCTD lớn có trình độ nghiệp vụ tín dụng cao để học hỏi.
Đối với người đi vay, vay hợp vốn khi dự án quá lớn, khó có thể vay ở một TCTD nên phải tiền kiếm nguồn tài trợ từ nhiều TCTD khác nhau. Vay hợp vốn chi phí đi vay sẽ giảm hơn so với đi vay ở nhiều TCTD riêng lẻ. Hơn nữa, vay hợp vốn giúp người vay có thể nhận được tiền vay thuận lợi theo kế hoạch so với nhận tiền vay từ nhiều TCTD riêng lẻ.
Ngoài các ưu điểm nêu trên, cho vay hợp vốn cũng có một số nhược điểm. Đối với người cho vay, một số TCTD không có mối quan hệ trực tiếp với người đi vay nên không thể cung cấp các dịch vụ khác, mất cơ hội kinh doanh. Đối với người đi vay thì chi phí vay hợp vốn rõ ràng là lớn hơn so với vay từ một TCTD nên vay hợp vốn chỉ thực hiện khi không thể tránh được.
*Các phương thức cho vay hợp vốn.
Cho vay hợp vốn trực tiếp.
Cho vay hợp vốn trực tiếp là nhiều TCTD cùng tham gia cho một khách hàng vay, mỗi TCTD có một hợp đồng tín dụng riêng với khách hàng. Mọi vấn đề nảy sinh trong khi thực hiện hợp đồng không liên quan đến các TCTD cùng cho vay hợp vốn.
Mô hình cho vay hợp vốn trực tiếp:
người cho vay 1
người cho vay 3
người cho vay 4
người cho vay 2
người đi vay
hđcv1
hđcv4
hđcv3
hđcv2
cho vay hợp vốn gián tiếp.
Cho vay hợp vốn gián tiếp là các TCTD cùng tham gia cho một khách hàng vay và chỉ thông qua một hợp đồng tín dụng duy nhất ký kết giữa nhóm các TCTD và người đi vay. Các TCTD có thể tham gia góp vốn cho vay bằng hai cách :
Dự phần trực tiếp ( Direct Participation) : mỗi người cho vay dự phần trực tiếp là một thành viên trong hợp đồng tín dụng cho vay, có trách nhiệm pháp lý trực tiếp với người đi vay, có trách nhiệm tham gia phần vốn nhất định vào khoản cho vay. Trước khi tiến hành ký kết cho vay, những người dự phần trực tiếp đàm phán với nhau về các điều kiện cho vay. Khi hợp đồng cho vay đã được ký kết mà các TCTD không thể góp thêm vốn vào khoản cho vay ở dạng dự phần trực tiếp nữa. Trong trường hợp này, các TCTD có thể tham gia dưới hình thức dự phần gián tiếp.
Dự phần gián tiếp (Indirect Participation) : thành viên tham gia dự phần gián tiếp không phải là thành viên trong hợp đồng cho vay, vì thế không có quan hệ pháp lý hoặc nghĩa vụ trực tiếp với người đi vay. TCTD dự phần gián tiếp không phải tham gia ký kết hợp đồng tín dụng với khách hàng nên việc cho vay dự phần gián tiếp có thể tiến hành bất kể khi nào trước hoặc sau khi ký kết hợp đồng tín dụng cho vay hợp vốn.
*Các chủ thể tham gia giao dịch cho vay hợp vốn gián tiếp.
Tổ chức tín dụng quản lý đầu mối ( Lead Manager).
TCTD quản lý đầu mối có vai trò quan trọng nhất trong hoạt động cho vay hợp vốn. Vì thế TCTD làm nhiệm vụ này thường là một tổ chức lớn, có uy tín, được người đi vay và các TCTD khác tham gia cho vay hợp vốn uỷ thác dàn xếp việc hợp vốn và cho vay. TCTD đầu mối phải thực hiện các công việc :
Đàm phán các điều khoản và điều kiện về khoản vay với người đi vay.
Sửa soạn bảng bhi nhớ thông tin.
Marketing khoản vay với các TCTD khác ( thu hút hợp vốn).
Lập và thương lượng hồ sơ vay.
Tổ chức tín dụng quản lý (Manager).
Với khoản vay nhỏ, thì chỉ có một TCTD đầu mối kiêm tổ chức quản lý. Với các khoản cho vay lớn, có nhiều TCTD quản lý và có một TCTD đầu mối quản lý chung. Đối với các khoản vay mang tính quốc gia, có quy mô lớn, có thể có một nhóm các TCTD đầu mối.
TCTD quản lý có nhiệm vụ cùng với TCTD đầu mối dàn xếp hoạt động hợp vốn và cam kết các hình thức cho vay đối với khoản vay.
Người đi vay
Tctd đầu mối
Tctd t.viên 2
Tctd t.viên 1
Tctd quản lý 2
Tctd t.viên 3
Tctd t.viên 4
Tctd quản lý 1
Đàm phán hĐtd
Trợ giúp đàm phán
đàm phán h.vốn
Mô hình cho vay hợp vốn gián tiếp.
Đàm phán và ký kết hợp đồng tín dụng.
Tổ chức tín dụng đại lý (Argent).
Trong nhiều trường hợp, TCTD đầu mối kiêm luôn vai trò của TCTD đại lý. TCTD đại lý có nhiệm vụ thay mặt các TCTD tham gia hợp vốn, thực hiện hợp đồng sau khi nó được ký kết, bao gồm:
Tập hợp các khoản tiền hợp vốn của các TCTD tham gia cho vay.
Thực hiện giải ngân.
Theo dõi khoản vay.
Tính lãi và phí của khoản vay.
Thu lãi, gốc của khoản vay và phân bổ chúng cho các TCTD tham gia cho vay.
Các tổ chức tín dụng thành viên (Participtions).
Các TCTD thành viên thường là các tổ chức nhỏ, không có khả năng tham gia thực hiện các nhiệm vụ nêu trên. Nhiệm vụ chính của TCTD thành viên là góp vốn theo thoả thuận với TCTD dàn xếp và tham gia thẩm định khoản vay.
Người đi vay
Tctd T.viên 3
Tctd T.viên 2
Tctd đại lý
Tctd T.viên 1
Giải ngân giám sát
Góp vốn
Mô hình cho vay hợp vốn gián tiếp.
Thực hiện hợp đồng tín dụng.
Người đi vay (Borrower).
Người đi vay có trách nhiệm cung cấp các thông tin tài chính chi tiết cho TCTD đầu mối để tổ chức này thực hiện nhiệm vụ của mình. Những quyền lợi và nghĩa vụ khác của người đi vay cũng tương tự các loại cho vay khác.
*Các loại phí trong cho vay hợp vốn.
Phí trong cho vay hợp vốn mà người đi vay phải thanh toán cho các TCTD gồm hai nhóm:
Phí trọn gói (Front-end Fee).
Phí đầu mối (Lead Managerment Fee) : người đi vay phải trả công tổ chức cho TCTD đầu mối trong trường hợp khoản vay lớn, có nhiều TCTD quản lý.
Phí quản lý ( Managerment Fee) : phí này thường được trả dựa trên sự đóng góp của từng TCTD quản lý đối khoản vay.
Phí đại lý (Argent Fee) : người đi vay phải trả công cho TCTD thực hiện vai trò đại lý.
Phí pháp lý (Legal Fee) : là các khoản chi tiêu cho các thủ tục pháp lý mà người đi vay phải hoản trả cho TCTD đầu mối.
Phí thực hiện (On-going Fee)
Phí cam kết (Commitment Fee) : là phí người đi vay phải trả cho số tiển mình vay nhưng chưa sử dụng.
Lãi (Interest) : được tính trên số tiền thực tế sử dụng.
*Các kỹ thuật trong cho vay hợp vốn gián tiếp.
Cam kết toàn bộ (Fully Underwitten) : theo cam kết này, các TCTD đầu mối phải cung cấp đầy đủ số tiền mà người đi vay cần. Trong trường hợp TCTD muốn giảm phần vốn góp có thể kêu gọi các TCTD khác tham gia dưới hình thức dự phần gián tiếp.
Cam kết một phần (Parly Underwitten) : theo cam kết này, TCTD đầu mối cam kết cung cấp một phần đáng kết cung cấp phần đáng kể số tiền người vay cần. Nếu hoạt động hợp vốn thành công thì tổ chức này sẽ cho vay phần còn lại.
Cam kết theo khả năng (Best Effort) : TCTD đầu mối cam kết chỉ cung cấp khi nào hoạt động hợp vốn thành công và số tiền cho vay nhỏ hơn rất nhiều so với yêu cầu của người vay. Nếu hoạt động hợp vốn không thành công thì người đi vay không nhận được khoản tiền nào cả.
2.5. Phân tích kinh doanh và ra quyết định vay vốn.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường có các dự án kinh doanh hoặc đầu tư. Các dự án này có thể là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn và có thể phát sinh ở tất các khâu sản xuất, tiếp thị và tiêu thụ hàng hoá. Chẳng hạn như là dự án xây dựng một nhà máy, một phân xưởng mới , dự án nâng cấp hay khôi phục tài sản cố định, dự án xuất nhập khẩu hay dự án cho một chiến dịch tiếp thị. Tất cả các dự án này đều cần đến vốn đầu tư. Vấn đề đặt ra cho nhà quản lý là có nên đầu tư hay không và làm thế nào để tìm nguồn vốn tài trợ cho các dự án đó. Để trả lời câu hỏi này các nhà quản lý có thể theo trình tự được mô tả ở sơ đồ dưới đây.
Xây dựng DA
Phân tích hq của DA
Ra quyết định đầu tư
Tìm nguồn tài trợ DA
Tài trợ bằng vốn tích luỹ
Tài trợ bên ngoài
Vay ngân hàng
Tài trợ leasing
Tài trợ bởi thị trường tài chính
Vay ngắn hạn
Vay nước ngoài
Vay ngắn hạn
Vay trong nước
Tài trợ bởi thị trường vốn
Phát hành cổ phiếu
Tài trợ bằng thị trường tiền tệ
Phát hành trái khoán
CP ưu đãi
CP thông thường
Trái khoán chuyển đổi
Trái khoán thông thường
Sự đa dạng của các nguồn tài trợ như mô tả ở sơ đồ trên đây cho phép doanh nghiệp có nhiều cơ hội tìm kiếm nguồn tài trợ tối ưu đồng thời đòi hỏi các nhà quản lý phải có kỹ năng phân tích tài chính để lựa chọn nguồn tài trợ tốt nhất. Công việc phân tích này thực ra thuộc lĩnh vực của quản lý tài chính và thẩm định dự án đầu tư. Dưới góc độ tín dụng thì chỉ nhắc lại và giả định rằng kết quả phân tích kinh doanh khiến doanh nghiệp lựa chọn vay ngân hàng để tài trợ cho dự án. Khi đó chúng ta sẽ xem xét tiếp một số vấn đề liên quan đến tín dụng.
Ví dụ :
Giả sử công ty Mai Linh hoạch định sẽ tăng số đầu xe taxi trong năm tới. Chi phí dự tính cho mỗi xe là 120 triệu đồng. Thời gian khấu hao xe trong 5 năm, giá trị thu hồi sau khi hết hạn khấu hao là 20 triệu đồng.
Bảng doanh thu và chi phí hoạt động cho mỗi xe.
Đơn vị : triệu đồng
Năm
1
2
3
4
5
1. Doanh thu
82
90
92
95
100
2. Tổng chi phí
40
40
51
56
55
3. Khấu hao
20
20
20
20
20
4. Lợi nhuận trước thuế
42
40
41
39
45
5. Lợi nhuận ròng (trừ 40% thuế)
25.2
24
24.6
23.4
27
6. Dòng tiền tệ thu nhập
45.2
44
44.6
43.4
47
Khi ban giám đốc trình bày dự án này trước một ngân hàng thương mại, ngân hàng này chấp nhận tài trợ cho dự án đầu tư của công ty với lãi suất 10%, như vậy công ty có nên thực hiện dự án này với sự tài trợ của ngân hàng hay không ?
CF0 nhận dấu âm vì đó là số chúng ta chi ra ( Outflows )
Dự án có thu nhập ròng NPV(1)>0 sẽ được chấp nhận, trong khi dự án có NPV 0 cho thấy rằng thu nhập của dự án không những đủ trang trải cho vốn đầu tư mà còn tạo được một khoản thu nhập nhật định, nghĩa là có lời trong dự án đầu tư này. Trong trường hợp công ty có nhiều dự án đầu tư cùng một lúc, nếu các dự án này không xung khắc thì có thể chấp nhận tất cả các dự án nào có NPV>0, nếu các dự án này xung khắc với nhau thì chấp nhận dự án nào có NPV lớn nhất. Tuy nhiên NPV chưa cho biết dự án lời bao nhiêu % , liệu lợi nhuận này có thoả mãn sự mong đợi hay không ? Muốn biết điều này thì phải tính Tỷ suất sinh lợi nội bộ IRR (Internal Rate of Return). Ngoài ra còn một số kỹ thuật phân tích khác như MIRR (Modified Internal Rate of Return), PP (Playback Period) .
2.6 . Kỹ thuật tín dụng trung và dài hạn.
2.6.1.Lãi suất cho vay.
Lãi suất cho vay trung dài hạn phụ thuộc vào lãi suất chung trên thị trường và thường được xác định bằng lãi suất huy động vốn cộng phí ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng.
Cho vay với thời hạn càng dài thì tính thanh khoản của khoản cho vay càng thấp, chứa đựng nhiều yếu tố bất định dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro càng lớn. Vì thế lãi suất cho vay trung dài hạn lớn hơn lãi suất ngắn hạn và thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Lãi suất còn phụ thuộc vào khách hàng vay và khoản vay. Với những khách hàng lớn thông thường rủi ro thấp hơn so với các khách hàng nhỏ nên ngân hàng thường chấp nhận mức lãi suất thấp hơn. Nếu xét đến độ lớn của khoản vay thì khoản vay càng lớn lãi suất càng thấp do chi phí cho khoản vay lớn thấp hơn một cách tương đối so với khoản vay nhỏ.
Đối với mỗi khoản vay trung dài hạn, lãi suất có thể cố định hoặc biến đổi theo lãi suất thị trường tuỳ theo sự thoả thuận giữa khách hàng và TCTD. Lãi suất biến đổi căn cứ trên cơ sở lãi suất cơ bản của ngân hàng và lãi suất của một số thị trường liên ngân hàng quan trọng. Mức lãi suất do hai bên thoả thuận nhưng vẫn phải nằm trong khung lãi suất do ngân hàng nhà công bố cho từng thời kỳ. Ngoài ra các bên áp dụng lãi suất nền và lãi suất trần để hạn chế tính biến động của lãi suất, giảm rủi ro cho cả người vay và người cho vay.
Ví dụ:
Hợp đồng tín dụng trung dài hạn áp dụng lãi suất thả nổi lúc khởi đầu thời hạn cho vay là 12.5%, lãi suất nền và lãi suất trần là 10.5% và 14.5%. Đến kỳ hạn điều chỉnh lãi suất mà lãi suất trên thị trường thấp hơn 10.5% thì áp dụng mức lãi suất 10.5%, nếu mức lãi suất thực tế cao hơn 14.5% thì áp dụng mức lãi suất 14.5%.
2.6.2.Đảm bảo
Cho vay trung dài hạn thường có rủi ro cao hơn cho vay ngắn hạn nên các ngân hàng thường muốn có sự đảm bảo chắc chắn hơn. Tài sản dùng để đảm bảo phải có giá trị lâu dài và không bị mất giá theo thời gian.
Tài sản đảm bảo được sử dụng cho thu hồi nợ dự phòng nên đối với trường hợp có rủi ro lớn thì ngân hàng có yêu cầu về tài sản đảm bảo chặt chẽ hơn so với trường hợp rủi ro thấp. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, để vay vốn trung dài hạn phải có tài sản đảm bảo chắc chắn. Đối với các doanh nghiệp lớn, có uy tín trên thị trường, có tài sản lớn thì việc đảm bảo vốn vay được nới lỏng hơn. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng khả năng trả nợ của doanh nghiệp phụ thuộc vào hiệu quả của dự án vay vốn, quy mô tài sản riêng của doanh nghiệp trên vốn vay. Trường hợp doanh nghiệp có quy mô tài sản lớn nhưng hầu hết lại được hình thành từ vốn vay của các dự án khác chưa thanh toán hết nợ thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp không thể dựa vào các dự án khác được. Vì thế nhất thiết phải có đảm bảo chắc chắn cho khoản vay mà ngân hàng dự định cung cấp.
2.6.3.Giải ngân và quản lý khoản vay.
Đối với các mục đích vay khác nhau thì phương thức giải ngân cũng khác nhau. Đối với trường hợp vay vốn để mua sắm trang thiết bị thì ngân hàng tiến hành ứng trước toàn bộ số tiền vay một lần. Đối với trường hợp vay vốn để hình thành tài sản cố định trong một thời gian dài thì phương thức giải ngân thường được áp dụng là giao tiền vay theo tiến độ hình thành tài sản vay. Đối với trường hợp vay để tài trợ cho nhu cầu về tài sản lưu động thì tùy thuộc theo nhu cầu về tài sản của doanh nghiệp mà ngân hàng giải ngân một lần hoặc nhiều lần.
Các phương thức giải ngân có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo khoản vay được khách hàng sử dụng đúng mục đích và hiệu quả, ngân hàng dễ dàng kiểm soát tiền vay hơn. Các ngân hàng không bao giờ ứng trước tiền vay cho khách hàng trước khi nhu cầu chi tiêu của khách hàng có liên quan đến mục đích vay phát sinh. Ngân hàng đứng ra thanh toán trực tiếp thay cho khách hàng thay vì đưa tiền cho khách hàng để họ tự thanh toán là phương thức giải ngân tốt để kiểm soát việc sử dụng tiền vay đúng mục đích vay.
2.6.4.Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ.
Thời hạn cho vay.
Trừ trường hợp tín dụng tuần hoàn thì tín dụng trung dài hạn có hai trường hợp về thời hạn cho vay.
Trường hợp khoản vay phát huy ngay hiệu quả sau khi giải ngân thì thời hạn cho vay chính là thời hạn thu hồi nợ.
Trường hợp sau khi giải ngân, cần có một khoảng thời gian sau thì khoản vay mới phát huy hiệu quả và có khả năng trả nợ thì thời hạn cho vay ngoài thời gian thu hồi nợ còn phải tính cả khoảng thời gian trước khi khoản vay phát huy hiệu quả. Khoảng thời gian này gọi là thời hạn ân hạn.
Thời hạn cho vay
Thời hạn ân hạn
Thời hạn thu hồi
Công thức thường được áp dụng để tính thời gian thu hồi nợ là :
Thời hạn thu hồi nợ = Số tiền vay ban đầu / Số tiền thanh toán gốc hàng năm
Kỳ hạn trả nợ.
Có các phương án về kỳ hạn trả nợ mà khách hàng có thể thoả thuận với TCTD là :
Các kỳ hạn trả nợ đều nhau.
Các kỳ hạn trả nợ có tính thời vụ.
Kỳ hạn trả nợ một lần vào lúc kết thúc thời hạn vay.
Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ sẽ quyết định thời lượng trả nợ. Tuỳ thuộc của từng khách hàng với mức độ rủi ro khác nhau mà ngân hàng chấp nhận thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ khác nhau. Nếu khách hàng vay có mức độ rủi ro thấp thì ngân hàng sẽ chấp nhận thời lượng cho vay dài hơn trường hợp khách vay có mức độ rủi ro cao.
Thời lượng cho vay được tính theo công thức sau:
Ví dụ: có 3 phương án cho vay như sau.
Phương án 1. cho vay 12 tỷ đồng, thời hạn cho vaylà 3 năm, lãi suất 12%. Vốn và lãi được hoàn trả một lần lúc kết thúc hợp đồng.
Phương án 2. cho vay 12 tỷ đồng, thời hạn cho vay 3 năm, lãi suất 12%. Vốn được hoàn trả một lần lúc kết thúc hợp đồng, lãi được hoàn trả mỗi năm.
Phương án 3. cho vay 12 tỷ đồng, thời hạn cho vay 3 năm, lãi suất 12%. Lãi và gốc được thanh toán đều nhau cho 3 năm.
Bảng lưu chuyền tiền tệ và thời lượng của các phương án.
Vốn hoặc/lãi thanh toán mỗi năm.
Năm 0
(tỷ đồng)
Năm 1
(tỷ đồng)
Năm 2
(tỷ đồng)
Năm 3
(tỷ đồng)
Thời lượng (năm)
Phương án 1
12
(16.86)
3.00
Phương án 2
12
(1.44)
(1.44)
(13.44)
2.69
Phương án 3
12
(5.00)
(5.00)
(5.00)
1.92
Như vậy phương án 1 có thời lượng dài nhất và phương án 3 có thời lượng ngắn nhất. Nếu trường hợp rủi ro thấp ngân hàng có thể lựa chọn cho vay theo phương án 1 hoặc 2, nếu rủi ro cao thì ngân hàng sẽ lựa chọn cho vay theo phương án 3.
2.6.5.Nguồn trả nợ của các khoản vay trung và dài hạn.
Các khoản vay trung và dài hạn được dùng chủ yếu cho nhu cầu tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên. Vì thế, nguồn trả nợ chính đối với các khoản vay này thường là phần tăng thêm trong vốn sở hữu của chủ doanh nghiệp, được tạo từ lợi nhuận sau thuế. Ngoài ra còn một nguồn quan trọng khác dùng để trả nợ trung dài hạn là khấu hao từ các tài sản hình thành từ chính tiền vay.
Cần chú ý rằng khả năng trả nợ của doanh nghiệp không phải là toàn bộ khấu hao và lợi nhuận thu được. Trong giai đoạndoanh nghiệp phát triển, một phần lợi nhuận và khấu hao được doanh nghiệp sử dụng để đầu tư mở rộng. Vì thế ngân hàng cần nghiên cứu về chiến lược trong tương lai của doanh nghiệp về vấn đề tăng trưởng. Ngay cả khi doanh nghiệp không có tăng trưởng đáng kể nhưng để giữ vững vị thế trên thị trường, doanh nghiệp cũng cần đầu tư không nhỏ.
Để phân tích khả năng trả nợ của khách hàng, ngân hàng thường sử dụng phương pháp nguồn trả nợ khả dụng ( Funds Available To Service Additional Term Loan Approach - FATSATL).
Công thức tính FATSATL:
FATSATL = (ATX + NCC) - D - FX - CMLTD - DINT - DWC.
ATX + NCC là lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh.
ATX là lợi nhuận sau thuế.
NCC là các khoản chi phí không phải chi bằng tiền.
D là các khoản chia cổ tức.
FX là các khoản chi tiêu mua sắm tài sản cố định.
CMLTD là các khoản nợ dài hạn đến hạn trong kỳ này.
DINT là lãi phải trả cho khoản vay mới.
DWC là phần giá trị gia tăng trong tài sản lưu động.
Ví dụ:
Một doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn với số tiền là 700 triệu VND. ước tính lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp là 342 triệu VND. Số tiền vay dài hạn đến hạn trả trong kỳ là 45 triệu VND... áp dụng phương pháp FATSATL ta có:
Phương pháp 1
Đơn vị ( triệu đồng)
Phương pháp 2
450
-148
302
+40
342
-10
-47
-45
-30
-55
187
155
Lợi tức trước khi trả.
Lãi của khoản vay mới (10%*700).
Lợi tức trước thuế.
Thuế phải trả (33%)
Lợi nhuận sau thuế (ATX).
Các khoản chi phí không phải chi bằng tiền(NCC).
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động.
Các khoản chia cổ tức.
Lãi phải trả cho khoản vay mới (10%*700*tỷ lệ quy đổi lãi phải trả sau khi điều chỉnh ảnh hưởng của thuế) (DINT).
Khoản nợ dài hạn đến hạn trả trong kỳ
(CMLTD).
Các khoản chi tiêu cho tài sản cố định (FX).
Phần giá trị tăng trong tài sản lưu động (DWC).
Tổng số tiền sử dụng.
FATSATL
450
-70
380
-125
255
+40
295
-10
-45
-30
-55
187
155
Phương pháp 1 : lợi tức trước thuế không trừ lãi mới.
Phương pháp 2 : lợi tức trước thuế có trừ lãi mới.
Cả hai phương pháp đều cho kết quả như nhau.
Câu hỏi và bài tập
1.Các nhu cầu tín dụng ngắn hạn của doanh nghiệp ?
2.Các loại cho vay ngắn hạn của ngân hàng ?
3.Chiết khấu thương phiếu là gì ? Những rủi ro đặc trưng của nghiệp vụ chiết khấu và những biện pháp hạn chế rủi ro đó ?
4. Tại sao ngân hàng cho vay không thể chỉ dựa trên bảo đảm tín dụng ?
5. Các nguồn thông tin nào ngân hàng có thể sử dụng để phân tích tín dụng ?
6. Những mục đích vay tiền nào mà ngân hàng không nên cho vay ?
7. Có khi nào doanh nghiệp làm ăn có lãi mà không có tiền trả ngân hàng ?
8. Mục đích vay trung, và dài hạn của doanh nghiệp ?
9. Nêu các phương thức cho vay trung và dài hạn ?
10. Lý do các doanh nghiệp lựa chọn vay trung và dài hạn thay vì các hình thức huy động vốn trung và dài hạn khác ?
11. Nguồn trả nợ các khoản vay trung và dài hạn ?
Phần 3: Thực trạng và giải pháp cho nghiệp vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam
1. Thực trạng cơ chế tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay
Để có được những đánh giá chính xác và tổng quát về cơ chế tín dụng ở Việt Nam, trước hết chúng ta phải nhìn nhận một cách khách quan về vấn đề này qua một số ví dụ cụ thể sau:
Thực hiện cơ chế tín dụng ở các khu công nghiệp Đồng Nai
(Trích dẫn từ bài: Giải pháp hoàn thiện cơ chế tín dụng phục vụ phát triển kinh tế các khu công nghiệp Đồng Nai_ThS. Trần Quốc Tuấn )
Thực tế hiện nay, ngân hàng chưa có cơ chế tín dụng riêng phục vụ phát triển các khu công nghiệp (KCN). Việc cho vay vẫn thực hiện theo Quy chế cho vay của Ngân hàng nhà nước (NHNN) và các quy định hướng dẫn các ngân hàng thương mại (NHTM).
Thực tiễn hoạt động tín dụng ngân hàng cho thấy, cơ chế cho vay vừa thông thoáng, vừa chặt chẽ, phù hợp với pháp luật kinh tế, dân sự có liên quan, góp phần làm tăng trưởng tín dụng, thay đổi cơ cấu tín dụng phù hợp với thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. Vốn tín dụng đã tập trung cho nhiều chương trình kinh tế trọng điểm, có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất.
NHNN đã thay đổi, bổ sung Quy chế cho vay tạo hành lang pháp lý cơ bản, tạo nhiều quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho TCTD, nhưng vẫn đảm bảo an toàn về vốn và đã tiếp cận những thông lệ quốc tế, đơn giản thủ tục cho vay phù hợp với hoạt động thực tế vầ các quy định của pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên, NHNN chưa có Quy chế cho vay riêng đối với các doanh nghiệp trong KCN, mặc dù đây là một thị trường rất lớn, điều này làm nảy sinh những tồn tại, vướng mắc trong quá trình cho vay:
-. Ngân hàng chưa có quy định nhận bảo lãnh của các tổ chức, cá nhân nước ngoài để cho vay vốn đối với các doanh nghiệp là công ty “con”, chi nhánh của công ty “mẹ” ở nước ngoài.
-. NHNN cũng chưa có hướng dẫn cho vay góp vốn liên doanh.
- Vì máy móc thiết bị gắn liền với nhà xưởng, đất đai, chưa có cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và việc định giá, đánh giá tài sản khó khăn nên việc cho vay bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay cũng rất khó vì một số máy móc đã lạc hậu ở nước ngoài nhưng so với thị trường trong nước vẫn còn giá trị, cán bộ ngân hàng chưa đủ trình độ để đánh giá.
- Công ty xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN bảo lãnh bằng nguồn thu từ các hợp đồng cho thuê đất, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp. Đây là quyền tài sản phát sinh từ các hợp đồng kinh tế, nhưng các TCTD chọn bảo lãnh cầm cố các quyền từ tài sản của công ty xây dựng hạ tầng thì cũng vướng vì tài sản của cng ty chủ yếu là đất đai được Nhà nước giao để hoạt động và có thu tiền xử dụng đất. Vì thế, không thể thực hiện nghĩa vụ cho ngân hàng được.
- Việc bảo đảm tiền vay bằng vốn vay chỉ mới áp dụng trong trường hợp cho vay trung, dài hạn và mức vốn tự có hoặc vốn tự có và tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư dự án. Trong khi các doanh nghiệp trong KCN có khối lượng sản xuất rất lớn, nhu cầu vốn ngắn hạn rất cao thì cơ chế cho vay chưa quy định, và hướng dẫn.
- Trong chỉ thị số 07/CT-NHNN ngày 30/10/2001 của Thống đốc NHNN về mở rộng tín dụng có hiệu quả đối với doanh nghiệp trong KCX, KCN có nêu các doanh nghiệp nước ngoài bị lỗ theo kế hoạch do mới hoạt động tại Việt Nam chưa qua ba năm được các TCTD xem xét cho vay không có đảm bảo bằng tài sản, nhưng cũng không hướng dẫn rõ cụ thể làm cơ sở cho vay hay không, với điều kiện, tiêu chuẩn thế nào, nên trong thực tế các TCTD cũng chưa dám cho vay.
- Thống đốc NHNN đã ban hành Quy chế đồng tài trợ của các TCTD số 154/1998/QĐ ngày 29/4/1998 nhưng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, cũng chưa thể áp dụng bởi khó thống nhất phương thức thẩm định dự án, phức tạp trong thành lập hội đồng thẩm định, quản lý dự án. Mặc dù trong thực tế nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp vay rất lớn, thường vượt quá tỷ lệ 15% vốn tự có của MHTM Nhà nước. Các chi nhánh chỉ được cho nay 1 khách hàng từ 50- 100 tỷ đồng, do đó, tính tự chủ của NHTM và chi nhánh bị hanh chế.
- Các doanh nghiệp nước ngoài trong KCN thường có thói quen tiếp cận cới các dịch vụ hiện đại, phong phú, tiện ích, thủ tục đơn giản, tác phong làm việc dứt khoát và có nhiều đòi hỏi trong cách vay, hồ sơ cho vay mà cơ chế quy định của ta quá cẩn thận và chặt chẽ cho nên khó tiếp cận.
- Chúng ta chưa có chính sách chi hoa hồng, chi thưởng... để cạnh tranh thu hút các doanh nghiệp trong dịch vụ mới như sử dụng công nghệ thẻ, máy rút tiền tự động....
-Quy định của NHTM khi cho vay yêu cầu kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay nhưng trình độ cán bộ ngân hàng còn nhiều hạn chế như ngoại ngữ, chuyên môn khi tiếp cận cách quản lý, hạch toán của các doanh nghiệp. Để thu hút mạnh đầu tư vào các KCN, tỉnh Đồng Nai đã có quy chế về thanh,kiểm tra. Mỗi năm chỉ kiểm tra một lần và phải được Chủ tịch tỉnh quyết định.
Tín dụng trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản ở Quảng Ngãi
(Trích dẫn từ bài:Thực trạng và giải pháp mở rộng tín dụng nuôi trồng thuỷ sản_Võ Mười )
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) nói riêng đang ngày càng được phát huy mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng, nhân lực tài nguyên.
Nhưng triển khai tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn:
- Mức vay theo tỷ lệ không đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho các hộ vay vốn, các tổ chức kinh tế nông thôn vì: thứ nhất, họ chưa có đủ giấy tờ hợp pháp để làm thủ tục thế chấp vay vốn ngân hàng; thứ hai, khung giá đất theo quy định của UBND tỉnh thấp hơn nhiều so với giá thị trường.
- Phần lớn các chủ dự án đều không đủ điều kiện vay vốn, mặc dù các dự án nuôi hay bán thâm canh tôm, cá lồng bè mang lại hiệu quả kinh tế cao vì: theo điểm d, Điều 15 Nghị định 178/1999/NĐ_CP quy định “có mức vốn tự có tham gia vào dự án giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố thế chấp tối thiểu bằng 50% vốn đầu tư của dự án” là quá cao.
- Nghị định 178/CĐ-CP quy định “Tài sản hình thành vốn vay dùng bảo đảm tiền vay phải xác định được quyền sở hữu”, nhưng trong tài sản như máy móc, thiết bị gắn liền với nhà xưởng được hình thành từ vốn vay không phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Do vậy, các TCTD không thể mạnh dạn cho vay đối với các chủ dự án cầm cố, thế chấp máy móc, thiết bị hình thành từ vốn vay.
.-Trong cho vay NTTS, phần lớn tài sản thế chấp tại các TCTD là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, nhưng các thủ tục thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và bất động sản theo quy định hiện hành còn phức tạp, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành chức năng, và việc bán tài sản trên phải được sự chấp thuận của UBND tỉnh, thành phố nên hạn chế quá trình đầu tư tín dụng.
- Trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý kinh tế của các hộ NTTS còn hạn chế dẫn đến sản xuất kém hiệu quả, rủi ro trong vay cao nên các TCTD chưa mạnh dạn đầu tư.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
(Trích dẫn từ bài: Ngân hàng Công thương đổi mới cơ cấu tín dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá_Hà Huy Hùng).
Chuyển dịch cơ cấu tín dụng của Ngân hàng Công thương (NHCT) thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá như sau:
- Tốc độ tăng tưởng tín dụng nhanh: Tổng dư nợ tín dụng năm 1988 là 601 tỷ đồng thì đến năm 2002 đạt tới 55.182 tỷ đồng (tăng gấp 92 lần năm 1988). Dư nợ tín dụng với tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 39%.
- Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng trung, dài hạn cho các dự án: Dư nợ trung, dài hạn năm 1988 chỉ có 18 tỷ đồng chiếm 3% tổng dư nợ, 10 năm sau (1998) đạt 2.540 tỷ đồng chiếm 30% tổng dư nợ và 15 năm sau (2002) lên tới 21.539 tỷ đồng chiếm 43% tổng dư nợ (tăng 1.197 lần năm 1988).
- Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng trung, dài hạn theo nhóm ngành kinh tế :
Dư nợ nhóm ngành công nghiệp tăng từ 160 tỷ đồng năm 1988 lên 27.111 tỷ đồng năm 2002, đưa tỷ trọng cho vay nhóm ngành này từ 27% lên 49% trong tổng dư nợ.
Dư nợ nhóm ngành dịch vụ và khác tăng từ 414 tỷ đồng lên 23.325 tỷ đồng năm 2002 (chiếm 42,7% tổng dư nợ).
Dư nợ nhóm nghành nông nghiệp tăng từ 26 tỷ đồng năm 1988 lên 4.104 tỷ đồng năm 2002 (tăng 1157 lần ); chiếm tỷ trọng 9,3% tổng dư nợ.
- Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng theo thành phần kinh tế.
Như vậy, qua phân tích cơ chế tín dụng ở các vùng khác nhau, các lĩnh vực khác nhau, và cả trong hoạt động cụ thể ở một ngân hàng cho ta thấy rằng, hoạt động tín dụng đã có những bước phát triển vượt bậc, là nghiệp vụ chủ yếu mang lại lợi nhuận cho toàn hệ thống. Tuy nhiên, đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro, và thực tế trong hoạt động vẫn còn gặp nhiều khó khăn trở ngại do cả yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Vì vậy, bất cứ lúc nào chúng ta luôn luôn phải quan tâm đến chất lượng tín dụng, có định hướng phát triển an toàn và hiệu quả hoạt động này.
2. Thuận lợi và khó khăn.
Các tổ chức tín dụng hiện nay hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh hết sức quyết liệt. Vì thế các TCTD cần có một môi trường hoạt động thuận lợi, bình đẳng, có quyền tự chủ cao...Nhưng trên thực tế, các TCTD lại gặp khó khăn bởi chính những yếu tố vĩ mô do nhà nước tạo ra.
2.1. Thuận lợi.
Mặc dù còn nhiều khó khăn đối với hoạt động tín dụng do môi trường pháp lý, do tính cạnh tranh của thị trường, do chính những yếu tố nội tại của mỗi tổ chức tín dụng. Song chúng ta không thể phủ nhận rằng hoạt động tín dụng của nước ta có thể phát triển được như hiện nay là nhờ một phần ở những thuận lợi đối với hoạt động tín dụng. Những thuận lợi này do nhiều yếu tố tạo nên.
Những thuận lợi xuất phát từ quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng do thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành. Hiện nay chúng ta có một quy chế cho vay vừa thông thoáng, vừa chặt chẽ và tương đối phù hợp với hệ thống pháp luật có liên quan. Một quy chế như vậy đã tạo điều kiện giúp cho tín dụng tăng trưởng nhanh chóng về số lượng và phát triển về chất lượng như sự thay đổi cơ cấu tín dụng phù hợp với cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư.
Cơ chế của ngân hàng nhà nước tạo khung pháp lý cần thiết để các tổ chức tín dụng căn cứ vào đó đưa ra những quy định, hướng dẫn cụ thể và phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị mình, mở rộng quyền tự chủ sáng tạo, tạo điều kiện hoạt động linh hoạt cho các tổ chức tín dụng. Việc sửa đổi, bổ sung quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng đã tạo thuận lợi cho hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại.
Quy chế mới theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN đã cho phép mở rộng đối tượng áp dụng là các cá nhân và pháp nhân nước ngoài. Mở rộng đối tượng áp dụng cho phép các TCTD mở rộng phạm vi hoạt động và thu được nhiều lợi hơn.
Đối với việc quy định thời hạn cho vay, quy chế cho vay mới cho phép TCTD và khách hàng tự thoả thuận, đặc điểm này giúp ích cho cả TCTD lẫn TCKT. Khi thời hạn cho vay được xác định một cách linh hoạt tuỳ theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và thời gian thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn tín dụng của bên cho vay thì vốn sẽ được sử dụng hiệu quả hơn đối với TCTD, TCKT và cả nền kinh tế.
Những quy định về chuyển nợ quá hạn và gia hạn nợ giúp các TCTD quản lý tốt hơn tình hình hoạt động tín dụng của mình và thuận lợi cho khách hàng vượt qua những khó khăn nhất thời. Quy định này tăng thêm quyền tự chủ của các TCTD.
Những thuận lợi nêu trên đã tạo điều kiện cho các TCTD chủ động hoat động sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo an toàn, giúp cho cả hệ thống tín dụng nước ta tăng trưởng và phát triển những bước tiến lớn.
2.2. Khó khăn.
-Những khó khăn xuất phát từ sự chưa hoàn thiện của môi trường luật pháp :
Nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động của các TCTD, ảnh hưởng đến quyền tự chủ của các TCTD. Cụ thể như việc chính phủ giới hạn mức cho vay đối với trường hợp vay không có bảo đảm bằng tài sản, tỷ lệ vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án trong trường khoản vay được bảo đảm bằng tài sản hình thành tự vốn vay, chính phủ quyết định về gian hạn nợ trong một số trường hợp nhất định và giới hạn mức cho vay đối với một khách hàng. Việc chính phủ can thiệt vào các vấn đề trên khiến cho các TCTD như bị bó chặt, không thể phát huy tính chủ động, linh hoạt trong quá trình hoạt động tín dụng của mình, khiến các TCTD dụng bị mất đi những cơ hội lớn.
Ngoài những khó khăn về quá trình cho vay do pháp luật gây ra, sự bất hợp lý trong một số luật có liên quan khiến TCTD gặp nhiều trắc trở khi tiến hành sử lý tài sản thu hồi nợ quá hạn.
Đầu tiên là những khó khăn liên quan đến luật phá sản doanh nghiệp. Theo như luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay thì thời gian tiến hành tuyên bố doanh nghiệp phá sản là quá dài. Trong khi trên thực tế, hầu hết mọi doanh nghiệp bị mở thủ tục tuyên bố phá sản đều đã lâm vào tình trạng thực sự không còn khả năng cứu vãn qua hội nghị chủ nợ. Như vậy thời gian tuyên bố doanh nghiệp phá sản quá dài, đôi khi không cần thiết khiến các TCTD gặp không ít khó khăn khi thu hồi nợ xấu. Ngoài quy trình tuyên bố doanh nghiệp phá sản quá dài còn có một số điểm bất hợp lý liên quan đến các tổ chức có quan hệ tín dụng với doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản như không thừa nhận tư cách chủ nợ có bảo đảm của ngân hàng bảo lãnh. Khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì ngân hàng bảo lãnh cho doanh nghiệp này chỉ được coi là chủ nợ không có bảo đảm. Điều này chỉ đúng trong trường hợp bảo lãnh không có bảo đảm bằng tài sản, trên thực tế hầu hết các thoả thuận bảo lãnh giữa ngân hàng và doanh nghiệp đều có bảo đảm bởi tài sản của doanh nghiệp được bảo lãnh. Rõ ràng đây là điều bất hợp lý gây thiệt hại cho ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và cần phải sửa đổi.
Cũng liên quan đến vấn đề xử lý nợ xấu của các TCTD đối với các khách hàng nhưng những khó khăn lần này lại xuất phát từ luật đất đai, chủ yếu liên quan đến quyền sử dụng đất được sử dụng để thế chấp vay vốn các TCTD. Theo thông tư 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BTC-TCĐC thì các TCTD muốn phát mãi quyền sử dụng đất và bất động sản cần phải nhận được sự đồng ý của UBND tỉnh, thành phố. Việc kéo dài thời gian xử lý tài sản thế chấp làm hạn chế đến quá trình đầu tư tín dụng của các TCTD. Đặc biệt, trong một số trường hợp, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thể bị toà án ra quyết định thu hồi như xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất hay có sự sai trái khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong những trường hợp như vậy, các TCTD nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất phải chịu rủi ro rất lớn, có khi không thể thu hồi được nợ. Trong thời gian gần đây, luật đất đai liên tục được thay đổi, tuy những thay đổi này là cần thiết và tạo ra sự thuận lợi cho các hoạt động có liên quan trong đó có hoạt động về tín dụng. Nhưng chính những thay đổi thường xuyên như vậy lại tạo ra sự bất ổn của môi trường pháp lý làm cho các ngân hàng không yên tâm khi ra các quyết định cho vay mà tài sản thế chấp là giá trị quyền sử dụng đất.
Về luật doanh nghiệp nhà nước cũng còn có những điều chưa hợp lý liên quan đến mối quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng và các doanh nghiệp nhà nước. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, khi muốn thế chấp toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp để vay vốn thì cần có sự đồng ý của cơ quan đã ra quyết định thành lập doanh nghiệp đó. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản nào của cơ quan có thẩm quyết cho phép xác định toàn bộ dây truyền công nghệ chính của doanh nghiệp là gì. Sự không rõ ràng này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng nếu tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước tại thời điểm xử lý để thu hôì nợ quá hạn lại được xác định là toàn bộ dây truyền công nghệ chính của doanh nghiệp. Trong trường hợp đó, việc thế chấp của doanh nghiệp coi như vô hiệu và rủi ro thuộc về các ngân hàng cho vay. Khó khăn nay khiến cho các ngân hàng e ngại khi cho các doanh nghiệp nhà nước vay, điều này ảnh hưởng không tốt đến các ngân hàng và cả các doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu vay vốn. Theo thông tư số 62/1999/TT-BTC hướng dẫn việc sử dụng vốn và tài sản trong các DNNN quy định tổng công ty có quyền điều chuyển tài sản thuộc vốn sở hữu nhà nước của các doanh nghiệp thành viên kể cả các doanh nghiệp hạch toán độc lập. Điều này là không hợp lý vì theo quy định, các doanh nghiệp hạch toán độc lập trong các tổng công ty nhà nước có quyền thế chấp, cầm cố tài sản do đơn vị mình quản lý để vay vốn các TCTD. Việc điều chuyển tài sản mà doanh nghiệp thành viên sử dụng để cầm cố, thế chấp sẽ làm ảnh hưởng đến khả đảm bảo thực hiện nghĩa vụ vật chất của doanh nghiệp đối với TCTD cho vay.
Ngoài những khó khăn nêu trên, còn cón những khó khăn liên quan đến những bất hợp lý trong việc thực hiện các chính sách của nhà nước. Ví dụ như việc chính phủ chỉ định các ngân hàng thương mại cho vay ưu đãi đối với một số đối tượng chính sách, hay việc chính phủ quyết định các trường hợp khoanh nợ, không thu lãi, miễn giảm lãi nhưng các ngân hàng thương mại lại là người gánh chịu thiệt hại. Việc để cho các ngân hàng thương mại phải gánh chịu những rủi ro, thiệt hại do những quyết định của chính phủ gây ra là bất hợp lý, gây khó khăn và không công bằng đối với các ngân hàng thương mại.
-Những khó khăn yếu kém trong còn tồn tại trong hoạt động tín dụng.
Thứ nhất, trình độ của cán bộ tín dụng ở một số ngân hàng và các TCTD còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc như : trình độ thẩm định khách hàng, thẩm định phương án, không nắm vững cơ chế chính sách, quy trình tín dụng nên để xảy ra tình trạng cho vay sai quy chế, cho vay những khách hàng yếu kém về tài chính, sản xuất kinh doanh thua lỗ, cho vay đối với những dự án không hiệu quả, không khả thi. Vì vậy chất lượng tín dụng ở những TCTD này không cao, tăng nợ khó đòi và nợ quá hạn. ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của hệ thống tín dụng. Ngoài ra còn phải kể đến một số cán bộ thoái hoá biến chất, cấu kết với khách hàng để lừa đảo, vay vốn làm ảnh hưởng đến uy tín của TCTD.
Thứ hai, còn một số cán bộ tín dụng và lãnh đạo các chi nhánh của TCTC không chấp hành quy trình tín dụng, không kiểm tra đối chiếu thực tế tại các cơ sở của khách hàng, không trực tiếp thẩm định các dự án kinh doanh, không kiểm tra trong giai đoạn giải ngân...Tạo ra kẽ hở cho khách hàng lợi dụng để lừa đảo, làm thất thoát vốn tín dụng.
Ba là, ở một số chi nhánh của các TCTD do chạy theo thành tích, muốn tăng nhanh dư nợ nên hạ thấp điều kiện tín dụng để thu hút khách hàng, gây ra việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các TCTD, gây ảnh hưởng toàn hệ thống tín dụng.
Bốn là, sự thu thập thông tin kinh tế, thông tin về rủi ro, thực hiện phân tích tín dụng, phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng chưa được thực hiện có hiệu quả. Việc quản lý thông tin tín dụng vẫn được thực hiện thủ công là chủ yếu, nên thiếu chính xác và không kịp thời. Vì vậy việc phân tích đánh giá tín dụng theo ngành hàng, khách hàng chưa được thực hiện thường xuyên để có được những định hướng tín dụng chính xác và kịp thời.
3. Các giải pháp cho hoạt động tín dụng của hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Mục tiêu định hướng phát triển thị trường tín dụng Việt Nam là nhằm kịp thời đáp ứng được các yêu cầu cấp bách về vốn tín dụng ngân hàng để đầu tư cho công cuộc đổi mới phát triển kinh tế xã hội cũng như nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Để phấn đấu đạt được mục tiêu này, trong những năm tới, một mặt cơ chế quản lý của ngân hàng Nhà nước phải tạo ra một môi trường tín dụng thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các TCTD Việt Nam, mặt khác Hệ thống các TCTD Việt Nam cần tiếp tục có những bước đổi mới tích cực về phát triển mạng lưới giao dịch, hiện đại hoá công nghệ, phong cách giao dịch, nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ ngân hàng, tiếp tục cải tiến và đơn giản hoá các quy trình thủ tục cho vay, tạo điều kiện thuân lợi cho mọi khách hàng có thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng.
a.Hoàn thiện cơ chế tín dụng.
Đổi mới cơ chế tín dụng phải gắn với đổi mới pháp luật và nhà nước, và quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đổi mới pháp luật, sửa đổi những điểm bất hợp lý, trái với thông lệ quốc tế. Qua 5 năm thực hiện luật các TCTD ở nước ta , đã bộc lộ một số nhược điểm như chưa đáp ứng được yêu cầu về hội nhập nền kinh tế quốc tế, các yêu cầu của Hiệp định thương mại Việt Mỹ, AFTA, WTO…
Cơ chế tín dụng ban hành phải phù hợp với định hướng phát triển của các thành phần doanh nghiệp, phù hợp với đặc điểm cụ thể của các doanh nghiệp. Cơ chế tín dụng phải tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng của ngân hàng thương mại. Quan hệ TCTD và khách hàng là quan hệ bình đẳng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quy định trong hợp đồng tín dụng, đảm bảo cho hoạt động tín dụng của ngân hàng an toàn và hiệu quả. Đồng thời đổi mới và hoàn thiện cơ chế tín dụng của ngân hàng phải gắn liền với quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại ở nước ta. Phải tạo được cơ chế chính sách đồng bộ, phù hợp thông thoáng thì mới thực sự đổi mới và hoàn thiện cơ chế tín dụng có hiệu quả.
b.Đổi mới cơ chế huy động vốn.
Nhu cầu vốn vay trung và dài hạn hiện nay rất lớn, các nguồn vốn huy động của ngân hàng không đủ để đáp ứng, chủ yếu đó là vốn vay ngắn hạn. Do đó ngân hàng phải có nhiều giải pháp để huy động các nguồn vốn tập trung cho phát triển nhất là các nguồn vốn dài hạn. phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để khai thác hết khả năng vốn còn lớn trong xã hội với các biện pháp sau:
-Hình thành và phát triển các quỹ đầu tư phát triển.
-Phát hành trái phiếu
-Tạo sự hấp dẫn để huy động các nguồn lực bên ngoài.
-Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán.
c.Đổi mới cơ chế quản lý vốn đầu tư tín dụng.
Quản lý vốn đầu tư tín dụng phải dựa trên nguyên tắc nội lực hoá các nguồn ngoại lực. Thu hút các nguồn vốn trong nước và ngoài nước. Nguồn lực ngoài nước không chỉ thu hút vốn bằng tiền mà kèm theo là kinh nghiệm quản lý, và công nghệ tiên tiến… Phải xử lý hài hoà mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài, khả năng hấp thụ đến đâu thì thu hút các nguồn lực đến đó. Phải phát huy tốt và phát huy có hiệu quả vốn huy động ngoài nước.
Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng qua từng năm, do đó phải bố trí các nguồn vốn hợp lý như vốn ngân sách, vốn tín dụng... Đầu tư vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, các lĩnh vực then chốt có tính chất quyết định và định hướng phát triển kinh tế cũng như cơ cấu kinh tế. Trên cơ sở các nguồn vốn này để thu hút các nguồn vốn từ nhân dân tham gia đầu tư.
Trong quản lý vốn đầu tư, phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế, xã hội của dự án, tức là hiệu quả mà dự án đem lại sau khi đầu tư phù hợp với phát triển kinh tế và cơ cấu đầu tư. Đánh giá trên cơ sở suất vốn đầu tư, cơ cấu kỹ thuật của vốn đầu tư theo hướng hiện đại hoá quá trình sản xuất.
Đa dạng hoá các công cụ tài chính trong huy động và sử dụng vốn đầu tư, mở rộng phương thức thu hút đầu tư mới thông qua các quỹ đầu tư phát triển, quỹ hỗ trợ phát triển và các trung gian tài chính khác. Có chủ trương và biện pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư, phối hợp việc cấp phát, cho vay hỗ trợ lãi suất để sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả.
d. Đổi mới cơ chế cho vay đối với các doanh nghiệp.
- Về phạm vi và điều kiện cho vay.
Ngân hàng Nhà nước đã quy định cơ chế cho vay chung, trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại quy định cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện riêng của mình. Các doanh nghiệp trước khi hoạt động đã có một quá trình nghiên cứu kỹ sự cần thiết phải đầu tư, có giai đoạn lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, thẩm định dự án… Qua đó các dự án đã được chấp nhận tính hợp lý, tính hiệu quả, và tính khả thi. Từ đó các ngân hàng thương mại xem xét trên cơ sở pháp lý của dự án đầu tư đã được cấp phép mà quyết định có cho doanh nghiệp vay vốn hay không.
Các quy định về đảm bảo tiền vay cũng phải xem xét trên quan điểm không lấy điều kiện cho vay là tài sản thế chấp: là máy móc, nhà xưởng, đất đai. Các TCTD nên hình thành tư duy cho vay chỉ căn cứ vào hiệu quả của dự án đầu tư thay vì cho vay phải có tài sản thế chấp như hiện nay để làm điều kiện xem xét. Một khi các thủ tục trong vay vốn tín dụng được cải thiện trở nên thông thoáng thì các doanh nghiệp sẽ tìm đến ngân hàng nhiều hơn, mối quan hệ giữa TCTD với khách hàng sẽ tốt hơn. Chỉ có như vậy mới đẩy nhanh hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn.
- Bổ sung những phương thức cho vay mới:
Các ngân hàng nên áp dụng linh hoạt các phương thức cho vay. Một khách hàng có thể được ngân hàng thương mại cho vay nhiều phương thức khác nhau trên cơ sở căn cứ vào đặc điểm hoạt động và nhu cầu của khách hàng.
Tăng cường áp dụng các dịch vụ hiện đại phục vụ các doanh nghiệp như phát hành các loại thẻ, máy rút tiền tự động, chi trả tiền qua ngân hàng, khuyến khích các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu sử dụng các dịch vụ này miễn phí. Thực hiện việc chi hoa hồng và thưởng cho các doanh nghiệp có quan hệ tốt với ngân hàng, giảm các điều kiện kiểm tra hồ sơ thủ tục cho vay, và cho vay với lãi suất ưu đãi…
- Về vấn đề thanh tra kiểm tra việc thực hiện dự án:
Đối với các doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại phải gửi định kỳ các báo cáo về tài chính để ngân hàng xem xét. Phải có quy định về khai thác thông tin từ báo cáo kiểm toán độc lập hàng năm của cơ quan kiểm toán. Các giao dịch của doanh nghiệp phải thông qua ngân hàng. Hoàn thiện việc kết nối mạng vi tính giữa các doanh nghiệp với ngân hàng. Muốn vậy ngân hàng phải có đầu tư trang thiết bị và hướng dẫn đào tạo cán bộ đáp ứng đủ yêu cầu thanh tra kiểm tra sao cho hoạt động tín dụng hiệu quả thuận lợi.
e.Hoàn thiện luật các tổ chức tín dụng.
Hiện nay, sau nhiều năm ban hành và thực hiện, luật các Tổ chức tín dụng vẫn còn nhiều điểm chưa thực sự hợp lý như Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động của các TCTD, gây ảnh hưởng đến quyền tự chủ, những quy định liên quan đến việc giới hạn mức cho vay đối với các trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản...Để hoạt động tín dụng ngày càng hiệu quả hơn thì việc hoàn thiện luật các tổ chức tín dụng là rất cấp bách. Việc sửa đổi và bổ sung luật các tổ chức tín dụng phải xuất phát từ thực tiễn hoạt động của các TCTD.
Ngoài ra sự bất hợp lý giữa các luật khác với luật các TCTD cũng cần được khắc phục. Tạo ra khung hành lang pháp lý thuận lợi cho các TCTD, sao cho DN dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các TCTD.
f.Đổi mới hoạt động tín dụng.
Để khắc phục những khó khăn, yếu kém trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng phải thực hiện một số các mục tiêu.
Một là, phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy chế tín dụng hiện hành, cũng như sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo trong từng thời kỳ nhằm tăng trưởng tín dụng đối với mọi thành phần kinh tế an toàn và hiệu quả.
Hai là, tiếp tục cơ cấu lại dư nợ theo hướng mở rộng thêm các đối tượng cho vay như : cho vay tiêu dùng, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đẩy mạnh cho vay các khu công nghiệp, khu kinh tế mở, hay khu kinh tế năng động.
Ba là, quan tâm đúng mức đến các biện pháp đảm bảo tiền vay nhằm tăng cường trách nhiệm, nghĩa vụ của người vay, tạo cơ sở kinh tế pháp lý để thu nợ.
Bốn là, hoàn thiện cơ cấu quản lý của của các TCTD, nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng, nâng cao trình độ về công nghệ, về kinh tế, kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ thẩm định dự án. Tiếp tục củng cố phát triển bộ máy tổ chức, biên chế đội ngũ cán bộ, nhân viên đi kèm với cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho các kinh doanh dịch vụ hiện hại của ngân hàng.
Kết luận
Tín dụng trong ngân hàng thương mại hiện nay vẫn là nghiệp vụ mang lại nhiều lợi nhuận nhất, và nó rất cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như mới thành lập, nhưng đồng thời đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, Nhà nước phải đặc biệt quan tâm, chủ động định hướng sự phát triển, nhà nước hoàn thiện cơ chế tín dụng, các hệ thống luật khác bảo đảm phù hợp với sự phát triển đó. Thực tế xảy ra cũng có nhiều khó khăn trở ngại, cả về yếu tố khách quan cũng như chủ quan nên chúng ta cùng nhau hướng tới chất lượng tín dụng, sử dụng hiệu quả các nguồn tín dụng để xây dựng và phát triển doanh nghiệp ở mọi vùng miền, trên mọi lĩnh vực hoạt động, tạo ra lợi nhuận kinh doanh góp phần cải tạo, ổn định cuộc sống người lao động, để từ đó có được nền tảng vững chắc xây dựng và phát triển đất nước.
Nhận thấy tầm quan trọng của nghiệp vụ tín dụng nên chúng em đã cố gắng cùng nhau tìm hiểu về vấn đề này. Dưới sự hướng dẫn của thầy và các cô, cùng với sự nỗ lực của mỗi cá nhân và giúp đỡ của bạn bè chúng em đã hoàn thành xong bài tiểu luận. Chúng em đã cố gắng tìm hiểu qua nhiều tài liệu, tạp chí và các nguồn khác nhưng phần trình bày chắc sẽ không tránh khỏi thiếu sót hay sai phạm, chúng em mong thầy cô chỉ bảo thêm.
Đề tài không mới nhưng cách tiếp cận khá mới của môn học giúp chúng em chủ động tìm hiểu, bàn luận và hiểu bài hơn. Chúng em chân thành cảm ơn thầy cô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo.
Tài liệu tham khảo
1 .Giáo trình tín dụng ngân hàng. TS Hồ Diệu- NXB thống kê- 2001.
2 .Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. - NXB Thống kê-2000.
3 .Giáo trình tín dụng ngân hàng. - NXB Thống kê- 2001.
4 .Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. PGS -TS Lê Văn Tề- NXB Thống kê- 2003.
5 .Ngân hàng thương mại và quản trị nghiệp vụ. TS Phan Thị Thu Hà- NXB Thống kê- 2002.
6 .Tạp chí ngân hàng. Số 7, 10, 11, 12 / 2003, và Số chuyên đề 2003.
7 .Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX.
8 .Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Số 01/1997/QH10 (12/12/97)
9 .Quy chế cho vay của TCTD với khách hàng.( Ban hành kèm theo quyết định số 1627/2001 QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước )
10 .Quy chế cho vay đối với khách hàng trong hệ thống ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. (Ban hành kèm theo quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/03/2002 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghệp và phát triển nông thôn Việt Nam)
11 .Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 200/QĐ-NH1 ngày 28 háng 06 năm 1997 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thể lệ tín dụng trung hạn, dài hạn ban hành kèm theo Quyết định số 367/QĐ-NH1 ngày 21/12/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
12. ( Ngân hàng á Châu)
13. ( Ngân hàng Ngoại thương )
14. ( Ngân hàng Công thương Việt Nam)
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0316.doc