Chuyên đề Thực trạng và giải pháp cho vấn đề tiêu thụ nông sản ở Việt Nam

Trên đây là một khái quát tổng thể về những thành tựu cũng như những tồn tại của vấn đề tiêu thụ nông sản ở Việt nam. Xét một cách toàn diện, tuy đã có nhiều những thành tựu to lớn và phát triển vượt bậc so với thời kì trước đây, nhưng nếu so sánh với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, và nhất là đặt trong yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, bền vững thì đây còn là một trong những vấn đề khó khăn nhất, đòi hỏi Nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất, các tổ chức thương mại phải gấp rút tìm ra định hướng, giải pháp kịp thời và đúng đắn để thúc đẩy phát triển. Trong phạm vi của đề tài, có đưa ra một số đề xuất nhằm khắc phục các thực trạng, cải thiện những vấn đề tồn tại trong tiêu thụ nông sản, nhưng đó chỉ là một phần trong rất nhiều những công việc cần làm để có thể đưa thị trường nông sản nói riêng, sản xuất nông nghiệp Viêt nam nói chung, có những bước tiến mới, dần dần trở thành ngành sản xuất chính trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, song do kiến thức bản thân còn có nhiều hạn chế, cộng với những sai lầm khách quan trong quá trình thu thập tài liệu nên bài viết không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo để sữa chữa những sai lầm, mong cho bài viết ngày càng được hoàn thiện hơn.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1848 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp cho vấn đề tiêu thụ nông sản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề xuất của bản thân nhằm góp một phần nào đó đưa nền sản xuất nông nghiệp Việt nam có những bước tiến mới , phát triển ngang tầm với các quốc gia khác, thực sự trở thành ngành sản xuất hàng hoá chính trong nền kinh tế quốc dân. PHẦN II: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI Tiêu thụ nông sản phẩm là một khâu rất quan trọng trong quá trình tái sản xuất nông nghiệp. Nó là khâu cuối cùng kết thúc quá trình sản xuất,tức là giải quyết khâu đầu ra của quá trình sản xuất. Từ quá trình tiêu thụ sản phẩm,sẽ thu được nguồn tiền để bù đắp các chi phí tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Tiêu thụ nông sản là giai đoạn làm cho sản phẩm ra khỏi quá trình sản xuất và bước vào lưu thông, đưa sản phẩm từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực tiêu dùng. Nếu tổ chức tốt và có hiệu quả việc tiêu thụ nông sản sẽ có tác dụng mạnh mẽ đến quá trình sản xuất. Tiêu thụ hết và kịp thời sản phẩm làm ra là một tín hiệu tốt cho doanh nghiệp bổ sung, điều chỉnh kế hoạch sản xuất cho quá trình tiếp theo. Giá trị sản phẩm được thực hiện cho phép doanh nghiệp sử dụng hợp lí vốn sản xuất, tránh ứ đọng vốn và nhanh chóng và kịp thời sản phẩm làm ra còn rút ngắn được thời gian lưu kho, lưu thông và chu kì sản xuất kinh doanh của sản phẩm. Như vậy, tiêu thụ tốt sản phẩm là cơ sở thông tin về thị trường cho người sản xuất. Ngược lại sản phẩm không tiêu thụ được là tín hiệu xấu đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm ra nguyên nhân để từ đó có những giải pháp kịp thời điều chỉnh cho phù hợp. Đối với lĩnh vực tiêu dùng ,tiêu thụ tốt sản phẩm sẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng, đồng thời còn có tác dụng điều chỉnh và hướng dẫn tiêu dùng mới ,đặc biệt đối với những sản phẩm mới. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sản xuất phải hướng tới tiêu dùng và lấy tiêu dùng làm mục tiêu để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong cầu nối này. Thông qua tiêu thụ sản phẩm, các nhà sản xuất sẽ nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng về số lượng, chất lượng, mẫu mã ,chủng loại mặt hàng. Tiêu thụ sản phẩm là một hoạt động nằm trong lĩnh vực lưu thông, có nhiệm vụ chuyển tải những kết quả của lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng. Vì vậy tiêu thụ sản phẩm kịp thời và nhanh chóng là tiền đề quan trọng trong thực hiện phân phối sản phẩm và kết thúc quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Đây là một khâu không thể thiếu được đối với bất kì hoạt động sản xuất nào, vì vậy vấn đề này phải luôn được đặt vào một trong những vấn đề phải quan tâm giải quyết hàng đầu và phải luôn có những chính sách thích hợp để thúc đẩy phát triển. PHẦN III: Nội dung nghiên cứu 1. Những biến đổi, phát triển của thị trường tiêu thụ nông sản. * Trong nước: Sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam rất đa dạng, phong phú và phức tạp, nhưng trong những năm qua nhờ tổ chức tốt kênh tiêu thụ sản phẩm nên đã góp phần vào tăng trưởng nền kinh tế. Trước đây việc tiêu thụ nông sản phẩm ở Việt Nam do Nhà nước tổ chức rất chặt chẽ và khép kín. Hệ thống kênh tiêu thụ như vậy có tác dụng cho kháng chiến và cho phân phối nhưng mặt khác đã làm sản xuất chậm phát triển, lưu thông chậm, giảm sức mua, từng vùng từng địa phương chỉ biết mình, không được tự do mua bán. Đến nay nhờ có chính sách tự do hóa thương mại nên mọi người, mọi thành phần kinh tế đều đã được tự do tham gia vào các kênh tiêu thụ nông sản phẩm. Ngược lại với tình hình trước đây do Nhà nước tổ chức quản lý chặt chẽ thì hiện nay kênh tiêu thụ sản phẩm có đặc điểm chủ yếu là do tư nhân quản lý chi phối. Các kênh gián tiếp bước đầu phát triển khá như: kênh lương thực, thực phẩm cung cấp đi các nước, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong xuất khẩu. Mạng lưới tiêu thụ tuy chưa đồng đều giữa các vùng nhưng cũng đã góp phần phân phối một lượng lớn khối lượng nông sản phẩm. Phát triển thị trường nông nghiệp trong Giai đoạn đổi mới: Nhờ có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ra đời (5/4/1988) với nội dung là xác định giao ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân, hóa giá trâu bò cày kéo, tài sản cố định có giá trị lớn. Xóa bỏ phân phối theo ngày công, hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, nhờ vậy sản xuất nông nghiệp hàng hoá đạt được thành tựu to lớn. Chúng ta đã bước đầu khắc phục được tình trạng khủng hoảng về thị trường trong tiêu thụ nông sản, kinh tế nông nghiệp trong nước phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Các chính sách, cơ chế hỗ trợ khuyến khích phát triển thương nhân, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, xúc tiến thương mại, kích cầu, cải thiện môi trường đầu tư, cải thiện kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống trong nông nghiệp nông thôn... đã góp phần làm phong phú và sống động hoạt động thương mại trên thị trường nông nghiệp nông thôn. * Biến đổi của thị trường tiêu thụ quốc tế: Với phương châm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế, trong 10 năm qua, xuất khẩu nông sản nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng khá nhanh, đạt tốc độ tăng bình quân cao. Cho đến nay, kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 15 tỉ USA năm 2009 và là một trong những nguồn thu ngoại tệ chủ yếu ở nước ta. Với điều kiện của một nền nông nghiệp nhiệt đới phát triển trên cơ sở khai thác tài nguyên sinh học đa dạng, Việt Nam có khả năng cung cấp cho thị trường quốc tế chủng loại hàng hoá nông sản đa dạng, từ lương thực, thực phẩm, đến các loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Đồng thời, việc hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới, việc phát triển xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp hoặc các sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp trở thành yêu cầu tất yếu. Trong những năm qua, việc xuất khẩu các loại hàng hoá này có những kết quả tích cực cả trên phương diện chủng loại hàng hoá, khối lượng và phạm vi thị trường. Nhiều sản phẩm đã thâm nhập được vào những thị trường có đòi hỏi khắt khe về chất lượng, như thị trường EU, Nhật Bản. Tuy vậy, việc mở rộng thị trường quốc tế cho phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến vẫn đang là vấn đề nan giải. Để tham gia có hiệu quả vào các quan hệ thương mại quốc tế, đòi hỏi chi phí sản xuất hàng hoá nông sản trong nước phải thấp hơn, hoặc ngang bằng với những nước có điều kiện tương tự. Muốn đạt yêu cầu này đòi hỏi phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất lao động nông nghiệp, năng suất ruộng đất và năng suất vật nuôi . Đồng thời, phải xác định rõ hơn cơ cấu sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp xuất khẩu phù hợp với yêu cầu thị trường trong từng giai đoạn phát triển, trong đó xác định rõ các sản phẩm chủ lực xuất khẩu. Phải phấn đấu làm cho các sản phẩm xuất khẩu có khả năng đáp ứng toàn diện nhu cầu của thị trường, trong đó chú trọng những thị trường có đòi hỏi đặc biệt khắt khe, như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Mỹ. Chỉ có lấy những yêu cầu của các thị trường đó làm hướng đích, mới có quyết tâm chiến lược với những bước đi thích hợp tạo cho hàng hoá nông sản nước ta có thế cạnh tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới. Bên cạnh những kết qu¶ đạt được thì thị trường trong nước còn ở trình độ thấp, thị trường nông thôn chưa phát triển, chưa thiết lập được mối liên kết giữa ng­êi sản xuất và thương nhân, giữa thương mại nhà nước Trung ương và các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, giữa xuất khẩu và nhập khẩu... để tạo ra các kênh lưu thông hàng hoá hợp lý và ổn định từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Thị trường trong nước chưa thực sự làm cơ sở vững chắc để mở rộng và tham gia quá trình hội nhập với thị trường quốc tế. Khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp, nhiều mặt hàng còn yếu. Thương nghiệp tư nhân tuy đông đảo nhưng nhỏ bé, hoạt động kinh doanh và sử dụng nguồn lực hiệu quả thấp, chưa xuất hiện nhiều mô hình kinh doanh đạt hiệu quả cao. Quy mô thị trường nhỏ bé, khả năng cạnh tranh trên thị trường của hàng hoá nông sản Việt Nam, của các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Các chính sách về thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản còn nhiều bất cập. Nhà nước cần tạo môi trường hành lang pháp lý và điều kiện để phát triển sản xuất hàng hoá và tạo cơ sở cho thị trường phát triển. Nhà nước điều tiết quản lý thị trường bằng các công cụ quản lý vĩ mô theo luật định và tích cực chuẩn bị cho các doanh nghiệp tham gia hội nhập một cách có hiệu quả nhất phù hợp với từng giai đoạn phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp. 2. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản và nguyên nhân. 2.1. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản. Thứ nhất, hầu hết các loại nông sản sau thu hoạch đều có tình trạng tồn đọng . Thực tế cho thấy,khi chưa đến vụ thu hoạch thì hàng hoá trở nên khan hiếm , có thể có hiện tượng đột biến về giá cả, nhưng khi vào vụ thu hoạch thì bắt đầu xuất hiện tình trạng dư thừa sản phẩm , giá nông sản tụt xuống thê thảm , gây thiệt hại cho người kinh doanh , đặc biệt là người nông dân . Đây chính là điều phản ánh sự yếu kém trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta, luôn luôn động viên tăng cường sản xuất, tăng sản lượng nhưng không hề chủ động trong việc nắm thông tin về đầu ra, hay chủ động về thông tin về giá cả của các loại nông sản. Thứ hai, điều kiện trao đổi hàng hoá bất lợi cho nông dân. Trong tất cả các kênh phân phối liên quan đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân ở nông thôn đều có sự tham gia phổ biến của tiểu thương, dẫn đến điều bất hợp lý là phân phối sản phẩm qua quá nhiều khâu trung gian, dẫn đến làm chậm quá trình lưu thông sản phẩm gây ách tắc dẫn đến tồn đọng giả tạo. Điều đó thể hiện rõ nét trong sự chênh lệch về giá cả hàng hoá nông sản và giá cả hàng hoá công nghiệp và dịch vụ. Trong khi giá nông sản tăng chậm hoặc không tăng, thậm chí giảm sút thì giá cả các loại hàng hoá mà người nông dân phải mua lại ổn định hoặc gia tăng. Như vậy, khi mất mùa hay được mùa, người nông dân luôn phải đối mặt với sự lo lắng, phiền muộn là bị người mua ép giá. Họ không có sự lựa chọn nào khác là phải chấp nhận những điều kiện rất phi lý do người mua đặt ra. Để giải quyết tình trạng này, Nhà nước cũng đã ban hành một số chính sách bảo hộ quyền lợi của nông dân trong trao đổi hàng hoá, ấn định mức giá tối thiểu của các mặt hàng nông sản, hỗ trợ các doanh nghiệp thương mại nhà nước thu mua hàng hoá của nông dân trong vụ thu hoạch. Tuy nhiên, chính sách này chỉ có tác dụng nhất thời và còn nhiều bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện. Thứ ba, mặc dù sản xuất ra nhiều loại nông sản, nhưng người dân vẫn chưa bám sát nhu cầu của thị trường. Trong sản xuất nông nghiệp phổ biến vẫn là “ bán cái mình có chưa phải bán cái thị trường cần”, mang đậm nét tình trạng xuất phát từ cung, tức là xuất phát từ khả năng và truyền thống sản xuất, chưa hoàn toàn sản xuất theo yêu cầu. Phương hướng sản xuất này quá lỗi thời, chỉ phù hợp với điều kiện cung nhỏ hơn cầu, sản xuất và tiêu dùng khép kín trong phạm vi quốc gia, thậm chí trong từng vùng. Nhưng trong điều kiện hội nhập kinh tế như ngày nay, nguyên tắc cơ bản chi phối sản xuất phải là “sản xuất và đưa ra thị trường cái mà thị trường cần, chứ không phải đưa ra thị trường cái mà mình có”. Thực tế trong tiêu thụ nông sản ở cả nội địa và xuất khẩu, nhiều nông sản đưa ra không được người mua chấp nhận, chính là do không phù hợp về chủng loại, số lượng, chất lượng của nhiều loại nông sản thực phẩm, dẫn đến tình trạng người tiêu dùng ngày càng cảnh giác với nhiều loại nông sản về khả năng bảo đảm an toàn và vệ sinh thực phẩm. Thứ tư, mặc dù nông thôn là địa bàn rộng lớn nhưng sức mua lại hạn chế, nhất là sức mua các mặt hàng nông sản đã qua chế biến. Không phải là người dân không có nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này, mà là thu nhập của họ quá thấp để có thể mua lại các sản phẩm mà chính họ đã làm ra. Thực tế, vào các siêu thị bán các mặt hàng chế biến từ nông sản, ta có thể dễ dàng thấy các mặt hàng , mẫu mã chẳng thua kém đồ ngoại nhập, nhưng chỉ mới qua khâu chế biến thôi mà giá cả đã quá xa vời đối với người nông dân. Vậy thì, liệu người nông dân có dám “chạm tay” vào các sản phẩm mình đã làm ra. Đến khi nào thu nhập của người nông dân được cải thiện để có thể được hưởng thụ những gì đáng ra phải thuộc về họ, ít nhất cũng là đầy đủ các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Thứ năm, năng lực chế biến nông sản thực phẩm và công nghệ bảo quản sau thu hoạch còn nhiều hạn chế, gây ra hiện tượng ế thừa giả, gây thất thu cho nông dân. Ta có thể thấy rõ điều này qua sự thua thiệt không đáng có về cả giá bán và chất lượng của các sản phẩm xuất khẩu. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư đổi mới, trang bị thêm một số thiết bị hiện đại ,nhưng vẫn phải thừa nhận rằng các sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến của ta còn có một khối lượng lớn chưa đạt được tiêu chuẩn gắt gao của thị trường thế giới, các sản phẩm đó hoặc không đạt tiêu chuẩn hoặc bị khách hàng ép giá, mua với giá rẻ hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác . Chính vì sự yếu kém này còn dẫn đến hậu quả bản thân công nghiệp chế biến cũng đang gặp ách tắc về tiêu thụ hàng hoá của mình, do vậy không đủ sức đóng vai trò kích thích phát triển tiêu thụ hàng hoá trong nông nghiệp. Thứ sáu, việc tiêu thụ nông sản còn gặp khó khăn về điều kiện giao lưu hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Yếu tố cơ bản trong điều kiện này là sự phát triển còn thấp kém của giao thông vận tải. Tuy đã có những cải thiện nhất định, nhưng hệ thống hạ tầng kĩ thuật nói chung, hệ thống giao thông nói riêng của chúng ta còn quá thấp so với yêu cầu khai thác các vùng có tiềm năng nông nghiệp và mở rộng giao lưu trao đổi hàng hoá. Ngoài ra các nơi diễn ra giao dịch hàng hoá như chợ, trung tâm thương mại còn chưa được đầu tư thoả đáng ,qui mô và điều kiện chưa đáp ứng được các yêu cầu trao đổi. Những tồn tại, ách tắc trong quá trình tiêu thụ nông sản đang là một trong những trở ngại lớn trong sự phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Cần phải xác định được nguyên nhân trung tâm của các tồn tại trên, để từ đó có những giải pháp hữu hiệu và tức thời để đẩy nhanh, bền vững và có hiệu quả sản xuất nông nghiệp cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.2. Các nguyên nhân. Các nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thì có nhiều, xét cả về mặt chủ quan và khách quan. Tuy nhiên qua quá trình phân tích những tồn tại trên, ta có thể đưa ra một số nhóm nguyên nhân chính như sau: * Nhóm nguyên nhân về sản xuất - chế biến: - Sản xuất nông nghiệp của nước ta vẫn còn mang nặng tính tự cung, tự cấp . - Cơ sở hạ tầng cho vùng nguyên liệu và chế biến nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn. - Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có chuyển biến mới nhưng vẫn còn chậm và chưa rõ ràng, chưa thoát khỏi tính chất thuần nông, độc canh, tỷ suất hàng hóa còn thấp, cơ cấu sản xuất chậm biến đổi và chưa phát huy được lợi thế của các vùng sinh thái. Sản xuất nông nghiệp chưa thực sự gắn bó với công nghiệp chế biến. Ngành nghề dịch vụ trong nông thôn phát triển chậm, chưa hình thành được thế phân công lao động tại chỗ trong nông thôn. - Công nghệ sau thu hoạch nhìn chung đang ở trong tình trạng cũ kỹ, lạc hậu; chế biến tiêu hao nguyên liệu cao nhưng chất lượng thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu cả trong nước lẫn nước ngoài. Cơ cấu mặt hàng đơn điệu, không có sự khác biệt so với các nước trong khu vực nên bị thua thiệt và ít có lợi thế trong cạnh tranh trên thị trường. * Nhóm nguyên nhân về tiêu thụ và thị trường: - Thị trường nông sản bị thả nổi và không ổn định nên kém phát triển - Hiện nay nông sản xuất khẩu ở dạng thô chiếm tỉ lệ cao. Do vậy thị trường xuất khẩu của chúng ta tuy nhiều nhưng thiếu các bạn hàng lớn và không vững chắc. Nhiều mặt hàng phải xuất qua trung gian nên bị ép giá, hiệu quả không cao, mất lãi ròng, dẫn đến thu nhập của người sản xuất và xuất khẩu thấp. - Khả năng cạnh tranh của nông sản Việt nam chưa cao do chưa phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trường và chất lượng thường kém hơn các sản phẩm cùng loại của các nước khác. Công tác nghiên cứu thị trường,xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị trường còn nhiều yếu kém ,các doanh nghiệp lại không năng động trong quá trình tiếp xúc với thị trường. * Nhóm nguyên nhân về cơ sở hạ tầng: - Cơ sở hạ tầng ở đây trước hết là giao thông ,vận tải, nghĩa rộng hơn là các hệ thống chợ,trung tâm thương mại, giao dịch, các công trình thuỷ lợi. đây là các yếu tố hết sức quan trọng đối với đời sống và sản xuất, quyết định rất lớn đối với quá trình tiêu thụ nông sản, nhưng vẫn chưa có những chính sách đầu tư thoả đáng, vì vậy còn rất thiếu sự đồng bộ, lạc hậu. - Tuy cơ sở hạ tầng của nông thôn có cải thiện sau hơn 20 năm đổi mới, nhưng thực tế là còn nhiều khu vực còn thiếu các công trình cơ sở hạ tầng cơ bản. Sự thấp kém cơ sở hạ tầng này tập trung chủ yếu ở các xã Trung du, miền núi phía Bắc, khu IV cũ, Duyên hải miền Trung và Tây nguyên. * Nhóm nguyên nhân về hệ thống chính sách: - Hiện nay, có một số chính sách do nhà nước đề ra đã không còn phù hợp với điều kiện kinh tế mới, nhưng vẫn chưa được điều chỉnh, nhất là các chính sách về thị trường,tín dụng, về phát triển khoa học công nghệ,đào tạo nhân lực trong nông nghiệp ,nông thôn ; làm kìm hãm phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung, tiêu thụ nông sản nói riêng. - Hệ thống quản lí Nhà nước còn nhiều bất cập, quan tâm nhiều đến chỉ đạo sản xuất , nhưng chưa làm tốt nhiệm vụ gắn sản xuất với thị trường, chưa tìm được những đầu ra ổn định và lâu dài cho tiêu thụ nông sản, chưa làm tốt công tác quản lí chất lượng nông sản hàng hoá,công tác tiếp thị sản phẩm. 3. Một số đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển, tiêu thụ nông sản. 3.1. Những căn cứ đề xuất * Xuất phát từ bối cảnh thị trường trong nước và quốc tế có những biến động to lớn trong những năm qua, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong tiêu thụ nông sản. - Thị trường tiêu thụ trong nước: Nếu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, Nhà nước hoàn toàn bao tiêu sản phẩm, các Hợp tác xã sản xuất theo kế hoạch được Nhà nước giao, thì trong thời gian qua, thị trường nông sản có xu hướng gần như bị thả nổi, người nông dân phải tự lo liệu việc tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra. Nhà nước đã đặt ra nhiều chính sách để hạn chế sự thả nổi trên, nhưng hầu hết các chính sách đều thiếu những luận chứng khoa học rõ ràng, đầy đủ, dẫn đến các chính sách chỉ có hiệu lực trong nhất thời. Điều này gây bất lợi cho cả người nông dân và cho cả phía Nhà nước, vì người nông dân trực tiếp chịu sự điều tiết tự phát của thị trường, bị thiệt thòi trong quá trình trao đổi, còn những mục tiêu định hướng của Nhà nước cũng không thu được kết quả cao. Đứng trước tình hình đó, muốn nền nông nghiệp tiếp tục phát triển và hoàn thiện, đòi hỏi Nhà nước, các nhà hoạch định chính sách phải có những định hướng chung, và cả những định hướng cụ thể cho nông sản ở từng vùng, dựa trên những phân tích dự báo thị trường cụ thể và khoa học. - Thị trường nông sản xuất khẩu: Cùng với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, thương mại nông nghiệp Việt Nam cũng như thế giới đang có những sự vận động mới mẻ, đưa tới cho chúng ta cả nhưng cơ hội cũng như thách thức to lớn. Là quốc gia được thiên nhiên ưu đãi cho nhiều điều kiện phát triển một nền sản xuất nông nghiệp đa dạng, từ lương thực, thực phẩm, đến các loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, trong những năm vừa qua, ngành xuất khẩu nông sản đã có những bước tiến vượt bậc, trở thành một trong những ngành chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập quốc dân, kim ngạch xuất khẩu tăng khá nhanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng của giá trị xuất khẩu hàng nông sản vẫn giảm sút so với mức tăng của giá trị xuất khẩu hàng hoá. Điều này thể hiện những hạn chế trong việc gia tăng giá trị xuất khẩu hàng nông sản chưa tương xứng với tiềm năng sản xuất các sản phẩm nông nghiệp ở nước ta. Điểm tồn tại lớn nhất hiện nay trong xuất khẩu nông sản nước ta là sức cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu. So với các nước khác, nếu xuất khẩu cùng loại mặt hàng thì giá cả của hàng xuất khẩu Việt Nam bao giờ cũng thấp hơn nhiều. Các mặt hàng của Việt Nam thường có chất lượng thấp, mức độ chế biến chưa cao và mang tính đơn điệu. Ngoài nguyên nhân do chúng ta chưa tiếp cận được đến những thị trường cuối cùng, có thể kể đến nguyên nhân là danh mục mặt hàng xuất khẩu của chúng ta quá nhiều nhưng chỉ chú trọng quá mức vào các sản phẩm sẵn có để sản xuất và xuất khẩu các nông sản khác chậm cải tiến giá trị thương mại của các sản phẩm để đưa ra thị trường. Bên cạnh đó là sự khó khăn trong việc tìm kiếm một thị trường tiêu thụ ổn định và lâu dài cho tiêu thụ nông sản . Sau sự sụp đổ của thị trường các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu từ cuối những năm 1990, đã xuất hiện sự chuyển hướng thị trường xuất khẩu hàng nông sản sang các khu vực thị trường khác, trong đó chủ yếu tập trung vào các nước ASEAN và các nước châu Á khác. Phần lớn các thị trường này là thị trường tái xuất hoặc thị trường không ổn định. Do vậy vấn đề tìm kiếm thị trường xuất khẩu ổn định và thị trường tiêu thụ cuối cùng là vấn đề sống còn đối với phát triển xuất khẩu nông sản ở Việt Nam hiện nay. * Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thực trạng tiêu thụ nông sản ở nước ta. Như trên đã nói ,từ khi đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, bước vào hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề tiêu thụ nông sản ở nước ta đã có những biến chuyển tích cực, tuy vậy vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Xét trên bình diện chung, thị trường nông thôn nước ta được hình thành và phát triển mang tính tự phát, mang sắc thái của nền kinh tế nhỏ, phân tán. Vấn đề nghiên cứu và tìm kiếm thị trường, xác định qui mô, yêu cầu chất lượng tính toán chi phí,giá cả như thế nào là những vấn đề mà người nông dân gặp không ít khó khăn. Thực tế là Nhà nước luôn động viên người nông dân mở rộng sản xuất, nâng cao sản lượng, nhưng không tìm cho họ một đầu ra ổn định, dẫn đến người nông dân luôn là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất.Thậm chí có lúc họ phải triệt phá cây đang độ thu hoạch để trồng loại cây khác, loại bỏ giống vật nuôi này để thay bằng giống vật nuôi khác cốt sao để có thể tiêu thụ được sản phẩm. Như vậy đã làm thiệt hại hàng trăm tỉ đồng cho nhà nước và bản thân người nông dân. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhiều nơi đang thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá ,việc hình thành vùng lúa xuất khẩu ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Sông Hồng, các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, mở rộng các làng nghề truyền thống; nhưng vẫn gặp khó khăn trong việc tìm đầu ra.Trên thực tế, việc tìm kiếm thị trường vẫn tuỳ thuộc vào khả năng của nông dân, chưa thực sự được sự đầu tư và hỗ trợ từ phía các cơ quan có chức năng. Khi người nông dân sản xuất ra sản phẩm hàng hoá ,thương nhân cần thì mua, nếu không cần thì bỏ mặc người dân tự xoay xở với hàng hoá của mình, hoặc chèn ép người nông dân phải bán với mức giá rẻ mạt. Không những thế, sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm dễ thối hỏng và khó bảo quản, muốn để được lâu dài và chờ tiêu thụ thì yêu cầu phải có một quá trình chế biến và bảo quản. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta là công nghệ chế biến còn quá lạc hậu và thấp kém về qui mô, không có khả năng tiêu thụ được lượng nông sản hàng hoá với số lượng khi được mùa , trúng vụ. Cũng chính vì vậy ,sản phẩm chế biến ra thường có giá cao ,dẫn đến làm giảm khả năng cạnh tranh của nông sản trên thị trường so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác. Xuất phát từ những căn cứ trên, chúng ta thấy rằng thị trường tiêu thụ hàng nông sản cũng như thị trường nông nghiệp, nông thôn còn chưa thực sự phát triển . Để có thể thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn cần phải sớm tìm ra ngay những hướng đi và giải pháp thích hợp, trước mắt là tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy , phát triển thị trường tiêu thụ nông sản phẩm. 3.2. Các đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển thị trường tiêu thụ nông, sản phẩm. a. Nâng cao chất lượng nông sản và hoàn thiện quy cách, mẫu mã. Một trong những nguyên nhân có tính bao trùm cản trở khả năng và hiệu quả xuất khẩu nông sản là do chất lượng sản phẩm không cao, không ổn định, không đồng đều, khối lượng phân tán nhỏ bé, mẫu mã không hấp dẫn... Do vậy giải pháp về nâng cao chất lượng sản phẩm là giải pháp cơ bản, có tính chiến lược lâu dài, cần phải thực hiện kịp thời các nội dung sau: * Quy hoạch và đầu tư một cách đồng bộ tạo vùng sản xuất hàng hóa tập trung và vùng nguyên liệu có chất lượng cao phục vụ cho chế biến và xuất khẩu. * Nâng cao đầu tư và áp dụng các tiến bộ khoa học- công nghệ, trước hết là cải tiến công tác giống nhằm tạo các giống có năng suất cao, chất lượng tốt, cải tiến biện pháp canh tác để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sản xuất các sản phẩm sạch. * Đầu tư đổi mới công nghệ chế biến bảo quản, cần xây dựng các chương trình: "hỗ trợ đổi mới công nghệ trong nông nghiệp nói chung, đối với những mặt hàng nông sản xuất khẩu nói riêng". Tập trung chủ yếu vào khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến với những công nghệ tiên tiến, hiện đại, đẩy mạnh chế biến và tinh chế nông sản, đa dạng hóa sản phẩm chế biến, đáp ứng yêu cầu và thị hiếu ngày càng đa dạng của thị trường. b. Phát triển công nghệ chế biến, bảo quản nông sản. Trong những năm qua, mặc dù sản xuất nông nghiệp tăng lên, tạo nguồn nguyên liệu dồi dào cho phát triển công nghiệp chế biến, nhưng cũng chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phát triển của công nghiệp chế biến cả về tiêu chuẩn nguyên liệu lẫn cơ cấu sản phẩm... Hoạt động của ngành công nghiệp chế biến nông sản ở nước ta chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nhất là trong giai đoạn đầu của đổi mới kinh tế, bộc lộ rõ nét sự bất cập của công nghiệp chế biến với yêu cầu phát triển của một nền nông nghiệp hàng hóa. Hầu hết thiết bị trong công nghiệp chế biến nông sản ở nước ta đều cũ, hỏng, lạc hậu; danh mục sản phẩm được chế biến quá ít và đơn điệu; tỷ lệ sản lượng nông sản chế biến quá thấp; chất lượng sản phẩm chế biến chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và ngoài nước; tỷ lệ hao hụt nguyên liệu cao... Mặt khác ,trên thị trường nội địa, các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông sản là hộ tiêu thụ lớn nhất của nông nghiệp. Khả năng mở rộng phạm vi thị trường này phụ thuộc trực tiếp vào quy mô, trình độ và cơ cấu các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông sản. Bởi vậy, để tạo thị trường ngày càng rộng và ổn định cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ nông sản, cần chú trọng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp này cùng với việc tháo gỡ những khó khăn mà chúng đang gặp phải . Từ đó nên tập trung thực hiện các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển công nghệ chế biến ,bảo quản nông sản sau thu hoạch, nâng cao chất lượng nông sản tiêu thụ trong nước và hướng đẩy mạnh xuất khẩu: - Tăng cường năng lực chế biến hàng nông sản thông qua khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông sản sang sản phẩm chế biến sâu, đầu tư đồng bộ và nâng cấp thiết bị các cơ sở chế biến, kêu gọi đầu tư từ nước ngoài hoặc liên doanh hoặc đầu tư tư nhân, cấp tín dụng cho xây dựng các cơ sở chế biến nông sản. - Đối với các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản, nên khuyến khích các công ty chế biến, thương mại mở rộng các đại lý thu mua dưới các hình thức hợp đồng với nông dân. Tạo mô hình liên kết "thương mại - chế biến - sản xuất nguyên liệu" . - Nhà nước nên hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp quốc doanh chuyên nhận bảo quản, thu mua,chế biến nông sản ngay trên địa bàn nông thôn. Các doanh nghiệp này sẽ được tài trợ ban đầu (từ 3 - 5 năm) để có thể hoạt động. Trong thời gian 3 - 5 năm tiếp theo sẽ chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thu bù chi, được miễn một số nghĩa vụ nộp ngân sách cho Nhà nước cho đến khi có lãi. Sau đó trở đi, sẽ được chuyển thành các cơ sở tự hạch toán, hoạt động trên cơ sở có lợi nhuận. c. Tổ chức quy hoạch sản xuất, bố trí sản xuất tập trung, chuyên môn hoá, đa dạng hoá các sản phẩm. - Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với thế mạnh của từng vùng: Trước hết, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại, các Bộ và địa phương căn cứ vào dự báo nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, thế mạnh của từng vùng và địa phương để tạo môi trường và hành lang pháp lý cho những nơi này phát triển sản xuất hàng hóa một cách ổn định, lâu dài. Từng doanh nghiệp căn cứ vào các vùng sản xuất hàng hóa để tổ chức sản xuất theo lợi thế so sánh cụ thể của cơ sở mình. Đầu tư tập trung vào từng địa phương, từng sản phẩm, trong từng khoảng thời gian cụ thể nhằm đạt được mục tiêu xác định, tránh chung chung, dàn trải phân tán. ÁP dụng phương thức điều hành theo dự án để triển khai các hoạt động nói trên, đó là dự án phát triển thị trường với từng loại sản phẩm cụ thể, gắn chặt và khép kín từ khâu thị trường đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. - Xác định cây trồng, vật nuôi và ngành nghề : Từng hộ nông dân, từng doanh nghiệp khi định hướng vùng sản xuất hàng hoá phải căn cứ vào các mặt sau đây: +Xác định nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu của thị trường. Người nông dân phải hiểu được tính quy luật phát triển nhu cầu để lựa chọn, bố trí cây trồng, vật nuôi và ngành nghề cho phù hợp. + Điều kiện kinh tế của địa phương, của doanh nghiệp. Cần xem xét, phân tích kỹ các điều kiện đất đai, khí hậu, lao động, tiền vốn, kinh nghiệm, tập quán của địa phương để chọn phương án kinh doanh cho phù hợp. + Tình hình cạnh tranh trên thị trường. Cần xem trên thị trường có nhiều hay ít nguời cùng sản xuất một loại sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường thế nào? Ví dụ: ở địa phương ai trồng mận, trồng táo, trồng nhãn nhưng liệu sản xuất táo, mận, nhãn có bán được không? bán ở đâu? chế biến như thế nào? đối thủ cạnh tranh về sản phẩm đó? Các chính sách của Nhà nước. Người nông dân cần phải nhanh nhậy, nắm bắt các chính sách (như chính sách thuế, đất đai, tài chính, tín dụng...) để chớp thời cơ sản xuất - tiêu thụ. + Tính toán kỹ hiệu quả. Người nông dân cần tính toán, so sánh xem cây, con nào có thu nhập lãi cao hơn tính cho 1 ha, cho 1 đồng vốn bỏ ra hoặc 1 ngày lao động, qua đó chọn hướng kinh doanh có lợi nhất. - Tổ chức sản xuất: - Đẩy mạnh kinh tế hộ. Phải tạo mọi điều kiện để kinh tế hộ phát triển thành kinh tế hàng hóa (thực hiện phân công lại lao động, ai giỏi nghề gì thì làm nghề đó, thực hiện tích tụ ruộng đất) tiến tới các nông trại gia đình sản xuất hàng hóa và liên kết các hộ thành vùng sản xuất hàng hóa mạnh. Ở nông thôn Việt Nam hiện nay do tình trạng đất ít, người đông, thiếu việc làm nên mọi người bám ruộng sản xuất để duy trì đời sống. Tình trạng đó dẫn đến năng suất cây trồng thấp, chất lượng sản phẩm kém, khó nâng cao thu nhập và khó tiêu thụ sản phẩm. Nền sản xuất manh mún, trên đồng ruộng quá nhiều loại cây trồng (mỗi cây một ít), trong vườn sản xuất theo kiểu vườn tạp thì khó tập trung thâm canh, hiệu quả thấp và đặc biệt khó tiêu thụ sản phẩm. Do đó các hộ, các trang trại trên cơ sở tích tụ ruộng đất phải liên kết với nhau thành vùng sản xuất hàng hóa lớn để sản xuất và tiêu thụ có hiệu quả hơn - Tổ chức liên kết, hợp tác trong tiêu thụ. Khi đi vào sản xuất hàng hóa, người nông dân phải đứng trước những khó khăn, thách thức là khi đem ra thị trường bán, có thể lần này bán được giá, nhưng lần khác không bán được phải đem về hoặc bán rẻ. Trong nông nghiệp thường có tình trạng lúc ngày mùa thu hoạch, giá nông sản rất hạ, nhiều khi lỗ vốn. Nhưng nếu nông dân tự tiêu thụ thì nhiều khi giá hạ vẫn phải bán để có vốn quay vòng khác, đặc biệt đối với đại đa số nông dân trung bình và nghèo phải bán để trang trải chi tiêu... Cũng trong tình trạng này, người nông dân phải bán lúa non hoặc chịu đi vay nặng lãi hoặc bị các thành phần kinh tế khác ép giá. Bản thân người nông dân có ít kinh nghiệm, nghệ thuật buôn bán, tìm hiểu thị trường, nên tiêu thụ sản phẩm không hiệu quả. Muốn tiêu thụ có hiệu quả phải mở rộng thị trường, không chỉ tiêu thụ ở địa phương mà phải mở rộng ra cả nước và xuất khẩu hoặc liên kết, liên doanh với nước ngoài. Việc này vượt quá khả năng của từng hộ nông dân. Để giải quyết những khó khăn và thách thức đó, muốn tiêu thụ được hàng hóa nông nghiệp , phải xây dựng quan hệ bạn hàng cùng nhau làm ăn lâu dài, ổn định, cùng phân chia lợi ích. Ngoài việc liên kết sản xuất hàng hoá theo vùng, người nông dân phải liên kết, hợp tác để tăng sức cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm (tăng sức mạnh về vốn để dự trữ, chế biến, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước; phân công, chuyên môn hóa lao động, nâng cao trình độ lành nghề trong buôn bán, giao tiếp , chiếm lĩnh thị trường,...). Các hình thức liên kết, hợp tác thì có thể đa dạng: nhóm, tổ hợp tác, HTX, nông trường, các công ty hoặc các Hiệp hội sản xuất (Hiệp hội nuôi ong, Hiệp hội mía đường,...). Tùy điều kiện cụ thể từng nơi mà nông dân chọn hình thức hợp tác thích hợp: ở miền núi có thể liên kết các tổ, nhóm hợp tác; nhưng khi trình độ sản xuất đã khá lên, nhất là vùng đồng bằng, đô thị thì hình thức hợp tác chủ yếu là hình thức HTX nông nghiệp kiểu mới. Trong tình hình hợp tác mới, từng hộ nông dân vẫn tự chủ hợp tác sản xuất nông nghiệp trên đất đai của mình, nhưng HTX sẽ giúp các hộ những việc không tự làm được hoặc làm kém hiệu quả. Thương mại sẽ là hình thức mềm dẻo để kết dính giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. - Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng hàng nông sản: Nhu cầu thị trường ngày càng gia tăng về số lượng, chất lượng, cơ cấu và tính kịp thời. Sở dĩ các nông sản phẩm của ta khó cạnh tranh được với các loại sản phẩm cùng loại của nước ngoài là do chất lượng sản phẩm của ta chưa cao, mặc dù giá thành không thua kém. Để nâng cao khả năng cạnh tranh thì phải đầu tư hơn nữa vào việc nâng cao chất lượng cây, con giống, kỹ thuật canh tác, gieo trồng, chăn nuôi. d. Tổ chức hệ thống tiêu thụ, đặc biệt là các chợ, các trung tâm giao dịch, trao đổi hàng hoá. Thực tiễn đã khẳng định, chợ là điểm nút không thể thiếu trong lưu thông hàng hoá, đặc biệt là đối với hàng nông sản,thực phẩm tươi sống. Chợ là nơi phát luồng hàng nông sản- thực phẩm tới các địa điểm tiêu thụ ở các đô thị, khu công nghiệp tập trung, và ngược lại cũng là nơi tập kết, phân phối, kết thúc quá trình lưu thông hàng vật tư nông nghiệp và hàng công nghiệp tiêu dùng.Theo ước tính của các nhà nghiên cứu thị trường, hiện nay hàng hoá lưu thông qua chợ chiếm khoảng 40%, trong đó hàng thực phẩm tươi sống và rau quả tươi chiếm khoảng 90%. Chợ cũng thúc đẩy khu vực kinh tế nông thôn phát triển. Những loại hình chợ chuyên doanh, chợ bán buôn phát luồng đã góp phần quan trọng vào việc định hướng cho sản xuất hàng hoá tập trung, tác động tích cực đến cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp ,gắn sản xuất với thị trường. Sự hình thành và phát triển của chợ cũng kéo theo sự phát triển các ngành nghề sản xuất, ngành nghề truyền thống. Đây là tiền đề để từng bước hình thành các trung tâm thương mại lớn trong tương lai ở khu vực nông thôn. Từ đó trong giai đoạn kinh tế mới, ta cần có những định hướng và giải pháp phát triển các chợ, các trung tâm giao dịch như sau: * Cần coi trọng việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ lưu thông hàng nông sản ngang bằng với xây dựng công trình cơ sở hạ tầng nông nghiệp. Theo hướng đó, thực hiện phân cấp đầu tư xây dựng chợ giống như đối với các công trình thuỷ lợi và cơ sở hạ tầng khác trên địa bàn nông thôn. - Ở khu vực đô thị: Cần có kế hoạch mở rộng, đầu tư xây dựng một số chợ trung tâm bán buôn, phục vụ tiêu thụ nông sản, rau quả, thuỷ-hải sản, thực phẩm tươi sống, phát luồng cho các thị trường khu vực lân cận. Ngoài ra, căn cứ vào qui mô sản xuất nông sản hàng hoá và sức mua trên địa bàn khu vực, cần phát triển một số chợ chuyên doanh ở những vùng sản xuất tập trung có khả năng chi phối mạng lưới chợ trong khu vực. - Ở khu vực nông thôn: Chợ và thị tứ là hai mô hình tổ chức thị trường chủ yếu. Vì vậy, cần phải xây dựng chợ và phát triển các thị tứ thành các cụm kinh tế- thương mại- dịch vụ. Ở địa bàn thôn, xã,các chợ phải được tổ chức để nông dân trực tiếp bán nông sản và mua vật tư, hàng tiêu dùng trên thị trường, hạn chế sự chèn ép của các tư thương. Thương nghiệp nhà nước hỗ trợ các hợp tác xã thương mại mở các điểm kinh doanh trong phạm vi chợ, tổ chức các điểm nút mua gom nông sản và cung ứng vật tư, hàng tiêu dùng cho nông dân. - Ở khu vực miền núi: Xây dưng hệ thống chợ biên giới nhằm phục vụ tốt nhu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc, đồng thời góp phần tích cực vào quá trình hội nhập của nền kinh tế nước ta với các nước láng giềng. * Bên cạnh việc xây dựng cac hệ thống chợ, trung tâm giao dịch thì cũng rất cần thiết xây dựng một hệ thống kho bảo quản nông sản, đây là hệ thống cơ sở hạ tầng không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Kho không chỉ làm chức năng bảo quản để giảm tỉ lệ hao hụt sau khi thu hoạch mà còn tạo điều kiện thực hiện nhiệm vụ cân đối, ổn định ,điều tiết nguồn hàng trong lưu thông và xuất khẩu . e. Tìm kiếm thị trường nước ngoài. Với điều kiện của một nền nông nghiệp nhiệt đới phát triển trên cơ sở khai thác tài nguyên sinh học đa dạng, Việt Nam có khả năng cung cấp cho thị trường quốc tế chủng loại hàng hoá nông sản đa dạng, từ lương thực, thực phẩm, đến các loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Trong những năm qua, việc xuất khẩu các loại hàng nông sản ra thị trường thế giới đã có những kết quả tích cực cả trên phương diện chủng loại hàng hoá, khối lượng và phạm vi thị trường. Nhiều sản phẩm đã thâm nhập được vào những thị trường có đòi hỏi khắt khe về chất lượng, như thị trường EU, Nhật Bản. Tuy vậy, việc mở rộng thị trường quốc tế cho phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến vẫn đang là vấn đề nan giải, cần tìm ra những hướng đi bền vững ổn định trong điều kiện mới: * Để mở rộng thị trường quốc tế, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông sản trên thị trường quốc tế, trước mắt cũng như lâu dài, cùng với việc mở rộng hợp tác liên doanh với nước ngoài, ưu đãi các dự án nông nghiệp và công nghiệp chế biến xuất khẩu, tăng cường công tác tiếp thị quốc tế, cần phải đánh giá lại đúng thực chất lợi thế phát triển nông nghiệp để có định hướng thị trường và sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường quốc tế. Đây là một yêu cầu tối quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế của hàng nông sản. Tài nguyên sinh học đa dạng và nhân công dồi dào với giá rẻ không phải là lợi thế riêng có của nước ta mà còn của nhiều nước khác trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, nhiều nước lại có điều kiện hơn nước ta trong việc khai thác lợi thế đó (trình độ công nghệ cao hơn, vốn liếng dồi dào hơn, có kinh nghiệm hoạt động trên thị trường quốc tế hơn). Để tham gia có hiệu quả vào các quan hệ thương mại quốc tế, đòi hỏi chi phí sản xuất hàng hoá nông sản trong nước phải thấp hơn, hoặc ngang bằng với những nước có điều kiện tương tự. Để đạt yêu cầu này đòi hỏi phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất lao động nông nghiệp, năng suất ruộng đất ,năng suất vật nuôi, cũng như những bước phát triển vượt bậc của công nghệ chế biến nông sản. Chính sách giá thấp này sẽ khai thác được hai lợi thế chủ yếu. Thứ nhất, đó là lợi thế đạt được do mở rộng quy mô xuất khẩu nông sản. Đây là điều kiện để tăng thị phần xuất khẩu so với các đối thủ cạnh tranh. Thứ hai, chính sách giá thấp sẽ tạo điều kiện để cạnh tranh về giá có hiệu quả so với đối thủ cạnh tranh. Do đó, chính sách giá nông sản xuất khẩu cần được đặt trong một chiến lược cạnh tranh hữu hiệu. Nếu kiên trì áp dụng một chính sách giá cạnh tranh như vậy trong một thời gian dài, chắc chắn sẽ có không ít đối thủ cạnh tranh bị loại khỏi thị trường xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, nếu chỉ có sự tự vận động của doanh nghiệp xuất khẩu thì không thể kéo dài chính sách giá như vậy, mà cần có sự phối hợp giữa chính sách giá, chính sách thuế xuất khẩu và các công cụ hỗ trợ khác để điều tiết về giá hàng nông sản xuất khẩu. Điều này thể hiện việc phát huy vai trò của chính phủ trong việc bảo vệ lợi ích nhà xuất khẩu nông sản mà thực chất là bảo vệ lợi ích quốc gia trong quan hệ thương mại quốc tế. Đối với những mặt hàng nông sản Việt Nam có khối lượng xuất khẩu lớn, chính phủ cần sử dụng công cụ thuế xuất khẩu để chi phối khối lượng cung cấp mặt hàng này trên thị trường thế giới. Điều này đòi hỏi phải có một cơ chế phối hợp nhịp nhàng và hữu hiệu giữa doanh nghiệp và chính phủ. * Phải xác định rõ hơn cơ cấu sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp để xuất khẩu những sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường trong từng giai đoạn phát triển, trong đó xác định rõ các sản phẩm chủ lực xuất khẩu. Phải phấn đấu làm cho các sản phẩm xuất khẩu có khả năng đáp ứng toàn diện nhu cầu của thị trường, trong đó chú trọng những thị trường có đòi hỏi đặc biệt khắt khe như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Mỹ. Chỉ có lấy những yêu cầu của các thị trường đó làm hướng đích, mới có quyết tâm chiến lược với những bước đi thích hợp tạo cho hàng hoá nông sản nước ta có thế cạnh tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới. * Để nâng cao hiệu quả của xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp chúng ta không thể dừng lại ở trình độ xuất khẩu sản phẩm thô như hiện nay. Bởi vậy, việc mở rộng thị trường quốc tế lại gắn bó chặt chẽ với việc phát triển công nghiệp chế biến cả về quy mô và trình độ kỹ thuật. g. Một số chính sách Nhà nước cần đặt ra để hỗ trợ tiêu thụ nông sản. * Nhà nước phải hỗ trợ các thông tin về thị trường cho người sản xuất. Nhà nước cần cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường và giá cả, những định hướng sản xuất cơ bản cho từng vùng sản xuất nông nghiệp. Sự ra đời của hệ thống tổ chức dự báo thị trường, tư vấn cho nông dân là rất cấp thiết. Các tổ chức này sẽ đảm nhiệm việc nghiên cứu, phân tích và dự báo tình hình biến động, sự chuyển dịch của thị trường cũng như tư vấn cho người nông dân về công nghệ và phương thức sản xuất thích hợp. Vai trò của các tổ chức này là rất quan trọng. Nó đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, cơ quan chức năng và địa phương. Việc cung cấp thông tin thị trường phải làm thường xuyên, chính xác và thuận lợi, có tính chất để nông dân kịp thời tham khảo, chọn lọc trước khi quyết định sản xuất. Đây là nhu cầu bức xúc của hàng triệu hộ nông dân và cũng là điều kiện quan trọng giúp nông dân chủ động kinh doanh theo cơ chế thị trường. * Những chính sách hỗ trợ về đầu tư và tín dụng. Do đặc tính của mặt hàng nông sản là tính thời vụ cao, dễ hư hỏng, khó bảo quản, vì vậy vào những lúc cao điểm của mùa thu hoạch, hàng sản xuất ra nhiều nhưng không tiêu thụ kịp thời, người nông dân thừơng bị tư thương ép giá, gây ra ách tắc trong tiêu thụ. Để giảm bớt sự bắt chẹt của thương gây bất lợi cho người nông dân, Nhà nước phải chủ động can thiệp bằng cách: Đầu tư vốn cho thu mua hàng nông sản vào vụ thu hoạch ở các vùng sản xuất chuyên canh, mua hàng cho nông dân khi giá thị trường xuống thấp bảo đảm bù đắp chi phí và có lãi, đồng thời cần có sự hỗ trợ đối với các doanh nghiệp Nhà nước tham gia vào việc thu mua nông sản phẩm như cấp tín dụng ưu đãi (như mua thóc ở Đồng bằng Sông Cửu Long, thu mua cà phê ở Đắc Lắc...); Nhà nước cũng cần gấp rút xây dựng nhiều nhà máy chế biến nông sản hiện đại, cần cấp vốn lưu động bổ sung hoặc cho vay vốn tín dụng ưu đãi cho những doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản dùng vào việc xây dựng kho tàng, máy móc thiết bị cho việc bảo quản, chế biến hàng nông sản. Điều này sẽ hạn chế sự ách tắc trong tiêu thụ ở thời điểm thời vụ, góp phần điều hoà cung ứng nông sản về mặt thời gian cũng như nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp; Nhà nước nên đầu tư vốn cho việc nghiên cứu xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nông sản hướng vào xuất khẩu. Việc xác định và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng nông sản sẽ là cơ sở rất quan trọng để bố trí phân vùng và đầu tư chiều sâu cho sản xuất, chế biến hàng nông sản. * Tạo lập và hoàn thiện môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và đối với các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu nông sản nói riêng. - Chính sách thuế: + Điều chỉnh thời gian thu thuế và giao nộp sử dụng đất nông nghiệp hợp lý hơn, để nông dân có thời gian lựa chọn thời điểm bán sản phẩm có lợi nhất. + Điều chỉnh tỷ lệ thuế để lại cho địa phương, để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. + Miễn giảm thuế nông nghiệp trong một thời gian cần thiết đối với những sản phẩm cần phát triển mở rộng qui mô. + Để hỗ trợ cho đổi mới công nghệ, nên giảm thuế nhập khấu đối với những trang bị máy móc và công nghệ sản xuất - chế biến các nông sản. + Nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây trồng, hình thành quĩ bảo hiểm từng ngành sản phẩm. Trước mắt cần thành lập các quĩ bảo hiểm các nông sản sau: lúa, gạo, cà phê, cao su, thịt lợn... Quỹ này dùng để can thiệp thị trường khi giá thị trường đột biến xuống dưới giá sàn định hướng và giúp đỡ sản xuất trong những trường hợp đặc biệt khó khăn do thiên tai. Quỹ được trích từ phần thuế xuất khẩu và các khoản thu, đóng góp khác đối với từng loại nông sản. + Tiếp tục triển khai áp dụng các qui định giá tối thiểu cho một số loại nông sản xuất khẩu chủ yếu. - Chính sách đầu tư: Nhà nước cần đặc biệt quan tâm về đầu tư đồng bộ tới quá trình sản xuất - chế biến - xuất khẩu, cụ thể đầu tư cho các yêu cầu sau: + Đầu tư cho vùng sản xuất tập trung, hình thành các vùng nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu, xây dựng Cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, đặc biệt hệ thống thủy lợi). + Đầu tư cho công tác nghiên cứu Khoa học công nghệ, trong đó chú ý đầu tư nghiên cứu cải tạo giống, ứng dụng các kỹ thuật canh tác tiến bộ gắn liền với chính sách khuyến nông từ trung ương đến cơ sở. + Đầu tư cho nâng cấp và đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao khả năng cạnh tranh. + Đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển thị trường ở cả tầm vi mô và vĩ mô, nhất là việc phân tích, xử lý, dự báo và xây dựng cập nhật hệ thống thông tin, tự liệu, nhằm xây dựng chiến lược về thị trường. * Chính sách trợ giúp nâng cao năng lực thị trường và bảo hộ nông dân trong trao đổi hàng hoá. Phát huy tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể sản xuất hàng hoá trong các hoạt động trên thị trường là yêu cầu tất yếu, nhưng điều đó không có nghĩa là phó mặc cho nông dân tự xoay sở trên thị trường. Việc Chính phủ hỗ trợ nâng cao năng lực thị trường và bảo hộ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp cho những người sản xuất hàng hoá ở nông thôn cần được khẳng định như một tất yếu. Ngay ở những nước tư bản phát triển, như Mỹ, Pháp, Nhật...Chính phủ vẫn có các chính sách bảo hộ sản xuất của nông dân. Sự hỗ trợ và bảo hộ cho những người sản xuất hàng hoá ở nông thôn bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: - Trợ giúp những kiến thức và kỹ năng hoạt động trên thị trường, thay thế những kinh nghiệm mang tính chất bản năng của những người sản xuất hàng hoá nhỏ. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển quan hệ liên kết giữa các hộ nông dân với nhau, giữa các hộ nông dân với các doanh nghiệp chế biến và các tổ chức thương mại trong việc sản xuất và lưu thông hàng hoá. - Chú trọng việc nghiên cứu, dự báo thị trường hàng hoá nông nghiệp, đặc biệt chú trọng các dự báo trung và dài hạn theo chu kỳ kinh doanh của các loại cây con. Cung cấp kịp thời những thông tin thị trường trong và ngoài nước để nông dân và các nhà kinh doanh nông sản có những chính sách kinh doanh thích hợp và để chính Chính phủ có những điều chỉnh kịp thời một số chính sách cho phù hợp với sự biến đổi của thị trường. Trong những năm trước mắt, cần có chính sách bảo hộ hàng hoá nông sản trên thị trường nội địa và hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá ấy. Vấn đề quan trọng không phải là cần hay không cần bảo hộ, mà chủ yếu là xác định đúng mức độ bảo hộ và tiến trình giảm dẫn đi đến xoá bỏ bảo hộ theo tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Sự bảo hộ đó chính là tạo trợ lực cho sự vươn lên, không gây nên sự ỷ lại của người sản xuất hàng hoá ở nông thôn vào Nhà nước. - Thiết lập quỹ bảo hiểm nông sản hàng hoá, giúp nông dân tăng thêm năng lực tài chính đối phó với những bất trắc trong sản xuất và biến động của thị trường. Quỹ này có thể do những người nông dân trực tiếp tạo lập và quản lý, hoặc Nhà nước thiết lập từ sự đóng góp tự nguyện của nông dân, của các tổ chức kinh doanh nông sản và tài trợ của Nhà nước. Quỹ này được sử dụng để trợ giúp tài chính cho nông dân, bảo đảm cho họ có thêm năng lực tài chính đối phó với những biến động của môi trường kinh doanh, bảo đảm lợi ích trong kinh doanh. PHẦN IV: KẾT LUẬN Trên đây là một khái quát tổng thể về những thành tựu cũng như những tồn tại của vấn đề tiêu thụ nông sản ở Việt nam. Xét một cách toàn diện, tuy đã có nhiều những thành tựu to lớn và phát triển vượt bậc so với thời kì trước đây, nhưng nếu so sánh với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, và nhất là đặt trong yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, bền vững thì đây còn là một trong những vấn đề khó khăn nhất, đòi hỏi Nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất, các tổ chức thương mại phải gấp rút tìm ra định hướng, giải pháp kịp thời và đúng đắn để thúc đẩy phát triển. Trong phạm vi của đề tài, có đưa ra một số đề xuất nhằm khắc phục các thực trạng, cải thiện những vấn đề tồn tại trong tiêu thụ nông sản, nhưng đó chỉ là một phần trong rất nhiều những công việc cần làm để có thể đưa thị trường nông sản nói riêng, sản xuất nông nghiệp Viêt nam nói chung, có những bước tiến mới, dần dần trở thành ngành sản xuất chính trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, song do kiến thức bản thân còn có nhiều hạn chế, cộng với những sai lầm khách quan trong quá trình thu thập tài liệu nên bài viết không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo để sữa chữa những sai lầm, mong cho bài viết ngày càng được hoàn thiện hơn. DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo kinh tế Việt Nam và thế giới 2006-2008, Thời báo Kinh tế Việt Nam 2. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, tháng 11/2009 3. Thông tin kinh tế xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tháng9 và 10/2009 4. Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn Công nghiệp hoá- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 5. Giáo trình kinh tế phát triển – trường ĐHNN 6. Trang điện tủ vietnamnet.vn, sggp.gov.vn, vietbao.com…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26116.doc
Tài liệu liên quan