Chuyên đề Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu gạo Việt Nam

Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn cầu. Xuất khẩu là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia. Các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều chỉ ra rằng để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia đều phải có 4 điều kiện: nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật công nghệ. Trong giai đoạn hiện nay, hầu hết các nước đang phát triển đều thiếu vốn và công nghệ nhưng lao động thì rất dồi dào. Với sự mất cân đối về nguồn lực đầu vào làm thế nào để các quốc gia có thể tăng trưởng và phát triển được? Để giải quyết được vấn đề này, họ buộc phải nhập từ bên ngoài những yếu tố mà trong nước chưa thoả mãn được. Để nhập được những yếu tố đó thì phải có nguồn ngoại tệ, mà nguồn ngoại tệ này chủ yếu thu được từ các hoạt động xuất khẩu, xuất khẩu là hoạt động chính, tạo tiền đề cho nhập khẩu. Từ đó ta có thể đánh giá vai trò của xuất khẩu ở 4 khía cạnh : - Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với tăng trưởng kinh tế là thiếu nguồn vốn trong quá trình phát triển. Có nhiều cách khác nhau để huy động nguồn ngoại tệ nhưng chỉ bằng hoạt động xuất khẩu thì nguồn vốn mới ổn định và thường xuyên bền vững.

doc67 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu gạo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bán được với giá 500-600USD/tấn. Vây thì tại sao Việt Nam với điều kiện tự nhiên không kém gì Thái Lan lại không có những loại gạo như trên trong cơ cấu gạo xuất khẩu? Phải chăng đây là một câu hỏi và nó cũng là giải pháp đưa ra để giải quyết vấn đề hiệu quả cho xuất khẩu gạo của chúng ta. * Giá cả lúa gạo xuất khẩu. Cùng với sự tiến bộ của xã hội là sự tiến bộ trong nhu cầu. Nhu cầu của con người ngày một thiên về các loại gạo có phẩm chất cao, nhận thức được vấn đề này, Việt Nam cũng như hầu hết các nước xuất khẩu khác đều tìm mọi biện pháp để đáp ứng nhu cầu trên và thực tế cho thấy, trong những năm qua, Việt Nam có những tăng trưởng rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng gạo, cùng với nó là sự thông thoáng trong đàm phán, ký kết, sự tiến bộ về trình độ nghiệp vụ thương mại quốc tế. Chính những điều này đã cải thiện đáng kể giá gạo của chúng ta trong những năm qua. Biểu 8: Giá xuất khẩu qua các năm. Năm Giá xuất khẩu trung bình (USD/Tấn) % thay đổi 1989 226,1 1990 186,3 -17,6 1991 226,1 21,36 1992 207,6 -8,18 1993 203,1 -2,17 1994 214,5 5,61 1995 266 24,01 1996 285 7,14 1997 244,5 -14,21 1998 265,0 8,38 1999 227 -14,34 2000 188 -17,18 Nguồn: Vụ NN và PTNT. Đặc biệt là năm 1996 giá gạo xuất khẩu trung bình của ta là 285 (USD/Tấn). Từ đó đến nay, cùng với xu hướng biến động về giá gạo trên thị trường thế giới, giá gạo của Việt Nam cũng thay đổi liên tục cụ thể năm 1999 giá gạo xuất khẩu trung bình của ta chỉ còn 227 (USD/tấn) giảm 20,35% so với năm 1996 và đặc biệt đến năm 2000 giá gạo của ta chỉ còn 188 (USD/tấn) giảm 17,18% so với năm 1999 và giảm tới trên 30% so với năm 1998. Tuy nhiên, so với giá xuất khẩu gạo của Thái Lan thì giá gạo xuất khẩu của Việt Nam dần có xu hướng ít chênh lệch cụ thể ta xem xét biểu giá sau : Biểu 9: Chênh lệch giá gạo 5% tấm của Việt Nam và Thái Lan giai đoạn 1989 - 2000 Năm Giá gạo 5% tấm của Việt Nam Giá quốc tế FoB 5% tấm Băng Cốc Chênh lệch giá gạo 5% tấm giữa Thái Lan - Việt Nam 1989 245 320 75 1990 224 287 63 1991 234 290 56 1992 223 280 47 1993 230 268 38 1994 265 295 30 1995 314 338 24 1996 342 362 20 1997 260 308 48 1998 284 302 18 1999 217 248 31 2000 177 184 7 Nguồn: Vụ NN và PTNT. Hơn nữa, năm 2000 thì giá xuất khẩu gạo của Việt Nam có tốc độ giảm chậm hơn : gạo Thái Lạn 5% tấm giảm 53,6% (USD/tấn) và loại 35% tấm giảm 42,1 (USD/tấn) tương ứng gạo xuất khẩu cùng loại của Việt Nam giảm 48 USD/tấn và 39 USD/tấn. Mặc dù sự chênh lệch về giá giữa gạo Thái Lan và gạo Việt Nam có xu hướng ngày càng giảm nhưng nhìn chung giá gạo xuất khẩu của ta vẫn thấp và lại có chiều hướng tiếp tục giảm. Sở dĩ có tình hình trên bởi hai lí do sau : Thứ nhất : Trong mấy năm gần đây, lượng gạo giao dịch trên thị trường thế giới ngày càng giảm. Năm 1998 lượng gạo dao dịch là 27,26 triệu tấn thì đến năm 1999 chỉ vào khoảng 25 triệu tấn và khoảng 20 triệu tấn năm 2000. Trong khi đó, tại một số nước trước đây phải nhập một lượng gạo lớn như : Inđônêxia, Philippines, Bangladesh... thì trong một vài năm gần đây đã đẩy mạnh sản xuất lương thực, sản lượng lúa gạo đã tăng lên đáng kể, theo đó lượng gạo nhập khẩu cũng giảm mạnh qua các năm. Thứ hai : Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu gạo và mặt hàng gạo của Việt Nam còn nhiều hạn chế bởi nhìn chung chất lượng gạo xuất khẩu của ta chưa cao, trong những năm qua Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là các loại gạo có chất lượng thấp mà lại phải cạnh tranh gay gắt với gạo cùng loại của Trung Quốc và Pakistan... * Hệ thống tổ chức xuất khẩu lúa gạo Trước kia, để đảm bảo an ninh lương thực, nhà nước chỉ cho phép các doanh nghiệp kinh doanh lương thực của nhà nước được xuất khẩu. Thực tế cho thấy việc quản lý đầu mối trong xuất khẩu gạo đã đem lại kế hoạch không mấy hiệu quả. Hiện nay, để khuyến khích xuất khẩu gạo Nhà nước đã có bước cải cách lớn trong khâu tổ chức, tham gia vào xuất khẩu gạo không chỉ là các doanh nghiệp Nhà nước mà còn có sự góp mặt tích cực của các tổ chức tư nhân. Sự đa dạng của các thành phần tham gia xuất khẩu đã góp phần vào việc cân đối cung cầu và ổn định giá cả đặc biệt đã tạo ra đòn bẩy kích thích sản xuất lúa gạo xuất khẩu cụ thể : Với doanh nghiệp Nhà nước: Vào lúc thu hoạch rộ giá lúa gạo trên thị trường giảm nhanh đây là cơ hội để tư thương ép giá. Nhưng khi Nhà nước cho ngành lương thực vay vốn để thu mua, giá lại tăng ở mức hợp lý. Mặt khác, do người tiêu dùng có yêu cầu ngày càng cao về phẩm cấp gạo và để cạnh tranh với tư nhân các công ty lương thực đã cải tiến từ thu mua thóc gạo đến chế biến, chất lượng gạo đã được nâng lên. Với các cơ sở tư nhân: Cùng với các doanh nghiệp quốc doanh, các doanh nghiệp tư nhân và tư thương kinh doanh lương thực đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng gạo, tiêu thụ luá hàng hoá cho nông dân. Tuy nhiên, hoạt động của tổ chức xuất khẩu gạo vẫn còn nhiều vấn đề bất cập: - Phần lớn các công ty quốc doanh chưa gắn kinh doanh với sản xuất lương thực, họ chú trọng các hoạt động kinh doanh mang tính chất buôn chuyến. Trong kinh doanh, các công ty đều căn cứ vào giá bán gạo của mình để tính toán, định giá mua cho nông dân sau đó mới tổ chức thu mua gạo ở các địa phương trong vùng về đánh bóng và bao gói xuất khẩu. Chính hoạt động mua gom gạo ồ ạt trong thời gian ngắn này đẫ gây nên tình trạng không ổn định về giá cả thóc gạo trên thị trường nội địa. -Giữa các doanh nghiệp trung ương và địa phương chưa có sự phối hợp, chưa tạo ra được sức mạnh tổng hợp của mạng lưới trong kinh doanh, thậm chí có nơi có sự chồng chéo. * Cơ chế điều hành xuất khẩu gạo. Giai đoạn 1990 - 1991 với chủ trương là mở rộng tiêu thụ lúa hàng hoá nên có nhiều công ty tham gia xuất khẩu vì thời gian này sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam phát triển mạnh trong khi chúng ta lại thiếu bạn hàng và thị trường tiêu thụ. Giai đoạn 1992 - 1995 do xu hướng chung là giá thị trường thế giới giảm mạnh, các Công ty lương thực ở các địa phương kinh doanh xuất khẩu gạo bị lỗ không làm được do vậy các tỉnh đề nghị lo khâu cung ứng tạo chân hàng tức lo thu mua, xay xát, chế biến, vận chuyển nội địa còn việc xuất khẩu chủ yếu do khối trung ương đảm nhiệm. Cơ chế này được thực hiện trong thời gian khá dài. Năm 1996, tình hình tiêu thụ trở lại thuận lợi, việc kinh doanh xuất khẩu gạo có lời, mặc dù vậy lại phát sinh tình trạng mua ép giá nông dân, xuất hiện nhiều tiêu cực trong khâu kí kết hợp đồng như: độn giá, hoàn giá ... Chính phủ đã có những chấn chỉnh lại việc xuất khẩu gạo và huy động nguồn hàng bằng cách chỉ định các doanh nghiệp thực sự đã kinh doanh luá gạo nghiêm túc và có hiệu quả làm đầu mối xuất khẩu. Tháng 1 - 1997, Bộ Thương Mại đã có thông báo số 13848/TM - XNK theo đó các doanh nghiệp được phép xuất khẩu phải có 3 điều kiện sau: Đã được cấp giấy chứng nhận kinh doanh XNK loại hình kinh doanh có ngành hàng phù hợp. Là thành viên của Hiệp hội XNK lương thực Việt Nam, được Hiệp hội đề nghị Bộ Thương Mại cho phép xuất khẩu gạo. Đã kinh doanh xuất khẩu gạo trực tiếp hoặc qua uỷ thác xuất khẩu gạo liên tục 3 năm và doanh thu hàng năm tối thiểu 50 tỷ đồng. Giai đoạn 1998 -1999, Chính Phủ có quyết định riêng về đIều hành xuất khẩu gạo hàng năm. Nội dung của quyết định này được thể hiện trên các mặt: Nhà nước đIều hành việc xuất khẩu gạo bằng hạn ngạch ( hàng năm công bố hạn ngạch và giao cho các doanh nghiệp). Nhà nước quy định giá sàn thu mua nhằm đảm bảo lợi ích của người sản xuất lúa. Từ năm 2000 trở lại đây do nhận thức được việc tồn tại các đầu mối và quota xuất khẩu không phải là giải pháp hữu hiệu để điều hành xuất khẩu gạo do đó việc bỏ quota và đầu mối xuất khẩu sẽ cho phép nhiều doanh nghiệp có thể tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, việc tồn tại nhiều doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo trong cơ chế mới cũng chưa hẳn là phù hợp bởi lẽ khi có nhiều tổ chức xuất khẩu sẽ xuất hiện hiện tượng tranh mua, tranh bán trong nội bộ và sẽ tạo cơ hội cho khách hàng nước ngoài ép giá. Nhìn chung cơ chế quản lý đưa ra chỉ phù hợp với từng thời điểm nhất định trong các giai đoạn nhất định. Sự biến đổi của thị trường theo thời gian kéo theo sự đổi mới trong cơ chế quản lý là điều không thể tránh khỏi. * Chính sách thương mại lúa gạo. Chính sách thương mại của nhà nước về lúa gạo đã trải qua hai thời kỳ với đặc trưng cơ bản có thể khái quát cô dọng là thời kỳ độc quyền và thời kỳ tự do kinh doanh lúa gạo. Trước năm 1989 là thời kì nhà nước quản lý nền kinh tế bằng cơ chế hành chính, mệnh lệnh, quan liêu bao cấp trong đó có lúa gạo. Nhà nước độc quyền trong lưu thông và phân phối lúa gạo thực hiện nghĩa vụ bán lương thực, áp đặt giá, chỉ nơi bán, chỉ người mua. Nhà nước thực hiện nghiêm ngặt về cung ứng lương thực theo định xuất, định lượng bằng tem phiếu, với chủ trương thống nhất quản lý lương thực vì thế mà trạm kiểm soát mọc lên như nấm ở khắp nơi, thị trường bị chia cắt theo địa giới hành chính. Đời sống của các hộ nông dân vùng độc canh lúa và vùng lúa hàng hoá lớn ĐBSCL và ĐBSH không khá lên được, tiềm năng sản xuất lúa gạo lớn mà Đất nước vẫn thiếu lương thực triền miên. Từ năm 1989 trở lại đây cùng với đổi mới cơ chế kinh tế, chính sách thương mại từ độc quyền chuyển sang tự do lưu thông hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia mua bán kinh doanh lương thực. Tình trạng ngăn sông cấm chợ bị xoá bỏ, thị trường lương thực thông suốt được tự do bán cho ai, bán lúc nào, lượng bao nhiêu do hộ tự định đoạt. Chính sách thương mại tự do trong nền kinh tế thị trường đã chi phối đến giá cả, giá lương thực biến động, người nông dân nhận được tín hiệu từ thị trường. Tháng 4 - 1993 Nhà nước cho phép hình thành quỹ bình ổn giá cả để can thiệp vào thị trường lúa gạo tránh những cơn “sốt nóng, sốt lạnh” giá lúa gạo. Sự can thiệp của nhà nước thông qua việc kích cung hoặc cầu bằng việc hỗ trợ lãi xuất mua thóc dự trữ cho tiêu dùng và xuất khẩu là rất lớn. Cụ thể: năm 1994 hỗ trợ 13 tỷ đồng lãi vốn vay để mua 550.000 tấn thóc vụ Đông Xuân. Năm 1995 là 25 tỉ để mua 600.000 tấn và đến năm 2001 Nhà nước giao chỉ tiêu cho các doanh nghiệp, phải mua 1 triệu tấn lúa hàng hoá của bà con để đưa vào tạm trữ. Chính sách thương mại tự do cộng với sự can thiệp của nhà nước vào thị trường đã tạo ra sinh khí mới thúc đẩy sản xuất lúa phát triển mạnh trong những năm vừa qua. Tuy nhiên trong tình hình hiện nay cung luôn vượt quá cầu do đó để ngành lúa gạo của ta tồn tại và tồn tại một cách có hiệu quả thì phải gắn nó với thị trường thế giới. Chính sách thương mại tự do hiện nay không chỉ dừng lại ở vấn đề kinh tế mà là vì sự ổn định của hàng triệu người nông dân sống trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo này. 3. Những vấn đề đặt ra cho xuất khẩu gạo Việt Nam. Trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng để khẳng định vị trí của nó trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, những khó khăn trong lĩnh vực này cũng không phải là ít, điều đó thể hiện ở các mặt sau: Trong sản xuất. Mặc dù đã có kế hoạch về quy hoạch vùng lúa chuyên canh xuất khẩu từ vài năm nay nhưng việc thực hiện nó thì diễn ra rất chậm. Hiện tại số vùng lúa chuyên canh được quy hoạch chỉ có rất ít còn đa số lúa gạo cung cấp ra thị trường trong nước cũng như quốc tế hiện nay là sản phẩm của sự thu gom, nhặt nhạnh từ những thửa ruộng manh mún của nông hộ. Điều gì sẽ xảy ra tình trạng này? Phải chăng đó là chất lượng của sản phẩm xuất khẩu. Thực tế cho thấy do chưa có sự quy hoạch cụ thể nên sản xuất của các vùng, các địa phương diễn ra một cách tự phát, họ chỉ biết chú ý đến loại gạo nào cho sản lượng cao mà không chú ý đến chất lượng, đến đầu ra của nó. Hơn nữa, chúng ta có rất nhiều lợi thế trong sản xuất các loại gạo đặc sản xuất khẩu - Loại gạo mà đối tác ít hoặc không có khả năng sản xuất - Mà chúng ta không biết khai thác. Chính vì vậy, vấn đề quan tâm hàng đầu hiện nay là quy hoạch vùng lúa xuất khẩu, hướng dẫn nông hộ các biện pháp chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh theo đúng quy trình, giảm thiểu tốt nhất lượng hoá chất tồn đọng trong sản phẩm nhằm ngày một nâng cao chất lượng gạo của chúng ta. Đối với các giống lúa đặc sản, cần tuyển chọn tìm kiếm các loại giống lúa truyền thống xưa, tránh pha tạp làm giảm chất lượng gạo đặc sản. Có như vậy, gạo Việt Nam mới thể đủ mạnh để cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường quốc tế. b. Công nghệ sau thu hoạch. ở nước ta, công nghệ sau thu hoạch rất lạc hậu, làm khô thóc chủ yếu là tận dụng nắng và gió trời. ở vùng ĐBSH, mỗi hộ nông dân thường có vài chục mét vuông sân phơi tại gia để phơi lúa sau thu hoạch. ở ĐBSCL lại phơi chủ yếu ở ruộng, gò cao hoặc đường xá. Chính sự thủ công trong khâu phơi này đã làm cho thóc khô không đều và không đảm bảo độ ẩm tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, kho bảo quản lúa gạo trong mấy năm gần đây đã được nâng cấp những nhìn chung thì vẫn lạc hậu, phần lớn bảo quản của người dân vẫn là bảo quản tại gia theo kiểu đóng bao, chất đống, cất tại nhà, chuột, sâu mọt phá hoại hao hụt khá lớn. Hệ thống máy xay xát hiện có ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng về chủng loại song nhìn chung đều ở dạng máy cũ, không đồng bộ về kỹ thuật. Một số máy đã được chế tạo lắp đặt theo công nghệ tiên tiến của thế giới, nhưng chất lượng chế tạo thiết bị và máy móc chưa cao, độ chính xác thấp. Gạo xay xát ra phần lớn đạt mức chất lượng trung bình, tỷ lệ thu hồi thấp đặc biệt tỷ lệ thu hồi gạo chất lượng cao (5-10% tấm). Song song với chính sách khuyến khích đầu tư về giống chế độ chăm sóc để nâng cao sản lượng và chất lượng thóc, cần phải đầu tư chiều sâu, nâng cấp máy móc thiết bị xay xát, tăng giá trị hàng hoá, tăng giá xuất khẩu gạo. c. Những tồn tại trong việc phát triển thị trường . Thị trường xuất khẩu là vấn đề cần tập trung sức giải quyết cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Những thành tựu đã đạt được ở lĩnh vực xuất khẩu gạo trong những năm qua đã khẳng định phần nào vai trò đổi mới trong điều hành của Nhà nước. Những tháo gỡ của Nhà nước để mở rộng thị trường tiêu thụ thể hiện ở: Xoá bỏ đầu mối, xoá bỏ hạn ngạch, ra nhập ASEAN và tham gia các hiệp định thương mại với các khu vực thị trường khác. Chính những tháo gỡ này đã tạo cho gạo Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên cần phải nghiêm túc nhận thấy rằng cho đến nay Việt Nam vẫn chưa hình thành được một chiến lược xuất khẩu gạo mang tính ổn định lâu dài. Chúng ta vẫn chưa thiết lập được hệ thống thị trường xuất khẩu thực sự ổn định và mạng lưới khách hàng thực sự tin cậy. Hơn nữa, do số lượng gạo giao dịch mua bán trên thế giới ngày càng có nhiều hạn chế nên tính cạnh tranh để dành thị trường đã trở nên ngày càng gay gắt hơn. Do Thái Lan có lợi thế về chất lượng gạo, có mối quan hệ truyền thống ổn định, có nhiều kinh nghiệm trên thương trường và quản lý tốt nên phần lớn gạo của ta xuất vào các thị trường tiêu thụ gaọ thực sự đều phải đi qua con đường vòng nghĩa là ta phải bán qua trung gian do đó bị thua thiệt về giá. Đến nay thị trường xuất khẩu gạo của ta vẫn còn là vấn đề bức xúc cần phải hết sức quan tâm và đòi hỏi sự nỗ lực lớn của Nhà nước và các doanh nghiệp nhằm từng bước xâm nhập, củng cố thị phần ở những thị trường đã có và tìm kiếm khai thác thị trường mới. Nhiều doanh nghiệp trình độ chuyên môn xuất khẩu còn yếu, thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm nhưng không biết hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau lại còn tranh dành khách hàng, thị trường để cho thương nhân nước ngoài lợi dụng mà ép giá gây thiệt hại cho Nhà nước và nông dân. Trong những năm tới, việc nghiên cứu thị trường cần phải tăng cường hơn nữa để nắm được kịp thời những thông tin cập nhật, chính xác nhằm đảm bảo hiệu quả hơn nữa hoạt động kinh doanh xuất khẩu d. Về chính sách. Chính sách đầu tư : Có thể nói rằng thành công của mặt trận nông nghiệp là thành công mở đầu của sự nghiệp đổi mới kể từ khi Việt Nam nhanh chống tự túc được lương thực và bất ngờ trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới. Nhận định rõ tầm quan trọng đó của ngành lúa gạo những năm gần đây Nhà nước ta đã chú trọng đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu lúa gạo theo phương châm chung của đầu tư nông nghiệp nông thôn là điều chỉnh theo hướng đầu tư tập trung, cắt giảm những khoản đầu tư không có hiệu quả. Hiện nay, đối với đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu có nhiều khó khăn cụ thể: +Về điện: Điện cung cấp cho nông nghiệp còn hạn chế nên diện tích lúa gieo trồng bị hạn, bị úng, không được tưới tiêu kịp thời nhất là vào thời kỳ cao điểm. +Về phân bón thuốc trừ sâu: Nhà nước cung cấp cho nông dân trong những năm gạo gần đây tuy có tăng lên nhanh những còn rất thấp so với nhu cầu, chỉ đáp ứng được khoảng 60%. Trong những năm qua, chúng ta luôn ở thế bị động cung cấp thuốc không kịp thời. + Cơ khí phục vụ nông nghiệp còn rất yếu kém, thiếu các loại máy móc ngay cả những loại thông thường như máy bơm, máy kéo, bình bơm thuốc sâu cỡ lớn. +Thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các đơn vị đã cũ, lạc hậu, phân tán nhỏ, trong thời gian dài chưa được đầu tư nâng cấp đúng mức để đảm bảo chất lượng gạo theo yêu cầu của thị trường. Để có thể thâm nhập vào thị trường quốc tế, một số doanh nghiệp đã phải dùng vốn lưu động sử dụng cho thu mua lương thực để nhập máy móc thiết bị, đầu tư nâng cấp nhằm đảm bảo xay xát chế biến ra gạo cao cấp. Khả năng của các nhà máy xay xát, sân phơi, kho tàng như hiện nay không thể đáp ứng nhu cầu xuất khẩu gạo nhất là đối với các vụ mùa bội thu lớn. Cung cấp gạo không đúng hợp đồng đã ký kết thường vi phạm về chất lượng và thời gian giao hàng. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu vốn, vấn đề vốn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nhưng vẫn chưa được quan tâm đầy đủ. Thực tế, vốn kinh doanh trong ngành lương thực, theo báo cáo của công ty lương thực tỉnh cuối năm 1993 thì vốn lưu động Nhà nước cung cấp và vốn lưu động tự có thấp nhất là 450 triệu đồng Việt Nam, cao nhất là 9 tỷ đồng Việt Nam. Vốn lưu động đã ít lại phải đầu tư cơ sở chế biến do vậy có rất nhiều công ty không có vốn để kinh doanh. Từ những thực trạng đó đòi hỏi Nhà nước có chính sách để huy động vốn và ưu đãi cho sản xuất, xuất khẩu lúa gạo, tăng cường cạnh tranh cho gạo xuất khẩu của Việt Nam. * Chính sách giá cả. Thời gian qua, chính sách giá cả thị trường đã có nhiều đổi mới và tác động tích cực đến việc xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, chính sách này vẫn còn những vấn đề bất cập: -Về giá cả nội địa: Nhà nước chủ trương không áp đặt một loại giá nào mà hoàn toàn do quan hệ cung cầu thị trường điều tiết. Nhà nước giữ giá đảm bảo cho nông dân mức lợi nhuận từ 20-25% hoặc điều tiết giá qua các đơn vị quốc doanh thu mua thóc dư thừa để điều chỉnh cung cầu và giá có lợi cho nông dân. Về nguyên tắc, chính sách bình ổn giá của Nhà nước là cần thiết nhưng trên thực tế khả năng điều hành thực hiện không dễ dàng và giá bán thóc của nông dân vẫn bị chèn ép gạo gây bất lợi cho sản xuất nguyên nhân là các đơn vị quốc doanh không đủ thực lực điều tiết quan hệ cung cầu và giá cả, khả năng tài chính của Nhà nước bị hạn chế và Nhà nước còn thiếu chính sách thiết thực để bảo trợ giá, không đảm bảo được quyền lợi cho người nông dân khi bán sản phẩm. Với thị trường nước ngoài: Mặc dù thị phần gạo Việt Nam khá cao nhưng Việt Nam hầu như không có vai trò quan trọng trong việc quyết định giá, giá gạo Việt Nam luôn biến động theo giá thị trường thế giới. Không những thế gạo Việt Nam còn bị chèn ép ở một số thị trường nguyên nhân chính là do chúng ta vẫn chưa bắt kịp với hoạt động kinh doanh quốc tế, chưa có hệ thống thị trường ổn định lại phải cạnh tranh với một đối thủ cao hơn hẳn mình đó là Thái Lan. e. Cơ chế xuất khẩu gạo còn chưa phù hợp. Trong mấy năm qua, cơ chế quản lý xuất khẩu gạo đã có nhiều chuyển biến tuy nhiên vẫn chưa hoàn chỉnh và ổn định có lúc còn cứng nhắc, thiếu linh hoạt, nhất quán, gây trở ngại và khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, bản thân cơ chế quản lý có mặt chưa chặt chẽ, còn nhiều sơ hở, chưa đảm bảo sự kiểm tra giám sát của Nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, chưa hạn chế những hiện tượng tiêu cực gây tổn thất chung đối với việc xuất khẩu của ta, gây thiệt hại cho Nhà nước và không đảm bảo cho lợi ích cả người sản xuất. Những tiêu cực thường biểu hiện là: - Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều thủ tục rườm rà mặc dù đã có sự điều chỉnh nhiều lần. - Cạnh tranh nội bộ giữa các doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài tạo cơ hội cho khách hàng gây áp lực ép giá. - Tìm cách để bán gạo dưới mức giá chỉ đạo bằng cách nâng giá hàng nhập khẩu (Phân bón, xăng dầu...) hoặc hoàn lại một phần tièn hàng cho khách hàng dưới nhiều hình thức tinh vi. Cơ chế quản lý là một trong những vấn đề lớn cần được tiếp tục nghiên cứu sửa đổi và ổn định dần nhằm phục vụ tốt hơn cho việc xuất khẩu gạo. Chương III Những giải pháp chủ yếu cho xuất khẩu gạo Việt Nam. I. Phương hướng và mục tiêu cho xuất khẩu gạo Việt Nam trong những năm tới. 1. Phương hướng. Gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của nước ta. Mặc dù khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế vẫn được duy trì nhưng khả năng cạnh tranh về giá của ngành lúa gạo đang bị suy giảm. Điều đó đòi hỏi phải có những phương hướng đúng đắn cho ngành lúa gạo trong thời gian tới. Thứ nhất: Xuất khẩu gạo cần phát triển theo hướng đa dạng tiêu thụ có nghĩa là bất kỳ một thị trường nào nếu có nhu cầu thì ta đều có thể đáp ứng. Tuy nhiên, trong các thị trường đó thì ta chú ý tới thị trường có giá trị cao, số lượng cao coi đó là thị trường chiến lược cần phải chiếm đoạt ngay, càng nhiều càng tốt, giữ vững để thu lợi nhuận lớn và lâu dài. Với những thị trường không ổn định thì cần coi đó là những thị trường thời cơ phải có những chính sách thích hợp để sẵn sàng chiếm lĩnh khi có cơ hội . Thứ hai: Cần nâng cao tỷ trọng gạo chất lượng cao trong cơ cấu gạo xuất khẩu, chú ý phát triển xuất khẩu các loại gạo đặc sản truyền thống phấn đấu năm 2010 tỷ trọng gạo đặc sản đạt 10% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Mục tiêu tăng chất lượng gạo sẽ đảm bảo tăng kim ngạch xuất khẩu và nâng cao hơn nữa vị thế của Việt Nam trên thị trường gạo thế giới. Thứ ba: Cần duy trì sản lượng xuất khẩu hợp lý điều đó có nghĩa là việc xuất khẩu đươc khối lượng nhiều không còn quan trọng nữa mà quan trọng hơn là xuất khẩu lượng gạo đó với giá bao nhiêu và hiệu quả như thế nào ? Trước đây, do ta chưa nghiên cứu kỹ về thị trường gạo nước ngoài nên ta xuất khẩu rất ồ ạt mặc dù xuất được một khối lượng lớn nhưng kim ngạch xuất khẩu đem lại rất thấp do bán gạo ồ ạt với giá thấp. Do đó để nâng cao hơn nữa hiệu quả xuất khẩu thì ta phải nghiên cứu đồng bộ: thị trường, chất lượng gạo, đàm phán kí kết hợp đồng từ đó đưa ra một khối lượng xuất khẩu hợp lý tránh tình trạng bị ép giá do lượng cung gạo quá dư thừa như hiện nay . Thứ tư: Đa dạng hoá các hình thức, tổ chức tham gia xuất khẩu gạo để đáp ứng nhu cầu ở mọi nơi, mọi qui mô lớn hay nhỏ. Như vậy, trong tổ chức và cơ chế quản lý vĩ mô cần vừa có cơ chế cứng, vừa có cơ chế mềm để cơ chế này hoạt đông linh hoạt, thích ứng kip thời với những biến động của thị trường. Do đó cần có sự phân chia, phân cấp thị trường cho các loai hình tổ chức xuất khẩu gạo một cách hợp lý tránh hiện tượng tranh giành khách hàng và bị khách hàng ép giá. 2. Mục tiêu. Mục tiêu cho xuất khẩu gạo những năm tới vẫn phải đảm bảo : "tiêu thụ hết lúa hàng hoá với giá có lợi cho nông dân, đảm bảo bình ổn giá thị trường trong nước và xuất khẩu có hiệu quả". Duy trì mức xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo mỗi năm nhưng tăng hiệu quả xuất khẩu bằng cách tăng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,5 tỷ USD vào năm 2005. II. Những giải pháp chủ yếu cho xuất khẩu gạo của Việt Nam . 1. Giải pháp cho sản phẩm . Hoàn thiện công tác phân vùng quy hoạch, xây dựng vùng lúa phẩm cấp gạo cao. Hiện nay, Bộ NN và PTNT đã triển khai đầu tư xây dựng vùng lúa phẩm chất gạo cao có tổng diện tích 1,3 triệu ha trong đó ở ĐBSCL 1triệu ha có khả năng cung cấp 3,5 đến 4 triệu tấn gạo phẩm cấp cao cho xuất khẩu. Diện tích canh tác lúa phẩm cấp gạo cao dự kiến phân theo tỉnh: Long An 68.000 ha, Tiền giang 55.000 ha, Bến tre 20.000 ha, đồng Tháp 120.000 ha, Vĩnh Long 80000 ha, Trà Vinh 50.000 ha, An Giang157.000 ha, Kiên Giang100.000 ha, Cần Thơ 140.000 ha, Sóc Trăng 120.000 ha, Bạc Liêu 60.000 ha và Cà Mau 50.000 ha. ở ĐBSH gồm 0,3 triệu ha, diện tích canh tác lúa phẩm cấp cao dự kiến chủ yếu ở các tỉnh: Thái Bình, Nam Hà và Hải Dương. Để các vùng dự kiến thực sự phát huy hiệu quả khi đi vào sản xuất theo quy hoạch, ngay từ bây giờ chúng ta cần có phương án rà soát, bổ sung quy hoạch vùng nông- lâm nghiệp của tỉnh cũng như phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 ở cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) theo nghị định của quốc hội và Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ. ở những vùng này cần ưu tiên đầu tư đồng bộ hệ thống thuỷ lợi, giao thông nhằm tạo đièu kiện thuận lợi cho việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, ổn định sản xuất, người trồng lúa yên tâm đầu tư thâm canh. Đồng thời, chú trọng phát triển mạng lưới nhà máy chế biến lúa gạo kết hợp với kho chứa nằm ngay trong vùng để có thể thu mua hết và chế biến kịp thời. Giữa vùng sản xuất với các đơn vị xuất khẩu gạo, các viện nghiên cứu nông nghiệp, các trung tâm khuyến nông các tỉnh, huyện phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giúp người sản xuất lúa có đủ vốn, giống tốt, vật tư đầu vào, kỹ thuật canh tác và tiêu thụ sản phẩm. Với các hộ nông dân, cần khuyến khích và tạo điều kiện cho họ hình thành các Hợp tác xã dịch vụ, đảm bảo cung ứng kịp thời, nhanh chóng các dịch vụ nông nghiệp cũng như tiêu thụ lúa với khối lượng lớn. b. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu sản xuất cung ứng và ứng dụng các giống lúa có chất lượng gạo cao. Giống là yếu tố hàng đầu góp phần cải thiện phẩm chất gạo và làm gia tăng năng suất lúa. ở ĐBSCL hiện đang sử dụng khoảng 50 giống lúa cao sản ngắn ngày trong đó có 10 giống có phẩm chất gạo đáp ứng nhu cầu xuất khẩu: loại gạo hạt dài, trong, không bạc bụng, cơm mềm. Các giống này hiện nay chiếm khoảng 30% đến 40% diện tích gieo trồng các giống ngắn ngày ở ĐBSCL. ở ĐBSH có chủng loại giống rất phong phú với khoảng 80 giống lúa trong đó có 44 giống lúa mới được Bộ NN và PTNT công nhận và đưa vào sản xuất. Trong đó các giống lúa hiện đang trồng ở ĐBSH có từ 15%-20% là các giống có năng suất cao, chất lượng gạo cao đáp ứng đươc nhu cầu xuất khẩu. Mục tiêu từ nay đến năm 2005 phấn đấu sử dụng các giống lúa có phẩm cấp gạo cao đạt trên 50% diện tích gieo trồng lúa toàn quốc. Để mục tiêu này thành hiện thực, công tác nghiên cứu cần tập trung vào việc phục tráng các giống lúa có phẩm cấp gạo cao đang được nông dân sử dụng như: IR64, OM 997, Tép hành, Tài Nguyên, Nàng Hươngngoài ra sẽ tập trung nghiên cứu tạo ra các giống lúa thơm đặc thù của Việt Nam có khả năng cạnh tranh với gạo Thơm Thái Lan trên thị trường thế giới. Với hệ thống sản xuất và cung ứng hạt giống lúa của các địa phương (tỉnh, huyện ) phần lớn là rất mỏng không đáp ứng được nhu cẫu sản xuất. Cần phải tổ chức lại hệ thông sản xuất và cung ứng hạt giống lúa cho phù hợp với đặc điểm thị trường hiện nay trong đó cần chú trọng vai trò cuả các hộ tư nhân (các hộ nhân giống, và các hộ bán lẻ vật tư nông nghiệp...). Họ sẽ là người tự đầu tư sản xuất tiếp cận trực tiếp với nông dân, hiểu rõ được các yêu cầu về chủng loại giống, thời điểm cần giống của nông dân. Do đó, Nhà nước một mặt cần có chính sách khuyến khích tư nhân tham gia vào hệ thống sản xuất, chế biến, khuyến thị và cung ứng hạt giống lúa, mặt khác có sự phân công rành mạch vai trò của các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân này trong từng khâu của hệ thống nhằm đảm bảo cung cấp đủ giống có chất lượng tốt cho nông dân. Đối với cấp huyện và cấp xã: Đơn vị quản lý nông nghiệp và trạm khuyến nông xúc tiến hình thành mạng lưới các hộ hoặc tổ nhân giống vừa để trình diễn các giống mới, vừa sản xuất đủ giống để cung ứng cho nông dân. Nhà nước cần phải có biện pháp hỗ trợ thiết thực về kỹ thuật, tài chính, khuyến nông để giúp các hộ và tổ sản xuất giống xác lập và mở rộng thị trường, sản xuất được hạt giống đạt tiêu chuẩn chất lượng và giá thành không cao, giá bán vừa phải và lợi nhuận thu được của người sản xuất giống là thoả đáng. Với các đơn vị nghiên cứu và công ty giống cây trồng trung ương chịu trách nhiệm sản xuất hạt giống luá nguyên chủng để cung cấp ra các tỉnh theo kế hoạch và đơn đặt hàng của các tỉnh. Hạt giống lúa nguyên chủng cần được hỗ trợ về giá để giảm nhẹ chi phí cho khâu nhân giống kế tiếp về sau. Với hộ nông dân: cần khuyến khích sử dụng giống mới. Hiện có khoảng 90 loại hạt giống do dân tự để có chất lượng thấp, nhiều hộ sử dụng cùng một loại giống cho trên 5-6 vụ đây là nguyên nhân chính làm giảm năng xuất và chất lượng lúa đồng thời giống bị thoái hoá nhanh. c. Nâng cao phẩm cấp lúa sau thu hoạch. Công nghệ sau thu hoạch là một trong những yếu tố quyết định chất lượng gạo từ đó ảnh hưởng đến giá cả và khả năng cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường. Chính vì vậy việc cải tiến công nghệ sau thu hoạch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao giá trị cũng như hiệu quả xuất khẩu. Hiện nay, sau thu hoạch có ba khâu ảnh hưởng lớn đến chất lượng gạo và tổn thất gạo nhiều nhất là các khâu: xay xát, phơi sấy và bảo quản. Để cải thiện chất lượng lúa gạo cần tập trung vào việc khắc phục những nguyên nhân gạo gây ra từ ba khâu đó. + Khâu phơi sấy: Cần tập trung đầu tư nâng cao năng lực phơi sấy cho các đơn vị quốc doanh, đảm bảo tăng khả năng thu mua lúa trong dân kể cả trường hợp mua lúa ướt. Nhà nước cần có chính sách mở rộng tín dụng dài hạn để dân có vốn đầu tư cho việc tu bổ, sửa chữa và xây dựng hệ thống sân phơi mới hoặc các kiểu máy lớn đi liền với nhà máy xay nhưng chi phí cho xấy lúa vẫn còn cao. Vì vậy bên cạnh việc đầu tư nâng cấp hệ thống sân phơi hiện có của nông hộ cần phảt triển khai nhân rộng và hoàn thiện một số mô hình thiết bị sấy phù hợp với đặc điểm từng vùng sử dụng nhiên liệu tại chỗ như: rơm, rạ, than củi để giảm giá thành mà vẫn đảm bảo chất lượng cao. +Với bảo quản: Công nghệ bảo quản và hệ thống kho dự trữ có vị trí quan trọng trong việc giữ bảo quản trong việc chống nấm mốc, hạn chế những ảnh hưởng của điều kiện thời tiết khí hậu nước ta nhất là trong mùa mưa lũ. Nhận thức được vấn đề này thì vấn đề cấp bách cần giải quyết hiện nay là sắp xếp lại hệ thống kho dự trữ cho phù hợp với sản lượnglúa hàng hoá của từng vùng, thanh lý loại bỏ những kho không đạt tiêu chuẩn đặc biệt là những kho dự trữ để xuất khẩu. Bên cạnh đó cần bổ sung những kho trạm mới đạt tiêu chuẩn ở nơi trọng điểm tạo điều kiện thuận lợi cho việc cất trữ và bảo quản lúa gạo nhằm cung cấp cho thị trường nội địa và phục vụ xuất khẩu, áp dụng công nghệ bảo quản mát thóc gạo (nhiệt độ từ 15-160C) ở một số cụm kho dự trữ quốc gia hiện đại có như vậy mới đảm bảo số lượng và chất lượng cho gạo xuất khẩu . +Với xay xát. Để nâng cao chất lượng và tỷ lệ thu hồi gạo cũng như giảm tổn thất trong xay xát cần tập trung cải tạo, nâng cấp đối với hệ thống xay xát hiện có, xây dựng thêm hệ thống xay xát, đánh bóng, tách hạt màu để nâng cao phẩm cấp hạt gạo đặc biệt là ở các vùng chuyên canh xuất khẩu nằm trong quy hoạch. Cần bổ xung vào thiết bị hiện có những dây truyền thiết bị hiện đại để phục vụ tốt nhất nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Tuy nhiên, để thực hiện được những điều trên cần phải có được một lượng vốn rất lớn. Theo dự tính của Vụ NN và PTNT, để đầu tư cải tạo đồng bộ cơ sở hạ tầng các vùng lúa hàng hoá cần đầu tư khỏang 800 triệu đến 1,2 tỷ USD trong đó cho công nghiệp chế biến và hệ thống kho dự trữ gạo từ 100 đến 200 triệu USD. Nguồn vốn đầu tư này bên cạnh là vốn của Nhà nước cần kết hợp với nguồn vốn của địa phương và một số công ty liên doanh đầu tư nước ngoài. Với việc đầu tư này tin chắc trong những năm tới Việt Nam sẽ tạo ra hiệu quả cao trong chất lượng gạo xuất khẩu. Gạo sẽ đảm bảo các tiêu chuẩn ít gẫy, độ ẩm hợp lí... từ đó sẽ có giá xuất khẩu cao tạo ra xu hướng theo kịp giá gạo xuất khẩu Thái Lan. 2. Giải pháp về thị trường . a. Hoàn thiện hệ thống thông tin về tình hình mặt hàng gạo trên thế giới. Hiện nay, việc tiếp cận thông tin của các tổ chức và các doanh nghiệp về thị trường gạo thế giới còn rất hạn chế, thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác, mất tính thời sự. Để khắc phụ điều đó trước mắt chúng ta phải thành lập các cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài và điều chỉnh hoạt động của nó theo đúng nghĩa là cơ quan xúc tiến thương mại. Hiện tại chúng ta có một vài trung tâm ở nước ngoài nhưng chỉ làm chức năng trưng bày, giới thiệu hàng hóa Việt Nam chứ chưa triển khai đầy đủ nhiệm vụ xúc tiến thương mại. Việc sớm hình thành các tổ chức của Nhà nước ta ở nước ngoài là rất cần thiết. Các tổ chức có thể coi là văn phòng, trung tâm có nhiệm vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh nói chung và doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh lúa gạo nói riêng bằng cách tìm kiếm, cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, đối tác cho các doanh nghiệp và cũng có thể trao đổi, chắp nối cho các doanh nghiệp tìm đế làm ăn với nhau. Tuy nhiên, để đảm bảo cho hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp thì đây sẽ không phải là cơ quan kinh doanh bởi nếu không thì sẽ có lúc nghiệp vụ hỗ trợ sẽ không được thực hiện. Chính vì vậy cơ quan này cần phải được Nhà nước cấp kinh phí cho hoạt động. Nó cũng có thể thu kinh phí từ các hoạt động hỗ trợ song không nhằm mục đích kinh doanh. Các tổ chức này khi có được thông tin thì cần cập nhật nhanh cho các doanh nghiệp những thông tin cần thiết, đồng thời các cơ quan điều hành cũng cần ra các quyết định vĩ mô kịp thời nhằm điều chỉnh quan hệ cung cầu, giá cả cho phù hợp với yêu cầu thị trường nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao cho ngành kinh doanh lúa gạo. b. Nâng cao hơn nữa uy tín trên thị trường gạo thế giới. Trong những năm qua, ngành kinh doanh lúa gạo của ta đã khẳng định được uy tín của mình trên thị trường gạo thế giới song bên cạnh những cái đã đạt được thì vẫn tồn tại những bất cập lớn như: cung cấp gạo không đúng hợp đồng đã kí kết, thường vi phạm chất lượng và thời gian giao hàng... để khắc phục những bất cập đó nhằm nâng cao uy tín của kinh doanh gạo Việt Nam trên thương trường quốc tế thì trước mắt chúng ta phải thức hiện đồng bộ các giải pháp sau: Thứ nhất: Cần chủ động chân hàng để có thể đàm phán và thực hiện nhanh các hợp động đã kí kết, nhất là trong khâu giao hàng. Hiện nay, tâm lí khách hàng nước ngoài chưa thật sự tin tưởng vào khả năng thự hiện hợp đồng của nhiều doanh nghiệp Việt Nam và cũng rất ngại thời gian giao hàng tại cảng bị kéo dài. Để chủ động chân hàng cần tăng cường dự trữ kinh doanh, kết hợp dự trữ kinh doanh xuất khẩu gạo với dự trữ quốc gia. Thứ hai: Không ngừng đầu tư, nghiên cứu để tạo ra các giống lúa có chất lượng cao, khôi phục các giống lúa đặc sản truyền thống. Đầu tư thoả đáng cho việc xây dựng đồng bộ hệ thống chế biến, giao thông vận chuyển, cảng khẩu, hệ thống thiết bị bốc xếp tại các bến bãi đầu mối. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc rút ngắn thời gian bốc xếp gạo xuất khẩu, giảm hao hụt về số lượng và chất lượng, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao uy tín của ngành kinh doanh lúa gạo của ta trên thị trường thế giới. Thứ ba: Cải tiến việc kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu. Để đảm bảo uy tín chất lượng gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế cần phải kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu tránh tình trạng gian lận, giao hàng không đúng phẩm cấp so với mẫu mã của hợp đồng. Muốn vậy, đề nghị Chính Phủ ban hành những văn bản pháp lý cụ thể về việc kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu, kèm theo bảng tiêu chuẩn gạo Việt Nam qui định rõ trong chế tài, xử lý nghiêm khắc các trường hợp cố ý gian lận làm giảm uy tín chất lượng gạo Việt Nam gây thiệt hại cho nền kinh tế, cũng có thể áp dụng hình thức xử phạt bằng tiền tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của những hậu quả gây ra. Riêng đối với doanh nghiệp vi phạm lặp đi lặp lai nhiều lần thì cần phải rút giấy phép không cho tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo. Đối với các đơn vị làm dịch vụ kiểm phẩm nếu thông đồng bao che cho sự gian lận đó cũng bị xử lý nghiêm ngặt như các doanh nghiệp . c. Củng cố và tăng cường vị trí vốn có ở các thị trường truyền thống, tích cực mở rộng và tạo thế đứng trên các thị trường mới. Đối với ngành kinh doanh lúa gạo thị trường là nhân tố quyết định đặc biệt là thị trường cho gạo xuất khẩu. Tính chất quyết định lại càng đươc khẳng định hơn trong giai đoạn hiện nay khi mà hầu như tất cả các nước đều đã đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia. Để củng cố được vị trí ở các thị trường truyền thống, mở rộng và tạo thế đứng ở các thị trường mới cần tập trung xử lý các vấn đề sau: Đàm phán, ký kết, thoả thuận song phương và đa phương, tăng khối lượng và giá trị hàng Việt Nam vào thị trường các nước, đây chỉ là điều kiện ban đầu mang tính pháp lý tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh của mình xâm nhập vào thị trường các nước, việc thị trường có chấp nhận gạo của ta hay không còn phụ thuộc vào chất lượng và thị hiếu của người tiêu dùng tuy nhiên đây là điều kiện tiền đề rất quan trọng . Xử lí các vướng mắc trong quan hệ với các nước thuộc thị trường truyền thống, việc xuất khẩu gạo trả nợ là một trong các giải pháp mang tính chiến lược cho ngành lúa gạo nhất là trong điều kiện hiện nay. Tất nhiên, nếu nhà nước ký kết xuất khẩu theo hiệp định trả nợ sẽ gặp những khó khăn nhưng xét về lâu dài thì đây là một đòi hỏi cấp bách. Hơn nữa, đối với những bạn hàng đã nhiều năm gắn bó, mua gạo lâu dài của ta, buôn bán có tín nhiệm thì cần thực hiện các chính sách ưu tiên chẳng hạn như: Có thể cùng điều kiện thương mại ta ưu tiên bán hàng cho những đối tượng này bằng những chính sách ưu đãi về giá. Đối với thị trường mới thì ta cần tạo lập dần uy tín của gạo Việt Nam trong thị trường đó. 3. Hoàn thiện hệ thống kinh doanh lúa gạo và cơ chế điều hành xuất khẩu. Trong những năm qua, ngành lúa gạo đã đạt được những thành tựu đáng khâm phục,những thành tựu đó được xây dựng từ những đổi mới trong cơ chế, chính sách của Nhà nước đã giúp cho các đơn vị sản xuất và kinh doanh lúa gạo có môi trường thông thoáng hơn để thực hiện mục tiêu kinh doanh của mình. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn nữa cho năm 2001 và những năm tiếp theo chúng ta cần tập trung vào giải quyết các vấn đề sau: +Với mạng lưới kinh doanh lúa gạo: Cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng tham gia vào mạng lưới này. Tuy nhiên, các đơn vị xuất khẩu phải là các đơn vị có tiềm lực, có mạng lưới thu mua trực tiếp tới hộ nông dân. Chỉ sử dụng tư thương ở những nơi, những khâu cần thiết, tìm cách hạn chế mặt tiêu cực của tư thương, ngăn chặn tình trạng tư thương nước ngoài núp bóng thương lái trong nước chen vào chi phối thị trường làm ảnh hưởng xấu đến việc xuất khẩu của ta. +Với cơ chế điều hành: Thành lập quỹ điều hành xuất khẩu gạo lấy từ các nguồn: thu tiền phạt từ các đơn vị vi phạm xuất khẩu gạo kém chất lượng, trích nộp lợi nhuận của các đơn vị đầu mối tương ứng trên số lượng gạo xuất khẩu theo hiệp định hoặc hợp đồng chính phủ ký kết. Mục đích sử dụng quĩ để đảm bảo tài chính cho các biện pháp cơ bản nhằm khuếch trương xuất khẩu gạo, thực hiện trợ cấp trợ giá, trợ vốn cho nông dân, cho các nhà xay xát và các đơn vị tham gia lưu thông lúa gạo, giải quyết trợ vốn cho các nhà xuất khẩu gạo có khả năng bán hàng trả chậm, tạo điều kiện tăng lượng xuất và nâng cao giá gạo xuất khẩu, mua lúa tạm trữ để điều chỉnh thị trường nội địa khỏi biến động giá cả. Hơn nữa, để khuyến khích các doanh nghiệp mua lúa gạo hàng hoá trong thời vụ thu hoạch rộ, đưa vào tạm trữ tạo chân hàng xuất khẩu ổn định thì Nhà nước phải có sự bảo hộ thiết thực đối với các doanh nghiệp được giao chỉ tiêu mua lúa gạo tạm trữ tránh tình trạng như hiện nay, doanh nghiệp không mua đủ số tạm trữ theo chỉ tiêu Nhà nước giao bởi vì nếu mua đủ chỉ tiêu thì doanh nghiệp không có lãi thậm chí còn lỗ mà cái lỗ đó thì vẫn đang được xem xét giải quyết chứ chưa được giải quyết một cách cụ thể. Việc chỉ định doanh nghiệp đại diện giao dịch ký hợp đồng theo hiệp định của Chính Phủ và tham gia đấu thầu là cần thiết vì các hợp đồng theo hiệp định Chính Phủ thầu thường được giá cao, khối lượng lớn giúp cho doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá và có cơ sở để đấu tranh giá cả với khách hàng khác. Trong thời gian ký hợp đồng hoặc dự đấu thầu, các doanh nghiệp khác không được chào bán trực tiếp hoặc gián tiếp vào các thị trường trên. Để thực hiện dân chủ công khai tạo sự đoàn kết nhất trí giữa các hội viên thì trước khi giao dịch kí hợp đồng hoặc dự thầu doanh nghiệp được làm đại diện phải thống nhất với tổ điều hành xuất khẩu gạo và Ban chấp hành hiệp hội về giá chào bán, khối lượng và thời gian giao hàng. Khi ký được hợp đồng, doanh nghiệp phải lập kế hoạch phân chia thực hiện lịch giao hàng thông qua Ban chấp hành hiệp hội và tổ điều hành. 4. Hoàn thiện các chính sách của Nhà nước. Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong những năm qua đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi mở đường cho ngành kinh doanh lúa gạo tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, bước vào giai đoạn mới cần đổi mới và hoàn thiện hơn các chính sách nhằm phát huy hơn nữa các nguồn lực cho sản xuất và xuất khẩu . a. Chính sách đầu tư. Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đầu tư đồng bộ vào quá trình: sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo cụ thể là các nội dung: + Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng nhất là giao thông, thuỷ lợi, cơ sở chế biến đảm bảo cho việc sản xuất lúa xuất khẩu. + Đầu tư cho công tác nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong đó chú ý đầu tư nghiên cứu và phục hồi các giống lúa đặc sản truyền thống, các địa phương tăng cường chuyển giao tiến bộ đến hộ nông dân. + Đầu tư nâng cấp các cơ sở bảo quản chế biến, thay mới những thiết bị đã cũ và lạc hậu nhằm đảm bảo chất lượng gạo theo yêu cầu của thị trường gạo thế giới. b. Chính sách tín dụng. Ngoài vốn vay ngắn hạn, cần có nguồn vốn vay dài hạn và trung hạn để giúp nông dân đầu tư cơ sở vật chất, đầu tư chiều sâu, mở rộng qui mô sản xuất lúa gạo xuất khẩu. Trong thời gian tới, chính sách tín dụng cho sản xuất và xuất khẩu cần đổi mới theo hướng: Tăng cường tín dụng ưu đãi hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu gạo. + Trong khâu sản xuất : Phần đông những người trồng lúa ở nước ta thuộc loại nghèo thường xuyên thiếu vốn sản xuất. Trong điều kiện hiện nay, để có sản phẩm lúa gạo xuất khẩu thì trong quá trình trồng trọt, chế biến phải tuân thủ đúng qui trình kỹ thuật và các yêu cầu ngặt nghèo đặc biệt là các loại gạo đặc sản chất lượng cao, nó đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Do những đặc thù riêng trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nên hỗ trợ vốn cho nông dân cần được tiến hành dưới hình thức tín dụng với lãi suất thấp. Để đảm bảo cho vay kịp thời cho nông dân cần cải tiến hệ thống ngân hàng nông nghiệp thương mai về thủ tục cho vay, nâng cao trrình độ nghiệp vụ. Bên cạnh đó mở rộng các hình thức tín dụng thương mại cho nông dân vay qua các công ty lương thực, các tổ chức kinh doanh xuất khẩu gạo góp phần taọ liên kết thương mại vừa đảm bảo vốn cho nông dân sản xuất, vừa đảm bảo tiêu thụ sản phẩm của nông dân lại vừa đảm bảo chân hàng cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. + Trong xuất khẩu. Để thúc đẩy xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh gạo xuất khẩu nhà nước cần có chính sách tín dụng thích hợp tạo điều kiện cho vay đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo để có khả năng chủ động dự trữ gạo, chờ cơ hội giá thế giới lên mới có lợi cho xuất khẩu. Dùng quỹ hỗ trợ doanh nghiệp khi được phép xuất khẩu trả chậm để giữ vững thị trường khi nước nhập khẩu gặp khó khăn trong thanh toán hoặc hỗ trợ mở ra thị trường mới. Ngoài ra nhà nước cần thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng để trợ giúp cho các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu, khuyến khích thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu để trợ giúp khi giá thị trường thế giới biến động thất thường. c. Chính cách bảo hiểm và trợ giá. Bảo hiểm và trợ giá cho ngành lúa gạo hiện nay là việc làm rất cần thiết và thiết thực. Do mang đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp nên ngành lúa gạo thường gặp những rủi ro trong sản xuất cũng như trong xuất khẩu. Những rủi ro này là do những điều kiện khách quan mang lại. Một sự biến đông của thị trường một sự đổi thay của thời tiết khí hậu đều kéo theo một sự rủi ro lớn. Ví dụ trận lụt tháng 8/1971 đã làm cho 2,8 triệu hộ ở vùng ĐBSH bị ngập lụt và làm ngập 200.000 ha lúa màu. Để bảo hiểm cho sản xuất và xuất khẩu lúa gạo trước những biến động của các điều kiện tự nhiên và sự biến động của thị trường cần lập quỹ bảo hiểm từ trung ương đến địa phương theo phương thức nhà nước và nông dân cùng đóng góp, xây dựng quỹ với tỷ lệ thích hợp. Người sản xuất sẽ được bồi thường thiệt hại nếu như gặp thiên tai, dịch bệnh. Các tổ chức xuất khẩu sẽ được bảo hộ nếu như có những biến động theo chiều hướng xấu của thị trường. Những năm tới nhà nước cẫn mở rộng hơn nữa các hình thức bảo hiểm đẻ người nông dân yên tâm đầu tư cho sản xuất phục vụ tốt chương trình xuất khẩu. Không những vậy, nhà nước cần công bố giá sàn thu mua ngay từ đầu vụ, cam kết mua hết thóc nông dân bán ra một cách kịp thời, thuận tiện và đúng với giá sàn khi giá thị trường thấp hơn. * Kết luận và kiến nghị. Trong những năm qua, xuất khẩu gạo của Việt nam đã gặt hái được những thành tựu đáng kể từ một nước thiếu ăn nay đã trở thành nước xuất khẩu thứ hai thế giới và đã đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Trong tương lai, nhờ có lợi thế về tự nhiên, nguồn nhân lực... Việt nam đang còn có nhiều triển vọng cho sản xuất cũng như xuất khẩu. Tuy nhiên hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức lớn, với sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường thế giới, đòi hỏi phải có những đổi mới để củng cố và nâng cao vị thế của mình, đưa sản xuất, xuất khẩu Việt nam vươn tới những tầm cao mới . Qua phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu gạo bước đầu em có những kiến nghị sau: Thứ nhất: Nhà nước cần thông qua các chính sách, văn bản của mình để thúc đẩy việc qui hoạch vùng sản xuất lúa xuất khẩu nhanh chóng và có hiệu qủa. Toàn bộ vùng lúa xuất khẩu phải được nhà nước cung cấp giống và tiến hành sản xuất theo một lịch trình cụ thể tránh tình trạng khi thu hoạch thửa chín quá, thửa thì chưa kịp chín. Thứ hai: Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa nông dân, nhà khoa học, nhà xuất khẩu dưới sự lãnh đạo của cơ quan chức năng nhà nước nhằm đưa nhanh tỷ lệ khoa học công nghệ vào sản phẩm, khôi phục lại các giống có chất lượng cao, đặc sản nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng của thị trường thế giới. Cụ thể: Doanh nghiệp xuất khẩu cho phép xuất khẩu trả chậm khi nước nhập khó khăn về tài chính. Nhà nước thông qua ngân hàng tiếp tục cho vay với lãi suất hỗ trợ từ quỹ hỗ trợ cụ thể. Nông dân vay vốn ngân hàng thông qua các tổ chức xuất khẩu với lãi xuất từ 1,2 % đến 1,4% và trả nợ vay theo kiểu đến vụ thu hoạch các tổ chức xuất khẩu trực tiếp thu gom thóc từ các hộ này và thanh toán khấu trừ nợ một cách hợp lí để đảm bảo mức lãi khoảng 20% đối với người dân. Đối với việc đầu tư cải tạo, nâng cấp xây dựng hệ thống công nghệ sau thu hoạch góp phần giảm thất thoát thì đề nghị chính phủ có những chính sách khuyến khích hơn nữa để càng hiện đại càng hiệu quả, cố gắng mức lãi suất cho vay vào lĩnh vực này tối đa là 1,2%. Đối với vùng sản xuất lúa đặc sản, nhà nước phải cam kết bao tiêu toàn bộ sản phẩm với giá cao gấp 3 đến 3,5 lần so với giá gạo bình thường. Thứ ba: Nhà nước cần tiếp tục các biện pháp tiếp thị xuất khẩu gạo như: cung cấp dữ liệu tiếp cận thông tin giá cả, sản lượng, chủng loại gạo xuất khẩu trong nước cho các bạn hàng, đồng thời giúp cho các nhà xuất khẩu trong nước tiếp cận với thị trường thế giới, đảm bảo ổn định và tín nhiệm trong các chính sách có liên quan để giúp các bạn hàng yên tâm khi làm ăn lâu dài với ta, giúp doanh nghiệp thực hiện tốt các hợp đồng đã ký kết với bạn hàng nước ngoài. Nhà nước cho phép thực hiện cơ chế thưởng xuất khẩu theo đầu tấn nhất là các đơn vị tìm kiếm mở rộng được thị trường mới. Tăng cường đàm phán với các nước nhằm mở rộng hình thức trả nợ bằng gạo. Hơn nữa, bản thân các doanh nghiệp phải nâng cao hơn nữa tính chủ động trong kinh doanh tích cực tìm kiếm cơ hội để mở rộng thị trường và bạn hàng thông qua nhiều hình thức linh hoạt và hấp dẫn. Thứ tư: Xét về lâu dài cần phải chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn. Toàn bộ lúa vụ ba sẽ được chuyển sang gieo trồng các loại cây như: Cây có dầu, cây đậu tương. Những phần đất ven biển, đất trũng được chuyển sang nuôi tôm cá, đất ven đô và đất chưa chủ động tưới tiêu sẽ được chuyển sang trồng cây ăn quả và cây khác có hiệu quả hơn. Mặc dù đây không phải là giải pháp trực tiếp tác động đến xuất khẩu gạo nhưng nó là giải pháp mang tính chiến lược góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và ổn định cung gạo trên thị trường. Trên đây là những nhận thức của em về thị trường tiêu thụ cho ngành lúa gạo. Mặc dù vấn đề không mới nhưng vô cùng bức xúc và phức tạp, nó liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế xã hội chứ không chỉ đơn thuần là vấn đề thị trường. Vì vậy trong khuôn khổ của một đề tài tốt nghiệp em mới chỉ đề cập tới một số vấn đề lý luận và những nội dung mang tính khái quát cần phải bổ sung thêm. Do nhận thức còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi nhiều thiếu xót. Rất mong các thầy cô giáo cùng các bạn đóng góp ý kiến để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Mục lục Trang Tài liệu tham khảo. 1. Luận án " Những giải pháp thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Đồng Bằng Sông Hồng - Hoàng Văn Phấn". 2. Báo cáo tổng kết về tiêu thụ lúa gạo năm 2000. Vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn. 3.Tạp chí thị trường - giá cả. Số 6 ,7 năm 2000. 4. Báo nông nghiệp Việt Nam số 10 năm 2001. 5. Giáo trình kinh tế nông nghiệp. TS. Vũ Đình Thắng và PGS. TS. Phạm Kim Sang (Chủ biên). NXB Nông nghiệp . 6. Kinh doanh gạo trên thế giới. Trung tâm thông tin thương mại, Hà Nội 1998 7. Lúa gạo Việt nam - Nguyên nhân của kỳ tích TS. Nguyễn Tiến Thoả - NXB Nông nghiệp. 8. Báo cáo điều tra, đánh giá hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa gạo. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn . Việc kinh tế nông nghiệp. 9. Tạp chí Thời báo Kinh tế số đặc biệt năm 2000 . 10. Tạp chí Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm số 5 - 2000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3840.doc
Tài liệu liên quan