Sản phẩm dệt may của Việt Nam là mặt hàng có lợi thế so sánh quốc tế, thị trường xuất khẩu lớn, tỷ suất đầu tư không lớn, thời gian đầu tư nhanh, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Hơn nữa, dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được Chính phủ đề ra tốc độ tăng trưởng xuất khẩu gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP trong dự thảo chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2005-2010.
Hiện nay,chỉ có ngành may mặc Việt Nam mới có những lợi thế, tiềm năng lớn để cạnh tranh với sự phát triển vĩ đại của ngành dệt may Trung Quốc trong cuộc đua tranh quốc tế. Tuy nhiên, nguồn nhân lực rẻ và dồi dào, thêm vào đó là uy tín chất lượng của các thương hiệu Việt sắp phải đối đầu với sự lấn át của hàng hoá Trung Quốc khi mà cánh cửa thị trường WTO rộng mở. Mặc dù đã có được chỗ đứng khá vững chắc ở thị trường các châu lục thế nhưng những việc cắt giảm thuế cho các nước thành viên WTO đang tạo cho hàng hoá các nước thành viên như Trung Quốc và nhiều nhà sản xuất khác những cơ hội giảm giá mới, gây áp lực lớn đối với sản phẩm Việt Nam. Chính vì thế, mặc dù có những lợi thế to lớn nhưng ngành may mặc Việt Nam đang và sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức trong việc xây dựng một ngành may mặc tự chủ, tạo những ưu thế nhất định trong cạnh tranh quốc tế. Những khó khăn này còn tăng lên gấp bội sau khi WTO gỡ bỏ rào cản về thuế trong các nước thành viên vào ngày mồng 1 tháng Giêng năm 2005. Cạnh tranh trên thị trường tự do trở lên khốc liệt hơn, và lợi thế khi ấy sẽ nghiêng nhiều về các nhà sản xuất Trung Quốc. Không ít công ty may mặc xuất khẩu ở nhiều nước trong đó có cả ngành may mặc Việt Nam sẽ phải thu hẹp sản xuất, thậm chí phải đúng cửa do suy giảm khả năng cạnh tranh xuất khẩu vào một số thị trường, nhất là ở các thị trường lớn như Mỹ, EU.
Nhận thức rõ cơ hội và thách thức, ngành dệt may Việt Nam cần phải tăng tốc trên mọi lĩnh vực: đầu tư, sản xuất, xuất khẩu nhằm tăng sức cạnh tranh hàng dệt may trên thị trường thế giới nói chung và EU nói riêng. Các doanh nghiệp dệt may phải hướng tới đạt được các chứng chỉ quốc tế, phải giải quyết ngay những vấn đề cơ bản về nguyên liệu, phải tăng sản lượng bông trong nước, giảm thiểu sự mất cân đối giữa ngành dệt và ngành may, nhằm đáp ứng tốt hơn những yêu cầu khắt khe về chất lượng, mẫu mã, chủng loại và tính thời trang cao của thị trường đầy tiềm năng EU.
Từ những phân tích trên, ta có thể khẳng định rằng đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU hiện nay là rất cần thiết; song điều đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngành cũng như các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh sản phẩm dệt may để tạo điều kiện đẩy nhanh hơn nữa hiệu quả của việc xuất khẩu mặt hàng này.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo nhiệt tình của PGS. TS Nguyễn Thường Lạng đã giúp em hoàn thành đề án này.
40 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xk hàng dệt may Việt Nam vào EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU.
Bộ ISO 9000 nhằm mục tiêu đảm bảo chất lượng đối với người tiêu dùng, nó gồm có 20 yêu cầu được chia thành các nhóm :
ISO 9001 : Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá trình thiết kế, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.
ISO 9002 : Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá trình thiết kế, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ sau bán hàng.
ISO 9003 : Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá trình kiểm tra cuối cùng và thử nghiệm.
Trong thực tế, sản phẩm của các doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với các doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này.
2.1.2.5. Tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm
Việc áp dụng hệ thống HACCP là yêu cầu bắt buộc đối với các xí nghiệp chế biến hải sản của các nước đang phát triển muốn xuất khẩu sản phẩm vào thị trường EU.
HACCP được thiết kế riêng cho công nghiệp thực phẩm và các ngành liên quan đến thực phẩm (chăn nuôi, trông trọt,...) phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu trong quá trình sản xuất thực phẩm.
2.1.2.6. Tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng
Các sản phẩm có liên quan đến sức khoẻ người tiêu dùng phải có ký mã hiệu theo quy định của EU. Đối với các sản phẩm công nghiệp chế tạo thì có quy định về nhãn hiệu CE để chỉ cho phép những sản phẩm sản xuất an toàn vào thị trương EU. Một số sản phẩm còn có thêmnhãn hiệu chứng nhận bổ sung để chứng nhận sản phẩm đã tuân thủ các quy định nêu trên.
Có một số cơ quan chuyên trách thuộc EU thực hiện việc kiểm tra phân loại đối với các sản phẩm khác nhau. Giấy chứng nhận do một trong các cơ quan này cấp sẽ được các nước thành viên khác của EU chấp nhận.
2.1.2.7. Quy định về bảo vệ môi trường
Hàng hoá có liên quan đến môi trường phải dán nhãn theo quy định (nhãn sinh thái, nhãn tái sinh) và có chứng chỉ được quốc tế công nhận, như tiêu chuẩn GAP và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) chứng tỏ các cấp độ khác nhau về một môi trường tốt.
Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 được xây dựng nhằm thiết lập hệ thống quản lý môi trường và cung cấp các công cụ hỗ trợ cho các tổ chức hoặc doanh nghiệp để quản lý sự tác động của các hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ của họ đối với môi trường, ngăn ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường. Đây là những tiêu chuẩn bắt buộc đối với các tổ chức, doanh nghiệp về vấn đề môi trường.
2.1.2.8. Tiêu chuẩn về lao động
Uỷ ban châu Âu cấm nhập khẩu những hàng mà trong quá trình sản xuất sử dụng bất kỳ một hình thức lao động cưỡng bức nào như lao động tù nhân, lao động trẻ em,… được quy định trong các Hiệp ước Geneva ngày 25/09/1926 và 07/09/1956, và các Hiệp ước Lao động quốc tế số 29 và 105.
2.1.2.9. Các biện pháp tự vệ
Cơ chế tự vệ đặc biệt quy định trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO cho phép EU áp dụng thuế bổ sung đối với các sản phẩm nhập khẩu nếu như giá của sản phẩm thấp hơn trần hoặc số lượng nhập khẩu tăng quá mức cho phép, gây nguy cơ cho hoạt động sản xuất.
Từ năm 1995, EU đã áp dụng cơ chế bảo vệ đặc biệt (theo tiêu thức giá hoặc số lượng) đối với nhiều sản phẩm như thịt gia cầm, lòng đỏ trứng khô và một số sản phẩm đường, thịt cừu, cam, cà chua, quýt, táo, lê…
Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU cần hết sức quan tâm đến luật lệ và các quy tắc thương mại của EU. Có thể nói rằng ISO 9000, ISO 14000 và HACCP là chìa khoá để các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU. Yếu tố quyết định để hàng hoá của Việt Nam có thể vào được thị trường EU hay không là hàng hoá của các doang nhiệp Việt Nam có vượt qua được rào cản kỹ thuật của thị trường này hay không.
2.2. Tình hình thị trường nhập khẩu dệt may EU
2.2.1. Tập quán và thị hiếu tiêu dùng
EU là một thị trường đòi hỏi cao về chất lượng và mẫu mốt. Thời trang là một trong những yếu tố quyết định tiêu thụ sản phẩm thị trường này. Người dân áo, Đức và Hà Lan chỉ mua hàng may mặc không có chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ (Azodyes). Khách hàng EU đặc biệt chỉ quan tâm tới chất lượng và thời trang của loại sản phẩm này. Nhiều khi yếu tố thời trang lại mang tính quyết định cao hơn nhiều so với giá cả. Đối với mạt hàng này, nhu cầu thay đổi nhanh chóng, đặc biệt về mẫu mã.
2.2.2. Nhãn sinh thái
Để xuất khẩu sang EU được 700 triệu USD/năm, Việt Nam đã vô cùng vất vả vượt qua rào cản “Ecolabels”, theo đó sợi, vải và quần áo thành phẩm xuất khẩu không được phép chứa những loại hoá chất (sử dụng trong công nghệ nhuộm sợi) mà EU cấm. Việc cấp nhãn hiệu sinh thái EU căn cứ vào nhóm sản phẩm và các tiêu chuẩn sinh thái EU sẽ được cấp sau khi nộp phí ban đầu và phí hàng năm cho việc sử dụng logo. Nếu sản phẩm nào được gắn nhãn hiệu sinh thái thì có thể lưu thông rộng rãi trên khắp các nước thành viên EU. Nhãn hiệu sinh thái của EU thực chất có thể là một rào cản thương mại, có thể không khuyến khích bảo vệ môi trường, có thể hạn chế sự hội nhập của các công ty nước ngoài vào EU và có thể phân biệt đối xử đối với các nước xuất khẩu. Để có được nhãn hiệu sinh thái cần có chi phí rất lớn (trên 1.300 Euro để đăng ký nhãn hiệu và trên 25.000 Euro mỗi năm cho việc sử dụng nhãn hiệu sinh thái), vì thế nhãn hiệu này không được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên , nhãn hiệu sinh thái có thể là một công cụ maketing rất tốt cho các nhà xuất khẩu trong khi nhu cầu đối với sản phẩm “xanh” đang ngày một tăng.
2.2.3. Xuất xứ hàng hoá
Trước đây việc xem xét và đánh giá nguồn gốc xuất xứ hàng dệt may xuất khẩu vào các Liên minh Châu Âu là dựa trên cơ sở nguyên liệu sản xuất tại chính nước đó. Tới đây nếu áp dụng chính sách mới thì việc xem xét sẽ mở rộng ra cấp độ khu vực. Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN có thể mua nguyên liệu của nhau để sản xuất ra hàng dệt may thành phẩm, sau đó xuất khẩu sang EU và những sản phẩm xuất khẩu này vẫn được coi là có xuất xứ từ trong nước. Như vậy, điểm mới trong chính sách về nguyên tắc xuất xứ là việc xem xét xuất xứ hàng hoá sẽ được xét trên quy mô khu vực thay vì quốc gia.
Xét trên bình diện chung, việc áp dụng chính sách mới về nguyên tắc xuất xứ sẽ có ảnh hưởng đáng kể tới ngành dệt may của các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, bởi vì hầu hết ngành dệt may của các nước Đông Nam á và Nam á nhìn chung đều dựa khá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, trong đó có nhập khẩu lẫn nhau giữa các nước trong khu vực mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, tác động này là tích cực. Trong lĩnh vực dệt may, để đánh giá một sản phẩm có xuất xứ từ nước nào hoặc khu vực nào, EU quan tâm tới trị giá của nguyên liệu thô nhập vào hoặc được sản xuất từ trong nước và giá trị gia tăng sau khi sử dụng nguyên liệu thô đó để sản xuất ra sản phẩm. Đối với quy định mới về nguồn gốc xuất xứ, EU sẽ giảm tối đa mức trần để được công nhận là hàng này xuất xứ từ đâu, do đó cho phép các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này có khả năng tìm và nhập khẩu nguồn nguyên thô đa dạng, với giá cả phù hợp từ nhiều nước hơn so với trước đây.
Mặt khác, EC đặc biệt quan tâm tới vấn đề xuất xứ hàng hoá vì xuất xứ hàng hoá của nước nào sẽ quyết định việc nước đó có được hưởng chế độ ưu đãi thuế của EU hay không. Trong trường hợp này, quy định mới về xuất xứ cũng có thể sẽ khiến xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam và một số nước khác trong khu vực có lợi. Trong trường hợp nguyên liệu được nhập từ các nước ngoài khu vực ASEAN thì những thay đổi trong chính sách về nguyên tắc xuất xứ mới chỉ đang được xem xét áp dụng cho các nước trong khu vực ASEAN, vì vậy trường hợp nhập khẩu từ ngoài khu vực ASEAN sẽ không được tính tới. Nếu nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu thì sẽ không được nằm trong diện được hưởng chính sách ưu đãi, vì Trung Quốc không được nằm trong diện xem xét.
2.2.4. Hệ thống thuế quan
Các nước thành viên trong Liên minh Châu Âu đã hình thành Hệ thống Thuế quan hài hoà chung , trong đó đưa ra các mức thuế áp dụng cho hàng nhập khẩu từ các nước ngoài EU. Hệ thống TARIC được hình thành theo Hoà ước 1958 ở Rome thuộc Cộng đồng Kinh tế Châu Âu. Vòng đàm phán Uruguay đã thúc đẩy cho chương trình “Một thị trường đơn nhất”. Chương trình này tập trung vào việc củng cố một thị trường châu Âu hợp nhất, chứ không tập trung vào việc xây dựng những định hướng chính sách mới. Thuế nhập khẩu đánh vào hàng nhập khẩu được tính theo giá CIF (chi phí + chi phí ước tính + phí bảo hiểm). Sau khi đã nộp các loại thuế, hàng hoá được tự do lưu thông trong phạm vi EU. Mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu từ những nước ngoài EU là mức thuế thấp, hầu hết hàng sản xuất đều chịu mức thuế trong khoảng 5- 17%.
Đối với hàng dệt may, kể từ tháng 4/2005, EU sẽ áp dụng giảm thuế hoàn toàn cho các nước bị sóng thần ngày 26/12 năm qua như: Srilanka, Thái Lan, ấn Độ, Indonexia và Bangladesh, trong khi đó hàng Việt Nam vào EU vẫn chịu thuế nhập khẩu bình quân 12%. Tuy vậy, EU đã giành cho Việt Nam mức thuế quan phổ cập ưu đãi GSP nhằm tạo điều kiện cho hàng dệt may có xuất xứ từ Việt Nam từ chỗ bị cấm vận đã xuất được vào thị trường EU với tốc độ xuất khẩu tăng nhanh từ 38-40%/năm.
2.2.5. Hạn ngạch
Trước đây, EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Theo Hiệp định Buôn bán hàng dệt may giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh châu Âu ký ngày 15/12/1992 và các thư trao đổi ký bổ sung Hiệp định này, hàng năm Việt Nam được xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU với lượng hàng 21.938 tấn – 23.000 tấn.
Việc đạt được thỏa thuận với EU về bãi bỏ hạn ngạch dệt may đối với hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường này là mốc quan trọng trong bối cảnh các nước thành viên WTO sẽ không còn chịu cơ chế hạn ngạch dệt may nữa. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là tới đây kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào EU sẽ tăng vọt. Việc tăng đến mức nào phụ thuộc cơ bản vào khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
2.2.6. Thủ tục hải quan
Hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng khi nhập khẩu vào EU hiện đang được áp dụng 5 quy trình thủ tục hải quan. Hàng nhập khẩu có thể thông quan mà không phải nộp thuế hải quan , đã thu hút các hoạt động kinh tế trong khu vực EU, đông thời cũng khuyến khích kinh doanh cạnh tranh trong EU. Năm quy trình thủ tục hải quan EU bao gồm: thủ tục lưu kho hải quan; chế biến trong nội địa; chế biến có sự kiểm soát của hải quan; nhập khẩu tạm thời; chế biến ngoại khối.
2.3. Những thuận lợi đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
2.3.1. Quy mô thị trường
Liên minh châu Âu là tổ chức khu vực lớn nhất thế giới và là một trong 3 trung tâm lớn nhất của thế giới hiện nay (Mỹ, Nhật Bản, EU). Năm 1990, Việt Nam và Cộng đồng châu Âu thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, đến nay EU đã trở thành một trong những đối tác kinh tế thương mại lớn vào bậc nhất của Việt Nam. Với quy mô dân số gần 500 triệu dân của 25 nước thành viên, EU là một thị trường đầy tiềm năng đối với mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có mặt hàng chủ lực là hàng dệt may.
2.3.2. Quan hệ Việt Nam- EU
Hiệp định Dệt may giữa Việt Nam với EU được ký kết vào năm 1992 đã đặt dấu mốc quan trọng trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Những hiệp định bổ sung các năm 1995, 1997, 2000, và 2003 đã mở rộng hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Đặc biệt, ngày 31tháng 12 năm 2004, Việt Nam và EU đã ký thoả thuận về việc tạo điều kiện cho hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu tự do vào thị trường EU kể từ ngày 01-01-2005. Thoả thuận này đã cho hàng dệt may Việt Nam có cơ hội bình đẳng với các nước thành viên WTO khi tiếp cận thị trường EU, ngành dệt may Việt Nam có thêm điều kiện để nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường rộng lớn này. Thỏa thuận này sẽ tạo bước đột phá nâng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và EU lên tầm cao mới buôn bán hai chiều sẽ có điều kiện phát triển mạnh hơn…
Được xuất khẩu tự do không bị hạn ngạch sang thị trường EU rộng lớn kể từ ngày 01-01-2005, đồng nghĩa với việc loại bỏ hoàn toàn các tác động tiêu cực khiến việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU, do việc EU quyết định bỏ hạn ngạch dệt may cho 148 thành viên WTO, đồng thời ngành công nghiệp dệt may Việt Nam sẽ có thêm điều kiện tiếp tục phát triển trên con đường hội nhập quốc tế.
2.4. Những thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
Mặc dù hiện nay xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trương EU không bị hạn chế bởi hạn ngạch, nhưng hàng dệt may phải cạnh tranh gay gắt với hàng của các nước khác như Trung Quốc, ấn Độ, Indonexia… Mặt khác, EU là thị trường có đẳng cấp cao, nổi tiếng là khó tính với những đòi hỏi nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng. Thực tế xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam những năm qua cho thấy, hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU chiếm tỷ trọng lớn, là mặt hàng chủ lực nhưng chủ yếu vẫn là gia công cho các hãng và công ty của nước ngoài (chiếm tỷ trọng gần 80%), và việc xuất khẩu cũng phải qua các trung gian nhiều nên hiệu quả của ngành này trên thực tế rất thấp. Mặt khác, việc sản xuất hàng dệt may của chúng ta hiện nay phụ thuộc nhiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, điều đó ảnh hưởng cả đến kế hoạch sản xuất cũng như hiệu quả. Cũng như các ngành kinh tế khác, kinh nghiệm khai thác và mở rộng thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế.
Tại Hội nghị toàn ngành dệt may mới đây, ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may cho biết, ngành dệt may Việt Nam chưa thể ăn mừng, bởi những yếu tố bất lợi đang đe doạ sự phát triển của ngành.
2.4.1. Liên tục cạnh tranh...
Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu hàng có hạn ngạch 3 tháng đầu năm đạt mức cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2005, nhưng theo sự phân tích của ông Ân thì ngành dệt may chưa thể ăn mừng, bởi vì, nhờ chính sách cấp visa tự động, tức là các đơn hàng dồn vào ngay từ đầu năm do doanh nghiệp được chủ động ký kết và đơn vị cấp visa theo yêu cầu. Vì vậy, khả năng sụt giảm xuất khẩu về cuối năm là có thể xảy ra. Hơn nữa, nhìn nhận một cách công bằng thì kết quả ngành dệt may đạt được từ đầu năm đến nay là còn nhờ việc Mỹ quyết định tái áp hạn ngạch xuất khẩu đối với một số mặt hàng may của Trung Quốc đó làm chậm tốc độ xuất khẩu của nước này vào Mỹ, nên tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp nước ta.
Mục tiêu của ngành dệt may là đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 5 tỷ USD trong năm 2006. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải cú sự nỗ lực hơn nữa. Mặc dù, Trung Quốc đang bị áp hạn ngạch dệt may, với 34 chủng loại sản phẩm từ nay đến năm 2008, nhưng nhiều mặt hàng của Việt Nam vẫn phải cạnh tranh trực tiếp với đối thủ mạnh nhất này. Riêng đối với những đối thủ ấn Độ, Pakistan… thì công suất sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam cũng chỉ bằng 50-70%. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nước ta chưa sản xuất được những mặt hàng có giá trị cao, mà chủ yếu vẫn làm gia công. 2.4.2. Và nỗi lo nhân lực!
Vấn đề nhân lực cũng đang hết sức phức tạp. Dệt may hiện là ngành công nghiệp lớn thứ 2 cả nước, với trên 2.000 doanh nghiệp, thu hút một lượng lớn lao động. Tuy nhiên, quan hệ lao động trong lĩnh vực này đang rất căng thẳng. Tình trạng đình công ngày một gia tăng, diễn ra không chỉ ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mà đã lan ra cả các doanh nghiệp trong nước. Bài toán chính sách lương thưởng, chế độ trợ cấp đang rất nan giải và đến hồi báo động. Ông Ân cho biết, những cuộc đình công này, nếu không có hướng giải quyết dứt điểm, sẽ gây bất ổn cho môi trường đầu tư và kinh doanh. Một số nhà đầu tư Đài Loan đang tiến hành đầu tư vào lĩnh vực dệt đã bắt đầu có động thái muốn dừng, thậm chớ cả khi dự án nhà máy dệt đã xây xong 80%. Cùng với tình trạng đình công, vấn đề xây dựng đội ngũ quản lý, thiết kế và lao động lành nghề cũng đang làm đau đầu các doanh nghiệp. Nâng cấp công nghệ là một đòi hỏi tất yếu, song để có đội ngũ lao động đủ trình độ tiếp cận được với công nghệ này, đòi hỏi phải có một quá trình đầu tư đào tạo lâu dài. Trong khi đó, cơ hội mà các doanh nghiệp cần phải nhanh chóng nắm lấy khi Việt Nam gia nhập WTO đang rất gần. Hơn nữa, các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực dệt may cảnh báo, năm 2008, khi Trung Quốc được dỡ bỏ hạn ngạch dệt may vào thị trường Mỹ và EU thì cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Trung Quốc và Việt Nam sẽ diễn ra hết sức “khốc liệt”. Với tình trạng yếu kém về nhân lực, lạc hậu về công nghệ, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ khó giành được ưuthế. Để ngành dệt may phát triển bền vững, theo ông Ân, cần phải tăng năng suất lao động; tăng cường sản xuất hàng hoá chất lượng cao với thiết kế mới lạ; chuyển sản xuất gia công sang làm hàng FOB. Và dài hạn, cần phải có chính sách hỗ trợ ngành trong việc di chuyển địa điểm sản xuất về những địa phương có nguồn lao động lớn, có những khu công nghiệp riêng để chuyên môn hoá sản xuất. Cùng với đó, cần phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua xây dựng giáo trình đào tạo bám sát thực tiễn.
2.5. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU
Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU trong thời gian tới có thể thâm nhập, đứng vững và gia tăng hiệu quả đòi hỏi các nhà sản xuất hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam phải đáp ứng được các điều kiện sau:
2.5.1. Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam phải phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và đáp ứng được yêu cầu về hàng rào kỹ thuật của thị trường EU
Thị trường EU là một thị trường thống nhất nếu xét trên phương diện thể chế, chính sách, nhưng khi xét yếu tố văn hoá, tập quán và thị hiếu thì EU lại là thị trường rất đa dạng, mang nhiều nét đặc thù riêng của từng quốc gia khác nhau. Chính vì vậy, nhu cầu hàng dệt may của thị trường EU cũng rất đa dạng và phong phú. Do đó, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, điều kiện đầu tiên là phải nắm bắt yêu cầu thị trường của từng quốc gia để có chiến lược sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho phù hợp.
EU là thị trường có yêu cầu rất cao về chất lượng, được quản lý chặt chẽ trong việc nhập khẩu với những hàng rào kỹ thuật rất khắt khe. Đây cũng là một thị trường chú trọng bảo vệ người tiêu dùng, những yếu tố liên quan đến sự an toàn, sức khoẻ của người tiêu dùng được đặt lên hàng đầu. Người tiêu dùng ở đây không chỉ đòi hỏi những sản phẩm chất lượng cao, mà còn đặc biệt quan tâm tới những giá trị mới của sản phẩm thể hiện qua các yếu tố về đảm bảo môi trường, các chuẩn mực về đạo đức, nhất là các điều kiện làm việc của người lao động. Do vậy, khi xuất khẩu dệt may vào EU vốn nổi tiếng khó tính, đòi hỏi các nhà sản xuất hàng dệt may Việt Nam trước khi sản xuất phải quan tâm đến các yếu tố này.
2.5.2. Phải nâng cao sức cạnh tranh của hang dệt may Việt Nam trên thị trường EU
Cạnh tranh là động lực, là nguyên tắc cơ bản tồn tại khách quan và không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. Thực tế chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam những năm vừa qua nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của thị trường EU.Mặt khác, hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU đang bị sức ép cạnh tranh rất mạnh của hàng Trung Quốc, Indonexia. Phần lớn hàng của đối thủ cạnh tranh có ưu thế hơn hàng của ta về chất lượng, giá cả, mẫu mốt và nguồn cung cấp ổn định, do đó có thời gian kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam bị giảm sút.
Để tránh thất bại và ngày một đứng vững trên thị trường này tất yếu hàng dệt may của Việt Nam phải nâng cao năng lực cạnh tranh, thể hiện trên nhiều tiêu chí về giá cả, chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, thương hiệu sản phẩm và về dịch vụ trước, trong và sau bán hàng…
2.5.3. Phải có chiến lược sản phẩm đúng đắn đối với hàng dệt may của Việt Nam trong việc thâm nhập vào thị trương EU
Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng cho mình chiến lựơc sản phẩm. Chiến lược sản phẩm là tổng thể các biện pháp từ nghiên cứu, nắm bắt nhu cầu thị trường đến tổ chức sản xuất, chuẩn bị hàng hoá, xuất bán theo yêu cầu của khách hàng và các hoạt động sau bán hàng.
Chiến lược sản phẩm được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu dung lượng thị trường, đánh giá khả năng của mình và các đối thủ cạnh tranh chính để xác định cho mình chiến lược phù hợp. Các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá phải xác định thực chất khả năng, vị trí của mình trong các vấn đề thị phần tại các thị trường tiêu thụ, đối thủ cạnh tranh, năng lực cạnh tranhcủa mình và nhu cầu khách hàng, các yếu tố môi trường kinh doanh, văn hoá, chính trị, xã hội có liên quan đến hàng hoá của mình để từ đó sử dụng các chiến lược cạnh tranh phù hợp với từng thị trường nhỏ của EU.
2.5.4. Vai trò của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU
Đối với Việt Nam, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào EU không thể thiếu được vai trò của Nhà nước.
- EU là đối tác quan trọng trong chính sách đối ngoại của nhà nước ta. Việc thúc đẩy quan hệ ngoại giao sẽ giúp cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU được mở rộng. Đây sẽ là cầu nối quan trọng để các doanh nghiệp hai bên có thể thâm nhập vào thị trường của nhau, đồng thời các doanh nghiệp nước ngoài có thêm thông tin để tìm kiếm đối tác và cơ hội làm ăn từ phía Việt Nam.
- Vai trò hỗ trợ hoạt động xuất khẩu nói chung, hàng dệt may vào EU nói riêng còn được thể hiện ở việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách và các yếu tố thể chế tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước còn đề ra các chính sách phát triển khoa học kỹ thuật và chuyển giao khoa học công nghệ trong ngành dệt may, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động xuất khẩu nói chung xuất khẩu hàng dệt may vào EU nói riêng. Thông qua các cơ quan đại diện tại EU, Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc nắm bắt cá thông tin thị trường và thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm quảng bá hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU.
2.6. Đánh giá tình hình xuất khẩu
2.6.1. Thành công
Công cuộc đổi mới kinh tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã đem lại cho ngành dệt may nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang EU nói riêng những phương hướng và động lực phát triển mới.
Đại hội X của Đảng (4/2006) đã xác định định hướng " Đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu; phấn đấu tăng nhanh tỉ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao, giàu hàm lượng công nghệ, có sức cạnh tranh, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới, hết sức hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua chế biến. Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thị trường ổn định cho các mặt hàng có khả năng cạnh tranh; tăng thêm thị phần ở các thị trường lớn và khai mở các thị trường còn nhiều tiềm năng. Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới lớn hơn hai lần 5 năm trước (Kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm)" chính là cơ sở và điều kiện tiền đề cho các chính sách thương mại và đầu tư có lợi cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu nói chung và ngành dệt may nói riêng.
Qua phân tích về thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU, cho thấy kết quả đạt được nhờ nỗ lực nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may có thể được đánh giá trên các khía cạnh sau:
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký ngày 15/12/1992, có hiệu lực từ ngày 1/1/1993. Theo tinh thần Hiệp định này, hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu vào EU 21938 tấn hàng dệt may với 106 nhóm hàng (cat).
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế Việt Nam - EU được ký kết trong đó quy định hai bên cho nhau hưởng đãi ngộ tối huệ quốc. Hiệp định này nâng giá trị xuất khẩu theo hạn ngạch vào thị trường EU lên khoảng 25%. Và đến tháng 11/1997 Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam EU được ký kết tại Brusseles thay thế cho hiệp định cũ và có hiệu lực từ ngày 1/1/1998 đến năm 2000, đã mở ra một thuận lợi lớn cho ngành dệt may trong những năm tới. Ngày 10/10/2000 tại trụ sở liên minh Châu âu ký tiếp Hiệp định về việc EU tăng bình quân 26 % hạn ngạch hàng may mặc cho Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU sớm hơn thời hạn 1 năm.
Kết quả thực hiện hạn ngạch của năm 2000 riêng thị trường EU đạt 700 triệu USD tăng 16% và chiếm 36,8 %. Nỗ lực trong sản xuất sản phẩm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho đất nước, làm giầu cho doanh nghiệp, ổn định và nâng cao đời sống người lao động.
Từ ngày 01-01-2005, EU xoá bỏ chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam, tạo điều kiện cho kim ngạch buôn bán hai chiều tăng mạnh trong các năm tiếp theo.Ngành công nghiệp dệt may sẽ có thêm điều kiện tiếp tục phát triển trên con đường hội nhập quốc tế.
2.6.2. Hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, vẫn còn những tồn tại cần nhanh chóng khắc phục để đem lại hiệu quả đối với hoạt động này.
Mặt hàng xuất khẩu hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam mới dành được số mặt hàng ít (cat 9,10,12, 13, 14, 20, 21, 39, 118, 18, 28, 68 và 161…)
Một số mặt hàng dệt may bị hạn chế xuất khẩu vào EU vì những sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao đang còn bị bỏ trống hạn ngạch đươc cấp.
Trong hình thức xuất khẩu, phần lớn là qua trung gian (70%) và phần kim ngạch may gia công xuất khẩu (hàng năm chiếm trên 80% so với kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành ) nên lợi nhuận thực tế thu được từ xuất khẩu không cao so với kim ngạch xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu EU là một thị trường thống nhất giữa các nước trong khu vực nên rất phức tạp về thị hiếu tiêu dùng càng phức tạp hơn khi thị trường càng mở rộng gây khó khăn cho bên xuất khẩu.
Bên cạnh sự cạnh tranh của các đối thủ mạnh như : Trung Quốc, Thái Lan… thị trường EU đặt ra những tiêu chuẩn về sản phẩm cao đòi hỏi phải có máy móc hiện đại, công nhân lành nghề và có tay nghề cao nhưng các doanh nghiệp của nước ta chưa đáp ứng được …
Những tồn tại trên, các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may cần có nhiêu biện pháp khắc phục để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU có kim ngạch xuất khẩu cao hơn trong những năm tới.
2.6.3. Nguyên nhân
Về công nghệ:
Năng lực và thiết bị công nghệ của ngành dệt mới huy động được gần 40% công xuất thiết bị nhưng hầu hết công nghệ lạc hậu và thiếu đồng bộ giữa các khâu, đặc biệt là thiết bị dệt và nhuộm. Ngành chưa chủ động tiếp cận được trực tiếp với khách hàng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường thế giới (xuất khẩu sản phẩm qua đối tác trung gian ) . Công tác đầu tư nghiên cứu tạo mẫu mốt thời trang quần áo chưa được quan tâm đúng mức để phát triển phục vụ cho ngành may chuyển từ xuất khẩu gia công sang xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh .
Về quản lý:
Hệ thống quản lý chất lượng của ngành dệt may chưa được quan tâm chú ý . Nhiều doanh nghiệp chưa có giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng sản phẩm tính đến cuối năm 1999 , toàn ngành mới có 8 doanh nghiệp đă đăng ký quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 trong đó 4 đơn vị được cấp chứng chỉ .
Về nguyên liệu:
Hầu hết các nguyên liệu phụ liệu phục vụ cho sản xuất của ngành dệt may hiện nay đều phải nhập khẩu 70% giá trị sản phẩm dệt nằm ở nguyên liệu bông sơ , hoá chất , thuốc nhuộm . Nguồn nguyên liệu từ trong nước chất lượng kém và sản lượng thấp chỉ đáp ứng đợc 10% nhu cầu cho ngành dệt .
Về chất lượng nguồn nhân lực:
Chất lượng nguồn nhân lực của ngành dệt may còn nhiều bất cập, lực lượng lao động ngành dệt may khá đông ( trên 90 vạn người ) nhưng số lượng công nhân kỹ thuật trình độ bậc cao , giỏi còn ít . Đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt trong các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế trong tiếp cận với phong cách quản lý hiện đại , đặc biệt là kinh nghiệm giao dịch xuất nhập khẩu , nghiên cứu tiếp thị thị trường.
Về vốn:
Vốn cho đầu tư phát triển của ngành dệt may còn thiếu , đặc biệt ở các doanh nghiệp nhà nước. Hiện tượng đầu tư dàn trải , manh mún theo hướng tự cân đối , khép kín ở nhiều doanh nghiệp làm cho ngành dệt may ở tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các khâu trong sản xuất .
Về chính sách đầu tư:
Chính sách đầu tư phát triển ngành dệt may chưa hợp lý : như quy định về thời hạn thu hồi vốn vay đầu tư phát triển cho ngành dệt từ 7-10 năm , ngành may từ 5-7 năm . Thực tế ở Việt Nam, đầu tư vào ngành dệt phải từ 12 - 15 năm, ngành may từ 10 - 12 năm mới thu hồi được hết vốn . Các thủ tục triển khai đầu tư xây dựng thường kéo dài nhưng chưa có cơ chế chính sách cụ thể thích hợp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước bỏ vốn đầu tư nhiều hơn vào ngành dệt may .
Chương 3: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
3.1. Đánh giá thị trường EU
3.1.1. Thị trường EU trước hạn ngạch
Liên minh châu Âu là nhà nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai trên thế giới, là một thị trường khổng lồ với mức nhập khẩu 70 tỷ USD hàng dệt may mỗi năm, chiếm khoảng 20% tổng lượng hàng nhập khẩu dệt may trên thế giới, chỉ đứng sau Hoa Kỳ( chiếm 22% tổng lượng hàng nhập khẩu dệt may trên toàn thế giới).
Đơn vị tính : Triệu USD
Các thị trường nhập khẩu chủ yếu hàng dệt may Việt Nam
Tên thị trường
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng cộng
1.150
1.349
1.351
1.747
1.892
1.962
Nhật Bản
248
325
321
417
620
588
EU
225
410
521
555
609
599
Mỹ
9,1
12
26
34
49,5
44,6
Các thị trường khác
668
602
483
387,3
613
730,4
Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam
Kim ngạch nhập khẩu của EU không ngừng gia tăng qua các năm. Năm 2002 đạt 553 triệu USD,chiếm 21% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm so với năm 2001, nguyên nhân của sự sụt giảm này là do hoạt động cạnh tranh của hàng dệt may rất quyết liệt. Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU đạt khoảng 800- 850 triệu USD. Hiện nay, thị trường EU chiếm 40 % kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam, lớn thứ hai sau Mỹ. EU đã trở thành bạn hàng truyền thống nhiều năm nay, quota sang thị trường này có tác động quan trọng tới sự phát triển thịnh vượng hay suy yếu của ngành dệt may trong nước, có ý nghĩa sống còn với nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
3.1.2. Thị trường EU sau hạn ngạch
Từ ngày 01/01/2005, các nước thuộc Tổ chức WTO sẽ được nhập khẩu tự do vào thị trường EU mà không phải chịu sự kiểm soát của hạn ngạch. Sau khi EU bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với mặt hàng dệt may, một số nước đã đưa hàng ồ ạt vào thị trường này, đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam phải đối mặt với những thách thức lớn về cạnh tranh để đứng vững trên thị trường này. Mặc dù hàng Trung Quốc có mẫu mã đa dạng, nhưng chất lượng thành phẩm vẫn chưa làm hài lòng nên các nước EU đã chuyển xu hướng thích sử dụng hàng hoá của các quốc gia khác. Đây sẽ là cơ hội mới cho doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam thâm nhập sâu hơn.
3.2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
3.2.1. Về kim ngạch xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu hàng dệt may có hạn ngạch chủ yếu của Việt Nam là các nước thuộc khối EU . EU được coi là thị trường xuất khẩu trọng điểm của nước ta và đang được tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng của thị trường này. Hàng năm EU nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần áo các loại và trong đó chỉ khoảng 10 - 15 % là tiêu dùng còn lại 85 - 90% là sử dụng theo mốt. Từ năm 1980, Việt Nam đã xuất khẩu hàng dệt may sang 1 số nước EU như Đức , Pháp ... Nhưng do thay đổi về chính trị thế giới nên quan hệ buôn bán đã bị hạn chế . Từ năm 1991, xuất khẩu hàng dệt may sang EU đã có những bước tiến mới, đặc biệt phát triển mạnh từ sau Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt nam và EU ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1993 với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 23% trong thời kỳ 1993 – 1997. Mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta với con số khiêm tốn 250 triệu USD năm 1993, đã lên tới 2499 triệu USD năm 1999, tốc độ tăng trung bình mỗi năm là 27,5%/năm của tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Và đến năm 1999 - 2000 kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh với mức tăng trởng bình quân 13%/năm. Bên cạnh đó tỷ trọng hàng dệt may tổng kim ngạch xuất khẩu cũng không ngừng tăng từ 7,6% năm 1991 lên tới 13,7% năm 1994 và 15,5% năm 1998, khiến cho kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may của nước ta đóng vai trò quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.Theo Hiệp định mới Việt Nam còn được tự do chuyển đổi quota giữa các mặt hàng 1 cách rộng rãi và dễ dàng hơn , đồng thời EU cũng dành cho Việt Nam qui chế tối huệ quốc (MFN) nhiều mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu vào EU được hưởng thuế quan với mức 0% theo chế độ ưu đãi phổ cập.
Theo số liệu Bộ thương mại công bố ngày 20/12/2005, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2005 chỉ đạt 4,8-4,85 tỷ USD. Con số nay tuy cao hơn 10% so với năm 2004, song vẫn thấp hơn nhiều so với mục tiêu 5,2 tỷ USD mà ngành dệt may đề ra, trong đó thị trường EU đạt 830-850 triệu USD tăng gần 12% so với năm 2004 và chiếm 17% tổng kim ngạch… Thị trường EU năm nay , kim ngạch xuất khẩu có khả năng tăng 15%. Song so với kế hoạch đặt ra, mức tăng trưởng như vậy chưa phải là cao khi EU đã dỡ bỏ hoàn toàn rào cản hạn ngạch.
3.2.2. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp may mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm dễ làm các mã hàng nóng như áo Jacket hai hoặc ba lớp, áo váy sơmi… Đặc biệt đối với mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu hạn ngạch dệt may xuất khẩu sang EU. Năm 1997 Việt Nam xuất khẩu sang EU gần 11,7 triệu chiếc tăng gần 5 triệu chiếc ( hay 72%) so với năm 1993 chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU. Bộ Thương mại vừa ra thông báo cấp giấy phép xuất khẩu vào EU (E/L) cho 13 mặt hàng dệt may xuất khẩu . Theo đó gồm : cat9, cat10, cat13, cat14, cat18, cat20, cat21,cat 28, cat39, cat68, cat 118, cat 161, cat 21 áo Jacket luôn là mặt hàng chủ lực trong cơ cấu xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam vào thị trường EU, thường chiếm 50% kim ngạch, 6 tháng đầu năm 2000 theo số liệu E/L đã cung cấp, Việt Nam giao trên 6 triệu chiếc tăng trưởng khoảng 13%.
Những sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao đang còn bị bỏ trống hạn ngạch được cấp. Thực tế cho thấy, còn nhiều chủng loại mặt hàng có hạn ngạch nhưng hiện nay vẫn chưa có doanh nghiệp nào sản xuất, đó là những mặt hàng yêu cầu phải có trang thiết bị kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, mà các doanh nghiệp của Việt Nam chưa đáp ứng được.
3.2.3. Về cơ cấu hình thức xuất khẩu
Hiện nay các Doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tận dụng được 40 % năng lực của mình tại thị trường EU, 70% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta vào EU được thực hiện thông qua các nhà trung gian như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Đức. Thực tế cho thấy còn nhiều chủng loại mặt hàng có hạn ngạch nhưng hiện nay chưa có doanh nghiệp nào sản xuất. Đó là những mặt hàng yêu cầu phải có trang thiết bị kỹ thuật cao , công nhân lành nghề có tay nghề cao nhưng các doanh nghiệp của nước ta chưa đáp ứng được. Vấn đề đặt ra làm sao chúng ta có thể tiếp cận thị trường và xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường EU, giảm phụ thuộc và không thông qua các nhà đặt hàng trung gian, gây nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp Việt Nam .
3.2.4. Về cơ cấu thị trường xuất khẩu
Liên minh Châu âu có 1 thị trường thông nhất, hàng hoá , vốn, dịch vụ và con người có thể giao dịch tự do trong 25 nước thành viên. Số lượng người tiêu dùng lên tới 500 triệu người, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU với khối lượng lớn tiêu biểu: Các nước trong khối EU nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam là Đức (40-42%) , đến Pháp (13 -15%) , Hà Lan (10 -13%) … Ngoài ra, Việt Nam còn mở rộng quan hệ buôn bán với các nớc EU khác gồm Phần Lan,Thuỵ Điển, Đan Mạch, Anh, Italia…Tỉ trọng nhập khẩu của các nước này đang tăng lên.
3.2.5. Về cạnh tranh vào thị trường EU
Liên minh Châu âu EU có một thị trường hấp dẫn, là một thị trường thống nhất, hàng hoá ,vốn và dịch vụ và con người có thể giao dịch tự do trong 25 nước thành viên số lượng người tiêu dùng lên tới 500 triệu người, tăng trưởng GDP cao hơn Mỹ, Nhật, Kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ… Nên không riêng gì Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới nhất là các nước đang phát triển tăng cuờng tạo ra lợi thế cạnh tranh nghiêng về mình trên thị trường EU.
Các số liệu thống kê cho biết nhập khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển vào EU đang gia tăng,và có chiều hướng nhập nhiều hàng chế tạo như Trung Quốc, các thị trường mới nổi ở Châu á và Mỹ La Tinh.
Ngoài một số rào cản chính khiến nhà xuất khẩu của các nước đang phát triển khó có thể vào được thị trường EU : thị trường đa dạng, tuy là một thị trường thống nhất về mặt kỹ thuật song thị trường này thực tế là nhóm các thị trường quốc gia và khu vực, mỗi nước có một bản sắc và đặc điểm riêng mà các nhà xuất khẩu không chú ý tới. Mỗi nước trong EU sẽ tạo ra các cơ hội khác nhau và yêu câù của họ cũng khác. Hơn nữa, thị trường EU có đặc tính cạnh tranh mạnh mẽ, bắt buộc các công ty phải tạo ra lợi thế cạnh tranh hơn các đối thủ khác, có nghĩa là chất lượng sản phẩm phải liên tục được cải thiện, mẫu mã, kiểu dáng, phải được đổi mới nhanh hơn trước…
Vì vậy, tuy kim ngạch xuất khẩu dệt may lớn và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch của toàn ngành nhưng chủ yếu là mặt hàng đơn giản, đòi hỏi tiêu chuẩn kỹ thuật, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã bỏ không những hạn ngạch đòi hỏi kỹ thuật cao, tay nghề cao. Như vậy, xuất khẩu vào thị trường EU thật không dễ và ngày càng khó khăn.
Chương 4: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
4.1. Dệt may hậu WTO
4.1.1. Sức ép phát triển
Sau WTO ngành dệt may sẽ cạnh tranh rất khốc liệt, đặc biệt là mảng phân phối. Hiện nay ở Việt Nam, các cửa hàng nhỏ lẻ chiếm tới 70%, còn các cửa hàng tự chọn của các công ty bán lẻ hiện phát triển chưa lớn. Sẽ có nhiều công ty bán lẻ nhảy vào vàà cạnh tranh. Khi đó, nhất là sức ép về giá là rất lớn và có lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, ngành dệt may cũng sẽ có được một số thuận lợi sau WTO đó là toàn bộ cơ sở hạ tầng sẽ tốt hơn, giá cả giảm tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất, khi mở cửa các doanh nghiệp nước ngoài vào, các doanh nghiệp Việt Nam có thể qua đó học hỏi kinh nghiệm... Tuy nhiên đó là những thuận lợi gián tiếp và phải có thời gian, trong khi đó khó khăn sẽ tác động trực tiếp cho ngành dệt may ngay sau khi Việt Nam tham gia WTO.
4.1.2. Hướng phát triển ngành dệt may sau WTO
Các doanh nghiệp nên tìm hướng phát triển các mặt hàng cao cấp. Nếu cạnh tranh với Trung Quốc, ấn Độ, Bangladesh... mà Việt Nam vẫn sản xuất các mặt hàng dệt may ở mức trung bình và làm gia công thì dệt may Việt Nam không thể nào cạnh tranh được! Dĩ nhiên dệt may Việt Nam vẫn phải làm hàng trung bình vì việc chuyển đổi đó cần phải có thời gian, có lộ trình... Tuy nhiên huớng chuyển từ hàng gia công, hàng trung bình sang hàng cao cấp và hàng có nhiều tính năng là hướng đi rất đúng trong bối cảnh hiện nay. Vớ dụ như ngành dệt của Đài Loan: 10 năm trước ngành dệt Đài Loan còn sản xuất sơ sợi tổng hợp và xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng ngày nay Trung Quốc đã sản xuất sơ sợi tổng hợp lớn nhất thế giới, thành ra Đài Loan phải nghĩ ra một dòng sản phẩm mới có tính năng khác biệt cao để cạnh tranh. Với sản phẩm này họ bán ít hơn nhưng giá cao và ngành dệt của Đài Loan vẫn phát triển. Qua bài học Đài Loan hy vọng sẽ có khoảng 50% doanh nghiệp Việt Nam sẽ đi theo con đường này.
4.2. Đối với các cơ quan Nhà Nước
4.2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý
Trước mắt cũng như lâu dài, Việt Nam phải thể hiện quyết tâm mở cửa thị trường, nhanh chóng minh bạch hoá các chính sách thương mại, hoàn thiện hệ thống thuế và pháp luật phù hợp với yêu cầu chung của WTO, chuẩn bị tốt các công tác đàm phán song phương để nhanh chóng trở thành thành viên của WTO trong năm 2006. Mặc dù khi Việt Nam tham gia WTO sẽ gặp phải một số ảnh hưởng bất lợi cho các doanh nghiệp, nhưng Chính phủ hoàn toàn có thể bảo hộ cho các doanh nghiệp và thị trường nội địa thông qua các biện pháp phi thuế quan, các chính sách hỗ trợ về vốn, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực...
4.2.2. Nâng cao sức cạnh tranh doanh nghiệp
Bộ Công nghiệp cần nhanh chóng rà soát lại toàn ngành để xác định được doanh nghiệp nào đủ sức cạnh tranh và doanh nghiệp nào cần sáp nhập, giải thể. Trước mắt nên tiến hành nhanh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thành lập những tập đoàn dệt may mạnh xuyên quốc gia trên cở sở sáp nhập theo ngành dọc từ các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ đến các doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu kết hợp với vùng nguyên liệu… nhằm tập trung nguồn nhân lực, tập trung thị trường, phát huy thế mạnh sở trường của từng doanh nghiệp thành viên trên cơ sở cùng chung trách nhiệm và quyền lợi vì mục tiêu tăng trưởng bền vững.
4.2.3. Tạo dựng quy chế hỗ trợ doanh nghiệp
Cần có sự phối hợp giữa Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp và Hiệp hội Dệt –May Việt Nam đánh giá đúng mức độ tác động của việc dỡ bỏ hạn ngạch dệt may để có giải pháp thích ứng. Mặc dù không ít doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã theo chiến lược thị trường phi quota, nhưng trên thực tế, những sản phẩm dệt may không bị áp đặt hạn ngạch của Việt Nam cạnh tranh rất yếu so với sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thị trường EU.
Chính phủ cần có sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mở rộng phát triển thị trường phi hạn ngạch thông qua các chương trình hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu hàng dệt may...
- Hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu : trong hoạt động thu thập thông tin, xúc tiến thương mại thì việc đẩy mạnh xúc tiến ở tầm vĩ mô có nhiều ưu điểm và mang lại hiệu quả hơn. Vì các doanh nghiệp xuất khẩu, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam hầu hết chưa có tiềm lực tài chính đủ mạnh cũng như chưa có kinh nghiệm để tiến hành các hoạt động thu thập thông tin, xúc tiến thương mại trên quy mô lớn, ở trong và ngoài nước như các tập đoàn quốc tế, các công ty xuyên quốc gia. Do đó, sự hỗ trợ từ phía Nhà nước là hết sức cần thiết và cấp bách. Chính phủ có thể tiến hành các hoạt động thu thập thông tin, xúc tiến thương mại theo định kì, dùng tư cách cơ quan đại diện thương mại để tiến hành nghiên cứu, thu thập thông tin cập nhật nhất về thị trường nước sở tại. Tổ chức các hội chợ triển lãm, những ngày hội văn hoá Việt Nam tại EU để giới thiệu Việt Nam, xây dựng hình ảnh Việt Nam cũng như quảng bá cho hàng hoá Việt Nam với khách hàng EU.
- Hỗ trợ tín dụng xuất khẩu : để đạt được các chứng chỉ môi trường, lao động, chất lượng cần đầu tư từ khâu thu mua nguyên vật liệu cho đến hết vòng đời sản phẩm. Hiện tại, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ thiếu vốn nên việc đạt được các chứng chỉ rất khó khăn. Nhà nước nên hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp thông qua các chương trình tài trợ vùng, tài trợ theo loại hình doanh nghiệp, có cơ chế hỗ trợ thoả đáng đối với các doanh nghiệp coi trọng tới đầu tư môi trường...
Việc đo lường sát thực mức độ tác động của việc dỡ bỏ hạn ngạch hàng dệt may sẽ có ý nghĩa quan trọng để Chính phủ xác định đúng mức độ hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu và hỗ trợ tín dụng xuất khẩu.
4.3. Đối với doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Doanh nghiệp dệt may cùng với việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện mới của cạnh tranh quốc tế khi không còn thị trường hạn ngạch, cần nhanh chóng điều chỉnh chiến lược cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU.
4.3.1. Đẩy mạnh việc xây dựng chiến lược phát triển nhãn hiệu hàng hoá, tăng cường đầu tư cho các hoạt động đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu thương mại hàng hoá trên thị trường EU
Vấn đề xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, nhãn mác sản phẩm và áp dụng các biện pháp marketing sẽ có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có nhiều khả năng thu được hiệu quả kinh doanh cao trong bối cảnh phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có quy mô nhỏ, sức cạnh tranh yếu trong khi thị trường EU đối tác kinh tế thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam, là thị trường mục tiêu của nhiều hãng dệt may hàng đầu trên thế giới.
4.3.2. Tăng cường thu thập, phổ biến thông tin thị trường, đào tạo nguồn nhân lực nhằm nâng cao nhận thức, sự hiểu biết về các quy định trong chính sách sản phẩm nhập khẩu của EU
Để làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, các doanh nghiệp cần tiến hành một số biện pháp sau:
- Cần đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách đảm nhiệm việc nghiên cứu thị trường. Họ phải là những người có trình độ, kiến thức, khả năng, phương pháp tư duy tốt để tổng hợp, phân tích, đánh giá các thông tin thu thập được một cách chính xác, đưa ra các dự báo thị trường sát với thực tế nhất.
- Tổ chức các phòng marketing chuyên trách việc nghiên cứu thị trường, xây dựng và thực hiện chiến lược nghiên cứu thị trường cũng như đề ra biện pháp thâm nhập thị trường tốt nhất.
- Thiết lập các văn phòng đại diện tại các quốc gia EU. Các văn phòng đại diện này có nhiệm vụ thu thập thông tin một cách thường xuyên về thị trường sở tại để cung cấp cho doanh nghiệp trong nước.
- Tham gia vào các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam và EU.
Kết luận
********
Sản phẩm dệt may của Việt Nam là mặt hàng có lợi thế so sánh quốc tế, thị trường xuất khẩu lớn, tỷ suất đầu tư không lớn, thời gian đầu tư nhanh, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Hơn nữa, dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được Chính phủ đề ra tốc độ tăng trưởng xuất khẩu gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP trong dự thảo chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2005-2010.
Hiện nay,chỉ có ngành may mặc Việt Nam mới có những lợi thế, tiềm năng lớn để cạnh tranh với sự phát triển vĩ đại của ngành dệt may Trung Quốc trong cuộc đua tranh quốc tế. Tuy nhiên, nguồn nhân lực rẻ và dồi dào, thêm vào đó là uy tín chất lượng của các thương hiệu Việt sắp phải đối đầu với sự lấn át của hàng hoá Trung Quốc khi mà cánh cửa thị trường WTO rộng mở. Mặc dù đã có được chỗ đứng khá vững chắc ở thị trường các châu lục thế nhưng những việc cắt giảm thuế cho các nước thành viên WTO đang tạo cho hàng hoá các nước thành viên như Trung Quốc và nhiều nhà sản xuất khác những cơ hội giảm giá mới, gây áp lực lớn đối với sản phẩm Việt Nam. Chính vì thế, mặc dù có những lợi thế to lớn nhưng ngành may mặc Việt Nam đang và sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức trong việc xây dựng một ngành may mặc tự chủ, tạo những ưu thế nhất định trong cạnh tranh quốc tế. Những khó khăn này còn tăng lên gấp bội sau khi WTO gỡ bỏ rào cản về thuế trong các nước thành viên vào ngày mồng 1 tháng Giêng năm 2005. Cạnh tranh trên thị trường tự do trở lên khốc liệt hơn, và lợi thế khi ấy sẽ nghiêng nhiều về các nhà sản xuất Trung Quốc. Không ít công ty may mặc xuất khẩu ở nhiều nước trong đó có cả ngành may mặc Việt Nam sẽ phải thu hẹp sản xuất, thậm chí phải đúng cửa do suy giảm khả năng cạnh tranh xuất khẩu vào một số thị trường, nhất là ở các thị trường lớn như Mỹ, EU.
Nhận thức rõ cơ hội và thách thức, ngành dệt may Việt Nam cần phải tăng tốc trên mọi lĩnh vực: đầu tư, sản xuất, xuất khẩu … nhằm tăng sức cạnh tranh hàng dệt may trên thị trường thế giới nói chung và EU nói riêng. Các doanh nghiệp dệt may phải hướng tới đạt được các chứng chỉ quốc tế, phải giải quyết ngay những vấn đề cơ bản về nguyên liệu, phải tăng sản lượng bông trong nước, giảm thiểu sự mất cân đối giữa ngành dệt và ngành may, nhằm đáp ứng tốt hơn những yêu cầu khắt khe về chất lượng, mẫu mã, chủng loại và tính thời trang cao…của thị trường đầy tiềm năng EU.
Từ những phân tích trên, ta có thể khẳng định rằng đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU hiện nay là rất cần thiết; song điều đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngành cũng như các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh sản phẩm dệt may để tạo điều kiện đẩy nhanh hơn nữa hiệu quả của việc xuất khẩu mặt hàng này.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo nhiệt tình của PGS. TS Nguyễn Thường Lạng đã giúp em hoàn thành đề án này.
Danh mục tài liệu tham khảo
Báo cáo ngành hàng dệt may Việt Nam2005, Bộ Thương mại
Chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010.
PGS.TS. Đỗ Đức Bình(Chủ biên) PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng -Giáo trình KTQT-Nhà xuất bản Lao động- Xã hội,2004, Tr 58- 108.
TS. Nguyễn Thanh Bình- Thị trường EU các quy định pháp lý liên quan đến chính sách sản phẩm trong Marketing xuất khẩu- Nhà xuất bản Lao động- Xã hội,2005, Tr 261-318.
Ths. Lê Thị Ngọc Lan- Đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường EU thời hậu hạn ngạch-Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương, số 14/2006, Tr 15- 17.
PGS.TS. Vũ Trí Lộc (Chủ biên)- Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU- Nhà xuất bản , Tr
Chu Viết Luân-(Chủ biên)- Dệt may Việt Nam cơ hội và thách thức- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2003,Tr 176- 186.
Nguyễn Hoàng Khiêm- Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU- Tạp chí nghiên cứu châu Âu,số 1/2006,Tr 82- 90.
Đoàn Tất Thắng- Những rào cản thương mại đối với doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường EU- Tạp chí nghiên cứu châu Âu,số 5/2005, Tr 56- 59.
10. www: cpv. org. vn
11. www : mofa.gov.vn
12. www : mot.gov.vn
13. www : vnexpess.net
14. www : vcci.co.vn
15. www : viet - promotion.com.vn
Bảng các chữ cái viết tắt
CHữ Viết tắt
nghĩa đầy đủ
Tiếng anh
Tiếng việt
Asean
The Association of SouthEath Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia đông nam á
Atc
Agreement on Textile and Clothing
Hiệp định về buôn bán hàng dệt may
CE
Conformity European
Nhãn EU
Ecolabel
Ecological Label
Nhãn hiệu sinh thái
Eu
European Union
Liên minh châu Âu
Gap
Good Agricultural Practice
Quy trình thực hành nuôi trồng tốt
Gsp
Generalized System of Preferences
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
Haccp
Hazard Analysis Critical Control Point
Hệ thống phân tích rủi ro bằng điểm kiểm soát tới hạn
Iso
International Standardisation for Organization
Hệ thống quản ly chất lượng
Mfa
The Multi Fible Arrangement
Chế độ hạn ngạch dệt may toàn cầu
Mfn
Most Favored Nation
Quy chế tối huệ quốc
Taric
Integrated Tariff of the European Communities
Hệ thống thuế quan hài hoà chung
USD
United State Dollar
Đô la Mỹ
wto
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0656.doc