Cổ phần hoá DNNN là một giải pháp quan trọng trong quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước đặc biệt là khu vực kinh tế nhà nước, thực hiện điều đó ngay từ đầu thập kỷ 90 Đảng ta đã chủ trương thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Cho tới năm 1996 khi nghị định 28/CP ra đời và nghị định 44/1998/NĐ - CP quá trình cổ phần hoá được tiến hành bình thường, tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều vướng măc làm chậm tiến trình cổ phần hoá. Để khăc phục tình trạng chậm trễ cần sớm tìm ra lời giải cho bài toán sổ hữu trong khu vực DNNN tạo ra động lực cho người lao động phát huy nội lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển làm cho khu vực kinh tế nhà nước thực sự giũ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường. Do đó vấn đề cổ phần hoá chúng ta phải quyết tâm thực hiện với cách thức và bước đi thích hợp, không vội vàng./
32 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp để tiến hành thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghĩa tư bản được hình dung là quá trìng tích luỹ vốn và mở rộng băt đầu từ thương nghiệp, sau đó là công nghiệp nhẹ và nông nghiệp rồi vươn sang các ngành công nghiệp nặng thì có thể nói rằng hình thái công ty cổ phần là " Bà đỡ " cho sự ra đời các ngành công nghiệp nặng.
Trải qua thời gian, hình thái công ty cổ phần ngày càng hoàn thiện phát triển và đa dạng hoá. Có thể nói hình thức công ty cổ phần là một phát minh quan trọng nhất trong lịch sử phát triển các hình thái tổ chức doanh nghiệp kể từ cuộc cách mạng trong công nghiệp của chủ nghĩa tư bản chứ không chỉ là sản phẩm thụ động của sự phát triển nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường công ty cổphần là một sản phẩm tự nhiên quá trình phát triển kinh tế theo những nấc thang nhất định từ hình thái kinh doanh một chủ đến hình thái kinh doanh chung vốn.
* Đặc điểm của công ty cổ phần.
Về mặt pháp lý: Công ty cổphần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần. Khác với doanh nghiệp chung vốn, các cổ đông chỉ có trách nhiệm với các cam kết tài chính của công ty trong giới hạn số tiền mà họ đóng góp. Khi công ty bị phá sản thì họ cũng chỉ bị mất số tiền mà họ đầu tư vào công ty mà thôi. Nhờ đặcđiểm của công ty cổ phần mọi cổ đông bây giờ chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn và công ty là một hình thức pháp lý đầy đủ, thuận lợi để kinh doanh. Như trong việc thu hút vốn nó có thể khai thác được ngay cả những số tiền thấp nhất trong công chúng.Nhà kinh tế học Samueson đã chỉ ra rằng " Sản xuất lớn có hiệu quả về mặt kỹ thuật và một công ty lớn là một cách có lợi để các nhà đầu tư chia sẻ các rủi ro không thể khăc phục được của đời sống kinh doanh. Không có trách nhiệm pháp lý hữu hạn và công ty, thì điều đơn giản là nền kinh tế thị trường không thể thu hái lợi ích có được khi những lương tư bản lớn cần được thu hút vào những công ty với quy mô có hiệu quả, sản xuất ra nhiều loại sảnphẩm bổ sung cho nhau, chia sẻ những rủi ro và sử dụng tốt nhất các kết quả nghiên cứu của những đơn vị đơn vị nghiên cứu lớn và kiến thức quản lý "(Kinh tế học 12 trang 80) .
Về mặt huy động vốn: Công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành công như:
Thứ nhất: Việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi tức cổ phần mà còn hứa hẹn mang lại cho cổ đông một khoản thu nhập lớn Việc tăng giá trị cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả.
Thứ hai: Các cổ đông có quyền tham gia được quản lý theo điều lệ của công ty và được pháp luật đảm bảo, điều đó làm cho quyền sở hữu của các cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn.
Thứ ba: Các cổ đông có quyền được ưu đãi trong việc mua cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi đem bán rộng rãi cho công chúng.
Ngoài ra hình thái công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu ra khỏi quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của đông đảo quần chúng ở một bên còn bên kia là các tầng lớp, các nhà quản lý kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho các công cuộc kinh doanh quy mô lớn. C. Mác đã chỉ ra rằng : " Quyền sở hữu của tư bản bây giờ hoàn toàn tách khỏi chức năng của tư bản trong qúa trình tái sản xuất thực cũng hệt như chức năng đó thể hiện thông qua người quản lý tách khỏi quyền sở hữu tư bản " (7 trang 535).
3. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chuyển sang loại công ty cổ phần mà mô hình chủ yếu là đa dạng hóa các hình thức sở hữu : Sở hữu tập fthể, sở hữu tư nhân, sở hữu nhà nước.Song tựu chung lại là chuyển 100% vốn nhà nước sang các công ty cổ phần mà nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đó .
II. Tính tất yếu khách quan của cổ phần hoá DNNN trong công nghiệp nước ta hiện nay.
1. Thực trạng hệ thống DNNN ở nước ta hiện nay.
Tính đến tháng 6 năm 1996 theo số liệu thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư số lượng DNNN là 5790 doanh nghiệp. Trong quá trình xăp sếp lại DNNN dần dần được củng cố, hoạt động có hiệu quả hơn số doanh nghiệp bị lỗ giảm từ 21,7% năm 1990 xuống 16,1% năm 1994. Thời kỳ 1991-1995 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của DNNN là 11,7% trong khi nền kinh tế là 8,2% bằng 1,5% tốc độ tăng trưởng bình quân chung của nền kinh tế, tỷ trọng GDP của DNNN tăng từ 33,3% lên 39,6% so với GDP của cả nước,thu nhập fngân sách nhà nước tăng bình quân 50,4% năm. Trong năm 1995 các doanh nghiệp nhà nước nộp ngân sách là 14940 tỷ đồng tăng 7,7 lần so với năm 1990 và tăng 33% tổng thu về thuế của ngân sách nhà nước .
Nhưng thực tế các DNNN hoạt đông kém hiệu quả,tính năng thấp được tập trung bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Khu vực kinh tế nhà nước được sinh ra và trưởng thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp kéo dài hàng chục năm với các chính sách giao nộp,cấp phát các DNNN hoạt động trong điều kiện vốn được nhà nước cấp vật tư được nhận theo chỉ tiêu, sản phẩm được giao nộp theo kế hoạch được săp đặt trước. Các điều kiện vật chất được nhà nước cân đối theo chỉ tiêu định mức.Doanh nghiệp chỉ đơn thuần là một đơn vị sản xuất hàng hoá theo những kế hoạch của cấp trên mất đi tính tự chủ và khả năng cạnh tranh . Bởi vậy tính chủ động sáng tạo của một đơn vị kinh doanh không được thực hiện nên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế nhà nước đó sợ cồng kềnh bộc lộ tất cả những hạn chế về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ cấu bộ máy yếu kém và không đồng bộ trong việc thích ứng với thị trường.
Thứ hai : Các DNNN đã từ lâu không được đặt trong môi trường cạnh tranh, hoạt động sản xuất kinh doanh không găn với thì trường do đó chậm đổi mới công nghệ về nâng cao chất lượng sản phẩm . Trong nền kinh tế khó khănvừa dokinh tế vừa do lịch sử những sản phẩm của các doanh nghiệp này làm ra đều buộc xã hội phải chấp nhận mặc dù chất lượng thấp kiểu dáng xấu.Mặt khác do cơ chế bao cấp bù lỗ tràn lan làm cho hạch toán kinh tế trong các doanh nghiệp chỉ là hình thức,sản xuất không tính chi phí,hiện tượng lãi giả ,lỗ thật và chạy theo thành tích một cách phi hiệu quả hết sức phổ biến.Điều tất yếu xảy ra là trình độ tổ chức quản lý,trình độ công nghệ tiến chậm và khoảng cách so với thế giới ngày càng xa.
Thứ ba: Tổ chức bộ máy DNNN không phù hợp do quan niệm về sở hữu đối với doanh nghiệp không rõ ràng không có sự phân biệt đầy đủ về quyền sở hữu nhà nước và quyền quản lý kinh doanh của giám đốc và tập thể người lao động . Tình trạng làm chủ tập thể chung chung thực chất là " vô chủ " diễn ra phổ biến ở các doanh nghiệp .
Thứ tư: Việc phân phối thực ra không được thực hiện theo nguyên tăc phân phối theo lao động mà chủ yếu nhằn phục vụ cho chính sách xã hội mang nặng tính bình quân chủ nghĩa,không tạo được động lực kích thích người lao động trong DNNN nhằm nâng cao hiệu qủa công tác và năng suất lao động thêm vào đó đội ngũ cán bộ với kiến thức và trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Hiện nay đất nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới vấn đề làm sao để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế và nâng caođời sống nhân dân là nhiệm vụ tối quan trọng hàng đầu mà ngay từ năm đầu 1990 để nâng cao hiệu quả của các DNNN ,Đảng ta đã chủ trương thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần nhằm tạo thêm động lực mới trong công tác quản lý doanh nghiệp , huy động thêm vốn cho yêu cầu đầu tư phát triển và điều chỉnh cơ cấu DNNN .
2.Tính ưu việt của loại hình doanh nghiệp công ty cổ phần.
* Cổ phần hoá DNNN một động lực phát triển sản xuất kinh doanh.
- Cổ phần hoá DNNN tạo động lực mạnh mẽ cho nhà đầu tư, cho nền kinh tế bằng cách đa dạng hoá sở hữu khkông riêng gì cho DNNN được cổphần hoá mà còn góp phần đadạng hoá cả nền kinh tế. Nó chính là động lực của người đầu tư, người có cổ phần , người lao động tiếp thêm sức cho yêu cầu cạnh tranh thị trường vì mục đích lợi nhuận vì quyết tâm tìm hiệu quả tối ưu cho đồng vốn đầu tư của mỗi chủ thể kinh tế cả pháp nhân và cá nhân trong hoạt động kinh tế .Việc đa dạng hóa sở hữu cũng đặt tiền đề cho việc đổi mới kế hoạch hoá phù hợp với cơ chế thị trường hàng hoá cạnh tranh. Cổ phần hoá DNNN mở ra triển vọng xây dựng thị trường vốn lành mạnh phong phú. Việc thu hút vốn cổ phần của các thành phần kinh tế khác và việc bán hàng hoá cổ phiếu sẽ đảm bảo thu hút và bổ sung thêm vốn cho các doanh nghiệp,đỡ gánh nặng cho ngân sách nhà nước và trong nhiều trường hợp còn tạo điều kiện cho nhà nước giúp bớt vốn ở lĩnh vực này để điều sang lĩnh vực khác quan trọng hơn. Cổ phần hoá sẽ góp phần tích cực cho việc hình thành thì trường vốn lành mạnh rồi tiến đến hình thành thị trường chứng khoán, một yêu cầu cần thiết cho việc vận hành của nền kinh tế thị trường .
Hình thành những điều kiện thuận lợi mới để cơ cấu lại nền kinh tế.
Việc cổ phần hoá sẽ mở rộng đa dạng sở hữu sẽ có thêm điều kiện mới cho việc mạnh dạn cơ cấu lại nền kinh tế phân bổ theo nhiều thành phần kinh tế .Từ đó có kế hoạch hoá lại nền kinh tế dựa trên động lực sở hữu của nhiều thành phần kinh tế, việc phân công lao động do tác động cuả thị trường cạnh tranh khi đó sẽ toát lên quan điểm sử dụng hiệu quả sức lao động theo quan điểm kinh tế hoá sức laođộng của nền kinh tế hoá mở ra thị trường sức lao động để đáp ứng moị yêu cầu phát triển đa dạng nền kinh tế quốc dân. Góp phần cải tiến quản lý kinh tế có hiệu quả hơn, bởi nó khăng định vai trò của hội đồng quản trị là tổ chức thay mặt tất cả các cổ đông, quản lý với tư cách người chủ thật sự với động cơ tất cả vì hiệu qủa của đồng vốn vì quyền lợi lợi nhuận của các cổ đông. Mặt khác hạn chế sự can thiệp phi kinh tế của các cơ quan hành chính tránh sự chỉ đạo đa tuyến.Đồng thời tạo điều kiện cho sự phân biệt chức năng quản lý kinh doanh với chức năng quản lý kinh doanh nhà nước, đáp ứng tốt yêu cầu quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, tạo thế chủ động cho người bỏ vốn đầu tư trong mọi bài toán hiệu quả đối với đồng vốn của mình củng cố động lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Cổ phần hoá DNNN sẽ giúp cho người lao động ở đó thực hiện quyền làm chủ tốt hơn.Khi người lao động là thành viên của công ty cổ phần thì họ trở thành người làm chủ thực sự, có quyền lợi riêng gắn chặt với lợi ích chung cuả doanh nghiệp khi đó người lao động sẽ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao hơn. Người lao động khi có quyền và trách nhiện cao hơn sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc đào tạo , bồi dưỡng đội ngũ nhà kinh doanh mới phù hợp với đòi hỏi của thị trường đáp ứng được yêu cầu đối tác với nứơc ngoài trong xu thế mở cửa hợp tác liên doanh liên kết. Tạo môi trường vừa cạnh tranh vừa tập hợp theo xu hướng hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh với mụcđích lợi nhụân cao. Việc đa dạng hoá sở hữu của từng công ty và của cả nền kinh tế ngoài việc tạo động lực mạnh cạnh tranh theo hướng lợi nhụân hiệu quả còn tạo được đòn bẩy kích thích vừa cạnh tranh, vừa liên kết kinh tế, tập hợp để hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh chuyên ngành hoặcđa ngành có thể mạnh về thì trường, về vốn nhằm mục đích thu hoạch được hiệu quả ngày một cao hơn. Đây là kinh nghiệm có thực ở các nước công nghiệp phát triển và các nước NIC. Ngoài ra nó còn tạo tiền đề và triển vọng cho việc hình thành các công ty, các tập đoàn đa quốc gia của nền kinh tế thế giới hiện nay.
Khuyến khích và đảm bảo cạnh tranh bình đăng để phát triển trong khuôn khổ luật pháp quy định ... Bảo đảm tốt việc thực hiện chính sách xã hội.
Tóm lại cổ phần hoá là một hứơng ra tốt có nhiều lợi ích thực tế cho nhà nước, cho người lao động và cho toàn xã hội, đó là giải pháp để thoát khỏi cảnh bế tăc của một số DNNN. Xong vấn đề quan trọng hơn là hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
III. Những nội dung cơ bản của tiến trình cổ phần hoá DNNN công nghiệp ở nước ta hiện nay.
Tiến trình cổ phần hoá DNNN được biểu hiện qua các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn đầu:
Trọng điểm cải cách của giai đoạn này là nông nghiệp đồng thời thực hiện việc mở rộng quyền tự chủ trong các doanh nghiệp, khuyến khích kinh doanh dưới nhiều hình thức sở hữu. Sau khi cải cách kinh tế ở nông thôn thu được kết quả, trọng điểm cải cách dần dần chuyển sang thành ph, cải cách ở thành phố lại băt đầu bằng việc mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp. Dưới cơ chế kế hoạch truyền thống các doanh nghiệp không những có quyền tự chủ trong kinh doanh mà còn không có quyền đối với lợi ích . Theo lối suy nghĩ truyền thống thì sau khi thực hiện công hữu hoá tư liệu sản xuất trung tâm kinh tế cao của cả nước vừa có quyền chi phối các nguồn lực xã hội, vừa có khả năng năm giữ các nhu cầu của xã hội, từ đó căn cứ vào thông tin của các nhu cầu này để tổ chức săp xếp một cách toàn diện. Cùng với việc phát triển của sản xuất, việc phân công lao động theo chiều sâu và sự đa dạng hoá nhu cầu của xã hội hơn nữa khối lượng thông tin về nhu cầu xã hội ngày càng lớn, phức tạp và diễn biến nhanh nên trung tâm kinh tế cao nhất rất khó thu thập và sử lý kịp thời đầy đủ những thông tin này, từ đó dẫn đến tình trạng không khớp giữa sản xuất với nhu cầu, hiệu quả kinh tế thấp, không phát huy được tính tích cực của người kinh doanh và người sản xuất . Tóm laị , trong giai đoạn đầu cải cách doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào việc giữ lại lợi nhuận và xây dựng cơ chế khen thưởng theo chỉ tiêu sản xuất và hiệu quả kinh tế . Các doanh nghiệp nhà nước tuy có quyền tự chủ song vẫn chưa chịu sự khống chế của kế hoạch mang tính mệnh lệnh tập trung cao độ .
2. Giai đoạn hai:
Nhà nước đã từng bước chuyển phương thức quản lý doanh nghiệp từ quản lý trực tiếp thông qua kế hoach mang tính mệnh lệnh là chính sang phương thức quản lý gián tiếp là chính các doanh nghiệp mở rộng hơn nữa quyền tự chủ trên các phương diện như: Nhân sự , giữ lại một phần lợi nhuận ... , phần lớn các doanh nghiệp được quyền định giá thành sản phẩm vượt mức và quỷền tự chủ đầu tư trong mức độ cho phép. Nhưng lại xuất hiện hiện tượng hưởng lãi nhưng không chịu lỗ trong các doanh nghiệp.
3. Giai đoạn ba.
Trọng điểm của giai đoạn này là điều chỉnh và xem xét lại nền kinh tế quốc dân do hành loạt nguyên nhân như cải cách không đông bộ, khả năng quản lý vĩ mô kém, cơ chế tự điều tiết của kinh tế vi mô chưa hình thành, hệ thống thị trường và cơ chế thị trường chưa được kiện toàn. Do đó để đẩy nhanh tốc độ cải cách thúc đẩy tiến trình cổphần hoá DNNN thành hiệnthực cần phải phối hợp đồng bộ chỉnh thể, chủ yếu là làm tốt việc cải cách thể chế quản lý tài sảnnhà nước, chế độ lao động nhân sự, từng bước hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội,hoàn thiện và đưa vào pháp quy thị trường các yếu tố sản xuất, thúc đẩy sự di chuyển của các yếu tố sản xuất, cải cách hơn nữa thể chể đầu tư tiền tệ, xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng vàdoanh nghiệp, tạo môi trường bên ngoài thuận lợi cho cải cách doanh nghiệp hay cổ phần hoá DNNN.
Chương II
Thực trạng và giải pháp để tiến hành thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
I. Những quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nướcViệt Nam về quá trình cổ phần hoá.
1.Hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với quá trình cổ phần hoá.
Cổ phần hoá một số DNNN là một chủ trương lớn của nhà nước Việt Nam về đổi mới doanh nghiệp.Thật vậy, trong nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 Quốc Hội khoá IX (12/1993) đã khẳng định : "đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế tổ chức DNNN thực hiện các hình thức cổ phần hoá thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất để thu hút thêm các nguồn vốn tạo thêm động lực,ngăn chặn tiêu cực thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả ".
Đảng cộng sản Việt Nam trong nhiều Nghị quyết của Đại hội Đảng và của Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương từ khóa VII đến khoá VIII đã đề ra nhiều định hướng chủ trương về cổ phần hoá: "Triển khai tích cực và vững chăc việc cổ phần hoá DNNN để huy động thêm vốn,tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản của nhà nước ngày càng tăng không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sẽ có nhiều DNNN năm đa số hoặc năm tỷ lệ cổ phần chi phối gọi thêm cổ phần hoặc bán thêm cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp . Tuỳ từng trường hợp cụ thể, vốn huy động được phải dùng để đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh " (Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII)
" Đối với các DNNN không cần năm 100% vốn, cần lập kế hoạch cổphần hoá dể tạo động lực phát triển thúc đẩy làm ăn có hiệu quả. Sửa đổi bổ sung các quy định, kiện toàn tổ chức chỉ đạo cổ phần hóa các cấp. Thí điểm bán cổ phần cho người nước ngoài . Khuyến khích nông dân sản xuất nguyên liệu mua cổ phần ở các doanh nghiệp chế biến nông sản " ( Nghị quyết hội nghị lần 4 ban chấp hành trung ương đảng khóa VIII).
Ngoài ra là một số văn bảnpháp quy điều chỉnh quá trình cổ phần hoá như văn bản như văn bản:
+ Chương trình cổ phần hoá thí điểm :
Quyết định số 143 HĐBT 10/5/1990 của Hội đồng Chính phủ.
- Luật công ty ban hành ngày 21/12/1990.
- Quyết định số 202 ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ( Thủ tướng Chính phủ) về chủ trương thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần . Chỉ thị số 84 TTg ngày 4/8 /1993 của Thủ Tướng chính phủ yêu cầu triển khai và tiến hành có kết quả việc thí điểm cổ phần hoá các DNNN và các hình thức đa dạng hoá sở hữu đối với DNNN .
- Quyết định số 84/TTg ngày 4/3/1993 về "Hướng dẫn đẩy mạnh chương trình thí điểm chuyển các xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần ".
Chương trình cổ phần hoá mở rộng .
- Luật công ty ban hành ngày 21 /12/1990
- Nghị định số 28/CP ngày 7/3/1996 của Chính phủ về việc " Chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần ".
- Thông tư 50TC - TCGN ngày 30/8/1996 của bộ tài chính "Hướng dẫn các vấn đề về tài chính về việc bán và phát hành cổ phiếu trong khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần theo ngị định số 28/CP".
- Quyết định 01/CPH ngày 9/6/1996 của Bộ trưởng trưởng ban cổ phần hoá trung ương " Các thủ tục để chuyển DNNN thành công ty cổ phần".
- Nghị định 25CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ về " Sửa đổi một số điều trong nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 ".
- Chỉ thị 20-1998 /CT- TTg ngày 2ă/1998 " Về đẩy mạnh xăp sếp lại DNNN ".
Trong đó nghị định 28CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ là văn bản pháp lý cao nhất cho đến nay quy định một cách tương đối và toàn diện mục tiêu nguyên tắc, phương pháp các chính sách ưu đãi và tổ chức thực hiện cổ phần hoá.
Qua các văn bản pháp lý nêu trên ta nhận thấy từ năm1991 cổ phần hoá DNNN đã trở thành một chủ trương xuyên suốt,là một nhiệm vụ quan trọng mà đảng cũng như Quốc hội đề ra trong trưong trình phát triển kinh tế xã hội dài hạn của đất nước. Thực hiện đúng đăn chủ trương này, Chính phủ đã chỉ đạo việc thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp để rút kinh nghiệm. Đồng thời với thực tế tiến hành cổ phần hoá, Chính phủ và các cơ quan liên quan như Bộ tài chính đã ban hành và từng bước bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý nhằm quản lý chặt chẽ và đẩy nhanh cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam . Về thực tế mới đây ngày 29/6/1998 , Thủ tướng chính phủ đã ký ban hành nghị định 44CP về chuyển DNNN thành công ty cổ phần (Gọi tắt là cổ phần hoá ). Nghị định bao gồm 4 chương, 23 điều và một phụ lục kèm theo với những nội dung chính ( Những quy định chung, nguyên tăc xác định giá trị doanh nghiệp những ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá; Tổ chức thực hiện ). Điều này chứng tỏ nghị định 44CP đã có sự chuyển biến căn bản tạo sự hấp dẫn thực sự đối với người lao động, thủ tục trình tự rõ ràng ...
2. Những chính sách của nhà nước đối với cổ phần hoá các DNNN.
Chỉ thị 84 TTg ngày 4/3 /1993 về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN . Trong định hướng thay đổi cơ cấu kinh tế, nhà nước chỉ giữ lại những doanh nghiệp lớn, quan trọng , những doanh nghiệp thuộc những ngành có vị trí then chốt làm chức năng chi phối và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các lĩnh vực quốc phòng an ninh và khu vực tạo nên kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp một số dịch vụ công cụ công cộng phúc lợi xã hội thiết yếu. Ngoài những lĩnh vưc trên,nhà nước cho phép phát triển đa dạng các hình thức sở hữu,trong đó cổ phần hoá là một giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá bằng biện pháp hỗ trợ cán bộ công nhân viên của các doanh nghiệp tạo vốn ban đầu để mua cổ phiếu với hai khoản vay:
Khoản vay không trả lãi, thời gian vay 5 năm mức bình quân không quá 3 triệu đồng 1 người mức cao nhất không quá 5 triệu đồng 1 người.
Nếu công nhân viên doanh nghiệp tự bỏ tiền mua cổ phiếu sẽ được cho vay trả chậm với lãi suất ưu đãi tương đương với tỷ lệ thu về sử dụng vốn ( 4,8%/năm) trong thời gian năm năm, mức mua chịu đúng bằng số tiền mà họ bỏ ra mua cổ phiếu (Tức là mua một được cho vay một ).
Doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá có thể được xét giảm thuế lợi tức không quá 50% trong thời gian hai năm đầu nếu gặp khó khăn trong kinh doanh.
* Về chính sách lao động, chính sách xã hội .
-Nếu đến thời điểm cổ phần hoá ,công nhân viên không tiếp tục làm việc trong công ty cổ phần thì được giải quyết theo quyết định 176/HĐBT .
- Nếu công nhân tiếp tục làm việc trong công ty cổ phần thì chuyển sang chế độ hợp đồng lao động được nhận bảo hiểm xã hội , thời gian lao động trước đây ở DNNN được bảo lưu để tính bảo hiểm xã hội .
Ngoài ra khác với quyết định 202CT, chỉ thị 84/TTg cho phép làm thí điểm việc bán cổ phiếu cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài, các cơ quan có trách nhiệm xem xét cụ thể từng trường hợp. Quy định này sẽ mở ra khả năng kích thích đẩy nhanh tiến độ và mở rộng quá trình cổ phần hoá ở trong nước.
Việc xúc tiến qúa trình cổ phần hoá lần này được đề cập đồng thời với những giải pháp đa dạng hóa các hình thức sở hữu để ổn định để phát triển sản xuất kinh doanh. Đó là các giải pháp:
- Bán toàn bộ doanh nghiệp cho một hoặcmột số tư nhân , tập thể hình thành doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Nhượng bán một phần doanh nghiệp để hình thành các liên doanh giữa nhà nước và các thành phần kinh tế khác.
- Bán một phần máy móc thiết bị để đầu tư cho bộ phậncòn lại, sáp nhập doanh nghiệp đang gặp khó khăn vào những doanh nghiệp đang hoạt động tốt hợp đồng cho thuê toàn bộ hoặc mjột bộ phận doanh nghiệp, hợp đồng khoán quản lý v.v.
3. Phân tích tình hình gía trị doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá.
Xác định giá trị doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá là một vấn đề quan trọng nhất và khó khăn nhất bởi vì nếu xác định giá ttrị doanh nghiệp cao hơn thực tế thì sẽ làm giá trị cổ phiếu tăng lên, người mua cổ phiếu sẽ giảm đi. Song nếu xác định gía trị doanh nghiệp thấp hơn thực tế thì giá cổ phiếu sẽ giảm người mua sẽ tăng nhưng nhà nước sẽ mất vốn.Chính vì vậy Bộ tài chính đã ban hành thông tư 50 TC/TC DN ngày 30 /8 /1996 để hướng dẫn cách xác định giá trị doanh nghiệp .
a. Xác định giá trị tài sản cố định.
- Tài sản cố định phải xác định rõ nguyên giá, giád trị hao mòn và giá trị còn lại xác định cho từng tài sản đang dùng, chưa dùng, cho thuê, chờ thanh lý.
Trường hợp doanh nghiệp có tài sản cố định vô hình như bằng phát minh sáng chế hoặctài sản vô hình khác cũng được xác định vào tài sản doanh nghiệp. Toàn bộ tài sản cố định sau khi đã kiểm kê và được tính theo giá sổ sách, doanh nghiệp căn cứ vào chất lượng còn lại và giá hiện hành của từng loại tài sản doanh nghiệp, gía trị tài sản vô hình để xác định giá trị tài sản thực còn.Riêng nhà cửa,vật kiến trúc căn cứ vào biểu giá hiện hànhcủa địa phương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở để xác định giá trị.
Đất đai sử dụng không tính giá trị đất vào giá trị của doanh nghiệp, nhà nước cho phép các doanh nghiệp công ty cổ phần.Phải nộp tiền thuê đất hàng năm thực hiệntheo luật đất đai và các quy định khác của nhà nước về sử dụng đất. Ttrước khi giao cho công ty cổ phần sử dụng.
Doanh nghiệp nhà nước đã nộp một số khoản như: Tiền đền bù, tiền san lấp mặt bằng, khoản tiền này được tính vào giá trị doanh nghiệp.
b. Xác định giá trị tài sản lưu động.
Bao gồm: Vốn bằng tiền, vật tư hàng hóa( Căn cứ vào kiểm kê thực tềgiá trị đã được định giá lại theo giá hiện hành)các khoản phải thu giá trị tài sản lưu động.Tổng hợp giá trị tài sản lưu động của doanh nghiệp được xác định như sau:
c. Giá trị xây dựng cơ bản dở dang.
Đối với các công trình xây dựng dở dang găn liền với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà công ty cổ phần sau này có nhu cầu xây dựng tiếp thì cũng định giá như TSCĐnêu trên.
d. Giá trị vốn góp liên doanh , liên kết (nếu có)
phần giá trị vốn góp liên doanh phải được xác định đánh giá lại bằng số thực có theo mặt bằng giá trị khi thực hiện cổ phần hoá. Vốn góp liên doanh: Bằng tiền,vật tư hàng hoá, TSCĐ, mặt bằng đất đai( Giá trị đền bù , san lấp mặt bằng ) v.v.
e. Xác định nguồn vốn hình thành.
- Nguồn vốn chủ sở hữu : Các nguồn vốn và quỹ phải được xác định rõ nguồn thực sở hữu nhà nước( Ngân sách cấp, tự bổ sung) vốn nhận liên doanh và các nguồn chủ sở hữu khác ( Chi tiết từng nguồn).
- Nợ phải trả: Bao gồm nợ ngăn hạn, nợ dài hạn và nợ khác. Sau khi xác định lại giá trị từng loại tài sản và nguồnhình thành giá trị doanh nghiệp được tính theo công thức sau:
- Các khoản lỗ: bao gồm lỗ năm trước, công nợ không thu hồi được những khoản thiệt hại sau khi đã được bảo hiểm đền bù và người gây thiệt hại phải bồi thường tài sản,vật tư mất mát , thiếu hụt, giảm giá sau khi sử lý theo hướng dẫn và những khoản lỗ khác.
- Quỹ phúc lợi và khen thưởng bao gồm. Những tài sản được hình thành từ nguồn quỹ phúc lợi và khen thưởng, quỹ phúc lợi khen thưởng bằng tiền chưa chi .
- Vốn nhận kiên doanh.
g. Xác định lợi thế doanh nghiệp .
Căn cứ để xác định lợi thế doanh nghiệp : Vị trí địa lý thuận tiện, nhãn mác có uy tín, trình độ quản lý tốt, hiệu quả kinh doanh v.v. Được tính vào giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá.Cách tính như sau: Lờy tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bình quân của 3 năm trước khi cổ phần hoá so với lợi nhuận trên vốn kinh doanh của các doanh nghiệp cùng loại trong cùng ngành kinh tế kỹ thuật theo phân loại của ngành KTQD của nhà nước . Giá trị lợi thế bằng phần chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá nhân với giá trị doanh nghiệp sau khi kiểm kê đánh giá lại .
Ví dụ: Doanh nghiệp cổ phần hoá có tỷ suất lợi nhuận bình quân trong 3 năm như sau:
Năm1993, 1994, 1995 Cộng lợi nhuận sau thuế (trđ) 770831.6881.22482.8 Vốn kinh doanh (trđ) 3.5003.6003.75010.850Tỷ lệ lợi nhuận (%) 2223.123.522.9
Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp cùng ngành nghề với doanh nghiệp cổ phần hoá nhưng không có lợi thế như sau:
Năm
1993
1994
1995
Cộng
Lợi nhuận sau thuế( trđ)
770
831,6
881,2
2482,8
Vốn kinh doanh (trđ)
3,500
3,600
3,750
10,850
Tỷ lệ lợi nhuận %
22
23,1
23,5
22,9
Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp cùng ngành nghề với doanh nghiệp cổ phần hoá nhưng không có lợi thế như sau:
Năm
1993
1994
1995
Cộng
Lợi nhuận sau thuế( trđ)
1360
1476
1665
4501
Vốn kinh doanh (trđ)
8000
8200
9000
25200
Tỷ lệ lợi nhuận %
17
18
18,5
17,9
Ví dụ : Giá trị doanh nghiệp sau khi kiểm kê đánh giá lại là 4500 triệu đồng thì giá trị lợi thế của doanh nghiệp cổ phần hoá sẽ là:
4500 (trđ ) x ( 22.9% - 17.9% ) =225(trđ)
như vậy :
Giá trị giá trị sau Giá trị lợi Chi phí tiến
doanh = khi kiểm kê ± thế của + hành cổ phần
nghiệp đánh giá DN hoá
Qua cách trình bày ở trên . Xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp có một số điểm chưa thuận lợi như tốn nhiều thời gian trong việc xác định tài sản,gây nhiều tranh cãi giữa doanh nghiệp và các cơ quan chức năng. Việc xác định lợi thế là chưa phù hợp vì đem so sánh với một doanh nghiệp khác không có lợi thế thì không có một tiêu thức nào để xác định một doanh nghiệp không có lợi thế , việc sử djụng tỷ suất lợi nhuận để tính giá trị lợi thế sẽ không chính xác.
Việc sử dụng tỷ suất lợi nhuận trong 3 năm sẽ không hợp lý bởi vì đối vơi từng ngành nghề kinh doanh đối vói từng doanh nghiệp chu kỳ kinh doanh dài ngăn khác nhau...
II. Thực trạng và một số kết quả của tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp nước ta hiện nay.
1 .Thực trạng thực hiện tiến trình cổ phần hoá.
Tiến trình cổ phần hoá DNNN còn chậm chưa xúc tiến trên phạm vi rộng ở cả nước mà chỉ ở hình thái thí điểm hoặc cổ phần hoá ở mức độ nào đó . không đạt được kết quả và mục tiêu như mong muốn .Dưới đây sẽ tổng kết những kết quả đạt được trong quá trình cổ phần hoá những năm qua và những khó khăn, nguyên nhân dẫn đến quá trình cổ phần hoá chậm .
2. Một số kết quả đã thực hiện được trong quá trình cổ hần hoá DNNN .
Thực hiện quyết định số 202 /CT, các Bộ ngành đã hướng dẫn DNNN đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần trên cơ sở số lượng DNNN đã đăng ký ngày 8/6/1992 Chủ tịch HĐBT( Nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ban hành quyết định 202/CT "Về việc tiếp tục làm thí điểm thành công ty cổ phần”. Đến ngày (4/1998) về số lượng đề án đã được duyệt và triển vọng.
1. Công ty Legamex (TPHCM)
2. Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển (Cục hàng hải Việt Nam, Bộ giao thông vận tải đóng ở TPHAVIS)
3. Xí nghiệp nhựa Bình Minh (Bộ CN nhẹ, đống tại thành phố HAVICH)
4. Nhà máy len Biên hoà (Bộ CN nhẹ, đóng tại TPHCM)
5. Công ty thiết bị thương nghiệp - ăn uống dịch vụ (Bộ thương mại, đóng tại Hà nội ).
6. Nhà máy giấy Hiệp An (Bộ CN nhẹ đóng tại TPHCM). 10 nhà máy xà phòng Việt Nam
7. Liên hiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Hoàn kiếm Hà nội (HOAKIMEX).
8. Nhà máy gạch thạch bàn (Bộ XD), đóng tại HN)
9. Nhà máy xuất khẩu Long an (tỉnh Long An)
Sau một thời gian làm thử một số doanh nghiệp đã xin rút lui hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá như Legamex.
Hơn 30 doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ tài chính để thí điểm thực hiện cổ phần hoá và 3 doanh nghiệp xin chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị 84/TTg. Sau 4 năm thực hiện quyết định 202/CT có 5 doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần đó là:
1. Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ giao thông).
2. Công ty cổ phần cơ điện lạnh (thành phố Hồ chí Minh).
3. Công ty cổ phần giấy Hiệp An (Bộ công nghiệp )
4. Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long an)
5. Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (bộ nông nghiệp)
Hai doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn.
1. Công ty thương mại tổng hợp quận Hồng Bàng (Hải phòng)
2. Công ty Gạch Bông Đức Tân ( thành phố Hồ chí minh)
Sau 4 năm thực hiện đã đúc rút được một số kinh nghiệm để bổ sung và sửa đổi chế độ về cổ phần hoá ngày 7/5/1996 chính phủ đã ra nghị định số 28/CP thay cho quyết định 202/CT với những quy định cụ thể và rõ ràng hơn.
* 2. Thực hiện theo Nghị định 28/CP: Công tác cổ phần hoá đã được các ngành các cấp quan tâm.
Thực hiện nghị định 28/CP đã thực hiện cổ phần hoá được 13 doanh nghiệp số các doanh nghiệp đang tiến hành ở bước xác định giá trị doanh nghiệp kiểm toán là 30 doanh nghiệp. Cho tới nay đã có 18 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá chuyển sang hoạt động theo luật công ty.
+ Phân theo ngành kinh tế:
- Ngành giao thông vận tải: 4 doanh nghiệp
- Ngành công nghiệp : 7 doanh nghiệp
- Ngành xây dựng : 1 doanh nghiệp
- Ngành chế biến nông lâm thuỷ sản: 3 doanh nghiệp
- Dịch vụ : 3 doanh nghiệp
+ Phân theo lãnh thổ
- Thành phố Hồ Chí Minh : 10 doanh nghiệp
- Thành phố Hà Nội : 1 doanh nghiệp
- Thành phố Hải phòng : 1 doanh nghiệp
- Tỉnh Long An : 1 doanh nghiệp
- Tỉnh Ninh Bình : 1 doanh nghiệp
- Tỉnh Bình Định : 1 doanh nghiệp
- Tỉnh Cà mau : 1 doanh nghiệp
- Thành phố Đà nẵng : 1 doanh nghiệp
- Tỉnh An Giang : 1 doanh nghiệp
* Phân theo thành phần và cơ cấu sở hữu:
Trong số 18 doanh nghiệp có 1 doanh nghiệp nhà nước không năm giữ cổ phần là công ty đầu tư sản xuất và thương mại Hà nội, Còn lại 17 công ty cổ phần, nhà nước năm giữ ít nhất là 18 % cao nhất là 51% cổ phần công ty; cổ đông là người lao động trong công ty chiếm từ 18% đến 50%; cổ đông còn lại là các cổ đông mà các đối tượng khác ngoài công ty năm giữ.
Lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp bao trùm trong một phạm vi rộng lớn của các hoạt động kinh tế, trong đó có 4 doanh nghiệp tham gia mạnh vào các hoạt động xuất khẩu.
* Một số ví dụ cụ thể phản ánh tình trạng hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Ví dụ 1: đại lý liên hiệp vận chuyển (Nhà nước giữ 18% vốn).
Chỉ tiêu so sánh
Trước CPH(01/03/93)
1996
Tăng (%)
Doanh thu (trđ)
28160
87235
210
Lợi nhuận (trđ)
8370
35000
318
Các khoản phải nộp ngân sách (trđ)
5725
22889
300
Số lượng lao động (người)
85
256
201
Thu nhập bình quân năm (ngđ)
21000
29400
14
Qua bảng phân tích ở trên ta thấy công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận tải chuyên làm dịch vụ vận chuyển từ kho của người gửi đến kho người nhận bằng các phương tiện đường bộ đường thuỷ, đường biển tới các cảng quốc tế. Công ty không có nhà cửa đất đai và văn phòng làm việc phải thuê. Công ty có 50 cán bộ, trong đó 90% là trí thức trẻ, có trình độ ngoại ngữ nghiệp vụ về giao dịch hàng hải quốc tế, có uy tín với khách hàng trong và ngoài nước. Tổng giá trị doanh nghiệp được xác định là 6,270tỷ đồng. Phát hành 31.038 cổ phiếu, mệnh giá cổ phiếu là 200.000 đồng. Trong đó nhà nước giữ 18,16% cổ phần vốn, cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp 33,06%, cán bộ công nhân viên ngoài doanh nghiệp là 48,78%. Cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp không xin vay nhà nước tự bỏ tiền mua cổ phần ưu đãi 2,202 tỷ đồng. Sau 3 năm hoạt động, số lao động của công ty là 85 người (1993) tăng lên 285 người (tháng 06/1996). Doanh thu năm 1996 gấp 2 lần năm 1993. Đưa lãi vào vốn cổ phần tăng gấp 3 lần vốn góp ban đầu, chia lãi cổ tức 30%/1năm vốn điều lệ từ 6,207 tỷ đồng, nhờ có phương án kinh doanh tốt phát hành cổ phiếu tăng lên 50 tỷ đồng thu nhập bình quân của người lao động đến tháng 6/1996 là 2,4 triệu đồng.
Ví dụ 2: xí nghiệp giấy Hiệp An (nhà nước giữ 30% vốn).
Chỉ tiêu so sánh
Trước CPH(01/03/93)
1996
Tăng (%)
Doanh thu (trđ)
4714
5000
6,6
Lợi nhuận (trđ)
18
72
300
Các khoản phải nộp ngân sách (trđ)
27
136
403
Số lượng lao động (người)
435
486
11
Thu nhập bình quân năm (ngđ)
5492
7200
31
Công ty giấy Hội an chuyển sang công ty cổ phần vào 08/1994 với tổng giá trị doanh nghiệp 4,793 tỷ đồng. Trong đó nhà nước 30% vốn cổ phần, cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp mua 30% cổ phần, người ngoài doanh nghiệp mua 40% , tổng doanh thu năm 1996 đạt trên 5 tỷ đồng. Công ty chia lãi cổ tức cao là 46,5%/năm cho nên phần lãi để phát triển sản xuất thấp.
Mặc dù cổ phần hoá là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước, qua một thời gian thí điểm thực hiện đã đạt được các kết quả rất khả quan như chúng ta nhận thấy nhưng xét về tổng thể quá trình cổ phần hoá ở nước ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn làm cho quá trình cổ phần hoá không được thực thi như mong muốn theo chỉ tiêu đề ra.
III. Những tồn tại chủ yếu trong tiến trình cổ phần hoá trong các doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay còn trên 6000 Doanh nghiệp trong đó cần phải đa dạng hoá sở hữu cổ phần hoá... chiếm một tỷ lệ quan trọng. Vì vậy để tìm ra nguyên nhân chủ quan, khách quan làm công tác này '' dẫm chân tại chỗ'' (Báo cáo của chính phủ trước Quốc Hội) là điều cần thiết. Những nguyên nhân chủ yếu có thể là:
1. Về nhận thức và hành động từ các cơ quan quản lý đến doanh nghiệp chưa đầy đủ, hành động chưa thường xuyên, liên tục biểu hiện:
- Đối với các cơ quan quản lý nhà nước có ba trở ngại là trở ngại đi chệch hướng đường lối phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa; sự tụt hậu so với phát triển chung, nạn tham nhũng của một số cán bộ.
- Đối với các doanh nghiệp người lãnh đạo (giám đốc phó giám đốc) hầu hết là chế độ bổ nhiệm nên họ.
- Do đó từ trên xuống dưới cả trong nhận thức và hành động đều thiếu tin tưởng và rụt sợ mất quyền lợi của mình.
2. Khung pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ như chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước mới dừng lại ỏ quyết định, chỉ thị của thủ tướng chính phủ, các ngành các cấp mới chỉ hành động về hành chính. Trong khi đó CPH cần đến sự quy định rõ ràng bằng luật, tài chính, lao động... các điều kiện của cơ chế thị trường dành cho hạot động này còn thiếu.
3. Hình thức cổ phần hoá DNNN là còn quá sơ sài giản đơn chưa mang tính đa dạng trong khi đó các loại hình doanh nghiệp ở các vùng, các ngành có đặc thù riêng. Nên ở đây thiếu sự chỉ đạo thích ứng. Sự nhận thức về DNNN và dn ngoài quốc doanh công ty cổ phần còn nặng nề, ấu trĩ ở cả giác độ lý luận và thực tiễn.
4. Thói quen luôn vốn vào công ty cổ phần để kinh doanh chưa có.
5. Các chính sách khuyến khích công nhân viên chức trong các DNNN chuyển sang công ty cổ phần chưa nhiều, chưa có sự hấp dẫn cần thiết để họ hăng hái trong hoạt động này.
6. Thủ tục hành chính quá ư rườm rà và tốn kém biết bao cửa ải mà doanh nghiệp phải chịu đựng. Do đó trong kỳ họp thứ 5 quốc hội khoá X sửa đổi luật doanh nghiệp nhà nước, luật doanh nghiệp tư nhân để tạo hành lang pháp lý cơ động, đảm bảo quyền lợi, tiến độ thời gian cho việc xúc tiến ra đổi công ty cổ phần....
7. Tổ chức chỉ đạo chưa tập trung thiếu đồng bộ giữa các Bộ, ngành, Trung ương, địa phương. Có ngành, có địa phương chỉ muốn thực hiện cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp lâu nay thua lỗ.
8.Các cán bộ quản lý và công nhân các doanh nghiệp nhà nước chưa mặn mà với chủ trương cổ phần hoá do ngại lợi ích cá nhân bị thiệt hại.
9. Chưa có đủ một tổ chức, đội ngũ cán bộ nghiệp vụ đủ kiến thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn có thể làm tham mưu cho việc triển khai chủ trương cổ phần hoá một cách đồng bộ và xuyên suốt.
10. Thành phần kinh tế nước ta còn nhỏ bé, tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút vốn cổ phần.
11. Nền kinh tế nước nhà chưa ổn định, chưa thật tin tưởng, yên tâm bỏ vốn làm ăn.
12. Chưa có thị trường chứng khoán. Do đó chưa tạo lập ra môi trường thuận lợi phục vụ cho quá trình mua bán cổ phần, tín dụng...
IV. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các DNNN trong công nghiệp ở nước ta.
1. Quán triệt chủ trương cổ phần hoá, từ trung ương đến địa phương cần triển khai dứt khoát đồng bộ. Cụ thể hoá các mục tiêu thực hiện và luật pháp hoá.
Như đã đề cập ở trên một trong những cản trở lớn đối với chương trình cổ phần hoá là việc chưa quán triệt đầy đủ chủ trương cổ phần hoá một bộ phận các DNNN do Đảng và nhà nước đề ra.
Nhìn chung, nhận thức về cổ phần hoá còn bị hạn chế ở đại bộ phận các cán bộ, công nhân viên chức. Phần đông ban lãnh đạo và tập thể người lao động tại doanh nghiệp không muốn có sự chuyển đổi sang công ty cổ phần. Họ vẫn muốn được nhà nước bao cấp về việc làm thu nhập, phúc lợi, chế độ nhà ở và hưu trí. Họ cho rằng cổ phần hoá sẽ làm thiệt hại đến lợi ích của mình.
Người lãnh đạo lo mất địa vị, chức quyền. Khi chuyển sang doanh nghiệp cổ phần và hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi lãnh đạo doanh nghiệp phải thực sự có tài quản lý để có thể đứng vững trong cuộc cạnh tranh gay găt. Do đó người lãnh đạo còn đứng trước cả thử thách về năng lực và tinh thần trách nhiệm.
Đối với người lao động trong doanh nghiệp họ bị ám ảnh bơỉ lo mất việc làm, mất quyền lợi bao cấp khác nhất là những người kém và thiếu kỹ năng làm việc.
Đối với cơ quan chủ quản (các bộ, UBND tỉnh thành phố trực thuộc TW...) mặc dù nhiều người đã quán triệt chủ trương cổ phần hoá hiểu rõ lợi ích của chương trình này trong quá trình cải cách và phát triển kinh tế, nhưng họ lại lo mất sân sau của mình, lo mất quyền lực chủ quản (về cấp phát vốn, xét duyệt các dự án đầu tư xây dựng cơ bản quyết định kế hoạch ngân sách...) mất nhiều lợi ích về mặt kinh tế mà các quyền lực này mang lại . Một số trường hợp khác nhiều tỉnh thành phố lo mất số thu ngân sách từ các doanh nghiệp.
Đối với người dân trong toàn xã hội, đại bộ phận dân chúng vẫn chưa hiểu rõ khái niệm cổ phần hoá cổ phiếu, cổ tức. Họ chưa được giáo dục về lợi ích mà cổ phần hoá có thể mang lại cho sự phát triển kinh tế xã hội và cho bản thân mỗi cá nhân mình. Nhiều người không hiểu được việc mua cổ phiếu của công ty cổ phần là một cách đầu tư mang lại lơị ích kinh tế cao. Một số người hiểu được lợi ích này thì sợ rủi ro mất vốn đầu và không bán được cổ phiếu khi cần tiền mặt.
Từ những phân tích trên ta thấy việc tuyên truyền giáo dục cho toàn dân về chủ trương cổ phần hoá của nhà nước là hết sức quan trọng. Do đó để thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá chính phủ nên thực hiện một chương trình giáo dục tuyên truyền toàn diện cho các đối tượng liên quan. Song quan trọng hơn là tăng thêm tính hấp dẫn của chính sách cổ phần hoá. Thể hiện là ngày 29/06/1998 chính phủ đã ban hành nghị định 44/1998/NĐ-CP về chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Nghị định này đã có sự chuyển biến căn bản tạo ra sự hấp dẫn thực sự đối với người lao động, thủ tục trình tự rõ ràng, có sự phân công trách nhiệm rõ ràng tạo điều kiện cho các bộ ngành địa phương và doanh nghiệp dễ dàng triển khai thực hiện.
Người lao động trong DNNN CPH được mua cổ phần ưu đãi với mức giá giảm 30% so với các đối tượng khác, số lượng cổ phần ưư đãi được mua tính theo thâm niên công tác của người lao động.
Người lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần ưu đãi và được hoàn trả nợ trong 3 năm đầu để hưởng cổ tức và trả nợ dần, tối đa trong 10 năm không phải chịu lãi suất. Nhưng tổng số cổ phần không được vượt quá 20% tổng số cổ phần nhà nước bán ưu đãi.
Người lao động đang làm việc trong DNNN khi tiến hành cổ phần hoá được chia số dư quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng (bằng tiền) không phải nộp thuế thu nhập để mua cổ phần của doanh nghiệp. Ngoài ra người lao động còn được mùa cổ phần bình thường tuỳ theo mức độ nhà nước năm giữ cổ phần tại doanh nghiệp mà quy định tỷ lệ mỗi pháp nhân, cá nhân được mua.
Đối với doanh nghiệp mà nhà nước không tham gia cổ phần thì không hạn chế số lượng cổ phần mỗi pháp nhân và cá nhân được mua. Loại này mỗi pháp nhân, cá nhân có thể mua 100% cổ phần của doanh nghiệp, chuyển thành doanh nghiệp tư nhân trước măt áp dụng với DNNN quy mô nhỏ, có vốn nhà nước 1 tỷ đồng trở xuống.
Đối với loại doanh nghiệp mà nhà nước giữ cổ phần chi phối cổ phần đặc biệt mỗi pháp nhân được mua không quá 10%, mỗi cá nhân được mua không quá 5% tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
Đối với loại doanh nghiệp mà nhà nước có tham gia cổ phần nhưng không năm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt mỗi pháp nhân được mua không quá 20% mỗi cá nhân được mua không quá 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
2. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các chính sách cổ phần hoá. Phân loại đối tượng thành phần các doanh nghiệp trong tiến trình cổ phần hoá.
a. Để tạo điều kiện cho các ngành, địa phương và doanh nghiệp triển khai mạnh mẽ cổ phần hoá cần sớm ban hành một số quy chế sau:
- Quy chế về thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá DNNN trước hết phục vụ cho việc tuyên truyền chủ trương cổ phần hoá của Đảng và nhà nước tới mọi thành viên trong cộng đồng đặc biệt đối với người lao động trong doanh nghiệp CPH: hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp trong diện CPH, tổ chức đào tạo nâng cao tay nghề hoặc đào tạo nghề mới cho người lao động trong DNCPH. Trợ cấp một phần hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi để người lao động có điều kiện tìm nơi làm việc. Mặt khác cần phải thực thi thực hiện tinh thần NĐ28/CP ''Nhà nước cấp cho công nhân viên một số cổ phiếu tuỳ theo thâm niên và chất lượng công tác của từng người. Người lao động đuợc hưởng 100% cổ tức, được quyền thừa kế cho con làm việc tại công ty cổ phần nhưng không được chuyển nhượng (mua, bán) vì những cổ phiếu này thuộc sở hữu của nhà nước như vậy, đây không phải là mua, nhưng cũng không phải là cho không mà cho "quyền sử dụng".
Quy chế về khoán kinh doanh, cho thuê và bán DNNN việc ban hành quy chế này nhằm tiếp tục đẩy mạnh săp xếp và đổi mới một bộ phận DNNN cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu và quản lý. Khoản kinh doanh đối với DNNN là thay đổi phương thức quản lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chưa chuyển đổi hình thức sở hữu, quản lý và sử dụng tốt hơn các tài sản đã đầu tư nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN.
- Quy chế về việc thí điểm thuê giám đốc, nhằm từng bước thay đổi phương thức quản lý kinh doanh nghiệp, tạo điều kiện cho giám đốc phát huy hết khả năng trong việc điều hành mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời tạo tiền về pháp lý cho việc hình thành nghề giám đốc. Từng bước áp dụng chế độ thuê giám đốc thay cho chế độ bổ nhiệm hiện nay. Về vấn đề sở hữu, cần sớm ban hành quy định của chính phủ về thực hiện quyền sở hữu của nhà nước đối với DNNN, có sự phân cấp quyền của chủ sở hữu nhà nước cho các bộ ngành , trung ương, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và hội đồng quản trị của các công ty, công ty có hội đồng quản trị, khăc phục tình trạng quy định không thống nhất và sự quản lý chồng chéo đối với DNNN.
3. Tạo môi trường thúc đẩy cổ phần hoá DNNN:
Đây là một nhân tố đóng vai trò quan trọng đòi hỏi các cơ quan chức năng , các ngành đoàn thể cần triển khai mạnh mẽ việc tuyên truyền, phổ biến mọi chủ trương và chính sách cụ thể về cổ phần hoá đến tận người dân trên các phương tiẹn thông tin đại chúng để tạo thành phong trào quần chúng hưởng ứng cổ phần hoá DNNN. Hình thành cơ cấu tổ chức với quyền lực cao và hiệu quả để triển khai đồng thời cần có chính sachs giảm miễn thuế. Song môi trường thuận lợi thúc đẩy cổ phần hoá DNNN cần sớm hình thành thị trường chứng khoán để thúc đẩy việc mua bán cổ phiếu doanh nghiệp bên cạnh đó thực hiện các định chế tài chính trung gian dưới hình thức ngân hàng hoặc công ty tài chính. Thành lập một số trung tâm dịch vu tư vấn về cổ phần hoá DNNN để trợ giúp cho việc triển khai cổ phần hoá DNNN. Vấn đề then chốt là phải tạo ra môi trường với khung pháp lý như tiếp tục sửa đổi bổ sung luật đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt Kiều ở hải ngoại xúc tiến dễ dàng trong việc tham gia mua cổ phiếu, thâm nhập hoạt động cổ phần hoá DNNN.
4. Phân loại đối tượng các DNNN:
Để tiến hành thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Trên thế giới mỗi nước thực hiện cổ phần hoá theo một cách thức khác nhau như các nước Đông âu cũ áp dụng ''biện pháp sốc'' để chuyển đổi khu vực kinh tế nhà nước sang kinh tế tư bản tư nhân còn ở Trung quốc thì lại ''dò dá qua sông'' để chuyển đổi khu vực kinh tế nhà nước. Còn với điều kiện hoàn cảnh đất nước Việt Nam ta thì rõ ràng không áp dụng máy móc một trong hai hình thức trên mà phải dung hoà, bổ xung hoàn thiện cho thực tế với năng lực sẵn có....nhưng xét ở mọi góc độ không đổi các DNNN tự nguyện, cũng không CPH hàng loạt ngay một lúc mà CPH cố cân nhăc từng loại DNNN, CPH với từng mức độ và ở các thời điểm khác nhau để chuyển đổi các doanh nghiệp thuộc.....nhà nước sang sở hiếu đa chủ. Chúng ta có thể phân loại DNNN như sau:
Loại 1: những DNNN phục vụ trực tiếp nhu cầu an ninh quốc phòng, nhà nước phải năm giữ 100% vốn và không tiến hành CPH.
Loại 2: những DNNN mà trong giai đoạn trước măt nhà nước vẫn cần năm giữ 100% vốn như các DNNN kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ tín dụng, các ngân hàng thương mại quốc doanh, các công ty bảo hiểm...còn những DNNN có quy mô hoạt động toàn quốc, giữ vị trí then chốt trong việc sản xuất , cung ứng các sản phẩm , các mặt hàng có tầm quan trọng chiến lược trong nền kinh tế quốc dân như xi măng, điện lực, xăng dầu....
Loại 3: các DNNN mà nhà nước chỉ cần năm giữ cổ phần chi phối, các doanh nghiệp hiện đang có lãi lớn như kinh doanh thuốc lá, rượu, bia; các doanh nghiệp có vị trí quan trọng như vận tải, hàng không, bưu chính viễn thông...
Loại 4: Các DNNN không thuộc 3 loại trên đều là những đối tượng cổ phần hoá. Nhà nước có thể giữ cổ phần hoặc không cần. Nhưng rõ ràng doanh nghiệp thuộc diện này phải được cổ phần hoá toàn diện trong thời gian từ 3 đến 5 năm.
Đối với những doanh nghiệp loại 2, loại 3 thì đồng thời với cổ phần hoá các doanh nghiệp loại 4. Nhà nước xem xét để cổ phần hoá với quyền lực chủ sở hữu của mình để băt buộc CPH theo trình tự, mức độ khác nhau, không phụ thuộc vào ý muốn Doanh nghiệp .
Việc phân loại, xác định đối tượng DNNN tham gia CPH sẽ giúp cho cơ quan chức năng, ngành liên quan tiến hành cổ phần hoá theo các thứ tự ưu tiên về mức độ và thời gian khác nhau.
Kết luận.
Cổ phần hoá DNNN là một giải pháp quan trọng trong quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước đặc biệt là khu vực kinh tế nhà nước, thực hiện điều đó ngay từ đầu thập kỷ 90 Đảng ta đã chủ trương thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Cho tới năm 1996 khi nghị định 28/CP ra đời và nghị định 44/1998/NĐ - CP quá trình cổ phần hoá được tiến hành bình thường, tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều vướng măc làm chậm tiến trình cổ phần hoá. Để khăc phục tình trạng chậm trễ cần sớm tìm ra lời giải cho bài toán sổ hữu trong khu vực DNNN tạo ra động lực cho người lao động phát huy nội lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển làm cho khu vực kinh tế nhà nước thực sự giũ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường. Do đó vấn đề cổ phần hoá chúng ta phải quyết tâm thực hiện với cách thức và bước đi thích hợp, không vội vàng../
danh mục Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo cải cách doanh nghiệp và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam(19-20 /1/1998)
2. Báo cáo công tác của CPH của Bộ tài chính tháng 2/98
3. C. Mác - Bộ tư bản tập I, II, III - Nhà xuất bản sự thật
4. Chỉ thị 84 TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/3/93 về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp.
5. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước bài toán khó đã tìm ra hướng giải - Phạm Mạnh
6. Cổ phần háo doanh nghiệp nhà nước một động lực phát triển sản xuất kinh doanh - Nguyễn Đăng Quy ( Tạp chí cộng sản )
7. Đẩy nhanh quá trình CPH DNNN - Phạm Mạnh ( Tạp chí tài chính số 05/96)
8. Điều kiện và các bước tiến hành CPH - PGS. PTS Trần Đình Tị
9. Nghị định 28/CP của Chính Phủ ngày 7/5/96 về chuyển một số DNNN thành Công ty cổ phần .
10. Nghị định 25/CP ngày 7/5/96 về việc sửa đổi một số điều của Nghị định 28/CP ngày 7/5/96.
11. Nghị định 44/CP ngày 29/6/98 về chuyển một số DNNN thành Công ty cổ phần
12. Những lợi ích thực tế trong việc vổ phần hoá các DNNN - Nguyễn Đăng Liêm (Kinh tế phát triển )
13. Nhìn lại 4 năm thí điểm CPH DNNN - PGS.PTS Hoàng Công Thi (Tạp chí tài chính )
14. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI,VII, VIII
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0673.doc