Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Yêu cầu phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã còn xuất phát từ thực tế khách quan, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp. Với mục đích nâng cao phiệu quả sử dụng vốn của các hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Gia Lâm, chuyên đề đã mô tả một cách khái quát tình hình về sử dụng vốn của các hợp tác xã nông nghiệp ở huyện dựa trên các tiềm năng mà huyện có được. Chuyên đề đã đi sâu phân tích hiệu qủa sử dụng vốn của các hợp tác xã nông nghiệp, từ đó đánh giá mặt được, những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại đó. Trên cơ sở đó đã đề ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn góp phần thúc đẩy sự phát triển của loại hình hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn của huyện Gia Lâm.
Trong quá trình thực hiện chuyên đề, em đã được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của thày giáo PGS.TS Trần Quốc Khánh, cán bộ giảng dạy của khoa Kinh tế Nông nghiệp và PTNT; cùng các cô chú, anh chị cán bộ ở Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội, Phòng Kế hoạch - Kinh tế & PTNT huyện Gia Lâm cùng các bác chủ nhiệm, các xã viên của một số hợp tác xã.
Tuy nhiên, với lượng thời gian không lớn, kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm còn hạn chế.chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu xót nhất định cần tiếp tục nghiên cứu và bổ sung trong thời gian tới. Kính mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn tận tình của các thày cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
108 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Gia Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khách quan
Thứ nhất, do chuyển hoạt động của hợp tác xã từ cơ chế quản lý bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường với nội dung hoạt động dịch vụ nên một bộ phận cán bộ còn lúng túng, bỡ ngỡ, có tư tưởng trông chờ, ỉ lại.
Thứ hai, do một thời gian dài nhà nước không quan tâm đầy đủ đến việc đào tạo cán bộ cho hợp tác xã, không có các chính sách phù hợp (đất đai, thuế, vốn...) và các chính sách đãi ngộ khác nên rất nhiều người không muốn tham gia công tác hợp tác xã.
Thứ ba, là đơn vị kinh tế hạch toán độc lập nhưng lương của cán bộ hợp tác xã hiện được quy định trong điều lệ và phương án sản xuất kinh doanh. Thực tế mức lương này được lấy theo mặt bằng lương của các chức danh cán bộ UBND xã (hưởng lương từ ngân sách). Bên cạnh đó, cán bộ quản lý hợp tác xã không được hưởng các chế độ ưu đãi như cán bộ xã được hưởng lương từ ngân sách. Việc này ảnh hưởng không nhỏ tới sự năng động, nhiệt tình của cán bộ. Thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã không thật nhiệt tình, yên tâm công tác, xu hướng cán bộ hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp muốn chuyển sang làm công tác của Uỷ ban nhân dân xã hoặc đoàn thể.
2.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, mặc dù hoạt động của hợp tác xã trong những năm qua cũng có nhiều thay đổi. Tuy vậy cũng còn gặp không ít khó khăn, thu nhập của người lao động không cao nên chưa thu hút được nhiều cán bộ có năng lực tham gia bộ máy quản lý hợp tác xã.
Thứ hai, tình hình tài chính của hợp tác xã còn nhiều khó khăn. Các hợp tác xã chưa có biện pháp cụ thể, Đảng và chính quyền một số xã quan tâm chưa nhiều
Thứ ba, cơ sở hạ tầng xuống thấp, không được nâng cấp, đầu tư thường xuyên (do thiếu vốn) dẫn đến chưa đáp ứng được với nhu cầu kinh doanh - dịch vụ hiện nay.
Thứ tư, đội ngũ kế toán trưởng, kiểm soát còn thiếu nhiều kiến thức trong khi công tác bồi dưỡng tập huấn chưa có tính hệ thống, nội dung đào tạo còn sơ sài, chưa thiết thực, chưa sát với thực tế của cơ sở.
Chương IV: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở các hợp tác xã huyện Gia Lâm
I. Mục tiêu phát triển các HTX Huyện Gia Lâm
Thực hiện Nghị định số 132/2003/NĐ - CP của Chính phủ, Huyện Gia Lâm được chia tách thành quận Long Biên và huyện Gia Lâm. sau khi tách Quận thì huyện Gia Lâm còn lại 21 xã, 1 thị trấn với tổng diện tích đất tự nhiên là 11.393 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm trên 60% (6.646,7). Với dân số toàn huyện gần 19 vạn người nhưng toàn huyện có 23 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó nhân khẩu nông nghiệp chiếm 70%.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về phát triển hợp tác xã nên để trong thời gian tới có thể củng cố, kiện toàn được công tác tổ chức, quản lý hợp tác xã Nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm ngày một hiệu quả hơn, thể hiện được vai trò của kinh tế hợp tác xã là nòng cốt của kinh tế tập thể thì mục tiêu phát triển các hợp tác xã như sau:
Thứ nhất, cần củng cố kiện toàn hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp tiến tới các hợp tác xã từng bước thực sự là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm lợi ích của thành viên và lợi ích của tập thể. Đánh giá hiệu quả của hợp tác xã phải trên cơ sở quan điểm toàn diện cả về kinh tế - chính trị - xã hội, cả hiệu quả của tập thể và của thành viên.
Thứ hai, củng cố các dịch vụ đã làm, mở rộng về quy mô, phát triển các ngành nghề dịch vụ mới. Phấn đấu trong năm 2004 đưa tổng số hợp tác xã hoạt động có hiệu quả trên toàn huyện lên trên 70%. Phấn đấu doanh thu năm 2004 đạt trên 30 tỷ đồng.
Thứ ba, trong năm 2004 phấn đấu thu phí dịch vụ đạt 98%, tập trung thu nợ đọng cũ.
Thứ tư, trong quá trình phát triển các hợp tác xã cần phải đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các hợp tác xã.
Thứ năm, phát triển các hợp tác xã phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái, thực hiện nông nghiệp hàng hoá với sản phẩm đảm bảo chất lượng
II. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
A. Các biện pháp thuộc về doanh nghiệp
1. Huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh
Để tiến hành hoạt động của mình, các hợp tác xã cần phải có nguồn vốn. Vì vậy với nguồn vốn hạn hẹp của mình, các hợp tác xã phải tiến hành huy động vốn. Muốn huy động được vốn trước hết cần phải biết được các nguồn vốn có thể huy động gồm những nguồn nào và phải huy động như thế nào.
Khi có kế hoạch hoạt động, các hợp tác xã phải tiến hành tìm xem có thể huy động được vốn từ những nguồn nào. Trên thực tế các nguồn vốn mà hợp tác xã có thể huy động có thể là: Vốn tự có, vốn vay, vốn do liên doanh liên kết, vốn tài trợ của các tổ chức và của Nhà nước…
Sau khi biết được các nguồn vốn có thể huy động được, các hợp tác xã tiến hành huy động vốn. Việc huy động vốn phải được tiến hành nhanh chóng nhằm đảm bảo vốn cho quá trình hoạt động. Đối với mỗi hợp tác xã thì khả năng huy động vốn là khác nhau tuy nhiên các hợp tác xã cần:
Thứ nhất, kiểm kê đánh giá xem nguồn vốn tự có của mình có được là bao nhiêu, đặc biệt là nguồn vốn tích luỹ từ hoạt động dịch vụ của mình qua các năm. Muốn có nguồn vốn này cao các hợp tác xã cần phải tìm cách nâng cao nguồn vốn này vì nó tạo nên tính chủ động của hợp tác xã. Một số biện pháp để có thể nâng cao nguồn vốn này như:
+ Cuối mỗi một chu kỳ sản xuất, các hợp tác xã cần phải trích một phần lợi nhuận thu được vào quỹ phát triển sản xuất của mình. Đây là việc làm hết sức cần thiết yêu cầu các hợp tác xã phải thực hiện.
+ ở các hợp tác xã có số lượng xã viên lớn có thể huy động từ các xã viên bằng cách phát động mỗi xã viên đóng góp một số vốn nhất định. Việc này là khó tuy nhiên trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng được thông qua tuyên truyền, phân tích cho các xã viên hiểu được lợi ích của dự án đang cần huy động vốn.
Thứ hai, tiến hành các thủ tục để vay vốn của tư nhân, của Ngân hàng hoặc của các xã viên trong hợp tác xã. Việc vay vốn có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào tình hình hoạt động của hợp tác xã trong các năm trước. Muốn tăng nguồn vốn này thì các hợp tác xã cần phải có kế hoạch hoạt động cụ thể cùng các khoản dự trù kinh phí, phần lãi thu được từ hoạt động này cho Ngân hàng hoặc người cho vay vốn vì trên thực tế các hợp tác xã có ít hoặc không có tìa sản thế chấp có giá trị theo yêu cầu của Ngân hàng.
Thứ ba, các dự án mang tính chất liên doanh, liên kết thì cần quy định rõ xem mỗi bên tham gia góp vốn với số lượng là bao nhiêu, cần chú ý tới các điều kiện ràng buộc khi thực hiện dự án này, có thể tìm thêm đối tác để có thêm nguồn vốn cho quá trình hoạt động.
Thứ tư, bên cạnh các nguồn vốn trên các hợp tác xã cũng phải chú ý tới nguồn vốn do Nhà nước và các tổ chức hỗ trợ cho các hợp tác xã. Cần phải có thông tin về nguồn vốn này để có thể trình UBND xin được cấp vốn.
2. Đầu tư và sử dụng nguồn vốn
2.1. Xác định đúng mục đích của việc đầu tư và sử dụng vốn
Hợp tác xã là một tổ chức kinh kế hoạt động sản xuất và kinh doanh độc lập do vậy cần phải xác định ngay từ đầu mục đích của việc đầu tư và sử dụng vốn là lợi nhuận. Các hợp tác xã khi tiến hành hoạt động cần phải tìm mọi biện pháp nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí bảo đảm có lãi.
Trong một số trường hợp như hoạt động từ thiện, vấn đề công ích...các hợp tác xã cần phải có sự đồng ý của ban quản trị trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các xã viên để tiến hành hoạt động.
Theo luật hợp tác xã thì hợp tác xã có thể huy động vốn từ:
1- Hợp tác xã được vay vốn của Ngân hàng theo quy định của pháp luật.
2- Hợp tác xã được huy động vốn góp của xã viên theo quyết định của Đại hội xã viên.
3- Hợp tác xã được vay vốn của xã viên, của các tổ chức theo điều kiện do hai bên thoả thuận, nhưng không trái với các quy định của pháp luật.
4- Hợp tác xã được nhận và sử dụng vốn, trợ cấp của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước do các bên thoả thuận và theo quy định của pháp luật.
2.2. Tổ chức nghiên cứu thị trường trước khi đầu tư và sử dụng vốn
Để sử dụng vốn một cách có hiệu quả điều quan trọng là các hợp tác xã phải tìm hiểu nghiên cứu thị trường trước khi đầu tư vào thị trường đó. Các hợp tác xã phải tìm hiểu thị trường cần gì, số lượng là bao nhiêu, quy cách mẫu mã, chất lượng sản phẩm như thế nào. Trên cơ sở đó tiến hành phân tích tài chính, từ đó xác định được quy mô đầu tư, cơ cấu loại vốn, nguồn tài trợ, thu chi, lỗ lãi phát sinh trong quá trình hoạt động. Tuy kết quả kinh tế là chủ yếu nhưng cũng cần phải tính đến hiệu quả về xã hội và hiệu quả về môi trường do quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh mang lại để có các giải pháp thích hợp.
2.3. Tiến hành đầu tư đi đôi với kiểm tra giám sát quá trình hoạt động, Có giải pháp thích hợp khi gặp vấn đề khó khăn
Sau khi phân tích đánh giá hiệu quả mà hoạt động mang lại, các hợp tác xã tiến hành đầu tư tuy nhiên trong quá trình đầu tư các hợp tác xã phải có người thường xuyên kiểm tra giám sát quá trình hoạt động để sử lý kịp thời những vấn đề phát sinh có thể xảy ra vì:
+ Nông nghiệp là ngành sản xuất sinh học. Vì vậy ngoài những tư liệu lao động có nguồn gốc kỹ thuật còn có những tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học (cây trồng, vật nuôi). Những tư liệu lao động này một mặt thay đổi giá trị sử dụng theo quy luật sinh học, mặt khác chúng không thể có sự khôi phục từng bộ phận như máy móc. Hơn nữa chu kỳ sản xuất của cây trồng vật nuôi khác phức tạp. Tuỳ thuộc từng loại mà chu kỳ sản xuất dài ngắn khác nhau. Những yêu cầu về vốn theo đặc điểm trên rất nghiêm ngặt. Vì vậy việc cung cấp vốn phải tuân thủ và phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi theo đặc tính sinh học của nó.
+ Hoạt động sản xuất nông nghiệp, nông thôn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, môi trường sinh thái ngày càng xấu đi, điều kiện thiên nhiên ngày càng khắc nghiệt hơn làm cho tính rủi ro của sản xuất ngày càng cao, tổn thất ngày càng lớn và khó lường trước được.
+ Do sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ một mặt làm cho sự tuần hoàn và luân chuển của vốn chậm chạp, sự cần thiết phải có dự trữ đáng kể trong thời gian tương đối dài vốn lưu động (giống, thức ăn gia súc, phân bón) làm cho vốn ứ đọng. Vì vậy, yêu cầu vốn cho nông nghiệp, nông thôn thường phải bổ sung một lượng lớn.
3. áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
Để sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả, việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất là điều rất quan trọng. Trên thực tế, hiện nay các hợp tác xã điển hình tiên tiến đều có sự quan tâm thích đáng đến việc đổi mới, hiện đại hoá máy móc, trang thiết bị và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới vào tổ sản xuất - kinh doanh của đơn vị mình. Tuy nhiên cuĩng cần phải căn cứ vào khả năng của từng hợp tác xã mà có hướng đầu tư cho khoa học công nghệ cho phù hợp. Điều quan trọng là sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ và có nhiều hoạt động phức tạp do vậy việc quyết định trang bị máy móc, thiết bị nào cần phải quan tâm đến lợi ích mà việc trang bị đó mang lại ở trước mắt và lâu dài.
Bên cạnh khả năng của các hợp tác xã, nhà nước cũng cần phải có các chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ như:
+ Nhà nước hỗ trợ cho kinh tế tập thể ứng dụng các thành tựu khoa học - công gnhệ, nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế biến, công gnhệ thông tin...qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công.
+ Đầu tư tập trung để nâng cao năng lực một số viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ theo vùng, nhằm hỗ trơh hợp tác xã và nông dân. Khuyến khích các cơ quan nghiên cứu khoa học - công nghệ liên kết với các hợp tác xã, thực hiện chuyển giao thành tựu khoa học - công nghệ mới cho hợp tác xã, nghiên cứu sản phẩm mới, khai thác và sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có trogn vùng và cả nước.
+ Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề...từ đó tiêu thụ được sản phẩm của các hợp tác xã.
Có thể nói, đầu tư khoa học - công nghệ, bao hàm cả đầu tư cho máy móc, cho con người và công tác thông tin, quản lý sản xuất - kinh daonh đã, đang và sẽ là định hướng chủ đạo, là ưu tiên đúng đắn và nguyên nhân thành công chng của các hợp tác xã.
4. Nâng cao trình độ của cán bộ quản lý
Sau chuyển đổi bộ máy cán bộ quản lý của HTX đã được tổ chức gọn nhẹ hơn trước. Đa số các HTX nông nghiệp chỉ có 2-3 cán bộ Ban quản trị, 1 Trưởng kiểm soát và 1 Kế toán trưởng. Trách nhiệm cán bộ HTX được nâng lên.
Nhiều cán bộ trẻ có năng lực đã được đề cử tham gia quản lý HTX. Qua khảo sát các HTX nông nghiệp, có 91,82% số cán bộ là Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm và UVQT, Trưởng kiểm soát và Kế toán trưởng có độ tuổi dưới 50. Trong 5 Huyện, Huyện Gia Lâm có tỷ lệ cán bộ trẻ dưới 50 tuổi cao nhất. Nếu phân theo đối tượng cán bộ thì số Phó chủ nhiệm và UVQT có độ tuổi dưới 50 là 100%, số Chủ nhiệm ở độ tuổi dưới 50 là 92,59%. Tỷ lệ cán bộ dưới 50 đang làm kế toán, Trưởng kiểm soát thấp hơn (88% và 85,19%). Theo xu hướng chung các Phó chủ nhiệm và UVQT HTX thường là nguồn cán bộ kế cận làm Chủ nhiệm HTX nên đội ngũ cán bộ này thường trẻ hơn.
Tất cả các cán bộ HTX nông nghiệp đều xuất thân tại địa phương và rất gắn bó với nông nghiệp. Trong đó chủ yếu là nam giới (chiếm 77,55%). Chỉ riêng đội ngũ kế toán các HTX có tỷ lệ nữ tương đối cao (chiếm 56%). Còn lại tương đối thấp.
Tất cả các cán bộ chủ chốt HTX có trình độ văn hoá hết cấp II trở lên. Trong đó hết cấp III chiếm 74,45% và hết cấp II chiếm 24,55%.
Về trình độ chuyên môn, số cán bộ có trình độ đại học chiếm 14,55%, trình độ trung cấp chiếm 40% và chưa qua đào tạo chiếm 45,45%.
Như vậy số cán bộ chưa qua đào tạo vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất. Trong các đối tượng cán bộ, đối tượng Trưởng kiểm soát có tỷ lệ cao nhất (70,37%). Số cán bộ chưa qua đào tạo chủ yếu tập trung ở những người tuổi cao không còn khả năng tiếp tục học tập. Những người này đã nhiều năm gắn bó với HTX, làm việc chủ yếu theo kinh nghiệm nhưng có uy tín (về đạo đức) trong HTX nên vẫn được tín nhiệm bều vào các chức danh của HTX (chủ yếu trong Ban kiểm soát). Tỷ lệ cán bộ chưa qua đào tạo là Phó chủ nhiệm và UVQT thấp hơn (51,61%) nhưng cũng là một thực trạng đáng lo ngại do đây là chức danh chủ chốt cần có nhiều năng lực chuyên môn trong quản lý điều hành HTX trực tiếp công việc hàng ngày của HTX. Trong các Huyện, Gia Lâm có tỷ lệ cán bộ chưa qua đào tạo thấp nhất.
Số cán bộ đã qua đào tạo là 54,55%. Phân theo đối tượng, Chủ nhiệm là 66,67%, Phó chủ nhiệm và UVQT là 48,39%, Trưởng kiểm soát là 29,63%, Kế toán trưởng là 76%. Phó chủ nhiệm và UVQT là nguồn cán bộ kế cận chính đối với cương vị Chủ nhiệm HTX nhưng tỷ lệ cán bộ đã qua đaò tạo của đối tượng này đạt thấp hơn so với tỷ lệ đã qua đào tạo của Chủ nhiệm HTX mặc dù độ tuổi trung bình của đối tượng này thấp hơn so với độ tuổi trung bình của Chủ nhiệm. Điều này chứng tỏ công tác chuẩn bị cán bộ nguồn, cán bộ kế cận còn nhiều bất cập.
Bảng 19: Trình độ văn hoá của cán bộ quản lý hợp tác xã huyện Gia Lâm
Chỉ tiêu
Tổng
Số
Trình độ văn hoá
Trình độ chuyên môn
Hết
Hết
Hết
Đại học
Trung cấp
Chưa qua
Cấp I
Cấp II
Cấp III
KT, TC
K.thuật
Khác
KT, TC
K.thuật
Khác
đào tạo
Tổng số
100
0
24,55
75,45
4,55
10
0
36,36
3,64
0
45,45
Phân theo chức danh
- Chủ nhiệm
100
0
18,52
81,48
7,41
11,11
0
40,74
7,41
0
33,33
- PCN và UVQT
100
0
25,81
74,19
9,68
12,9
0
19,35
6,45
0
51,61
- Trưởng kiểm soát
100
0
33,33
66,67
0
7,41
0
22,22
0
0
70,37
- Kế toán trưởng
100
0
20
80
0
8
0
68
0
0
24
Nguồn: UBND huyện Gia Lâm
Đối với những cán bộ đã qua đào tạo chủ yếu ở trình độ trung cấp (40%). Trong 5 Huyện, đây là Huyện có tỷ lệ cao nhất. Trong đó phần lớn là trung cấp kinh tế tài chính (36,36%). Trung cấp kỹ thuật (trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản) chỉ có 3,64% và không có trung cấp các ngành khác.
Số cán bộ có trình độ đại học không nhiều (14,55%), đạt tỷ lệ cao nhất trong 5 Huyện. Trong đó Chủ nhiệm là 18,52%, Phó chủ nhiệm và UVQT là 22,58%, Kế toán trưởng là 8% và Trưởng kiểm soát là 7,41%. Như vậy Huyện Gia Lâm đã chú trong tới công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ HTX.
Nhận xét:
- Đội ngũ cán bộ HTX xuất thân từ địa phương, gắn bó và tâm huyết với HTX đạt tỷ lệ có trình độ cao nhất trong 5 huyện
- Đa số Trưởng kiểm soát chưa qua đào tạo, tuổi cao, làm việc theo kinh nghiệm
- Huyện đã có cố gắng trong công tác đào tạo cán bộ nhưng cần làm tốt hơn trong công tác đào tạo cán bộ kế cận.
Biện pháp nâng cao năng lực của cán bộ quản lý
a. Xây dựng tiêu chuẩn hoá cán bộ
Do cán bộ Ban quản trị, Ban kiểm soát HTX được bầu công khai, dân chủ trong Đại hội xã viên HTX nên các cơ quan quản lý Nhà nước khó có thể can thiệp sâu vào nội bộ tổ chức của HTX. Vì vậy các HTX phải sớm xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về cán bộ và đưa ra thông qua tại Đại hội xã viên. Trong đó cần phải làm rõ những tiêu chuẩn riêng, phân biệt cán bộ chủ chốt và cán bộ chuyên môn giúp việc. Đặc biệt phải cụ thể hoá 3 chức danh chính (Ban kiểm soát, Ban quản trị, Kế toán trưởng). Chính việc làm rõ các tiêu chuẩn sẽ giúp cho các lần bầu cử chọn đúng người. Các HTX có thể căn cứ vào thực trạng lao động của địa phương (về trình độ chuyên môn cũng như số lượng lao động có chuyên môn) mà xây dựng tiêu chuẩn cho phù hợp. Trên cơ sở tiêu chuẩn đã có, Đại hội xã viên bầu các chức danh và Ban quản trị chọn cử cán bộ cho HTX, ưu tiên những người vượt tiêu chuẩn.
Có thể xây dựng tiêu chuẩn cán bộ các chức danh của HTX như sau:
- Cán bộ Ban quản trị phải có trình độ từ trung cấp kinh tế tài chính hoặc kỹ thuật nông nghiệp trở lên, có ít nhất 10 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, tuổi dưới 50.
- Cán bộ kế toán phải có trình độ từ trung cấp tài chính kế toán trở lên, đang trong tuổi lao động. Riêng Kế toán trưởng phải có chứng chỉ kế toán trưởng.
- Cán bộ Ban kiểm soát phải có trình độ từ trung cấp kinh tế tài chính hoặc kỹ thuật nông nghiệp trở lên, có ít nhất 10 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, đang trong tuổi lao động.
b. Tạo nguồn cán bộ
Các HTX cũng cần chú ý xem xét việc tạo nguồn cán bộ bổ sung thay thế nhất là đối với các chức danh chủ chốt. Một nguồn cán bộ kế cận quan trọng của HTX chính là những cán bộ trẻ, có năng lực, trình độ, đạt tiêu chuẩn, hiện đang làm việc cho HTX và sẵn sàng cống hiến cho HTX. HTX cũng cần mở rộng phạm vi nguồn lao động (có thể thu hút lao động có trình độ ở địa phương khác đến làm công cho HTX) và thu hút những thanh niên địa phương tốt nghiệp các trường đại học về phục vụ cho HTX. Khi tuyển chọn cán bộ HTX cần niêm yết rõ ràng tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển, vị trí cần tuyển và tổ chức thi tuyển công khai.
c. Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ
Lương cán bộ hiện nay rất thấp. Tình trạng này là phổ biến trong các HTX. Do đó nếu 1 HTX cá biệt nâng lương cán bộ lên quá cao so với mặt bằng chung sẽ khó được Đại hội xã viên chấp thuận. Do đó một mặt HTX vẫn tăng lương, mặt khác tăng cường các khoản thưởng cho cán bộ HTX nếu HTX hoạt động tốt, lợi nhuận cao. Phương án thưởng cần hết sức linh hoạt để luôn tạo động lực cho cán bộ HTX liên tục phấn đấu, có thể lấy mức lợi nhuận bình quân 3 năm hoạt động bình thường (không chịu ảnh hưởng của thiên tai...) liên tiếp làm căn cứ để tính tiền thưởng. Điều này cũng đòi hỏi phải thực hiện tốt công tác tài chính kế toán trong HTX để đảm bảo xác định đúng đắn kết quả sản xuất kinh doanh. Có thể trích 10-30% số tiền chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế và lợi nhuận định mức để thưởng cho cán bộ HTX. Đối với những HTX yếu kém do vốn quỹ ít, điều kiện kinh doanh khó khăn (đặc biệt các HTX ở những xã miền núi) đầ nghị UBND Thành phố chỉ đạo các Huyện trích ngân sách hỗ trợ một phần lươnmg cho chủ nhiệm HTX đảm bảo ngang bằng với lương của 1 đàu ngành tại địa phương.
Một vấn đề nữa mà hiện nay cán bộ HTX rất quan tâm đó là chế độ bảo hiểm xã hội (chủ yếu để giải quyết chế độ cho cán bộ HTX khi nghỉ hưu). Chính vì không có chế độ Bảo hiểm xã hội nên cán bộ HTX thường không yên tâm công tác hoặc thường phải kiêm nhiệm các chức danh khác của UBND xã hoặc cuả Hội nông dân.... Do vậy đề nghị UBND Thành phố kiến nghị Bộ Lao động thương binh và xã hội nhanh chóng triển khai áp dụng chính sách bảo hiểm xã hội cho cán bộ HTX. Đồng thời HTX cũng cần hoàn thiện các thủ tục tài chính kế toán và pháp lý như Hợp đồng lao động, Bảng chấm công... để việc triển khai bảo hiểm xã hội được thuận tiện, dễ dàng.
d. Công tác đào tạo cán bộ
Sau khi triển khai thi hành luật HTX, UBND xã, HTX đã phối hợp với các cơ quan liên quan tiến hành tập huấn cho cán bộ các HTX nông nghiệp để nắm chắc luật và tiến hành chuyển đổi các HTX nông nghiệp theo luật. Sau khi chuyển đổi, các cán bộ HTX thường xuyên được tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn để bổ sung các kiến thức mới phục vụ cho công tác quản lý, điều hành các HTX và chế độ kế toán mới. Với thực trạng đội ngũ cán bộ như trên, cần tiếp tục mở các lớp tập huấn nhằm đào tạo và bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh doanh cho đội ngũ cán bộ HTX. Do HTX nông nghiệp là tổ chức của nông dân, những người nghèo nên đề nghị UBND Huyện, Thành phố cấp kinh phí hỗ trợ các khoá học bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn cho cán bộ HTX có thể cập nhập các kiến thức mới, theo kịp với yêu cầu hiện nay của kinh tế xã hội thủ đô nói chung và Huyện Gia Lâm nói riêng. Do đó đề nghị UBND Thành phố, UBND Huyện Gia Lâm hỗ trợ kinh phí bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ HTX. Việc bồi dưỡng ngắn hạn nên được tổ chức thường xuyên hàng năm, địa điểm tại Huyện.
Các lớp đào tạo dài hạn (đào tạo đại học và trung cấp) nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản làm nền tảng lý thuyết cho cán bộ HTX. Đề nghị UBND Huyện cấp 50% kinh phí để hỗ trợ đào tạo (theo Nghị định 15/CP của Chính phủ ngày 21/2/1997 về chính sách khuyến khích phát triển HTX), phần còn lại do học viên tự đóng góp. Việc đào tạo đại học nên thực hiện tại Trường đại học Nông nghiệp I.
5. Giải pháp về thị trường
5.1. Nghiên cứu tìm thị trường đầu vào và đầu ra thích hợp cho các sản phẩm kinh doanh
Thị trường các yếu đầu vào hay còn gọi là thị trường tư liệu sản xuất là tập hợp các cá nhân, tổ chức mua và bán các tư liệu sản xuất đầu vào như phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc, giống vv...phục vụ cho quá trình sản xuất ra sản phẩm.
Thị trường tư liệu sản xuất có đặc điểm khác với thị trường sản phẩm (thị trường dầu ra) ở chỗ số lượng người mua tham gia vào thị trường ít hơn nhiều so với số lượng người mua hàng tiêu dùng và thường tập trung theo vùng địa lý. Số lượng khách hàng ít nhưng tầm cỡ lớn lên mối quan hệ mua - bán giữa người cung ứng và người tiêu thụ ở thị trường tư liệu sản xuất thường gần gũi hơn. Cầu về hàng hoá tư liệu sản xuất co giãn theo giá ít hơn các hàng hóa tiêu dùng. Khách hàng mua bán tư liệu sản xuất thường là những người mua bán chuyên nghiệp và thường có quan hệ trực tiếp với người sản xuất hơn là thông qua các tổ chức mua bán chung gian.
Mục tiêu của việc nghiên cứu thị trường trên đối với các hợp tác xã là nhằm mục đích mua được các yếu tố đầu vào rẻ, làm giảm tối đa chi phí đầu vào trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó tiết kiệm được nguồn vốn để đầu tư vào lĩnh vực khác. Trên thực tế hiện nay, các hợp tác xã chưa thật sự quan tâm đến công tác này nhất là trong việc liên kết, phối hợp giữa các hợp tác xã và giữa hợp tác xã với doanh nghiệp trong và ngoài địa bàn hạot động. Do vậy chi phí bỏ ra để mua các yếu tố dịch vụ đầu vào như phân bón, giống, thuốc trừ sâu còn rất cao. Việc này đòi hỏi các hợp tác xã phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu xem ở đâu có các yếu tố đầu vào được bán với chi phí rẻ để tiếp cận tạo mối quan hệ lâu dài.
Thị trường đầu ra hay còn gọi là thị trường sản phẩm là thị trường chủ yếu để tiêu dùng phần lớn nông sản hàng hoá do các hợp tác xã sản xuất ra.
Thực tế cho thấy các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp hoạt động chủ yếu là cung ứng dịch vụ đầu vào cho các hộ nông dân. Chỉ có một số hợp tác xã là sản xuất được hàng hoá như HTX Kim Lan sản xuất gốm sứ; HTX Ninh Hiệp mua bán và chế biến nông sản; HTX Đông Dư có hoạt động chế biến nông sản; HTX Bò sữa Phù Đổng có hoạt động thu gom sữa để bán... đối với các hợp tác xã trên thì việc nghiên cứu tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm là rất quan trọng. Làm được điều này có nghĩa là các hợp tác xã đó đã tìm được thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình, qua đó thu lại được nguồn vốn đảm bảo được vòng chu chuyển của vốn lưu động, có vốn để tiếp tục quá trình sản xuất sau.
5.2. Tìm hiểu nhu cầu thực tế của thị trường để có hướng kinh doanh cho phù hợp
Đây là công việc mà các hợp tác xã cần phải đặc biệt quan tâm. Trước khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bất kỳ một doanh nghiệp hay hợp tác xã đều phải xác định:
+ Sản xuất cái gì?
+ Sản xuất cho ai?
+ Sản xuất như thế nào?
Việc tìm hiểu nhu cầu thực tế của thị trường sẽ cho biết sản xuất cái gì và sản xuất cho ai. Hợp tác xã phải nắm được các thông tin cần thiết về nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước về các mặt hàng, về tiêu chuẩn chất lượng, các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, về mẫu mã...đối với các sản phẩm của mình. Trên cơ sở có đầy đủ các thông tin cần thiết, doanh nghiệp sẽ có định hướng mới đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh cũng như hiệu quả của việc sử dụng vốn của hợp tác xã và nâng cao khả năng cạnh tranh với các sản phẩm của các đơn vị khác.
Trên thực tế nhiều hợp tác xã ở huyện Gia Lâm chưa đề ra được phương hướng sản xuất kinh doanh có hiệu quả do vậy dẫn đến làm ăn bị thua lỗ. Để giải quết tình trạng này các hợp tác xã cần phải rà soát lại phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ gồm:
Thứ nhất, rà soát phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ được xây dựng khi chuyển đổi hợp tác xã.
Mỗi ngành nghề cần xác định rõ:
- Nhu cầu dịch vụ cho sản xuất của hộ xã viên, hộ nông dân và nhu cầu của thị trường về những sản phẩm hàng hoá khác (như sản xuất cây con giống, vật tư các loại phục vụ sản xuất Nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, hàng tiêu dùng...).
- Xác định rõ khối lượng, đơn giá, doanh thu, chi phí, lỗ lãi...
- Các điều kiện và cách giải quyết về vốn, công nghệ, thiết bị, tài sản đất đai, lao động.
- Phương thức quản lý điều hành sản xuất kinh doanh dịch vụ như kế hoạch hoá, hợp đồng (với tổ chức cung ứng vật tư dịch vụ và tổ chức, cá nhân, hộ tiêu thụ sản phẩm dịch vụ). Liên doanh liên kết tổ chức quản lý theo ngành dọc (điện), đặc biệt chú ý chế độ khoán của hợp tác xã.
- Một số vấn đề khác: Sử lý môi trường (nếu gây ra).
Qua việc rà soát những ngành nghề đang làm để loại bỏ những ngành nghề không có khả năng thực hiện được nhất là những ngành nghề không có nhu cầu của xã viên hộ nông dân và thị trường trong thời gian tới.
Hiện nay theo đề án điện nông thôn đã được hội đồng nhân dân Thành phố phê duyệt. ở cơ sở xã thôn sẽ có tổ chức điện nông thôn trong cùng ngành điện hoặc hợp đồng với ngành điện (đang được tổ chức thí điểm). Nếu có tổ chức điện và việc kinh doanh điện không thuộc hợp tác xã Nông nghiệp thì hợp tác xã phải thu lại vốn (hệ thống điện) đã có và trả cho chính quyền để chuyển trả nguồn sở hữu đã hình thành hệ thống điện từ trước đến nay do Nhà nước đầu tư hoặc hợp tác xã cũ đầu tư.
Thứ hai, nghiên cứu bổ sung ngành nghề dịch vụ mới do nhu cầu của kinh tế hộ xã viên, hộ nông dân và thị trường yêu cầu.
Đó là các ngành nghề dịch vụ chế biến tiêu thụ hoặc dịch vụ tiêu thụ nông sản. Dịch vụ vốn cho hộ xã viên, hộ nông dân vay để phát triển sản xuất:
+ Dịch vụ tiêu thụ nông sản (chế biến tiêu thụ nông sản): Đây là dịch vụ mà hộ xã viên hộ nông dân có yêu cầu cấp thiết, là biện pháp quan trọng nhất để chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông nghiệp, phát triển sản xuất nông sản hàng hoá song hầu hết các hợp tác xã chưa thực hiện được.
Để tạo điều kiện cho hợp tác xã Nông nghiệp thực hiện được dịch vụ tiêu thụ nông sản, UBND Thành phố giao Sở Nông nghiệp và PTNT:
- Nghiên cứu về thông tin thị trường nông sản trong nước về ngoài nước về tiêu chuẩn, quy mô, mẫu mã giá cả, chính sách xuất khẩu, bí quyết công nghệ, cách tiếp cận, thủ tục buôn bán của mỗi nước. Từ đó giúp các hợp tác xã Nông nghiệp nắm thông tin và chủ động tìm tạo thị trường.
- Xây dựng điểm một số hợp tác xã Nông nghiệp có khả nănglàm dịch vụ thị trường, có đầu tư hỗ trợ của tổ chức quốc tế và của Nhà nước (Đông Dư, Văn Đức) từ các điểm nhân ra diện.
- Xây dựng các trung tâm thương mại, điểm trợ, tạo điều kiện cho hợp tác xã có đất để mở rộng của hàng dịch vụ (với giá thuê đất có ưu đãi) để giới thiệu nông sản, buôn bán nông sản.
- Nâng cao dịch vụ đáp ứng việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tăng chất lượng sản phẩm bằng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến và việc cung ứng vật tư, giống cây con có chất lượng cao (ngô rau, đỗ Hà Lan, cây ăn quả, lợn ngoại...) để nông sản có chất lượng cao và giá thành hạ canh tranh với thị trường trong nướcvà thị trường nước ngoài.
- Quy hoạch vùng cây con tập trung để tạo ra khối lượng mặt hàng có quy mô khá, khắc phục hiện tượng phân tán.
+ Dịch vụ vốn vay: HTX có ưu thế cạnh tranh về dịch vụ cho vay vốn do tiếp nhận nguồn vốn cho vay hoặc nhận uỷ thác từ các tín dụng Nhà nước rồi cho xã viên vay, tiếp nhận vốn vay từ những dự án chương trình kể cả vốn ưu đãi. Đồng thời hợp tác xã có điều kiện huy động tiền gửi của xã viên, hộ dân cư trên địa bàn. Ngoài ra hợp tác xã có thể sử dụng vốn nhàn rỗi để cho vay. Mặt khác hợp tác xã có điều kiện thuận lợi về địa bàn, sát đối tượng cho vay, thủ tục nhanh chóng đơn giản hơn và có hình thức vay đa dạng có thể cho vay bằng vật tư giống, phân bón ... đến khi thu hoạch.
Thứ ba, nâng cao chất lượng dịch vụ trong các khâu dịch vụ “đầu vào” chú ý dịch vụ khâu nước, tiết kiệm nước bằng việc “cứng hoá kênh mương” tưới tiêu khoa học, chú ý dịch vụ việc chuyển giao tiến bộ khoa học phục vụ nâng cao chất lượng sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
+ Có thể dựa vào nhu cầu về hàng hoá của người dân ở các năm trước
+ Dựa vào tình hình của năm đó như (thời tiết khí hậu) để có kế hoạch cung ứng các dịch vụ cho phù hợp
+ Cập nhật các thông tin về thị trường thông qua các chương trình tìm hiểu thị trường như phỏng vấn, tiếp thị, khuyến mãi...
Bên cạnh sự lỗ lực của các hợp tác xã, nhà nước cũng cần có các chính sách xúc tiến thị trường tiêu thụ và xuất khẩu các sản phẩm nông sản hàng hoá giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phảm và đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã nông nghiệp.
6. Quản lý nguồn vốn chặt chẽ, tránh thất thoát, có chế độ thưởng phạt đối với các xã viên trong quá trình hoạt động
Để quản lý nguồn vốn có hiệu quả các hợp tác xã cần:
Thứ nhất, xác định rõ các nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của hợp tác xã.
+ Nguồn vốn tự có:
- Vốn điều lệ của hợp tác xã do xã viên góp khi đăng ký là xã viên của hợp tác xã. Khi đăng ký thành lập HTX phải có đủ vốn điều lệ. Do đó cần tiếp tục huy động vốn góp của xã viên cho đủ vốn điều lệ. Những hợp tác xã có lãi có thể trích lãi chia theo vốn góp (đã đăng ký theo điều lệ) để trừ phần vốn góp còn thiếu. Nếu có phương án sản xuất kinh doanh tốt có thể huy động thêm vốn góp để tăng vốn điều lệ.
Những cán bộ hợp tác xã có thể góp vốn cao hơn xã viên theo quy định điều lệ mẫu và điều lệ hợp tác xã.
- Quỹ phát triển sản xuất được trích từ lãi trong những năm sau chuyển đổi hợp tác xã. Những năm đầu nếu thiếu vốn thì hợp tác xã có thể trích phần lớn lãi quỹ phát triển sản xuất để bổ sung thêm vốn.
+ Nguồn vốn của hợp tác xã nông nghiệp cũ chuyển sang:
Vốn của hợp tác xã nông nghiệp cũ hình thành do toàn bộ xã viên trên địa bàn của nhiều thế hệ trong 40 năm qua góp vốn cổ phần và trích trong thu nhập hàng năm nên được xác định là vốn sở hữu cộng đồng chung trên địa bàn. Hợp tác xã có thể quản lý, sử dụng hoặc thuê của UBND xã (do hợp tác xã cũ chuyển cho UBND xã) hoặc khấu hao hoàn toàn vốn.
Trong trường hợp HTX cũ chuyển vốn cho UBND xã để UBND xã cho HTX NN thuê thì UBND xã phải tuân thủ các quy định về cho thuê vốn tài sản. Trong quá trình phát triển hợp tác xã, vốn tự có của hợp tác xã lớn dần và có thể đủ để trả tiền mua lại các tài sản và trả vốn cho UBND xã đang đại diện cho dân cư trên địa bàn quản lý vốn tài sản từ hợp tác xã cũ chuyển sang.
+ Các khoản quỹ chưa sử dụng đến của hợp tác xã.
ở nhiều hợp tác xã, quỹ chưa sử dụng đến có giá trị lớn. Có thể tạm sử dụng một phần để sản xuất kinh doanh song không để ảnh hưởng việc sử dụng các quỹ.
- Trong quỹ của hợp tác xã có một phần từ hợp tác xã cũ chuyển sang và được chi cho cộng đồng chung song phần trích hàng năm từ lãi sau khi chuyển đổi thuộc hợp tác xã mới.
+ Nguồn vốn hình thành từ công trợ của Nhà nước như kinh phí thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương. Hợp tác xã được quyền sử dụng, khấu hao để bảo toàn, không phải trả lãi và nếu khi giải thể thì trả lại cho Nhà nước để giao cho tổ chức khác tiếp tục phục vụ Nông nghiệp.
+ Các nguồn vốn liên kết liên doanh, hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài.
+ Nguồn vốn tín dụng.
Hiện nay hợp tác xã rất khó vay vốn vì không có tài sản để đảm bảo tiền vay. Các tổ chức ngân hàng không cho sử dụng tài sản của hợp tác xã cũ để thế chấp. Vì vậy hợp tác xã phải tăng vốn điều lệ, tăng quỹ phát triển sản xuất, thêm xã viên mới (vì hợp tác xã không phát hành cổ phiếu), liên hiệp liên kết, liên doanh, huy động vốn của cán bộ xã viên dưới hình thức vay theo quy chế nội bộ để có thêm vốn sản xuất kinh doanh cho hợp tác xã.
Thứ hai, giải quyết nợ của hợp tác xã.
+ Nợ phải thu: Khoản nợ cũ cũng thuộc sở hữu của cộng đồng chung (do mô hình hợp tác xã cũ như tổ chức kinh tế xã hội của toàn dân trên địa bàn) nên cần chuyển cho chính quyền xã (xã có biện pháp thu đối với từng thôn). Khi thu được nợ phải thu sẽ hoàn trả nợ phải trả, phần còn lại do hội đồng nhân dân xã bàn bạc (chi xây dựng hạ tầng ...) để công bằng với các thành phần dân cư khác và cần huy động những hộ không phải là xã viên hợp tác xã (cũ) đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn hợp tác xã.
Đối với nợ phải thu mới phát sinh từ sau chuyển đổi, hợp tác xã phải xác định rõ các khoản nợ, không tính lãi. Nếu nợ thuế (do hợp tác xã thu hộ) cần trao cho chính quyền xã giải quyết. Nếu nợ dịch vụ hợp tác xã dựa vào cam kết hoặc hợp đồng để sử lý. Việc sử lý có xem xét hoàn cảnh của từng hộ để hoãn, giảm. Chủ yếu dùng biện pháp đôn đốc, giáo dục tư tưởng. Trường hợp cố tình nợ có thể dùng biện pháp tạm giữ tài sản trừ nợ, cắt dịch vụ (điện) hoặc chuyển sang biện pháp hành chính theo pháp lệnh hợp đồng kinh tế nhưng phải căn cứ vào quy chế, hợp đồng và bàn bạc kỹ với chính quyền điạ phương.
+ Nợ phải trả:
- Kiểm kê xác minh rõ phần nợ phải trả của HTX với các Công ty khai thác công trình thuỷ lợi và các Doanh nghiệp nhà nước khác trước khi chuyển đổi để đề nghị UBND Thành phố xoá giảm theo quy định Điều 5. Nợ phải trả khác của hợp tác xã cũ được trừ vào nợ phải thu hoặc vốn của hợp tác xã cũ chuyển sang.
- Nợ phải trả sau thời điểm chuyển đổi cần xác định rõ để có kế hoạch trả nợ bình thường.
Thứ ba, tăng cường quản lý tài chính và thực hiện tốt chế độ kế toán áp dụng cho hợp tác xã Nông nghiệp.
- Quản lý tài chính chặt chẽ về vốn, thu, chi, lãi lỗ. Riêng vốn của hợp tác xã cũ chuyển sang chính quyền xã thôn rồi cho hợp tác xã mới thuê cần có quy chế quản lý. UBND xã và các thôn cần có sổ sách theo rõi chặt chẽ. Tiền thuê hoặc thu khấu hao để thực hiện tái tạo công trình.
- Thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán áp dụng cho hợp tác xã Nông nghiệp từ khâu chứng từ, ghi sổ, ghi chép hạch toán và các báo cáo tài chính.
Chú ý thực hiện những nội dung cơ bản trong công tác tài chính kế toán như không để nợ mới phát sinh, hạch toán đủ “đầu vào” và bán ra có lãi. Nếu những hợp tác xã không có nguồn lãi khác (thuê, thầu ao cá, lãi điện...) cần chú ý bố trí một phần lãi trong dịch vụ để có nguồn trích quỹ. Phần lãi trong đơn giá dịch vụ được thông qua đại hội xã viên trong kế hoạch sản xuất dịch vụ hàng năm.
Thứ tư, có chế độ thưởng phạt đối với các cán bộ cũng như xã viên trong quá trình hoạt động
Theo luật quy định xã viên có các nghĩa vụ sau đây:
1- Chấp hành Điều lệ, nội quy hợp tác xã, các nghị quyết của Đại hội xã viên;
2- Góp vốn theo quy định của Điều lệ hợp tác xã; vốn góp có thể nhiều hơn mức tối thiểu, nhưng ở mọi thời điểm không vượt quá 30% (ba mươi phần trăm) tổng số vốn Điều lệ của hợp tác xã;
3- Hợp tác giữa các xã viên với nhau, học tập nâng cao trình độ, góp phần thúc đẩy hợp tác xã phát triển;
4- Thực hiện các cam kết kinh tế với hợp tác xã, tham gia đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;
5- Trong phạm vi vốn góp của mình, cùng chịu trách nhiệm về các khoản nợ, rủi ro, thiệt hại, các khoản lỗ của hợp tác xã;
6- Bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp tác xã.
Nếu một xã viên nào đó vi phạm một trong những điều trên thì phải bồi thường theo quy định của hợp tác xã.
Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động của hợp tác xã nếu xã viên có sáng kiến đóng góp xây dựng hợp tác xã hiệu quả thì hợp tác xã đó cần có chế độ khen thưởng đối với xã viên đó. Biện pháp này có hiệu quả giúp các xã viên năng động hơn, có nhiều ý tưởng sáng tạo trong quá trình hoạt động từ đó có thể tăng năng suất, giảm chi phí.
7. Các biện pháp khác: Ngoài các biện pháp trên, để sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả hơn thì các hợp tác xã cần phải thực hiện một số biện pháp như:
+ Phổ biến Luật hợp tác xã, tuyên truyền cho mọi người hiểu rõ, hiểu đúng về hợp tác xã kiểu mới, tránh được ám ảnh của hợp tác xã kiểu cũ đối với hợp tác xã kiểu mới, xác lập lại lòng tin vào hợp tác xã trong phát triển nông nghiệp nông thôn.
+ Mở rộng dịch vụ sản xuất kinh doanh của hợp tác xã theo hướng dịch vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp. Trong đó chú ý các dịch vụ: cung cấp tín dụng, cung cấp giống, cung câp vật tư cho xã viên với nhiều cách thức khác nhau, gắn cung cấp tín dụng giống và vật tư với tiêu thụ sản phẩm. Tìm mọi cách vươn lên làm dịch vụ đầu ra như chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho xã viên. Phát triển kinh daonh có ngành nghề phi nông nghiệp để tận dụng mọi nguồn lực của hợp tác xã.
+ Tăng cường liên doanh liên kết giữa các hợp tác xã với nhau và giữa hợp tác xã với doanh nghệp Nhà nước.
B. Biện pháp thuộc về nhà nước các cấp
Tăng cường chỉ đạo của Thành phố và của Huyện đối với các hợp tác xã nông nghiệp:
Trên thực tế cho thấy những hợp tác xã có sự quan tâm của chính quyền địa phương ( Huyện Gia Lâm) thì hợp tác xã đó hoạt động có hiệu quả hơn. Ngược lại nếu không có sự quan tâm của địa phương thì hợp tác xã đó hoạt động rất khó khăn. Nguyên nhân là do các hợp tác xã khi quan hệ với chính quyền sẽ biết được nhiều thông tin về thị trường, các chính sách hỗ trợ.. mà các hợp tác xã khác không biết hoặc có biết nhưng đã chậm không đáp ứng được với hoạt động của mình. Do vậy đòi hỏi Thành phố và huyện cần có sự quan tâm nhất định đối với các hợp tác xã. Thành phố cần có nguồn vốn hỗ trợ cho các hợp tác xã đồng thời phối hợp với huyện Gia Lâm cung cấp thông tin cần thiết cho các hợp tác xã Trong quá trình chỉ đạo Nhà nước cần phải có các chính sách khuyến khích các hợp tác xã nông nghiệp như:
1. Giải quyết những vướng mắc tồn đọng về mặt tài chính đang cản trở quá trình chuyển đổi và phát triển của các hợp tác xã nông nghiệp hiện có.
Hầu hết hợp tác xã nông nghiệp cũ đều mắc nợ Nhà nước, tồn đọng từ nhiều năm nay, nên xử lý như sau:
a. Đối với nợ ngân hàng:
Cho xoá các khoản nợ ngân hàng đã được khoanh, vì đây là nợ của những hợp tác xã nông nghiệp yếu kém, không có khả năng thanh toán.
Đối với các khoản nợ ngân hàng chưa được khoanh nợ, xin được xoá nợ cho các hợp tác xã vay ngân hàng nhưng bị thiên tai, lũ lụt gây thiệt hại tài sản, một số hợp tác xã đã tự giải thể hoặc còn tồn tại hình thức, thực tế không có khả năng thanh toán nợ.
Các khoản nợ được chính phủ xoá nợ theo quyết định số 95/1988-QĐ-TTg ngày 18/5/1998 về thanh toán nợ giai đoạn II cần nhanh chóng triển khai thực hiện.
Nguồn vốn để bù cho ngân hàng do việc xoá nợ cho hợp tác xã lấy từ quỹ dự phòng rủi ro, giảm nộp ngân sách của ngân hàng, hoặc ngân sách nhà nước cấp bù.
b. Đối với nợ thuế nông nghiệp
Xoá nợ thuế cho các hợp tác xã nông nghiệp còn nợ thuế nông nghiệp từ trước khi thực hiện thu thuế trực tiếp đến cán bộ.
Ngân sách Nhà nước và Thành phố sẽ cấp bù cho địa phương được Chính phủ cho xoá nợ số thuế hợp tác xã còn nợ của Nhà nước.
c. Đối với các khoản hợp tác xã nông nghiệp nợ các đối tượng khác
Đối với các khoản nợ ngân sách, giao cho UBND huyện xem xét cụ thể từng trường hợp, đối tượng nợ, nếu thực sự hợp tác xã nông nghiệp hết vốn, không có khả năng thanh toán, thì cho xoá nợ.
Đối với các khoản nợ đoàn thể, xã viên phải xem xét kỹ từng trường hợp, bàn bạc giữa hợp tác xã và bên nợ để tìm cách giải quyết phù hợp.
Để tránh phát sinh tiêu cực mới trong nông thôn, đề nghị Chính phủ quyết định xoá nợ cho hợp tác xã đối với khoản nợ: thuế nông nghiệp, nợ doanh nghiệp Nhà nước và các đối tượng khác trên cơ sở các khoản nợ đã được làm rõ, đề nghị của Đại hội xã viên hợp tác xã, UBND huyện thẩm định. Đồng thời với việc Nhà nước xoá nợ cho hợp tác xã, các hợp tác xã cần xem xét xoá nợ cho các hộ xã viên đối với những khoản nợ liên quan đến khoản nợ Nhà nước đã xoá nợ cho hợp tác xã.
2. Tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã nông nghiệp chuyển đổi hoặc mới thành lập nâng cao hiệu quả hoạt động.
a. Cho các hợp tác xã (đủ điều kiện) được vay vốn để mở rộng hoạt động dịch vụ sản xuất kinh doanh.
b. Miễn các loại thuế đối với các hoạt động dịch vụ của hợp tác xã cho kinh tế hộ xã viên (như dịch vụ giống, vật tư, tiêu thụ sản phẩm...) và những dịch vụ chủ yếu không phải vì lưọi nhuận, ít có lãi.
c. Giao cho hợp tác xã quyền sử dụng một số đất đai dụng vào: xây dựng trụ sở làm việc nhà kho, sân phơi, xây dựng kêng mương, bờ vùng, đường xá, ruộng trình diễn kỹ thuật mới và sản xuất giống cây, con để phục vụ cho kinh tế hộ (vì hợp tác xã là một thành phần kinh tế quan trọng trong nông thôn, lại là một đơn vị kinh tế ổn định, có tư cách pháp nhân, hoạt động lâu dài, rất cần được giao đất sử dụng, không nên để hợp tác xã phải thuê lại của uỷ ban xã vùa vòng vèo, phức tạp và thêm gánh nặng về chi phí cho hợp tác xã trong bước chuyển đổi này).
d. Cho phép hợp tác xã nông nghiệp được làm tín dụng nội bộ (đối với xã viên của hợp tác xã).
Nhu cầu hoạt động tín dụng trong các hợp tác xã là một yêu cầu bức xúc, nhất là trong điều kiện Nhà nước đang thiếu vốn đáp ứng nhu cầu của hợp tác xã. Thực tế vừa qua, nhiều hợp tác xã hoạt động tín dụng nội bộ tương đối có kết qảu nhưng chưa được chính thức cho phép hoạt động. Vì vây, kiến nghị chính phủ cho phép thựuc hiện dịch vụ tín dụng nội bộ với nội dung: huy động tiền tiết kiệm của xã viên và sư rdụng vốn tự có của mình để cho xã viên vay phát triển sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống và mở rộng dịch vụ sản xuất kinh daonh của hợp tác xã.
e. Có chính sách biện pháp gợi mở thị trường cũng như cung cấp thông tin tới hợp tác xã và nông dân. Tăng cường tổ chức nghiên cứu và cung cấp thông tin ở Bộ nông nghiệp và ở các địa phương.
f. giảm các thủ tục phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã dăng ký kinh doanh.
Kiến nghị
Từ những vấn đề phân tích ở trên có thể rút ra một số kiến nghị như sau:
1. Kiến nghị về tổ chức HTX
Thứ nhất, đề nghị UBND Thành phố có ý kiến chỉ đạo xử lý dứt điểm một số vấn đề vướng mắc, tồn tại hiện nay của các hợp tác xã về công nợ, quyền sử dụng đất đối với các trụ sở của các hợp tác xã nông nghiệp hiện nay.
Thứ hai, đề nghị Thành phố sớm chỉ đạo cho các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp được đóng bảo hiểm xã hội để cán bộ tham gia hợp tác xã yên tâm công tác.
Thứ ba, bố trí các nguồn vốn để đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng cơ sở như hệ thống điện, kênh mương.
Thứ tư, Nhà nước cần có hệ thống quản lý HTX thống nhất từ Trung ương đến địa phương, tránh sự chỉ đạo phân tán như hiện nay.
2. Về chính sách hỗ trợ
Đề nghị Thành phố kiến nghị với các bộ, ngành của Trung ương sớm triển khai thực hiện các chính sách nhằm khuyến khích phát triển các hợp tác xã đã được quy định trong Luật hợp tác xã, các Nghị định của chính phủ. Một số chính sách như:
+ chính sách quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ và có chính sách thu hút cán bộ quản lý và khoa học - kỹ thuật về công tác tại hợp tác xã.
+ Hỗ trợ cho các xã viên xây dựng cơ sở hạ tầng (mương, trạm bơm…), hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ ( giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ thông tin).
+ Có các chính sách ưu tiên về tín dụng giúp các hợp tác xã mở mang dịch vụ:
Khuyến khích nhiều hình thức góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sử dụng đất của thành viên để tăng thêm nguồn vốn kinh doanh cho hợp tác xã. Công khai hoá đóng góp của thành viên.
+ Do hoạt động của hợp tác xã là phục vụ hộ nông dân, các ngành chủ yếu giải quyết lao động và sản xuất bằng thủ công, lãi suất thấp, tài sản thế chấp hạn chế. Nhà nước cần có khoản vốn cho vây ưu đãi về thuế suất, thời gian, thủ tục.
+ Chính sách đất đai: Nhà nước không thu tiền của các hợp tác xã sử dụng đất để làm mặt bằng phát triển ngành nghề và dịch vụ. Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền 10 năm cho hộ dồn dân.
+ Chính sách thuế: miễn các loại thuế trong một thời gian nhất định (từ 3 năm đến 5 năm) đối với hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp mới chuyển đổi hoặc mới thành lập, tạo điều kiện cho hợp tác xã có thêm vốn mở rộng kinh doanh.
Kết luận
Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Yêu cầu phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã còn xuất phát từ thực tế khách quan, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp. Với mục đích nâng cao phiệu quả sử dụng vốn của các hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Gia Lâm, chuyên đề đã mô tả một cách khái quát tình hình về sử dụng vốn của các hợp tác xã nông nghiệp ở huyện dựa trên các tiềm năng mà huyện có được. Chuyên đề đã đi sâu phân tích hiệu qủa sử dụng vốn của các hợp tác xã nông nghiệp, từ đó đánh giá mặt được, những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại đó. Trên cơ sở đó đã đề ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn góp phần thúc đẩy sự phát triển của loại hình hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn của huyện Gia Lâm.
Trong quá trình thực hiện chuyên đề, em đã được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của thày giáo PGS.TS Trần Quốc Khánh, cán bộ giảng dạy của khoa Kinh tế Nông nghiệp và PTNT; cùng các cô chú, anh chị cán bộ ở Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội, Phòng Kế hoạch - Kinh tế & PTNT huyện Gia Lâm cùng các bác chủ nhiệm, các xã viên của một số hợp tác xã.
Tuy nhiên, với lượng thời gian không lớn, kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm còn hạn chế...chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu xót nhất định cần tiếp tục nghiên cứu và bổ sung trong thời gian tới. Kính mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn tận tình của các thày cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Phạm Văn Việt
Danh mục tài liệu tham khảo
I. Danh mục các sách tham khảo
Giáo trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp - NXB Thống kê, HN, 2001.
Giáo trình kinh tế nông nghiệp - NXB Thống kê, HN, 2002.
Giáo trình Phân tích chính sách Nông nghiệp, nông thôn - NXB Thống kê, HN, 2001.
Giáo trình Lập dự án đầu tư phát triển Nông nghiệp, nông thôn - NXB Thống kê, HN, 2001.
Giáo trình Marketing Nông nghiệp - NXB Thống kê, HN, 2001.
Giáo trình Kinh tế thương mại - dịch vụ, NXB Thống kê, 1997
Hợp tác hoá trong nông nghiệp Việt Nam: Lịch sử - Vấn đề - Triển vọng/ Chử Văn Lâm, Nguyễn Thái Nguyên: Sự thật, 1992.
Khảo sát các hình thức tổ chức hợp tác của nông dân nước ta hiện nay/ Đào Thế Tuấn: Chính trị quốc gia, 1995.
Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp/ Lâm Quang Huyên: KHXH, 1995.
ảnh hưởng của đô thị hoá đến nông thôn, ngoại thành Hà nội, thực trạng và giải pháp/ Lê Du Phong, Nguyễn Văn áng, Hoàng Văn Hoa, Chính trị quốc gia, 2002.
Lý luận về hợp tác hoá - Kinh nghiệm lịch sử và sự vận dụng ở nước ta: Hà Nội, Sự thật, 1991.
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nông thôn trên thế giới và Việt Nam/ Nguyễn Điền - Thống kê, 1996.
Đầu tư trong nông nghiệp. Thực trạng và triển vọng/ Nguyễn Sinh Cúc, Chính trị quốc gia, 1995.
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay/ Phạm Thị Cần - Chính trị quốc gia, 2003.
Hợp tác xã và thời kỳ vàng son của kinh tế gia đình/Trần Đức - Hà Nội: Tư tưởng, 1991.
Lý luận về hợp tác xã. Quá trình phát triển hợp tác xã ở Việt Nam, Nhà xuất bản NN - HN, 2003.
Phát triển và đổi mới quản lý hợp tác xã theo Luật hợp tác xã/Nguyễn Văn Bích - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
Kinh tế hợp tác của nông dân và kinh tế thị trường/ Lê Trọng, NXB Nông nghiệp, HN 1994.
II. Danh mục các luận văn
1. Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất rau an toàn ở xã Văn Đức - Gia Lâm - Hà Nội/ Nguyễn Thị Huệ - Khoá 41 Khoa KTNN&PTNT.
2. Một số giải pháp chủ yếu phát triển sản xuất giống cây ăn quả tại trung tâm nghiên cứu thực nghiệm rau an quả Gia Lâm - Hà Nội./ Chu Đức Chung - Khoá 41 Khoa KTNN&PTNT.
3. Nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ ở hợp tác xã nông nghiệp sau chuyển đổi theo Luật HTX trên địa bàn tỉnh Hà Tây./ Đặng kim Cương - Khoá 40 Khoa KTNN&PTNT
III. Danh mục các chuyên đề
1. Một số vấn đề về hợp tác xã - Nguyễn Phượng Vĩ - NN&PTNT:2/01
2. Bản chất, đặc thù và những nguyên tắc của mô hình kinh tế Hợp tác xã - NCKT:9/01
3. Hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam - NCKT:2/1999
IV. Danh mục tạp chí
1. Tạp chí Nông nghiệp và PTNT số 2/2004, số 4/2004.
2. Mối quan hệ giữa quỹ tín dụng nhân dân và HTX NN: số 7/2001.
3. Tăng cường vai trò của hợp tác xã nhằm giúp hộ xã viên sử dụng đất được giao có hiệu quả hơn/ Lê Văn Hoạt, Tạp chí Quản lý kinh tế nông nghiệp, số 6 năm 1993.
4. Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 1/2004, số 3/2004, số 8/2004.
5. Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 10/2003.
V. Các tài liệu khác
1. Tài liệu hội thảo: chính sách và giải pháp mở rộng tín dụng đối với kinh tế tập thể ở Hà Nội, Hà Nội tháng 4 - 2004.
2. Kỷ yếu hội thảo Đổi mới và phát triển hợp tác xã ở Hà Nội - Tháng 2 - 2004.
3. Luật hợp tác xã năm 1996.
4. Báo cáo kết quả thực hiện chương trình phát triển kinh tế và từng bước hiện đại hoá nông thôn 2001 - 2003 phương hướng nhiệm vụ năm tiếp theo của huyện Gia lâm.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36767.doc