Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao kết quả và hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Thanh Trì

Kể từ khi đi vào hoạt động, NHCSXH Thanh Trì đã thực hiện cho vay ưu đãi tới nhiều hộ nghèo trên địa bàn huyện, hoạt động cho vay hộ nghèo của ngân hàng ngày càng được mở rộng, hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng ngày càng tăng lên, đòng góp vai trò qua trọng trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo của huyện Thanh Trì nói riêng và của cả nước nói chung. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì vẫn ở mức thấp, và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vay của hộ nghèo trên địa bàn huyện Thanh Trì cũng ngày càng tăng lên, đòi hỏi ngân hàng phải tìm các giải pháp để đẩy mạnh hoạt động cho vay hộ nghèo, nâng cao được hiệu quả của hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì. Việc nâng cao được hiệu quả của hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo cũng đồng nghĩa với việc từng bước thực hiện thành công công cuộc xoá đói giảm nghèo trên địa bàn xã.

doc112 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao kết quả và hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Thanh Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tục đầu tư tiếp nếu thấy có hiệu quả, không để tiền nhàn rỗi, trong quá trình sản xuất phải đảm bảo một số tiền để trả lãi cho ngân hàng; tuân thủ nguyên tắc “có vay có trả”, trả nợ cho ngân hàng đúng thời hạn để gây dựng uy tín tốt tạo điều kiện thuận lợi cho lần vay sau. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HUYỆN THANH TRÌ. 3.1. PHƯƠNG HƯỚNG XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA HUYỆN THANH TRÌ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HUYỆN THANH TRÌ: 3.1.1. Phương hướng xoá đói giảm nghèo của huyện Thanh Trì: * Mục tiêu: Đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho hộ nghèo. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 6,58% năm 2006 xuống còn 1,2% đầu năm 2010, đến cuối 2020 phấn đấu còn 0,5% hộ nghèo. * Chỉ tiêu giảm nghèo: Bảng 17: Chỉ tiêu giảm nghèo huyện Thanh Trì giai đoạn 2006 - 2010 Chỉ tiêu Đơn vị 2006 2007 2008 2009 2010 Tỷ lệ hộ nghèo (đầu năm) % 6,58 5,04 3,6 2,4 1,2 Số hộ nghèo giảm trong năm Hộ 550 500 450 400 500 (Nguồn: Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì.) * Nhiệm vụ giảm nghèo trong những năm tiếp theo: Tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ, chính quyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức và mọi người dân về chương trình giảm nghèo, trong đó cần: huy động các nguồn lực đảm bảo thực hiện giảm nghèo, chỉ tiêu giảm nghèo; làm tốt công tác tuyên truyền về xoá đói giảm nghèo; nâng cao năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nghèo. Phát triển kinh tế xã hội, đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh, ưu tiên những xã khó khăn có nhiều hộ nghèo. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, thương mại - dịch vụ, nông nghiệp. Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng kết hợp du lịch sinh thái, phát triển cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Tiếp tục phát triển các khu công nghiệp Ngọc Hồi, Cầu Bươu, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống để thu hút, giải quyết nhiều việc làm cho lao động trong đó có người nghèo. Thực hiện chương trình, dự án hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi và các hoạt động giảm nghèo tạo điều kiện cho hộ nghèo có việc làm phát triển sản xuất, tăng thu nhập, cần thực hiện các biện pháp như: Thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi cho người nghèo; tiếp tục thực hiện cho vay bò chăn nuôi, sinh sản cho hộ nghèo; thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm cho hộ nghèo; tập huấn, hướng dẫn người nghèo sản xuất kinh doanh, tổ chức tập huấn, hướng dẫn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, chăn nuôi trồng trọt, tổ chức thăm quan hộ điển hình, trao đổi kinh nghiệm, cách thức làm ăn cho hộ nghèo. Hỗ trợ hộ nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở, kế hoạch hoá gia đình. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng quỹ “Vì người nghèo” và các hoạt động xã hội hoá công tác giảm nghèo. Có chính sách hỗ trợ các hộ nghèo không có khả năng thoát nghèo. 3.1.2. Phương hướng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội trong những năm tiếp theo: * Về huy động vốn: Huy động vốn năm 2007 đạt 4.000 triệu đồng. Những năm sau tăng 10%. * Về hoạt động cho vay xoá đói giảm nghèo: Doanh số cho vay năm 2007 đạt 25.100 triệu đồng. Dư nợ cho vay hộ nghèo năm 2007 đạt 32.812 triệu đồng. Doanh số thu nợ hộ nghèo đạt 19.550 triệu đồng Mức cho vay bình quân trên một hộ dự định đạt 6 triệu đồng/hộ. Tỷ lệ nợ quá hạn ở mức 0,5%. Số hộ còn dư nợ dự tính năm 2007 là 5.500 hộ. Ngân hàng đề ra mục tiêu là cố gắng đáp ứng tối đa nhu cầu vay vốn của các hộ, xét duyệt cho vay đúng đối tượng, không để vốn vay thất thoát, giảm tối thiểu nợ quá hạn, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn của các hộ, phối hợp với các ban ngành đoàn thể hướng dẫn kỹ thuật sản xuất kinh doanh cho các hộ, tích cực hướng dẫn, giải đáp thắc mắc về quy trình thủ tục vay vốn cho các hộ, duy trì quan hệ tốt với khách hàng… NHCSXH huyện Thanh Trì cần phải có biện pháp cụ thể, tích cực trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo để có thể thực hiện được phương hướng phát triển mà ngân hàng đã đề ra trong những năm tới, đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công phương hướng giảm nghèo của huyện Thanh Trì đã đề ra trong những năm tiếp theo. 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HUYỆN THANH TRÌ. 3.2.1. Đối với hoạt động huy động vốn: 3.2.1.1 Đa dạng hoá các nguồn vốn của ngân hàng: Việc huy động vốn đối với NHCSXH là rất khó khăn, nhưng khi nhu cầu về vốn cho vay các đối tượng chính sách ngày càng tăng thì có một kế hoạch huy động vốn phù hợp, đầy đủ và kịp thời là không thể thiếu của ngân hàng. Việc đưa ra kế hoạch nguồn vốn cho NHCSXH các tỉnh, các phòng giao dịch là công việc do bộ tài chính thực hiện. Đối với bản thân NHCSXH, cũng như từng phòng giao dịch cần phải có những biện pháp tích cực để hoàn thành kế hoạch nguồn vốn được giao, tuy nhiên việc huy động vốn, cũng như các biện pháp huy động vốn lại phải tuân theo các quy định từng thời kỳ. Do vậy việc đưa ra các giải pháp để đa dạng hoá các nguồn vốn của NHCSXH là công việc mang tính chất vĩ mô, các phòng giao dịch phải thực hiện theo quyết định của Chính phủ và ban quản trị ngân hàng, việc đưa ra một giải pháp nào để thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn tại phòng giao dịch địa phương đều phải được sự phê duyệt, đồng ý của cấp trên và phải phù hợp với những quy định của Ngân hàng. Đối với NHCSXH huyện Thanh trì trong những năm qua ta thấy rằng kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng đều không hoàn thành, điều này là do nhiều nguyên nhân. Trong những năm tới Chính phủ và ban quản trị NHCSXH cần tìm ra những biện pháp để huy động được nhiều vốn, đa dạng hoá nguồn vốn. Với việc cho vay với lãi suất ưu đãi thì việc huy động vốn theo lãi suất thị trường là không đơn giản. NHCSXH nói chung và NHCSXH huyện Thanh Trì nói riêng cần phải tìm kiếm, tập trung huy động các nguồn vốn có lãi suất thấp, các nguồn mà NHCSXH Thanh Trì có thể tự tìm kiếm, huy động như từ cho, tặng, tiền gửi tự nguyện không phải trả lãi hoặc lãi suất thấp. Xoá đói giảm nghèo là sự nghiệp có tính chất xã hội hoá, là nhiệm vụ thường xuyên của chính quyền các cấp, các ban ngành đoàn thể, các tổ chức, cá nhân. NHCSXH huyện Thanh Trì nên phát động các phong trào, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các ban ngành, đoàn thể vận động tạo phong trào sâu rộng thường xuyên để tranh thủ, thu hút các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng, vốn quyên góp, ủng hộ, tiền gửi không lấy lãi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Ngân hàng cũng cần tích cực vận động hộ nghèo thực hiện tiết kiệm, đây là khoản tiền tuy không lớn nhưng là vốn ổn định và chi phí thấp. Cần có quy định bắt buộc tất cả các thành viên nhóm phải đóng khoản tiền ban đầu khi gia nhập nhóm, tiền bắt buộc hàng tháng, đây là tiền tiết kiệm thuộc sở hữu của người tiết kiệm, được gửi vào NHCSXH và được trả lãi suất không kỳ hạn, được rút ra khi người gửi có nhu cầu. Về lâu dài thì các nguồn vốn huy động theo lãi suất thị trường sẽ quyết định khả năng bền vững của ngân hàng. Để huy động được nguồn này thì ngân hàng cần cạnh tranh với các NHTM khác về các vấn đề lãi suất, phương thức huy động, năng lực, uy tín. Chính phủ và ban quản trị cần xem xét điều chỉnh lãi suất, và phương thức huy động cho phù hợp, hấp dẫn, để tạo điều kiện cạnh tranh với các NHTM, từ đó tạo điều kiện cho các chi nhánh và phòng giao dịch hoàn thành kế hoạch nguồn vốn được giao. Bản thân phòng giao dịch NHCSXH huyện Thanh Trì muốn hoàn thành kế hoạch nguồn vốn cần tự nâng cao uy tín và năng lực, gây dựng lòng tin đối với khách hàng, quảng bá, giới thiệu về ngân hàng cho khách hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của từng cán bộ. Tại NHCSXH Thanh trì hiện nay còn chưa có hình thức huy động vốn thông qua hình thức mở tài khoản tiền gửi thanh toán. Tiền gửi thanh toán của ngân hàng là một nguồn vốn rẻ nhất đối với ngân hàng. Trong thời gian tới NHCSXH cần phải mở rộng hình thức này, muốn vậy NHCSXH cần tham gia vào hệ thống liên ngân hàng, áp dụng công nghệ mới và hiện đại trong toàn hệ thống. Để thực hiện được hình thức huy động vốn này trên địa bàn huyện Thanh Trì ngoài việc tham gia vào hệ thống, PGD NHCSXH huyện Thanh Trì cần giới thiệu tới khách hàng tạo dựng được niềm tin đối với khách hàng về sự an toàn, bí mật và thuận tiện của hệ thống. Để tăng nguồn vốn huy động, khắc phục tình trạng không hoàn thành kế hoạch nguồn vốn trong toàn bộ hệ thống NHCSXH trong đó có PGD NHCSXH Thanh Trì thì NHCSXH cần tiến hành phát hành trái phiếu, kỳ phiếu NHCSXH, với hình thức này NHCSXH có thể huy động được một nguồn vốn lớn, trong thời gian ngắn, giảm được chi phí hoạt động, thời gian sử dụng nguồn vốn dài. Để có thể huy động được nguồn vốn này thì ngân hàng cần chuẩn bị và nghiên cứu kỹ lưỡng quy mô hoạt động, hình thức huy động, thời gian, địa điểm huy động, phương thức phát hành; tổ chức tốt công tác tuyên truyền, quảng cáo giới thiệu ý nghĩa, mục đích phát hành tới công chúng một cách rộng rãi; đảm bảo mức lãi suất danh nghĩa không thấp hơn các giấy nợ ngân hàng của các tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra NHCSXH cũng cần phải tích cực thực hiện việc huy động nguồn vốn ODA, vay vốn của bảo hiểm xã hội, tiết kiệm bưu điện, vay các tổ chức tín dụng trong nước khác…. 3.2.1.2. Đa dạng hoá các hình thức huy động: NHCSXH áp dụng các cần hình thức đa dạng trong huy động tiền gửi của các tổ chức và cá nhân như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi hưởng lãi như là tài khoản tiết kiệm, thực hiện dịch vụ thanh toán, ngân quỹ: kết hợp với các tổ chức để thực hiện dịch vụ trả lương, thanh toán các dịch vụ sinh hoạt, các dịch vụ thanh toán thẻ, thẻ ATM, thu học phí của sinh viên… NHCSXH cần áp dụng các hình thức đa dạng trong huy động tiền gửi tiết kiệm từ dân cư, bên cạnh hình thức tiết kiệm truyền thống, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm gửi góp, cần thực hiện thêm tiết kiệm ngoại tệ và các hình thức tiết kiệm trả lãi trước. NHCSXH cần thực hiện đa dạng hình thức huy động kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, theo đó tạo khả năng chuyển đổi cho các giấy nợ ngân hàng này, hình thức đa dạng về kỳ hạn thanh toán gốc, kỳ hạn thanh toán lãi, phát hành huy động bằng ngoại tệ bên cạnh huy động bằng đồng nội tệ… 3.2.1.3. Thực hiện các chương trình thu hút khách hàng: Việc thu hút tiền gửi của khách hàng không chỉ bằng lãi suất đưa ra, mà ngân hàng cần phải có các biện pháp tuyên truyền, quảng cáo về hoạt động của mình, giới thiệu cho khách hàng hiểu về ngân hàng, gây dựng lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng. Thực hiện các chương trình khuyến mại như phát hành xổ số, trao giải thưởng, quà tặng… để thu hút khách hàng đến gửi tiền, từ đó có thể nâng cao được nguồn vốn của ngân hàng. Biện pháp này đã tỏ ra rất hiệu quả tại nhiều nước. Các nỗ lực huy động tiết kiệm cần được hỗ trợ bởi quảng cáo, trong đó nhấn mạnh đến khả năng tiếp cận dễ dàng, đơn giản, tính an toàn của tài khoản tiền gửi, dễ rút tiền khi cần thiết…NHCSXH huyện Thanh Trì cần quan tâm đến hình thức truyền miệng vì đây là hình thức đơn giản mà hiệu quả nhất. Để đảm bảo tính xác thực trong việc truyền miệng, dịch vụ huy động tiết kiệm phải đúng hạn, chu đáo và trung thực. 3.2.1.4. Mở rộng mạng lưới tín dụng: Ngoài việc giao dịch tại trụ sở làm việc, NHCSXH huyện Thanh Trì cần phải thành lập nhiều tổ giao dịch lưu động thông qua việc cử nhân viên ngân hàng định kỳ đến các xã để giới thiệu sản phẩm. Việc thành lập các giao dịch lưu động sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng được địa bàn, phạm vi hoạt động, có thể giới thiệu được cho nhiều người dân biết về ngân hàng, hiểu ngân hàng và tiếp cận được với các dịch vụ của ngân hàng, và từ đó ngân hàng có điều kiện thu động được nhiều tiền gửi hơn. 3.2.1.5. Hoàn thiện cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, thủ tục của ngân hàng: - Hoàn thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, trang thiết bị kỹ thuật. Hiện nay trụ sở làm việc của NHCSXH huyện Thanh Trì vẫn phải đi thuê nhà dân, các điều kiện về an toàn không đảm bảo, địa điểm dễ bị thay đổi, do đó ảnh hưởng đến lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng về tính an toàn, thuận tiện, do đó cần có một bộ mặt, trang thiết bị tạo được lòng tin cho khách hàng. Áp dụng công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực tin học phục vụ cho hoạt động ngân hàng. - Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng tinh thông nghiệp vụ ngân hàng. Khoán mức tiền tiết kiệm huy động được từng thời kỳ đối với mỗi cán bộ ngân hàng, qua đó sẽ khích thích tính năng động, tự chủ của cán bộ. Đội ngũ nhân viên phải tiếp đón khách hàng với thái độ thân thiện, hoà đồng. - Thủ tục giao dịch phải được cải tiến sao cho nhanh gọn, dễ hiểu, không gây rắc rối, phiền hà cho khách, việc giao dịch chỉ cần diễn ra trong thời gian ngắn. 3.2.2. Đối với hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo: 3.2.2.1. Từng bước xoá bỏ chính sách cho vay theo lãi suất ưu đãi: Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, nhìn chung thì có hai quan điểm chủ yếu: Thứ nhất, cho vay theo lãi suất ưu đãi đặc biệt, thấp hơn lãi suất huy động trên thị trường. Quan điểm này cho rằng, hộ nghèo và các đối tượng chính sách nói chung là khó khăn về tài chính, đang ở những vùng, những lĩnh vực kinh tế cần được ưu tiên đầu tư nên phải sử dụng công cụ lãi suất để kích thích đầu tư, giảm bớt khó khăn về tài chính. Do đó cho vay với lãi suất càng thấp càng tốt. Thứ hai, cho vay theo lãi suất thị trường để giúp người vay làm quen với nền kinh tế thị trường, kinh tế hàng hoá, mặt khác cũng giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN và đảm bảo tính bền vững cho các tổ chức tín dụng cho vay, phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế. Hai quan điểm trên đều có mặt tích cực và mặt đúng của nó, tuy nhiên mỗi quan điểm chỉ phù hợp với từng giai đoạn và từng điều kiện nhất định. Quan điểm thứ nhất là quan điểm truyền thống, lãi suất thấp được coi là phù hợp với các khoản cho vay đối với hộ nông dân nghèo để thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và hỗ trợ người nghèo ở nông thôn. Việc áp dụng mức lãi suất thấp dễ làm nảy sinh những tiêu cực, đó là những người không thuộc diện hộ nghèo nhưng nhờ mối quan hệ thân quen với cán bộ làm công tác xét duyệt nên đã được liệt vào danh sách hộ nghèo và được vay vốn, như vậy vốn vay của ngân hàng đã cho vay sai đối tượng, làm cho vốn không đến được với các hộ nghèo thật sự, làm cho tình trạng nghèo đói không khắc phục được. Hơn nữa, lãi suất thấp thường đánh giá thấp khả năng tự chủ tài chính của người cho vay và ngăn cản việc huy động tiết kiệm tự nguyện, do lãi suất huy động thấp dẫn đến khả năng làm triệt tiêu nhiều nguồn tiết kiệm, từ đó dễ dẫn đến tình trạng thiếu hụt vốn cho vay người nghèo, không đủ nguồn lực cung cấp cho người nghèo. Do vậy chính sách cho vay ưu đãi luôn đi kèm với chính sách hạn chế tín dụng. Nếu các món vay ưu đãi không được phân bổ cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên và không có sự kiểm soát chặt chẽ sẽ gây ra lãng phí trong sử dụng các nguồn lực. Cho vay với lãi suất ưu đãi tạo nên lượng cầu quá tải và có thể dẫn đến hình thức phân chia khẩu phần thông qua quan hệ cá nhân giữa khách hàng và cán bộ tín dụng. Lãi suất cho vay ưu đãi quá mức cần thiết và vượt quá khả năng của NSNN thì gánh nặng tài chính sẽ đè lên vai Nhà nước. Ngược lại nếu cho vay theo lãi suất thị trường thì trong thời kỳ đầu, hộ nghèo sẽ gặp nhiều khó khăn về tài chính vì trong nền kinh tế thị trường, họ là người yếu thế hơn cả, do vậy vấn đề kích thích đầu tư cho vùng nghèo, lĩnh vực cần ưu tiên sẽ không thực hiện được. Do vậy, đối với hộ nghèo trong thời kỳ đầu cần phải được vay vốn theo lãi suất ưu đãi nhưng ưu đãi ở mức độ nào thì cần phải tính toán cho hợp lý và trong tương lai cần tăng dần lãi suất đó lên, dần dần bằng lãi suất thị trường. Lãi suất cần được điều chỉnh như sau: Lãi suất huy động vốn trên thị trường < Lãi suất cho vay ưu đãi < Lãi suất cho vay trên thị trường. Giai đoạn đầu mới thành lập NHCSXH thì lãi suất cho vay hộ nghèo được xác định ở mức 0,5%, thấp hơn so với lãi suất huy động vốn trên thị trường. Lãi suất này hiện nay đã được điều chỉnh lại với mức 0,65%, đã cao hơn lãi suất huy động chút ít. Trong thời gian tới ngân hàng cần tiếp tục xem xét nâng cao mức lãi suất cho vay để có thể nâng cao mức lãi suất huy động tạo điều kiện cho việc cạnh tranh với các NHTM, lãi suất cho vay đó phải dần tiến đến lãi suất thị trường, để giảm bớt được gánh nặng về cấp bù lãi suất của Nhà nước. Từ đó có thể sử dụng những khoản trợ cấp, hỗ trợ từ Nhà nước và bên ngoài vào việc đào tạo, xây dựng tổ chức. Hộ nghèo hoàn toàn có thể chấp nhận vay vốn ngân hàng với lãi suất cao hơn mức lãi suất cho vay hiện nay của ngân hàng vì hộ quan tâm nhiều hơn đến khả năng và lượng vốn được vay chứ không phải chỉ có lãi suất vay. Việc xoá bỏ trợ cấp và nới lỏng các quy định về lãi suất là điều kiện tiên quyết để NHCSXH hoạt động bền vững. Tuy nhiên việc này không thể thực hiện ngay một lúc, cần có lộ trình thích hợp. 3.2.2.2. Một số biện pháp đẩy mạnh công tác thu hồi nợ, đảm bảo cho việc hoàn trả vốn vay đầy đủ và đúng hạn: Mục tiêu của ngân hàng là đưa vốn đến được với càng nhiều hộ nghèo càng tốt. Cho dù ngân hàng có sử dụng bao nhiêu biện pháp để huy động vốn đi chăng nữa thì cũng không đủ nếu vốn cho vay của ngân hàng không được bảo toàn và phát triển. Hộ nghèo được hưởng rất nhiều ưu đãi so với các đối tượng khác khi vay vốn ở NHCSXH nên việc đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn là điều tất nhiên hộ nghèo phải tuân thủ. Đồng thời, xây dựng cho hộ nghèo ý thức hoàn trả vốn vay đúng thời hạn và đầy đủ sẽ có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của hộ khi sử dụng vốn, lựa chọn được cách sử dụng vốn có hiệu quả để có tiền trả nợ ngân hàng. Để bảo toàn được vốn vay NHCSXH có thể sử dụng một số biện pháp như sau: Như đã biết hộ nghèo muốn được vay vốn cần ra nhập vào tổ tiết kiệm và vay vốn ở địa phương. Về nguyên tắc, cho vay thông qua tổ tiết kiệm và vay vốn là sử dụng sức ép của các thành viên trong tổ thay thế cho tài sản thế chấp vì các thành viên không muốn bỏ rơi các thành viên khác hoặc không muốn phải chịu bất kỳ hình phạt nào vì sự trả chậm. Trong trường hợp nếu có một thành viên gặp khó khăn và không có khả năng hoàn trả vốn vay thì các thành viên khác phải chịu trách nhiệm hoàn trả vốn vay, nếu không thì khoản vay của cả tổ sẽ bị coi là quá hạn. Tuy nhiên, tại NHCSXH Thanh Trì cũng như nhiều phòng giao dịch khác hiện nay, vai trò bảo lãnh của tổ tiết kiệm và vay vốn vẫn chưa được phát huy trong việc nâng cao khả năng hoàn trả của các thành viên trong tổ. Dù một phần lãi suất cho vay hộ nghèo được NHCSXH chia cho tổ để thúc đẩy hoạt động hỗ trợ của tổ đối với ngân hàng, song khi xảy ra tình trạng không trả được nợ đến hạn thì ngân hàng vẫn là bên chịu rủi ro. NHCSXH nên đề nghị Chính phủ xem xét, cân nhắc về tư cách pháp nhân của các tổ, nhóm. Điều này sẽ cho phép ngân hàng cho vay hộ nghèo qua tổ nhóm với tư cách pháp lý đầy đủ, xác định rõ quyền lợi và trách nhiệm của các tổ chức này. Đồng thời các tổ tiết kiệm và vay vốn cần phối hợp chặt chẽ với ngân hàng trong việc xét duyệt cho vay, các tổ cần xét duyệt theo đúng quy định, tránh tình trạng nể nang tình làng nghĩa xóm mà cho vay tuỳ tiện, không đúng đối tượng, xét luợng tiền cho vay phải tương ứng với mục đích sử dụng vốn vay của các hộ, không nhiều quá, cũng không ít quá. Các tổ cũng cần thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay của các hộ, đôn đốc các hộ trả nợ đúng hạn, tổ chức các buổi họp học hỏi kinh nghiệm, rút ra bài học trong tổ, các thành viên trong tổ phải giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh để từng thành viên sử dụng vốn có hiệu quả, có thể hoàn trả nợ cho ngân hàng. Hiện nay NHCSXH đang áp dụng phương thức thu hồi gốc một lần vào cuối thời hạn tín dụng. Hình thức này phù hợp với những hoạt động theo mùa của hộ vay, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên sẽ gây ra rủi ro mất vốn đối với ngân hàng nếu người dân bị mất mùa. Trên thực tế các chương trình tín dụng có khả năng thu hồi vốn cao cho thấy hoàn trả định kỳ là phương thức tích hợp hơn so với hoàn trả một lần. Số tiền mà hộ nghèo phải trả mỗi kỳ bao gồm cả gốc và lãi và là một khoản tiền cố định. Ngân hàng phải tính toán cẩn thận thời điểm hình thành thu nhập để khách hàng có nguồn trả nợ, tránh tình trạng nợ chồng chất. Nhờ đó, hộ có kế hoạch trả nợ cụ thể và dễ dàng trả nợ ngân hàng hơn là trả một khoản tiền lớn một lúc. Đồng thời đến thời hạn cuối cùng, số tiền hộ tiết kiệm sẽ lớn hơn vì nợ đã được trả gần hết trong kỳ. Về phía ngân hàng có thể thu hồi vốn nhanh hơn, đồng thời sẽ tận dụng và nâng cao trách nhiệm của các tổ tiết kiệm và vay vốn trong thu hồi nợ cho ngân hàng. NHCSXH nên có những hình thức khuyến khích đối với những hộ hoàn trả đúng thời hạn. Ngoài các biện pháp về nghiệp vụ, để thu hồi vốn vay và nâng cao trách nhiệm của hộ vay vốn, NHCSXH có thể áp dụng một vài biện pháp tác động vào uy tín của hộ trong cộng đồng. Nhìn chung, khách hàng sẽ hoàn trả món vay nếu họ cảm thấy uy tín của mình bị suy giảm trước những người thân quen. Ngân hàng có thể lợi dụng điều này thông qua việc nêu tên trên báo chí, đài phát thanh địa phương hay tại các cuộc họp của địa phương những hộ chưa trả tiền vay. NHCSXH cần xem xét xoá bỏ việc khoanh nợ và xoá nợ cho các hộ không đủ điều kiện trả đối với các món vay của ngân hàng. Có thể thay thế bằng hình thức đảo nợ hoặc giãn nợ cho các đối tượng này. Đảm bảo triệt để nguyên tắc “ có vay có trả”, tránh tình trạng các hộ nghèo cố tình hoặc hiểu nhầm là vốn vay của ngân hàng không cần hoàn trả. Đối với các hộ đến hạn nhưng không trả được nợ thì cán bộ ngân hàng phối hợp với tổ tiết kiệm và vay vốn tìm hiểu rõ nguyên nhân hộ không trả được nợ và có biện pháp cụ thể đối với những hộ này. Có thể cho hộ vay thêm để khắc phục khó khăn nhưng nợ cũ vẫn phải trả, kết hợp với tư vấn cho hộ cách làm ăn có hiệu quả hơn. Cùng với các tổ tiết kiệm và vay vốn, các hội đoàn thể tích cực kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay để vốn vay được sử dụng đúng mục đích, đem lại hiệu quả cho người sử dụng vốn. Ngân hàng cần thẩm định, xem xét kỹ càng danh sách hộ nghèo đề nghị vay vốn do các tổ gửi lên, để đảm bảo cho vay đúng đối tượng, chỉ cho vay đúng đối tượng là hộ nghèo và có nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh thật sự. Ngân hàng cần phối hợp các cơ quan chuyên môn, các cán bộ địa phương tổ chức các buổi hướng dẫn về kỹ thuật sản xuất từng ngành, giới thiệu các tiến bộ công nghệ mới cho các hộ nghèo, để các hộ biết cách làm ăn, áp dụng được công nghệ tiến bộ, từ đó đồng vốn được sử dụng có hiệu quả, đời sống của các hộ được nâng cao, và các hộ có khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. NHCSXH cũng có thể đưa ra biện pháp khuyến khích người vay trả nợ đúng thời hạn như cam kết sẽ cho hộ nghèo vay với số vốn lớn hơn trong lần vay tiếp theo nếu như hộ vay trả nợ đúng thời, như vậy sẽ khuyến khích các hộ trả nợ đúng thời hạn. 3.2.2.3. Phối hợp với các cơ quan chuyên môn thực hiện hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho các hộ vay vốn: Việc hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất, kinh doanh cho các hộ nghèo vay vốn là rất cần thiết. Điều này cho phép các hộ biết được kỹ thuật sản xuất sao cho có hiệu quả cao, không bị thua lỗ, hoàn lại được vốn đầu tư, từ đó giúp cho nguồn vốn của ngân hàng ít gặp rủi ro hơn, nguồn vốn không bị thất thoát. Việc hướng dẫn kỹ thuật, giúp hộ sản xuất kinh doanh thuận lợi vươn lên thoát nghèo cũng có nghĩa là vốn của ngân hàng đã phát huy được hiệu quả xã hội. Tuy nhiên hoạt động hướng dẫn này của NHCSXH huyện Thanh Trì hiện nay gần như không có, việc hướng dẫn này hoàn toàn do các cơ quan chuyên môn, các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, UBND các huyện thực hiện, hoặc do các hộ tự học hỏi từ các nguồn khác nhau, hoặc chỉ học hỏi thông qua các buổi trao đổi kinh nghiệm trong tổ. Điều này làm cho ngân hàng không biết được hoạt động hướng dẫn đang diễn ra như thế nào, không thể bàn luận được với các cơ quan chuyên môn về việc nên hướng dẫn những kỹ thuật gì cho phù hợp với mục đích sản xuất kinh doanh của các hộ vay vốn từ ngân hàng, điều đó có thể dẫn đến có những kỹ thuật phục vụ cho các hộ vay vốn tại ngân hàng không được hướng dẫn cụ thể. Những hộ nghèo cũng thường là những hộ thiếu kinh nghiệm làm ăn nên việc hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ nghèo vay vốn là quan trọng hơn cả. Hiện nay Ngân hàng chưa có điều kiện để có những cán bộ hướng kỹ thuật, vì vậy Ngân hàng cần tích cực phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, với Sở nông nghiệp huyện, với các chương trình khuyến nông, khuyến lâm để hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ vay vốn theo đúng nhu cầu và mục đích sử dụng vốn của các hộ. Bên cạnh việc hướng dẫn kỹ thuật sản xuất kinh doanh cũng cần giới thiệu các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để người dân được biết và có thể áp dụng vào sản xuất kinh doanh. Cần duy trì thường xuyên các buổi họp trao đổi kinh nghiệm trong các tổ tiết kiệm và vay vốn để các thành viên học hỏi lẫn nhau, rút ra những bài học kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh. 3.2.2.4. Điều chỉnh lại cơ cấu các loại vốn: Hiện nay NHCSXH chủ yếu cho vay ngắn hạn, khối lượng vốn trung hạn là ít hơn. Điều này là có lợi cho ngân hàng bởi vì ngân hàng sẽ quay vòng được vốn nhanh hơn. Tuy nhiên trong thời gian tới NHCSXH huyện Thanh trì cần tăng khối lượng vốn cho vay trung hạn lên nhiều hơn, để tạo điều kiện cho các hộ nghèo có thể đầu tư vào những ngành, cây trồng,vật nuôi có giá trị kinh tế cao nhưng lại đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian đầu tư dài. Và việc tăng khối lượng vốn trung hạn sẽ phù hợp với các loại cây trồng vật nuôi có chu kỳ sinh trưởng dài. Từ đó sẽ tạo điều kiện cho các hộ nhanh chóng thoát nghèo và có thể vươn lên làm giàu. 3.2.2.5. Cải tiến thủ tục cho vay: NHCSXH cần cải tiến thủ tục cho vay sao cho nhanh gọn, đơn giản, dễ hiểu. Hầu hết những hộ nghèo có trình độ dân trí thấp do vậy các thủ tục vay, các loại giấy tờ phải thật đơn giản, dễ hiểu để họ không bị vướng mắc, làm đi làm lại nhiều lần mới vay được vốn, điều này cũng giúp cho quá trình giao dịch được nhanh gọn. Quy trình vay vốn cần phải được tiến hành trong thời gian ngắn, có như vậy mới không làm lỡ mùa vụ sản xuất hay thời cơ kinh doanh của các hộ. 3.2.2.6. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và tâm huyết với sự nghiệp xoá đói giảm nghèo: Trong thời gian tới NHCSXH huyện Thanh Trì cần nâng cao cả về số lượng và chất lượng cán bộ tín dụng. Cần phải có kế hạch đào tạo các cán bộ để đảm bảo sự đồng đều về trình độ chuyên môn. Cán bộ tín dụng cũng như cán bộ quản lý cần được đào tạo sơ lược về ngân hàng tài chính và đặc biệt phải nhận thức được rằng người nghèo cũng có thể tiết kiệm và vay vốn và hoàn trả đầy đủ. Các kết quả khảo sát và kinh nghiệm thực tế cần được trao đổi, phổ biến nhằm thay đổi thực trạng thiếu lòng tin khi tiến hành giao dịch với người nghèo. Để có thể thay đổi được nhận thức về người nghèo thì không chỉ cần trang bị cho cán bộ những kiến thức cơ bản mà bản thân họ phải có sự tâm huyết đối với công việc của mình. Trong công tác cho vay, cán bộ tín dụng phải tuân thủ đầy đủ các bước cần thiết theo quy chế cho vay trong quá trình thẩm định, xét duyệt và theo dõi khoản vay. Việc cán bộ tín dụng thường xuyên đến thăm khách hàng sẽ giúp đảm bảo rằng khách hàng vẫn đang duy trì hoạt động kinh doanh hay không và mức độ hoàn trả món vay như thế nào. Qua đó có quyền không cho vay đối với những hộ nghèo không đủ điều kiện hoặc có nghi ngờ về việc lập danh sách địa phương gửi lên. Cần tăng cường năng lực thẩm định các món vay nhỏ và quy trình thẩm định cũng nên được hoàn thiện hơn nữa. Cần soạn thảo các bảng tham khảo nhanh về doanh thu và chi phí dưới hình thức của một danh sách kiểm tra đối với từng hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau như trồng trọt, chăn nuôi, và các hoạt động kinh tế thông thường khác. Kết quả công việc của cán bộ tín dụng được đánh giá bằng những tiếu thức như dư nợ, nợ quá hạn, khả năng thu hồi món vay, uy tín và số ngày làm việc; trong khi đó số khách hàng mà một cán bộ tín dụng quản lý lại không được coi là một tiêu thức, điều này có thể dẫn đến tình trạng cán bộ tín dụng thích các món vay lớn hơn là việc gai tăng số lượng các món vay nhỏ, điều này sẽ cản trở cho vay đối với hộ nghèo vốn chỉ vay các món nhỏ. Việc mở rộng mạng lưới cần phải gắn với việc tiêu chuẩn hoá tổ chức cũng như sắp xếp biên chế của ngân hàng. Ví dụ cần xác định các tiêu chí giới hạn về số lượng khoản cho vay, khối lượng giao dịch hàng ngày, số lượng sổ sách chứng từ mà mỗi cán bộ tín dụng, kế toán, và thủ quỹ phải xử lý, thực hiện nhằm tránh tình trạng quá tải như hiện nay. Để đưa vốn tới tận tay người nghèo, ngoài cán bộ của ngân hàng còn có mạng lưới các tổ tiết kiệm và vay vốn và sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội, góp phần quan trọng giúp đỡ ngân hàng lựa chọn đối tượng được vay vốn. NHCSXH cần có một chiến lược cụ thể về việc xây dựng, nâng cao năng lực cho đối tác địa phương trong việc thực hiện, quản lý vốn cho vay và huy động tiết kiệm. Đây là công tác vô cùng quan trọng góp phần quyết định đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. NHCSXH Thanh Trì một mặt tận dụng khả năng vận động quần chúng của các tổ chức này, mặt khác cần có chương trình đào tạo, tập huấn tại các xã, huyện về việc ghi chép sổ sách, tuyên truyền lợi ích của tiết kiệm, của việc thu hồi vốn vay đầy đủ và đúng hạn… Tác động cũng như hiệu quả của hệ thống tín dụng sẽ được cải thiện rõ rệt nếu như cán bộ của các tổ chức xã hội được đào tạo đầy đủ về các kiến thức cơ bản, các hoạt động kinh tế. Điều này có thể được thực hiện trên cơ sở phối hợp với cơ quan khuyến nông. NHCSXH Thanh Trì cần có các biện pháp để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đối tượng này trong quá trình hỗ trợ ngân hàng đánh giá và lựa chọn hộ được vay vốn được chính xác và trong công tác thu hồi vốn cho vay tại các xã. Trên thực tế các đối tượng này vẫn được hưởng một phần lãi suất cho vay nên cũng phải có trách nhiệm san sẻ rủi ro mất vốn với ngân hàng. Đồng thời có chế độ thưởng, phụ cấp cho các đối tượng này nếu họ hoàn thành tốt công việc thu hồi vốn tại địa phương, chấp hành nghiêm chỉnh sổ sách kế toán… để khuyến khích họ làm việc tốt hơn. NHCSXH nên tập trung vào việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cộng tác viên là các tổ chức chính trị, xã hội vì về lâu dài đây mới là nguồn lực hỗ trợ chủ yếu cho hoạt động của ngân hàng. 3.2.2.7. Đối với các hộ nghèo vay vốn: Các hộ nghèo vay vốn muốn sử dụng vốn có hiệu quả, sinh lời, thoát được cảnh đói nghèo thì cần phải luôn chú trọng tới một số biện pháp sau: - Xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh, cơ cấu đầu tư vốn hợp lý và sử dụng vốn vay đúng mục đính. Việc xác định phương hướng sản xuất kinh doanh của hộ phải căn cứ vào những điều kiện sẵn có của hộ, căn cứ vào thị trường, vào khả năng vốn tự có của hộ và số vốn có thể vay được từ ngân hàng, việc xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh sẽ giúp cho hộ đầu tư có hiệu quả, có xác định được phương hướng sản xuất kinh doanh thì hộ mới có thể tính toán được nhu cầu về vốn một cách chính xác, từ đó tiến hành vay của ngân hàng với số vốn cần thiết. Việc xác định cơ cấu vốn đầu tư hợp lý cũng là một cơ sở để hộ xác định nhu cầu vay vốn, để đảm bảo cho việc đầu tư vốn cho từng khâu công việc, từng giai đoạn, từng yếu tố đầu vào được cân đối phù hợp, không thừa cũng không thiếu, đảm bảo mang lại hiệu quả cao. Sau khi đã nhận được vốn vay các hộ phải sử dụng vốn đúng mục đích sản xuất kinh doanh, hoặc nếu có chuyển đổi mục đích sử dụng vốn thì cũng phải tham khảo ý kiến của cán bộ ngân hàng, học hỏi kinh nghiệm của các hộ khác, và lĩnh vực chuyển đổi sang phải đem lại hiệu quả cao hơn mục đích trước đây, không chuyển đổi vốn vay sang mục đích tiêu dùng sinh hoạt. Có như vậy vốn vay mới phát huy hiệu quả, mới không bị thất thoát, các hộ mới thu được lợi nhuận, có khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng và thoát khỏi đói nghèo. - Các hộ cần tích cực học hỏi kinh nghiệm từ các hộ khác, học hỏi các phương thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tìm hiểu và áp dụng các công nghệ, biện pháp sản xuất tiên tiến, tích cực nâng cao trình độ học vấn. Có như vậy thì các hộ mới phát triển việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả, không bị thua lỗ. - Các hộ nghèo vay vốn cần hiểu rõ trách nhiệm và nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc vay vốn. Các hộ phải tuân thủ nguyên tắc có vay có trả. NHCSXH cho các hộ nghèo vay với các ưu đãi đặc biệt, nhưng không có nghĩa là các hộ không cần phải hoàn trả vốn cho ngân hàng. Các hộ cần đầu tư vốn hợp lý, có hiệu quả, thu hồi được vốn, có lãi để có thể trả nợ cho ngân hàng, có như vậy thì mới tạo được sự tin tưởng của ngân hàng, của tổ đối với mình đê có thể tiếp tục vay vốn trong lần sau. Việc không trả nợ đúng hạn cho ngân hàng, không những chỉ ảnh hưởng đến uy tín của bản thân hộ, mà còn ảnh hưởng tới ngân hàng trong hoạt động cho vay, và ảnh hưởng tới các thành viên khác trong tổ tiết kiệm và vay vốn sẽ không được tiếp tục vay vốn của ngân hàng chừng nào thành viên trong tổ chưa trả nợ. 3.3. KIẾN NGHỊ: NHCSXH huyện Thanh Trì năm trong hệ thống NHCSXH và thuộc sự quản lý của Chính phủ, vì vậy để có bất cứ một sự thay đổi nào ở NHCSXH huyện Thanh Trì cần phải có sự tác động từ cấp trên, và được thực hiện đồng bộ trong cả hệ thống. Vì vậy dưới đây là môt số kiến nghị được đưa ra đối với Chính Phủ, các bộ ngành liên quan, UBND các cấp và hệ thống NHCSXH. 3.3.1. Tập trung sức nâng cao năng lực tài chính cho NHCSXH để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của hộ nghèo. Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, NHNN cùng xem xét trình Thủ tướng Chính phủ biện pháp tăng vốn điều lệ cho ngân hàng, hiện nay vốn điều lệ của ngân hàng mới chỉ đạt khoảng 30% mức vốn dự kiến. Trong thời gian tới, vốn cho vay của NHCSXH sẽ vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn từ NHNN nên NHNN cần nghiên cứu và sớm có cơ chế cho vay vốn đối với NHCSXH với lượng vốn lớn, theo lãi suất và các điều kiện ưu đãi để giúp ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn vay cho hộ nghèo. Sau khi đã ổn định hoạt động, NHCSXH cần xác lập lại mối quan hệ giữa chính phủ với ngân hàng trong hỗ trợ các đối tượng chính sách. Cả ngân hàng và Chính phủ vẫn theo đuổi những mục tiêu nhất định, trong đó có những mục tiêu giống và không giống nhau. Để đảm bảo nguồn tài trợ từ Chính Phủ được kết hợp hiệu quả với nguồn vốn ngân hàng tự huy động, cần thông qua ký kết các hợp đồng giữa ngân hàng và chính phủ. Hợp đồng bao gồm cam kết cho vay của ngân hàng cho cáa đối tượng theo yêu cầu của Chính phủ. Chính phủ có thể cấp phát vốn, tham gia cho vay một phần, còn lại là ngân hàng cho vay. Hợp đồng cần xem xét rủi ro và cơ chế bù đắp. Lãi suất cho vay cụ thể được tính toán dựa trên kết cấu các loại vốn tham gia và chi phí của chúng. Chính phủ cho phép NHCSXH từng bước thực hiện cho vay theo lãi suất thị trường đối với các hộ nghèo. Các món vay của Ngân hàng nhỏ, chi phí quản lý lớn, rủi ro món vay cao nên không thể duy trì lâu dài lãi suất cho vay ưu đãi. Hơn nữa, vấn đề đáng quan tâm nhất đối với hộ nghèo là điều kiện vay vốn và thời điểm được nhận vốn, mức vay, thời hạn và số lần được vay vốn chứ không phải là lãi suất món vay. Bộ Kế hoạch, đầu tư, Bộ tài chính cần tạo điều kiện cho ngân hàng tiếp cận và tìm kiếm các nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, các NGO… Trong hoàn cảnh uy tín của NHCSXH vẫn chưa được các tổ chức quốc tế công nhận thì các cơ quan quản lý Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho ngân hàng vay hoặc tiếp nhận vốn của các tổ chức này. UBND huyện Thanh Trì trình HĐND dành một phần vốn ngân sách địa phương từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi trong kế hoạch hàng năm để tăng vốn cho NHCSXH Thanh Trì. Bổ sung vốn uỷ thác cho ngân hàng quản lý, cho vay theo các điều kiện chỉ định của huyện nhưng vẫn đảm bảo quy trình nghiệp vụ của ngân hàng và đảm bảo quay vòng vốn. UBND huyện, các hội đoàn thể trên địa bàn huyện Thanh Trì cần giúp đỡ NHCSXH trong việc huy động vốn, nhất là đối với các nguồn vốn rẻ, hoặc được cho, tặng… 3.3.2. Nhà nước quan tâm đến vấn đề tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng đi đôi với xoá đói giảm nghèo: Khi xem xét khoảng cách giữa hai nhóm người giàu nhất và nghèo nhất trong dân số có thể thấy sự gia tăng liên tục về tình trạng bất bình đẳng. Hội nhập vào kinh tế thế giới cũng đi kèm với khoảng cách lớn hơn giữa thu nhập của lao động có tay nghề và không có tay nghề. Đồng thời có nhiều dấu hiệu cho thấy khoảng cách giữa các vùng cũng ngày càng lớn. Tác động giảm nghèo của tăng trưởng kinh tế sẽ ít hơn khi bất bình đẳng gia tăng, và Việt Nam sẽ thu được những kết quả chậm hơn về giảm nghèo trong những năm tới nếu không có biện pháp cụ thể, rõ ràng. Các dân tộc thiểu số nằm trong các nhóm có nguy cơ tụt hậu. Trong thời gian tới Nhà nước cần phải có các chính sách để ưu tiên cho hộ như cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, phân phối lại đất đai hiện nay do các nông trường Nhà nước nắm giữ… Những người di cư từ nông thôn ra thành thị cũng là một nhóm có tiềm năng rủi ro. Hầu hết những người di cư từ nông thôn ra thành thị đều làm ăn tốt hơn, tuy nhiên co sở hạ tầng đô thị phát triển không đầy đủ và cơ chế quản lý hành chính hiện nay nhằm hạn chế sự chuyển dịch này có thể làm cho người di cư sống trong tình trạng nghèo đói. Vấn đề đặt ra đối với Chính phủ là hạn chế dòng di cư này thông qua các biện pháp tăng trưởng và đa dạng hoá ở nông thôn. Thu nhập phải được tăng lên từ chính việc tăng năng suất nông nghiệp khi mà lao động nông nghiệp chuyển sang khu vực phi nông nghiệp ngày một nhiều hơn. Nhà nước cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, trung tâm y tế, trường học, hệ thống thuỷ lợi và tưới tiêu, hệ thống đường giao thông để tiết kiệm chi phí và thời gian tiêu thụ nông sản… Điều kiện khó khăn của hệ thống giao thông nông thôn đã cản trở dân tại các làng xã tiếp cận nguồn vốn tín dụng tại các trung tâm hành chính nông thôn. Tạo điều kiện để các xã nhận được hỗ trợ của hệ thống nghiên cứu và khuyến nông, cung cấp các dịch vụ có tính trọng tâm và theo nhu cầu của nông dân. Các hoạt động mùa màng, chăn nuôi gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản sẽ phát triển tốt hơn nếu tiếp cận được với công nghệ mới, dự đoán được thị trường… Đồng thời thúc đẩy sự phát triển của kinh tế trang trại - một nhân tố quan trọng đang góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. Các vấn đề về thông tin không cân xứng và khả năng cung ứng dẫn đến việc Nhà nước phải cung ứng các dịch vụ cho xã hội nói chung và người nghèo, xã nghèo nói riêng. Thực tế cho thấy việc cải thiện hệ thống đường xá và hệ thống điện ở nông thôn, hoặc trợ cấp một khoản phù hợp để đầu tư định hướng ở nông thôn nhằm tăng thu nhập cho các hộ nghèo thường tốn kém hơn là các dịch vụ tài chính khác, đặc biệt là những nơi có cơ sở hạ tầng kém phát triển. Do vậy, ngân hàng không thể tự mình cung ứng các dịch vụ xã hội này mà cần có sự tham gia của các cơ quan Nhà nước. Vấn đề thị trường và tiêu thụ sản phẩm của hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo ở nông thôn cũng là vấn đề cần quan tâm. Không tiếp cận được với thị trường, không dự đoán được nhu cầu của thị trường, giá cả nông sản bấp bênh …là những yếu tố làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ nghèo không ổn định. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm có liên quan trực tiếp đến bảo toàn vốn của ngân hàng và tạo động lực mở rộng tín dụng. 3.3.3. Nhà nước cần chú trọng nâng cao trình độ dân trí, trình độ sản xuất kinh doanh của hộ nghèo: Đến khi nào tất cả các hộ nghèo đều nhận thức được tầm quan trọng của thoát nghèo đối với gia đình họ thì khi đó công cuộc xoá đói giảm nghèo mới thật sự có ý nghĩa và đạt được những kết quả to lớn. Hiện nay có rất nhiều hộ chưa ý thức được tầm quan trọng của việc thoát nghèo từ đó dẫn đến vốn được vay được sử dụng để tiêu dùng chứ không nhằm mục đích tăng thu nhập. Các hộ có trình độ học vấn cao có ý thức thoát nghèo và nỗ lực thoát nghèo hơn nhiều các trình độ có học vấn thấp. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, trình độ sản xuất kinh doanh đóng một vai trò quan trọng quyết định hiệu quả của quá trình sản xuất. Hộ nghèo có được vốn là quan trọng, nhưng xét trên góc độ hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo vốn được an toàn thì việc trang bị cho hộ nghèo kiến thức trong sử dụng vốn có tính chất quyết định. Việc đào tạo nâng cao trình độ dân trí cho hộ nghèo phải được thực hiện có quy mô quốc gia. Chính phủ cần xây dựng và có sự chỉ đạo đồng bộ các chương trình, mục tiêu về giáo dục đào tạo đã đề ra. Học vấn thấp là phổ biến trong cộng đồng hộ nghèo, song nhiều nhất vẫn tập trung vào trẻ em của các hộ nghèo này, do vậy các chương trình của Chính phủ phải đặc biệt quan tâm đến bộ phận trẻ em nghèo. Để khuyến khích trẻ em đi học phải để các hộ nhận thức được đây chính là cách duy nhất để con em hộ thoát nghèo trong tương lai. Chính phủ có hỗ trợ nhất định để hộ nghèo có thể chấp nhận được các chi phí giáo dục. Muốn vậy chi hàng năm của NSNN cho giáo dục phải có kế hoạch cụ thể và thường xuyên kiểm tra, tránh tình trạng chi quá lớn cho giáo dục bậc cao, vốn bị thất thoát, lãng phí… Đồng thời tạo cơ hội tiếp thu kiến thức mới về kỹ thuật, công nghệ dự báo thị trường cho hộ nghèo thông qua các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, cơ quan cung ứng giống, vật tư, mấy móc, qua các tổ chức đoàn thể tại địa phương… Có chính sách hỗ trợ cho NHCSXH về kinh phí để đào tạo và tư vẫn cho hộ nghèo trong quá trình sử dụng vốn. 3.3.4. Một số kiến nghị đối với các cấp có thẩm quyền tại huyện Thanh Trì: - Các cấp có thẩm quyền cần tạo điều kiện giúp đỡ cho NHCSXH huy động được nhiều nguồn vốn, nhất là những nguồn vốn rẻ, hoặc cho tặng - Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh. - UBND huyện, xã, các tổ chức đoàn thể cần lập danh sách hộ nghèo một cách trung thực. - Các tổ chức đoàn thể, các phối hợp chặt chẽ với ngân hàng để thục hiện tốt việc cho vay tới hộ nghèo thông qua tổ tiết và vay vốn. - Cùng với hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo, huyện Thanh trì cũng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp khác để đảm bảo thực hiện thành công công cuộc xoá đói giảm nghèo. 3.3.5. Kiến nghị đối với ngân hàng chính sách xã hội huyện Thanh Trì: - Chấp hành tốt quy trình thủ tục cho vay đối với hộ nghèo theo quy định của ngân hàng. Tiến hành các thủ tục cho vay nhanh chóng, để vốn vay sớm đến được với các hộ nghèo. - Cán bộ tín dụng phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay, cũng như tìm hiểu về hoàn cảnh của các hộ nghèo. Luôn giữ thái độ nhiệt tình, hoà nhã, vui vẻ đối với khách hàng, luôn sẵn sàng giải đáp các thắc mắc của các khách hàng về việc vay vốn. - Tích cực tìm kiếm các nguồn vốn có thể huy động, đặc biệt là những nguồn vốn rẻ, các nguồn vốn được cho tặng. KẾT LUẬN Kể từ khi đi vào hoạt động, NHCSXH Thanh Trì đã thực hiện cho vay ưu đãi tới nhiều hộ nghèo trên địa bàn huyện, hoạt động cho vay hộ nghèo của ngân hàng ngày càng được mở rộng, hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng ngày càng tăng lên, đòng góp vai trò qua trọng trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo của huyện Thanh Trì nói riêng và của cả nước nói chung. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì vẫn ở mức thấp, và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vay của hộ nghèo trên địa bàn huyện Thanh Trì cũng ngày càng tăng lên, đòi hỏi ngân hàng phải tìm các giải pháp để đẩy mạnh hoạt động cho vay hộ nghèo, nâng cao được hiệu quả của hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì. Việc nâng cao được hiệu quả của hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo cũng đồng nghĩa với việc từng bước thực hiện thành công công cuộc xoá đói giảm nghèo trên địa bàn xã. Với mục tiêu đó chuyên đề đã hệ thống hoá cơ sở lý luận về tín dụng xoá đói giảm nghèo trong đó bao gồm các vấn đề: những vấn đề cơ bản về đói nghèo đề cập đến khái niệm đói nghèo, nguyên nhân đói nghèo, tiêu chí xác định đói nghèo; những khái niệm cơ bản có liên quan đến tín dụng xoá đói giảm nghèo như khái niệm NHCSXH, hoạt động tín dụng của ngân hàng chính sách như khái niệm tín dụng chính sách, phân loại tín dụng chính sách, vai trò tín dụng chính sách, các nguồn vốn của NHCSXH, các vấn đề về lãi suất của NHCSXH, các vấn đề về rủi ro tín dụng của NHCSXH, chính sách cho vay hộ nghèo của NHCSXH; hiệu quả trong hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo có đề cập đến các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội. Những cơ sở lý luận về tín dụng xoá đói giảm nghèo cho phép người viết có những hiểu biết cơ bản về hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo để phục vụ cho việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì trong phần tiếp theo. Trong phần đánh giá thực trạng tác giả đã xem xét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Thanh Trì và khó khăn thuận lợi của các điều kiện đó tới hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH; xem xét vài nét về phòng giao dịch NHCSXH huyện Thanh Trì cũng như quy trình cho vay vốn hộ nghèo tại đây. Tác giả cũng nghiên cứu hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo NHCSXH huyện Thanh Trì thông qua các chỉ tiêu dư nợ, thu hồi nợ, nợ quá hạn và nguyên nhân, đồng thời lấy ý kiến của một số người vay, xem xét tình hình sử dụng vốn vay của các hộ, từ đó đánh giá hiệu quả hoạt động của NHCSXH huyện Thanh Trì, rút ra những cái đạt được, những mặt tồn tại và nguyên nhân của nó, nêu lên một số gương điển hình thoát nghèo nhờ vốn vay của ngân hàng. Từ việc đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của NHCSXH huyện Thanh trì, tác giả đã có cơ sở để đưa ra một số giải pháp, và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên do những hiểu biết có hạn về lĩnh vực ngân hàng tính chính nói chung và hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo nói riêng nên chuyên đề còn nhiều thiếu xót, chưa đạt được kết quả như mong muốn. Hy vọng trong thời gian tới, đề tài tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, góp phần giúp NHCSXH huyện Thanh trì nâng cao được hiệu quả tín dụng xoá đói giảm nghèo. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp. Nhà xuất bản thống kê, 2001 Cẩm nang chính sách và nghệp vụ tín dụng đối với hộ nghèo. NHCSXH năm 2004. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Giáo trình Kinh tế phát triển. Nhà xuất bản thống kê, 1999. Hỏi đáp về hoạt động tín dụng. NHCSXH 2006. Điều lệ hoạt động của NHCSXH. Nguyễn thị Hằng (1996), Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng. Tiền tệ tín dụng và ngân hàng. Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động phòng giao dịch NHCSXH huyện Thanh Trì. NHCSXH huyện Thanh Trì. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì giai đoạn 2001 – 2005. Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì. Các nghị định của chính phủ về tín dụng đối với người nghèo. Nghị quyết 06 của Chính Phủ, ban hành ngày 05/07/2005 về việc công bố chuẩn nghèo mới giai đoạn 2006 – 2010. Quyết định 6673 của UBND thành phố Hà Nội, ban hành ngày 28/09/2005, về việc ban hành chuẩn nghèo mới cho khu vực Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010. Kế hoạch thực hiện giảm nghèo huyện Thanh trì giai đoạn 2006 – 2010. UBND huyện Thanh Trì. Các văn bản liên quan đến cho vay hộ nghèo của NHCSXH. Các số liệu liên quan đến hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo của NHCSXH huyện Thanh Trì các năm 2004, 2005, 2006. Kế hoạch tín dụng năm 2007 của NHCSXH huyện Thanh Trì. Tạp chí ngân hàng số 11 năm 2005. Tạp chí nông nghiệp và nông thôn 2005. Các trang web của NHCSXH, của Chính phủ, của UBND thành phố Hà nội. Các luận văn tốt nghiệp các khoá 42, 43, 44; các luận án thạc sĩ, tiến sĩ. PHỤ LỤC Phụ lục 1: BÁO CÁO TỔNG HỢP DANH SÁCH HỘ NGHÈO HUYỆN THANH TRÌ NĂM 2006 Đơn vị: hộ Xã, thị trấn Tổng số hộ dân Số hộ nghèo Tỷ lệ % Nguyên nhân nghèo Yêu cầu trợ giúp Thiếu kinh nghiệm làm ăn Thiếu lao động Thiếu đất sản xuất Thiếu vốn Có người ốm đau Có người mắc tệ nạn xã hội Khác Cho vay vốn Hướng dẫn cách làm ăn Nhu cầu học nghề Khác Hữu Hoà 1731 162 9,36 92 43 0 0 23 3 5 0 92 0 40 Liên ninh 2722 157 5,77 35 37 25 49 64 1 2 49 40 0 57 Ngũ Hiệp 2266 100 4,41 12 31 7 18 49 6 1 18 16 7 1 Vạn Phúc 1973 227 11,5 23 120 1 138 63 0 0 151 0 24 0 Thanh Liệt 1639 61 3,72 30 41 0 12 44 0 0 10 0 8 0 Đông Mỹ 1463 99 6,77 11 25 5 24 67 5 3 26 1 2 67 Duyên Hà 1021 129 12,63 26 44 0 39 33 3 9 39 23 8 58 Tân Triều 3383 181 5,35 96 10 3 130 40 13 29 130 3 28 52 Vĩnh Quỳnh 4532 234 5,36 28 70 2 22 127 11 13 44 10 31 117 Tam Hiệp 2303 166 7,21 54 36 19 1 35 8 0 22 54 0 35 Ngọc Hồi 1902 129 6,78 0 89 4 60 121 0 0 66 0 57 61 Tứ Hiệp 2239 49 2,19 3 21 0 17 22 2 0 36 15 10 14 TT Văn Điển 2737 74 2,70 12 11 0 2 28 1 15 9 12 2 49 Tả Thanh Oai 3043 344 11,30 45 63 72 63 91 0 14 63 44 0 124 Đại Áng 1763 163 9,25 50 43 6 47 3 28 28 55 91 53 19 Yên Mỹ 1150 76 6,61 20 9 0 6 55 1 10 6 1 1 63 Toàn huyện 35867 2360 6,58 537 693 144 628 847 82 129 724 402 231 757 ( Nguồn: Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì) Phụ lục 2: TỔNG HỢP HỘ CẬN NGHÈO HUYỆN THANH TRÌ NĂM 2006. Đơn vị: hộ Xã, thị trấn Hộ cận nghèo Số hộ đề nghị hỗ trợ Vay vốn phát triển SXKD Hướng dẫn cách làm ăn Đào tạo nghề, giải quyết việc làm Giảm học phí, khoản thu khác Yên Mỹ 98 3 4 7 45 Vạn Phúc 202 100 115 85 195 Duyên Hà 80 Liên Ninh 399 124 50 112 183 Ngũ Hiệp 199 112 67 84 100 Đông Mỹ 116 59 6 49 Tứ Hiệp 383 161 14 115 205 Vĩnh Quỳnh 506 68 9 51 25 Đại Áng 165 115 69 95 97 Ngọc Hồi 155 29 5 45 80 Hữu Hoà 136 114 11 4 Tả Thanh Oai 437 312 247 223 226 Thanh Liệt 101 13 19 11 78 Tân Triều 175 84 67 115 92 TT Văn Điển 128 Tam Hiệp 487 Cộng 3767 1294 677 953 1375 (Nguồn: Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì.)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32104.doc
Tài liệu liên quan