Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy, công ty bảo hiểm Hà Nội

Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về hoạt động khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới giúp em ngày càng thấy được vai trò của việc phát triển nghiệp vụ bảo hiểm này trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới không những góp phần ổn định tài chính cho các chủ xe - người được bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra mà còn góp phần đảm bảo sự an toàn trong xã hội. Không những vậy bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới còn là nghiệp vụ có thể mang lại doanh thu và lợi nhuận lớn cho các công ty bảo hiểm. Đây là nghiệp vụ bảo hiểm mới được khai thác và phát triển nên bước đầu còn gặp khó khăn. Nền kinh tế đất nước sẽ lớn mạnh hơn trong một thời gian không xa, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện. Vì vậy bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ hứa hẹn một tiềm năng rất lớn đối với các công ty bảo hiểm. Nếu được sự quan tâm, đầu tư đúng mức, chú trọng hơn nữa chắc chắn các công ty bảo hiểm sẽ có nhiều thành công hơn đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong tương lai.

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy, công ty bảo hiểm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu phí nghiệp vụ lớn hơn tốc độ tăng doanh thu chung toàn phòng. Cụ thể: Tốc độ tăng doanh thu phí nghiệp vụ năm 2006 của phòng Cầu Giấy đạt 55,47% so với năm 2005 tương ứng về số tuyệt đối là 679 triệu đồng trong khi tốc độ tăng doanh thu toàn phòng chỉ đạt 3,83% ( tương ứng với 263 triệu đồng). Kết quả đó có được là nhờ vào sự nỗ lực, cố gắng của các cán bộ, đại lý của công ty nói chung và của văn phòng Cầu Giấy nói riêng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Tiếc rằng tỷ lệ này không được duy trì và phát triển mà có dấu hiệu đi xuống vào năm 2007. Ngoài ra, từ năm 2004 đến năm 2006, phòng đã triển khai thêm 5 nghiệp vụ bảo hiểm mới đó là Bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đăc biệt; Bảo hiểm tai nạn con người theo mẫu đơn của Cologne Re; Bảo hiểm trách nhiệm tàu biển; Bảo hiểm trách nhiệm công cộng; Bảo hiểm trách nhiệm kiến trúc sư. Những nghiệp vụ này đã đóng góp một lượng doanh thu đáng kể cho phòng. Nhìn vào bảng 9 ta thấy chi phí khai thác của văn phòng trong giai đoạn này có xu hướng tăng lên. Năm 2003, chi phí khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là 21,13 triệu đồng thì đến năm 2007 chi phí này lên đến 42,46 triệu đồng tăng gấp 2,01 lần. Năm 2005, chi phí khai thác của phòng là 26,81 triệu đồng tăng 3,29 triệu đồng, song số xe tham gia bảo hiểm lại giảm xuống chỉ còn 233 chiếc giảm 22 chiếc so với năm 2004 làm cho chi phí khai thác bình quân một xe là 0,115 triệu đồng. Đây là chi phí khai thác trung bình cao nhất trong năm năm kể lại đây của phòng. Nguyên nhân là do năm 2005 là năm phòng bảo hiểm có sự biếm động rất lớn về số lượng cũng nhủ chất lượng đại lý cụ thể số đại lý của phòng trong năm này chỉ còn 09 đại lý giảm 03 đại lý so với năm 2004. Mặt khác, một số đại lý, cán bộ lâu năm của phòng chuyển công tác hoặc làm ngành nghề mới, cán bộ mới còn thiếu kinh nghiệm khai thác. Hiệu quả khai thác của các đại lý này không được cao cùng với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp bảo hiểm trong việc chia sẻ thị phần đã làm cho số lượng xe tham gia bảo hiểm giảm xuống và chi phí khai thác tăng lên. Bảng 9: Hiệu quả khai thác của phòng Cầu Giấy (giai đoạn 2003 – 2007) STT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Số xe tham gia bảo hiểm Chiếc 226 255 233 431 435 2 Doanh thu phí nghiệp vụ (D) Trđ 967.6 1185 1224 1903 1954 3 Tốc độ tăng doanh thu % __ 22.47 3.29 55.47 2.68 4 Chi phí khai thác (C) Trđ 21.13 23.52 26.81 42.58 42.46 5 Tốc độ tăng chi phí % __ 11.31 13.99 58.82 -0.003 6 Số phí thu/xe Trđ/xe 4.28 4.26 5.25 4.42 4.49 7 Chi phí khai thác/xe Trđ/xe 0.093 0.092 0.115 0.022 0.021 8 Hiệu quả khai thác (D/C) 45.79 50.38 45.69 44.69 46.02 ( Nguồn: Phòng bảo hiểm Cầu Giấy) Số lượng xe cơ giới tham gia bảo hiểm vật chất xe tại văn phòng bảo hiểm Cầu Giấy trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2007 có xu hướng tăng làm cho chi phí khai thác qua các năm cũng tăng lên nhưng tốc độ tăng chi phí không cao bằng tốc độ tăng của doanh thu phí nghiệp vụ nên hiệu quả khai thác của phòng vẫn ở mức khá cao và tương đối ổn định ở mức trên 40. Năm 2003, hiệu quả khai thác của phòng là 45,79 tức là với một đồng chi phí và phòng đã chi ra cho công tác khai thác đã mang lại cho phòng 45,79 đồng doanh thu phí nghiệp vụ thì đến năm 2004, hiệu quả khai thác của phòng là 50,38 hay với một đồng chi phí khai thác bỏ ra phòng sẽ thu được 50,38 đồng doanh thu phí. Đây cũng là năm có hiệu quả khai thác cao nhất trong vòng năm năm trở lại đây. Sang năm 2005 và 2006, hiệu quả khai thác của phòng lại giảm xuống chỉ còn 45,65 năm 2005 và 44,69 vào năm 2006. Năm 2007, hiệu quả khai thác có tăng lên nhưng không đáng kể là 46,02. Nhìn chung, hiệu quả khai thác của phòng bảo hiểm Cầu giấy là khá tốt thể hiện sự quyết tâm, sự nỗ lực, trình độ và kinh nghiệm của các cán bộ, đại lý của văn phòng trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt trên thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng. Công tác giám định và bồi thường tổn thất. Nếu như khai thác là khâu đầu tiên quyết định trực tiếp tới doanh thu và hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm thì khâu giám định bồi thường lại là khâu cuối cùng quyết định tới chất lượng của nghiệp vụ. Sản phẩm bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng đều có đặc điểm là sản phẩm vô hình, khách hàng tham gia không thể nhận biết được sản phẩm mà mình đã mua mà chất lượng của sản phẩm chỉ được thể hện khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Sự kiện bảo hiểm có thể là những tai nạn, rủi ro liên quan đến tính mạng, tình trạng sức khỏe của con người, rủi ro liên quan đến tài sản hoặc những rủi ro liên quan đến trách nhiệm nào đó mà người mua bảo hiểm phải có nghĩa vụ thực hiện. Công tác giám định. Công tác giám định được tiến hành chính xác, nhanh chóng, kịp thời có ý nghĩa rất quan trọng đối với người được bảo hiểm cũng như đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Đối với người được bảo hiểm, họ sẽ nhanh chóng nhận được tiền bồi thường từ công ty bảo hiểm để kịp thời bù đắp những thiệt hại, giúp họ ổn định sản xuất và cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Còn đối với công ty bảo hiểm, họ sẽ tạo được uy tín, sự tin tưởng từ phía khách hàng đối với công ty, tránh được tình trạng trục lợi bảo hiểm gây thiệt hại cho công ty. Tuy nhiên để làm tốt công tác giám định ngoài việc công ty phải có các giám định viên giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu về xe cơ giới có tinh thần trách nhiệm cao còn phải có các trang thiết bị giám định tốt, sự phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của nhà nước trong việc giải quyết tai nạn. Nếu công tác này được làm tốt không những công ty giữ được các khách hàng truyền thống mà còn thu hút thêm nhiều khách hàng mới đến với công ty. Bảng 10: Kết quả giám định thiệt hại vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy giai đoạn 2003-2007. Năm Số vụ được giám định (vụ) Chi phí giám định (trđ) Chi phí giám định bình quân trong 1 vụ (ngđ/vụ) 2003 146 7,4 50.68 2004 125 5,3 42,4 2005 168 9,6 57,14 2006 223 12,5 56,05 2007 245 18,3 74,69 (Nguồn : Phòng giám định, bồi thường Bảo Việt Hà Nội) Số lượng các vụ giám định tăng hay giảm phụ thuộc vào tình hình tai nạn xảy ra. Chi phí giám định cũng thay đổi theo số lượng các vụ được giám định, theo mức độ phức tạp hay đơn giản của các vụ giám định. Năm 2003, chi nhánh đã giám định được 146 vụ tai nạn, chi phí giám định là 7,4 triệu đồng, chi phí giám định trung bình mỗi vụ là 50,68 nghìn đồng/vụ. Sang năm 2004, do sự nỗ lực của Đảng và Nhà Nước trong việc đề phòng và hạn chế tai nạn giao thông đường bộ nên số vụ tai nạn giao thông có giảm xuống. Chính vì thế mà số vụ được chi nhánh giám định cũng giảm xuống chỉ còn 125 vụ, chi phí giám định là 5,3 triệu đồng, chi phí giám định trung bình mỗi vụ thấp nhất trong 5 năm đạt 42,4 nghìn đồng/vụ. Năm 2007, số vụ được giám định cao nhất 245 vụ tương ứng với chi phí giám định là 18,3 triệu đồng và 74,69 nghìn đồng/vụ là chi phí trung bình một vụ mà phòng đã giám định và cũng là chí phí giám định trung bình cao nhất trong năm năm trở lại đây. Nguyên nhân là do trong năm 2007, số vụ tai nạn xe cơ giới tăng khá nhanh mặc dù đã có các chính sách tích cực của Nhà Nước trong việc đề phòng và hạn chế tổn thất. Mặt khác, năm 2007, có một số vụ tai nạn tổn thất lớn và quá trình giám định khá phức tạp nên chi phí phát sinh nhiều hơn cộng với trong quá trình triển khai giám định đã phát sinh những chi phí không cần thiết. Điều này phụ thuộc nhiều vào chuyên môn nghiệp vụ của các giám định viên. Nếu thực hiện tốt công tác giám định không chỉ đem lại hiệu quả cao mà còn giảm được chi phí cho văn phòng. Tóm lại, trong thời gian vừa qua, công tác giám định nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy tương đối tốt và đạt được nhiều kết quả xứng đáng với công sức mà tập thể các cán bộ cũng như các đại lý của văn phòng bỏ ra. Các giám định viên ngày càng hoàn thiện và vững vàng hơn về chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc, do vậy đã tạo được niềm tin đối với các khách hàng tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới, nâng cao uy tín của phòng cũng như của công ty nói chung. Công tác bồi thường. Hoạt động bồi thường được đánh giá là một trong những chính sách để suy trì khách hàng. Đây là việc công ty bảo hiểm thực hiện cam kết của hợp đồng, chi trả một khoản tiền nhất định nhằm đền bù cho người được bảo hiểm khi có thiệt hại về mặt vật chất xảy ra đối với chiếc xe được bảo hiểm. Mục tiêu của công tác bồi thường là khôi phục lại một phần hoặc toàn bộ tình trạng tài chính ban đầu của người được bảo hiểm. Nếu khâ bồi thường được giải quyết nhanh, kịp thời, chính xác thì sẽ góp phần đánh kể làm tăng uy tín của công ty, tăng doanh thu, thu hút nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. Vì vậy công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng công tác bồi thường, thực hiện chuyên môn hóa trong công việc. Do tầm quan trọng nói trên mà Bảo Việt Hà Nội đã coi công tác này như một công cụ cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm và tăng tỷ lệ tái tục trong những năm tiếp theo. Bảng 11: Tình hình bồi thường của phòng bảo hiểm Cầu Giấy giai đoạn 2003-2007. Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Hồ sơ năm trước chuyển sang (vụ) 6 4 2 3 5 2. Hồ sơ phát sinh trong năm (vụ) 146 125 168 223 245 3. Hồ sơ đã giải quyết bồi thường (vụ) 140 122 166 220 244 4. Số tiền bồi thường (trđ) 485,7 406,77 362,68 1100,72 1050,66 5. Tỷ lệ giải quyết bồi thường (%) 92,11 94,57 97,65 97,35 97,6 6. Số vụ tồn đọng (vụ) 12 7 4 6 6 7. Tỷ lệ tồn đọng (%) 7,89 5,43 2,35 2,65 2.4 ( Nguồn : Phòng bảo hiểm Cầu Giấy ) Qua bảng trên ta thấy nhìn chung công tác bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới từ năm 2003 đến năm 2007 đã được giải quyết tốt, tỷ lệ giải quyết tồn đọng giảm từ 7,89% xuống còn 2.4%. Tỷ lệ giải quyết bồi thường qua các năm là khá cao, số hồ sơ được giải quyết tăng qua các năm, số vụ tồn đọng ở mức cho phép. Cụ thể: Tình hình giải quyết bồ thường tổn thất của công ty khá tốt, thể hiện qua các con số sau: Năm 2003, số vụ được giải quyết bồi thường là 140 vụ đạt 92,11 % tổng số hồ sơ khiếu nại, số vụ tồn đọng là 12 vụ chiếm 7,89% số vụ khiếu nại. Trong các năm kế tiếp do thực hiện chặt chẽ tiêu chuẩn ISO 2001 về công tác giám định bồi thường cùng với sự điều chỉnh quy trình giám định bồi thường lần thứ hai đã hiệu quả hơn nên tỷ lệ giải quyết bồi thường luôn tăng cao hơn năm trước, đặc biệt năm 2005 có tỷ lệ bồi thường cao nhất đạt 97,65%. Số vụ tồn đọng và tỷ lệ tồn đọng giảm, năm 2005 cũng có tỷ lệ tồn đọng thấp nhất là 2,35%. Đây là con số khá cao thể hiện sự cố gắng của các cán bộ, đại lý phòng bởi năm 2005 do thực hiện tốt công tác bán bảo hiểm và đề phòng hạn chế tổn thất nên số xe tham gia bảo hiểm tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy bị tai nạn giảm dẫn đến số vụ giám định bồi thường là thấp nhất trong các năm nhưng lại đạt hiệu quả tới 97,65%. Năm 2006 có số xe tham gia bảo hiểm tăng, số xe bị tai nạn cũng tăng lên đã làm cho công tác giám định bồi thường gặp nhiều khó khăn như: số lượng vụ giám định nhiều trong khi nhân viên giám định bị hạn chế; không được bổ xung kịp thời đồng thơi tình tiết vụ án ngày càng trở lên phức tạp; các hình thức gian lận ngày càng tinh vi hơn. Tỷ lệ giải quyết bồi thường trong năm 2006 chỉ đạt 97,35%, số hồ sơ tồn đọng là 6 ứng với tỷ lệ tồn đọng là 2,65%. Sang năm 2007, số hồ sơ còn tồn đọng vẫn không giảm là 6 hồ sơ song tỷ lệ giải quyết bồi thường cao hơn năm 2006 là 97,6% và tỷ lệ tồn đọng hồ sơ là 2,4%. Qua phân tích ta thấy văn phòng bảo hiểm Cầu Giấy đã thực hiện khá tốt công tác giám định và bồi thường tổn thất với các vụ tổn thất thuộc thẩm quyền của mình. Điều này đã giúp cho phòng tạo được niềm tin trong khách hàng và giữ được chữ tín trong kinh doanh. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Đề phòng và hạn chế tổn thất liên quan đến cả trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu làm tốt công tác này, số vụ tổn thất sẽ giẳm đi và mức độ tổn thất trong mỗi vụ cũng giảm từ đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tiết kiệm được STBH và chi trả. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội rất lớn. Bên cạnh việc góp phần tạo ra sự an toàn trong xã hội và cho các chủ xe khi tham gia giao thông thì công tác này còn làm lợi cho các công ty bảo hiểm khi mà việc bồi thường giảm xuống do giảm các vụ tai nạn phải bồi thường. Không những thế công tác đề phòng và hạn chế tổn thất còn ảnh hưởng rất lớn đến công tác khai thác. Nó thúc đẩy, khích thích mọi người tham gia bảo hiểm. Với tư cách là văn phòng đại diện khu vực của công ty bảo hiểm Hà Nội, phòng bảo hiểm Cầu Giấy không có điều kiện để tiến hành các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất mà công việc này sẽ do công ty đảm nhiệm. Tuy nhiên theo sự chỉ đạo của công ty, phòng đã của cán bộ của mình tới các cơ quan đơn vị để đề xuất các biên pháp đề phòng hạn chế tổn thất đối với các xe có tham gia bảo hiểm đồng thời trích một khoản tiền cho công việc này thông qua việc cung cấp cho các chủ xe bình cứu hỏa đặc biệt là các chủ xe tham gia bảo hiểm với số lượng lớn hoặc tham gia liên tục trong thời gian dài. Khoản chi này được hoạch toán với tỷ lệ là 0.5% so với tổng doanh thu phí của nghiệp vụ. Nhận thức được rõ được tâm quan trọng của công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. hàng năm Bảo Việt Hà Nội đều trích một khoản tiền nhất định để góp phần xây dựng, nâng cấp các đoạn đường nguy hiểm dễ xảy ra tai nạn, các biển báo giao thông, thiết kế gương cầu tại những điểm cua gấp, phối hợp với công an kiểm tra sự an toàn của xe khi vượt đèo, dốc…góp phần hạn chế việc xảy ra tai nạn của các chủ xe. Ngoài ra công ty còn tổ chức tuyên truyền, quảng cáo kêu gọi người dân nâng cao ý thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông nhằm góp phần giảm bớt số vụ tai nạn giao thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mở các lớp tập huấn cho các lái xe ở các đơn vị vận tải lớn. Những việc làm trên đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao uy tín của công ty đối với khách hàng, làm tăng tính xã hội và nhân văn của ngành bảo hiểm nói chung. Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ. Kết quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm, một loại hình bảo hiểm và của cả doanh nghiệp bảo hiểm được thể hiện ở hai chỉ tiêu chính đó là doanh thu và lợi nhuận. Doanh thu của nghiệp vụ phản ánh toàn bộ kết quả kinh doanh của nghiệp vụ trong một thời kỳ nhất định ( thường là 1 năm), nó là cơ sở để tính các chỉ tiêu khác có liên quan. Do phòng bảo hiểm Cầu Giấy không được hoạch toán độc lập mà phụ thuộc vào công ty bảo hiểm Cầu Giấy nên doanh thu nghiệp vụ của phòng chính là doanh thu phí bảo hiểm chứ không có các khoản thu khác. Lợi nhuận của nghiệp vụ được tính trên cơ sở doanh thu và chi phí của nghiệp vụ: Lợi nhuận nghiệp vụ trước thuế = Tổng doanh thu – Tổng chi phí Lợi nhuận nghiệ vụ sau thuế = Lợi nhuận nghiệp vụ trước thuế - thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Trong đó: Tổng chi phí nghiệp vụ bao gồm : chi bồi thường, chi hoa hồng, chi quản lý và chi đề phòng hạn chế tổn thất. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là thước đo sự phát triển của bản thân doanh nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh doanh nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí của nghiệp vụ. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, có hai tiêu thức sau: Hd = D/C (1) Hln = L/C (2) Trong đó: Hd, Hln : Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tính theo doanh thu và lợi nhuận. D : Doanh thu trong kỳ. L : Lợi nhuận thu được trong kỳ. C : Tổng chi phí chi ra trong kỳ. Qua bảng phân tích bên duới ta thấy kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới của phòng là khá cao. Doanh thu đều tăng qua các năm. Năm 2003, doanh thu phí nghiệp vụ là 967,6 triệu đồng thì đến năm 2007, doanh thu mà phòng đạt được trong kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là 1954 triệu đồng tăng gấp 2,02 lần. Lợi nhuận của doanh nghiệp nhìn chung tăng qua các năm trừ năm 2006. lợi nhuận mà phòng đạt được giảm do chi tổng chi của phòng trong năm này rất lớn đạt 1497,95 triệu đồng. Mặt khác, trong năm 2006, tình hình cạnh tranh của nhiều công ty bảo hiểm khác như PJICO, Bảo Minh, công ty bảo hiểm Dầu khí PVIC, bảo hiểm Viễn Đông với những chính sách cạnh tranh khác nhau trong đó phổ biến nhất là chính sách giảm phí, tăng tỷ lệ hoa hồng cho khách hàng đã gây không ít khó khăn cho phòng bảo hiểm Cầu Giấy trong công tác kinh doanh. Bảng 10 : Kết quả và hiệu quả kinh doanh của văn phòng bảo hiểm Cầu Giấy giai đoạn 2003-2007. Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Chi khai thác 21,13 23,52 26,81 42,58 42,46 2. Chi giám định 7,4 5,3 9,6 12,5 18,3 3. Chi bồi thường 485,7 406,77 362,68 1100,72 1050,66 4. Chi ĐP và HC tổn thất 0,48 0,59 0,61 0.95 0.98 5. Chi quản lý 35,3 37,9 39,2 156,1 195,4 6. Chi hoa hồng 47,5 59,2 61,2 95,1 97,7 7. Tổng chi 597,51 533,28 500,1 1407.95 1404.52 8. Doanh thu nghiệp vụ. 967,6 1185 1224 1903 1954 9. Lợi nhuận trước thuế 370,09 651,72 723,9 495,05 549,48 10. Hd 1,62 2,22 2,45 1,35 1,39 11. Hln 0,62 1,22 1,45 0,35 0,39 ( nguồn : phòng bảo hiểm Cầu Giấy) Nếu như năm 2003, 1 đồng chi phí mà phòng bỏ ra đối với nghiệp vụ này chỉ thu lại được 1,62 đồng doanh thu hay 0,62 đồng lợi nhuận thì sang năm 2004, 1 đồng chi phí bỏ ra đã thu được 2,22 đồng doanh thu hay 1,22 đồng lợi nhuận. Năm 2006 là năm có hiệu quả kinh doanh thấp nhất trong năm năm trở lại đây, một đồng chi phí bỏ ra chỉ thu lại được 1,35 đồng doanh thu (0,35 đồng lợi nhuận). Nguyên nhân là do tổng chi mà văn phòng phải bỏ ra trong năm này đạt giá trị cao nhất 1407,95 triệu đồng trong đó chi cho bồi thường là 1100,72 triệu đồng, chi cho đề phòng hạn chế tổn thất là 0,95 triệu đồng chi cho công tác giám định là 12,5 triệu đồng, chi cho khâu khai thác là 42,58 triệu đồng, cho công tác quản lý là 156,1 triệu đồng, chi cho hoa hồng đại lý là 95,1 triệu đồng. Năm 2005 là năm có kết quả kinh doanh cao nhất trong giai đoạn 2003-2007, một đồng chi phí bỏ ra thu được 2,46 đồng doanh thu hay 0,39 đồng lợi nhuận, khoản chi cho bồi thường là thấp nhất trong năm năm là 362.68 triệu đồng làm cho tổng chi của phòng cũng giảm đáng kể chỉ còn 500,1 triệu đồng. Để có được kết quả và hiệu quả kinh doanh tương đối cao trong những năm gần đây của phòng bảo hiểm Cầu Giấy đó là do các nguyên nhân sau: + Do sự nỗ lực, phấn đấu trong kinh doanh của các cán bộ, đại lý của phòng trong việc triển khai nghiệp vụ, nên số lượng xe tham gia bảo hiểm tại phòng có xu hướng tăng lên qua các năm. Điều này làm tăng doanh thu về phí bảo hiểm, làm cho kết quả và hiệu quả kinh doanh của văn phòng ngày càng cao. + Phòng đã tiết kiệm các chi phí không cần thiết trong các khâu như khâu khai thác, công tác giám định và quản lý... + Tuyên truyền về nội dung ý nghĩa, sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới để chủ xe thấy được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm, khi đó họ sẽ tự giác tham gia. + Một yếu tố rất quan trọng khác đó là việc giải quyết bồi thường, đề phòng và hạn chế tổn thất của phòng Cầu Giấy đã tạo được niềm tin trong lòng khách hàng, nâng cao uy tín của phòng đồng thòi góp phần làm cho doanh thu cũng như hiệu quả nghiệp vụ được nâng cao. + Trong quá trình khai thác, phòng đã có sự đào tạo chuyên sâu cho nhân viên khai thác, nâng cao trình độ chuyên môn thông qua việc cho nhân viên khai thác đi tập huấn, học tập thêm. + Phòng đã áp dụng biện pháp thu phí, thống kê danh sách khách hàng, tính sẵn biểu phí gửi cho khách hàng và sau đó cán bộ bảo hiểm sẽ đến tận nơi thu phí. Biện pháp này đã tạo điều kiện cho khách hàng tránh mọi thủ tục rườm rà, gây khó khăn cho người tham gia bảo hiểm. Như vậy trong những năm qua, phòng bảo hiểm Cầu Giấy đã có được kết quả và hiệu quả kinh doanh khá cao trong việc kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Đây là thành tích rất đáng khích lệ và tự hào của phòng, góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung của công ty. Nền kinh tế đất nước đang ngày càng một phát triển hơn, xu thế hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, có rất nhiều các doanh nghiệp, các loại hình kinh doanh mới ra đời, nhu cầu về vận chuyển do đó cũng tăng theo. Thu nhập của người dân đang được cải thiện nảy sinh nhiều nhu cầu vui chơi giải trí và du lịch...Với sự thuận tiện và nhiều tính năng ưu việt của mình hơn các phương tiện giao thông khác, chắc chắn lượng xe cơ giới lưu hành sẽ tăng lên đáng kể trong thời gian tới nhất là ô tô. Tuy nhiên, cùng với tiến trình hội nhập và mở cửa nền kinh tế sẽ có nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài với khả năng tài chính mạnh, có trình độ quản lý hiện đại và chuyên nghiệp sẽ xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này sẽ tạo ra một sức ép cạnh tranh rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm. Chương 3.Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. Thuận lợi. Hà Nội là trung tâm kinh tế - văn hóa của cả nước, nơi tập trung các khu công nghiệp lớn, có nhiều tổ chức, doanh nghiệp đang hoạt động cùng với dân số hơn 5 triệu dân do đó nhu cầu về vận tải nhất là vận tải đường bộ rất lớn. Theo số liệu thống kê của ủy ban an toàn giao thông quốc gia, hiện nay, Hà Nội có khoảng 123.236 ô tô; 1,5 triệu mô tô đang lưu hành. Để đảm bảo sự ổn định về mặt tài chính trong kinh doanh, trong cuộc sống, họ cần có các sản phẩm bảo hiểm nói chung cũng như sản phẩm bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng. Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng phát triển. Theo đánh giá của Bộ Tài Chính kể từ năm 1994 đến nay, tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường bảo hiểm đạt 23%/năm. Số lượng các công ty bảo hiểm hiện nay ở thị trường nước ta là 24 công ty (kể cả môi giới bảo hiểm, tái bảo hiểm) với các hình thức sở hữu khác nhau: sở hữu nhà nước, cổ phần, liên doanh, 100% vốn nước ngoài. Hiện nay đã có 14 công ty bảo hiểm phi nhân thọ tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam-một thị trường mà theo đánh giá của giới kinh doanh là “đầy tiềm năng”. Môi trường này sẽ đem đến nhiều thuận lợi cho không chỉ riêng Bảo Việt Hà Nội mà còn cho tất cả các công ty bảo hiểm nói chung. Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời ngày 7/12/2000. Quốc hội đã chính thức thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam và có hiệu lực từ 1/4/2001. Đây là văn bản pháp lý quan trọng đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Qua đó, chúng ta thấy được Nhà nước đã có những quan tâm kịp thời đến tình hình phát triển của lĩnh vực này trong việc đưa ra những văn bản pháp lý, chính sách tạo khuôn khổ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng được mục tiêu hoạt động dễ dàng, đóng góp vào tiến trình phát triển chung của đất nước. Bảo Việt Hà Nội là tổ chức trực thuộc Tổng công ty bảo việt Việt Nam, là doanh nghiệp bảo hiểm ra đời đầu tiên ở nước ta có bề dày kinh nghiệm trong kinh doanh, có tiềm lực tài chính mạnh (hiện nay tổng giá trị tài sản của Bảo Việt là trên 100.000 tỷ đồng)…Vì vậy, thương hiệu Bảo Việt rất có uy tín đối với các tổ chức, các doanh nghiệp cũng như người dân Việt Nam. Trên địa bàn thủ đô Hà Nội, Bảo Việt Hà Nội đều có văn phòng chi nhánh ở tất cả các quận huyện. Điều này đã tạo ra được một mạng lưới phân phối sản phẩm rộng lớn trên địa bàn thủ đô đồng thời tạo ra sự nhanh chóng, thuận tiện cho người được bảo hiểm trong việc giám định tổn thất, xét yêu cầu bồi thường khi xảy ra rủi ro. Quận Cầu Giấy là một trong những quận nội thành lớn của thu đô Hà Nội. Địa bàn chủ yếu là dân cư, mức thu nhập khá ổn định, trình độ của người dân ngày càng được nâng cao do đó sự hiểu biết của họ về bảo hiểm cũng đã đưuọc nâng lên tạo điều kiện thuận lợi cho công tác khai thác của phòng nói riêng và của công ty nói chung. Quận Cầu Giấy đang trên đà phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế văn hóa, nhiều dự án xây dựng, nhiều công trình nâng cấp cải tạo đang từng bước làm thay đổi bộ mặt của quận Cầu Giấy. Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc Việt Nam gia nhập WTO, thực hiện dần các cam kết để mở cửa thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức và cơ hội mới đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm. Phòng Cầu Giấy có đội ngũ cán bộ, đại lý có kinh nghiệm trong khai thác và quản lý khách hàng. Trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, phòng đã được sự chỉ đao của công ty cho phép mở rộng địa bàn khai thác sang các quận huyện khác chứ không chỉ gói gọn ở địa bàn quận Cầu Giấy. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho công tác khai thác của phòng vì phần lớn các cơ quan doanh nghiệp Nhà nước đều nằm rải rác tại các quận gần trung tâm thành phố. Bên cạnh đó, phòng cũng nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của ban Giám đốc, các phòng ban chức năng trong công ty; sự giúp đỡ tận tình của Đảng ủy và chính quyền địa phương cùng các ban ngành Đoàn thể đóng trên địa bàn. Khó khăn Khó khăn chung. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam đã hình thành và đi vào hoạt động từ hơn 30 năm nay nhưng chỉ từ 8 năm trở lại đây thì mới thực sự trở thành một thị trường theo đúng nghĩa của nó, gồm nhiều nhà cung cấp với những sản phẩm đa dạng chứ không chỉ có một nhà cung cấp với số lượng sản phẩm hạn chế, không có cơ hội lựa chọn như trước đây. Việc thị trường này phát triển sôi động bên cạnh việc tạo ra thuận lợi, cơ hội phát triển cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và phòng Bảo Việt Cầu Giấy nói riêng thì còn đưa lại những khó khăn thách thức lớn đó chính là sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty. Cầu Giấy là địa bàn có nhiều tiềm năng về bảo hiểm cộng thêm địa hình Cầu Giấy lại là cửa ngõ của thủ đô rất thuận lợi cho sự xâm nhập của các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Do vậy trong quá trình cạnh tranh không tránh khỏi một số thị phần đã bị “san sẻ” cho nhiều công ty khác như Bảo Minh, Bảo Long, PJICO, Dầu khí… Nhận thức của người dân và các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam về bảo hiểm còn hạn chế. Đối với việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đòi hỏi các chi phí rất lớn cho công tác đào tạo cán bộ, trang thiết bị kỹ thuật giám định tổn thất, đánh giá rủi ro, đề phòng hạn chế tổn thất. Dễ phát sinh hiện tượng trục lợi bảo hiểm (TLBH) từ phía khách hàng. Nói đến TLBH là người ta lại nghĩ đến bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Đây là nghiệp vụ dễ xảy ra hiện tượng trục lợi. Còn ở Việt Nam, theo ông Lê Quang Bình, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm (Bộ Tài chính), tuy chưa có những thống kê cụ thể, nhưng tình trạng TLBH đã xuất hiện từ lâu và đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, hình thức trục lợi phổ biến là việc kê khống tình trạng thiệt hại, cố ý tạo ra các tổn thất để lấy tiền đền bù, thông đồng với các cơ quan kiểm định để đưa ra các mức độ tổn thất không đúng... Đặc biệt, đã xuất hiện những vụ TLBH với quy mô lớn, điển hình gần đây nhất là hành vi đưa và nhận hối lộ ở Công ty Bảo hiểm Pjico, khi các đương sự câu kết với một số lãnh đạo cao cấp của doanh nghiệp này để chiếm đoạt số tiền lên đến hàng tỉ đồng. Điều đáng nói nhất ở nước ta là chế tài xử lý các hành vi TLBH còn quá thiếu. Theo nghị định về xử phạt hành chính, hành vi TLBH chỉ bị cảnh cáo hoặc phạt tối đa 10 triệu đồng. Bộ luật Hình sự chưa có điều luật nào quy định cụ thể về tội TLBH. Kẻ TLBH chỉ bị xử với các tội danh liên quan như tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản... Chính vì hành lang pháp lý chưa đầy đủ nên nhiều vụ TLBH chưa được điều tra và xét xử nghiêm khắc, do vậy không có tính răn đe. Nếu không có ngay những giải pháp phòng chống hiệu quả, hiện tượng TLBH sẽ gây ra những thiệt hại to lớn, kìm hãm sự phát triển của nền công nghiệp bảo hiểm còn rất non trẻ ở nước ta. Nhằm phòng chống TLBH một cách có hiệu quả, các chuyên gia của Bộ Tài chính cho rằng cần tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ. + Thứ nhất, về phía các doanh nghiệp bảo hiểm, phải tăng cường kiểm tra giám sát nội bộ, quản lý chặt các đại lý, không ngừng trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau, duy trì chặt chẽ mối quan hệ với khách hàng, làm tốt công tác tuyên truyền để người dân và các tổ chức không tham gia TLBH. + Về phía các cơ quan chức năng, cũng cần phải thường xuyên giám sát tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, hoàn thiện các chế tài xử phạt nghiêm khắc từ cấp vĩ mô cũng như cụ thể... Phải làm sao để các hành vi TLBH bị lên án về mặt đạo đức, trừng trị nghiêm khắc về mặt luật pháp. Thực trạng hạ tầng kỹ thuật giao thông của thủ đô còn lạc hậu, không tương xứng, chưa có sự quy hoạch hợp lý. Mạng đường thành phố chỉ đáp ứng được chừng 45% nhu cầu đi lại, nhiều tuyến đường hẹp, mật độ giao cắt cao, hệ thống tín hiệu chưa thật hợp lý. Do vậy, khả năng xảy ra tai nạn giao thông rất cao. Phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới rất cao, trong khi đó thu nhập của người dân còn hạn chế (thu nhập bình quân tính theo đầu nguời ở Việt Nam hiện nay khoảng 6,4 triệu đồng/người/năm). Đối với xe ô tô thì phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe vào khoảng 2 triệu đến 6 triệu đồng/xe, tùy thuộc vào số tiền bảo hiểm. Đối với xe mô tô phí bảo hiểm vật chất xe bình quân là 500.000 đồng/xe. Đây là một khoản tiền khá lớn mà các chủ xe thường không muốn bỏ ra. Hệ thống các văn bản luật và dưới luật về bảo hiểm nói riêng cũng các văn bản pháp luật khác chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập, thiếu sót. Phần lớn các xe đã qua sử dụng, tân trang nên việc xác định giá trị bảo hiểm của xe là rất khó khăn. Khó khăn riêng. Trình độ nghiệp vụ của cán bộ, đại lý còn nhiều bất cập, ý thức làm việc chưa cao, chưa có kế hoạch sắp xếp công việc sao cho phù hợp dẫn đến kết quả đạt được còn nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp bảo hiểm như Bảo Minh, Bảo Long, PJICO đã dùng nhiều biện pháp để cạnh tranh như giảm phí, tăng hoa hồng và sử dụng nhiều chính sách đãi ngộ nhằm lôi kéo nguồn lao động gây ảnh hưởng không nhỏ đến thị phần bảo hiểm của Phòng. Tiềm năng của thị trường rất lớn nhưng với lượng cán bộ, đại lý còn mỏng do đó không khai thác và tận dụng hết thị trường. Sự quan tâm chỉ đạo, phối hợp giữa các phòng chức năng trong công ty còn nhiều hạn chế như chưa cập nhật và phổ biến kịp thời về ấn chỉ mới, việc quan tâm và đầu tư cho công tác tuyên truyền trang thiết bị phục vụ cho công việc còn nhiều bất cập gây khó khăn trong quá trình khai thác. Phương hướng hoạt động của công ty Bảo Việt Hà Nội và phòng bảo hiểm Cầu Giấy trong thời gian tới. Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã mang lại nhiều cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp bảo Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2007 đạt 8,5%, là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua. Tổng GDP đạt 1.144.000 tỷ đồng, GDP bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng (835 USD/đầu người). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt con số kỷ lục 20,3 tỷ USD bao gồm cả cấp mới và tăng vốn. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt 3,1% kế hoạch năm. Bên cạnh những thuận lợi đó, nền kinh tế nước ta cũng gặp không ít những khó khăn do tình hình thiên tai liên tiếp xảy ra đặc biệt là ở miền Trung. Sau cơn đại hạn là hàng trục trận lũ liên tục tàn phá, mở màn là trận lũ lịch sử, lớn nhất trong vòng 30 năm trở lại đây gần đầu tháng 8, tiếp theo là hoàn lưu bão số 3, bão số 5, 6 đợt lũ lớn (từ 03/10 – 14/11/2007). Ở phía Nam, từ tháng 10 đến cuối năm, đồng bằng sông Cửu Long và thành phố Hồ Chí Minh chịu những đợt cường triều lịch sử (có đợt được coi là cao nhất trong vòng 40 năm qua). Các vấn đề hạ tầng yếu kém chưa được cải thiện nhiều, được cảnh báo là lực cản của nền kinh tế tăng trưởng cao, những khiếm khuyết của cơ sở hạ tầng gây ra nhiều vấn đề cho cả các công ty trong nước và nước ngoài. Nạn kẹt xe trở nên bức xúc hơn bao giờ hết, ước tính thiệt hại do kẹt xe ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội khoảng 14.000 tỷ đồng/năm. Năm 2007 tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm tiếp tục diễn ra gay gắt, xuất hiện thêm sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước mới thành lập như bảo hiểm Quân đội, Bảo Nông…Tính đến cuối năm 2007 đã có hơn 20 doanh nghiệp bảo hiểm với nhiều thành phần kinh tế hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội. Năm 2008, năm thứ hai Việt Nam gia nhập WTO, theo đó một số lĩnh vực trong nền kinh tế sẽ được điều chỉnh theo những quy định chung dẫn đến thay đổi chính sách kinh tế trong một số ngành. Điều này cũng sẽ ảnh hưởng nhất định đến thị trường bảo hiểm tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Quán triệt định hướng kinh doanh “ Đổi mới – hiệu quả - tăng trưởng”, công ty Bảo Việt Hà Nội đã đề ra mục tiêu cơ bản cho năm 2008 như sau: + Doanh thu phấn đấu: 265 tỷ đồng. + Hiệu quả đạt: 45 tỷ đồng. + Thu nhập bình quân đầu người tăng: 7% Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ mà Bảo Việt Hà Nội đề ra là: áp dụng các biện pháp một cách đồng bộ trong tất cả các hoạt động từ khâu khai thác, giám định bồi thường đến công tác tổ chức đào tạo cán bộ. Tiếp tục duy trì tốt quan hệ với các đầu mối như phòng Cảnh sát giao thông, cục Thuế Hà Nội, Cục đăng kiểm Việt Nam để khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, chú trọng công tác chăm sóc khách hàng đặc biệt là các khách hàng lớn. Đóng góp vào sự thành công của công ty phải kể đến sự cố gắng không nhỏ của các văn phòng bảo hiểm khu vực mà trong đó có phòng bảo hiểm Cầu Giấy. Năm 2008, phòng được công ty giao cho nhiệm vụ phải đạt được tổng doanh thu phí bảo hiểm là 9,2 tỷ đồng. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên, lãnh đạo phòng đã đề ra kế hoạch khai thác cho tất cả 22 nghiệp vụ mà phòng đang triển khai dựa trên lợi thế mà phòng có được. Riêng đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, phòng đặt ra kế hoạch là doanh thu phí bảo hiểm đạt 2,2 tỷ tăng 12,8% so với năm 2007. Đây là nhiệm vụ tương đối khó với phòng bảo hiểm Cầu Giấy đặc biệt là trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay tuy nhiên nó cũng phần nào thể hiện sự tin tưởng của ban lãnh đạo công ty cùng sự quyết tâm của các cán bộ phòng. Hy vọng rằng trong tương lai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới không những giữ vai trò chủ đạo mà còn là nghiệp vụ mnag lại hiệu quả cao nhất cho văn phòng Cầu Giấy nói riêng và cho công ty Bảo Việt Hà Nội nói chung. Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. Đối với công tác khai thác. Về phía tổng công ty Bảo Việt Việt Nam. + Tăng cường hơn nữa hình thức tuyên truyền, quảng cáo về loại hình bảo hiểm vật chất xe cơ giới cho mọi người dân trong xã hội bởi vì trên thực tế chúng ta thấy việc quảng cáo mới chỉ được sử dụng phổ biến đối với các loại hình bảo hiểm nhân thọ mà chưa thấy thực hiện cho các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, nếu có cũng chỉ quảng cáo cho loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Quảng cáo được xem như là một công cụ hữu ích trong việc đưa thông tin về sản phẩm tới khách hàng. Mục đích của quảng cáo nhằm làm cho mọi người dân thấy được sự cần thiết của việc tham gia bảo hiểm. Quảng cáo là một công cụ truyền thông có tính kinh tế cao hơn so với bán hàng cá nhân vì nó tiếp cận được với số lượng khách hàng tiềm năng lớn hơn. Trên thực tế hiện nay có các hình thức quảng cáo khác nhau như sau: - Quảng cáo thông qua hệ thông phương tiện thông tin như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình… Quảng cáo thông qua các phương tiện ngoài trời như hệ thống bảng biểu, áp phích, biển chuyển động ở những điểm nút giao thông như ngã ba, ngã tư đường hay trên các quốc lộ lớn, các khu trung tâm mua sắm lớn để cho toàn dân thấy được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm. Quảng cáo thông qua việc trích một nguồn kinh phí nhất định để tài trợ cho các cuộc thi lái xe giỏi, lái xe an toàn do Bộ giao thông vận tải tổ chức hàng năm. Quảng cáo qua mạng internet. Ngày nay, khi mà công nghệ thông tin đang phát triển như vũ bão và trở thành một phần không thể thiếu được trong cuộc sống của con người thì việc phân phối sản phẩm bảo hiểm qua mạng internet tuy còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng đây là một phương tiện hữu ích để quảng bá sản phẩm bảo hiểm đến với mọi đối tượng. Về phía công ty Bảo Việt Hà Nội. + Chú trọng hơn nữa công tác tuyển dụng đại lý, đào tạo đại lý không những giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn có phẩm chất đạo đức tốt. + Có chính sách hoa hồng, tiền thưởng thỏa đáng đối với đại lý giỏi, làm việc có hiệu quả nhằm giữ họ ở lại lâu dài và hết mình phục vụ công ty, tránh để các đối thủ cạnh tranh lôi kéo các đại lý đó về phía họ. + Phối hợp với Bộ giao thông vận tải, Cục thống kê để xác định và nắm rõ số lượng xe cơ giới đang lưu hành trên địa bàn Hà Nội. Có như vậy mới xác định được tiềm năng của thị trường về loại hình bảo hiểm này. + Tổ chức các lớp học ngắn hạn có mời các chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm vật chất xe cơ giới để nâng cao trình độ cho các cán bộ trong công ty cả khâu khai thác lẫn khâu giám định và xét giải quyết bồi thường. Về phía phòng bảo hiểm Cầu Giấy. Hiện nay trên thị trường lượng xe cơ giới tham gia bảo hiểm vật chất xe còn rất ít so với tổng số lượng xe đang lưu hành. Tính đến 1/12/2007, ở Hà Nội có khoảng hơn 320 nghìn ô tô, gần 4 triệu xe máy, trong khi đó tổng số lượng xe tham gia bảo hiểm vật chất xe tại Bảo Việt Cầu Giấy là 435 ô tô, không có xe máy nào tham gia bảo hiểm vật chất xe. Vì vậy, đẩy mạnh việc khai thác tối đa tiềm năng của thị trường bảo hiểm này luôn là điều mà phòng rất quan tâm. Do đó, tôi xin đưa ra một vài kiến nghị sau: + Tiếp tục phát huy thế mạnh của từng cán bộ, đại lý trong phòng để phân công và giao nhiệm vụ khai thác quản lý khách hàng sao cho phù hợp với năng lực, sở trường của người đó. + Tổ chức và sử dụng tốt mạng lưới đại lý (tập thể, cá nhân), mạng lưới đại lý chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp, đội ngũ cộng tác viên nhằm phủ kín địa bàn. + Hàng tháng có sổ khai thác theo nghiệp vụ để chú ý kịp thời hạn tái tục với khách hàng. + Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc quản lý khách hàng và giữ vững mối quan hệ rất quan trọng nên cần tập trung duy trì những khách hàng cũ đặc biệt là những khách hàng lớn và khách hàng truyền thống. + Giải quyết tốt mối quan hệ với hai Trung tâm đăng kiểm nhằm giành lại thị phần bị chia xẻ. Tiếp tục củng cố mối quan hệ với Ngân hàng Quốc tế chi nhánh Cầu Giấy, chi nhánh Hạ Long và chi nhánh Hoàng Quốc Việt; Showroom Huyndai Bắc Việt, Đông Nam, Giải Phóng, Công ty TOYOTA Thăng Long, TOYOTA Mỹ Đình nhằm đẩy mạnh doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe ô tô. + Phát triển và mở rộng mối quan hệ với hệ thống các ngân hàng, các công ty cho thuê tài chính, các hãng bán xe ô tô, các đại lý ủy quyền, các Showroom để thông qua các tổ chức này tìm kiếm nguồn khách hàng tiềm năng. + Tăng cường việc nắm bắt thông tin. Trong hoạt động kinh tế thì việc nắm bắt sớm các thông tin về chính trị, kinh tế, văn hóa, về lĩnh vực mà mình đang kinh doanh một cách chính xác có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì nếu có được các thông tin này, chúng ta sẽ biết được đâu là khách hàng tiềm năng, xác định được trọng điểm cần khai thác. Từ đó đưa ra các chiến lược phát triển phù hợp cũng như các biện pháp cụ thể để khai thác tốt các khách hàng mới, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như ở nước ta hiện nay. + Mở rộng hơn nữa các kênh phân phối và mạng lưới phân phối sản phẩm. Để khai thác tối đa tiềm năng của thị trường thì mạng lưới phân phối sản phẩm cần được mở rộng. + Xác định mục tiêu và kế hoạch kinh doanh để tổ chức phân công và giao doanh thu cụ thể cho từng cán bộ, đại lý. Đối với công tác giám định. Về phía Bảo Việt Hà Nội. + Công ty nên có các biện pháp để cải tiến và hoàn thiện quy trình giám định nhằm đơn giản hóa mọi thủ tục mang lại sự thuận tiện nhất cho các chủ xe. + Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn về giám định bồi thường đối với các phòng bảo hiểm khu vực, tổ chức các khóa tập huấn ngắn hạn nhằm nâng cao chất lượng công tác giám định. Duy trì tốt chế độ trực 24/24h nhằm đáp ứng tối đa yêu cầu của khách hàng vào bất cứ lúc nào. + Tổ chức các cuộc nói chuyện với các chuyên gia giám định của các công ty giám định chuyên nghiệp, công ty nước ngoài về chủ đề giám định bồi thường vật chất xe cơ giới cũng như trục lợi trong bảo hiểm xe cơ giới để truyền đạt kinh nghiệm. + Bảo Việt Hà Nội nên có các chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với các giám định giỏi, công ty cần phát hiện và nhìn nhận đúng năng lực trình độ của từng nhân viên để có thể sắp xếp công việc hợp lý và có các chính sách đãi ngộ về tiền lương, thưởng nhằm khuyến khích cán bộ tiếp tục kiên trì với công việc. Đồng thời phải có các biên pháp khiển trách , lỷ luật hợp lý đối với các giám định viên vi phạm đạo đức nghề nghiệp, đối với những giám định viên không đủ chuyên môn đáp ứng công việc thì phải chuyển sang làm công tác khác. + Trang bị đầy đủ những phương tiện phục vụ cho công tác giám định bồi thường. Trong quá trình giám định, cán bộ cần có những phương tiện làm việc hiện đại giúp cho công tác giám định được tiến hành nhanh chóng và khoa học như thước ngắm, đèn pin, máy ảnh, phương tiện đi lại, phương tiện liên lạc…Nhìn chung các phương tiện Bảo Việt Hà Nội trang bị cho các phòng bảo hiểm vừa đơn giản, vừa ít về số lượng, chưa đảm bảo cho công tác giám định. Trong các phương tiện đó nhất thiết phải có máy ảnh và điện thoại di động. Máy ảnh là công cụ để các giám định viên có thể chụp và ghi lại mọi góc độ của thiệt hại cần giám định từ đó xác định nguyên nhân tổn thất và làm cơ sở cho việc ghi hồ sơ bồi thường. Về phía phòng bảo hiểm Cầu Giấy. + Bổ sung nguồn nhân lực cho công tác giám định nhằm nâng cao chất lượng cán bộ giám định. Để đảm bảo yêu cầu về khối lượng và chất lượng công việc hiện tại cần phải bổ sung thêm nhân lực cho công tác giám định của phòng vì số lượng giám định viên tại phòng còn rất mỏng. Hiện nay phòng chỉ có hai cán bộ giám định song một cán bộ vừa đóng vai trò là nhân viên giám định vừa thực hiện công tác thống kê của phòng. Do đó, có thể nói việc giám định của phòng đôi lúc gặp rất nhiều khăn. Với số vụ khiếu nại ngày càng một gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp thì việc bổ sung cán bộ giám định cho bảo hiểm vật chất xe cơ giới là đòi hỏi cấp thiết tránh tình trạng quá tải trong công việc. + Phòng nên cung cấp số điện thoại của các giám định viên cho khách hàng tham gia bảo hiểm để họ có thể liên lạc ngay với các giám định viên khi rủi ro xảy ra với tài sản của họ, rút ngắn thời gian đi lại của khách hàng và nâng cao uy tín của phòng. Đối với công tác bồi thường. Để có thể giữ vững cũng như có thể mở rộng được thị phần, một yếu tố quan trọng đó là nâng cao chất lượng phục vụ sau bán hàng cụ thể là công tác giải quyết giám định bồi thường. Đối với công tác này trong nhiều năm qua phòng đã cố gắng từng bước giải quyết theo tinh thần của ISO với những hướng như sau: + Đổi mới phong cách phục vụ, giải quyết tốt công tác giám định bồi thường nói chung để tạo niềm tin cho khách hàng giúp việc tái tục hợp đồng được thuận lợi. Khi có tổn thất rủi ro xảy ra, kịp thời cử cán bộ đại lý đến hướng dẫn giúp đỡ khách hàng nhanh chóng khắc phục hậu quả và giải quyết chế độ bồi thường theo đúng quy định, giữ uy tín đối với khách hàng. + Giải quyết hồ sơ nhanh chóng, kịp thời đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh của thị trường, với những hồ sơ đơn giản sau khi tra phí có thể giải quyết luôn không để nạn nhân phải đi lại nhiều. Đối với hồ sơ ô tô, xe máy, khi khách hàng khai báo giám định cần hướng dẫn khách hàng chi tiết cụ thể, rõ ràng về thủ tục thanh toán sao cho nhanh gọn, thuận tiện nhất. Tiến hành rà soát, cải tiến lại các khâu bồi thường, đề ra các biện pháp rút ngắn, hợp lý hóa trong giải quyết bồi thường, thường xuyên kiểm tra, kiểm soát công tác bồi thường. Đứng trước tình hình khiếu nại gian lận bảo hiểm ngày càng tăng như: hợp lý hóa ngày tai nạn và hiệu lực bảo hiểm; lập hồ sơ giả, hiện trường giả; khai tăng số tiền tổn thất; cố ý gây tai nạn để trục lợi…Đối với những trường hợp này cần phải tiến hành điều tra khẩn trương, không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết tai nạn. Chỉ đưa ra ý kiến giải quyết khi đã hoàn thành công việc điều tra và có đủ bằng chứng về những việc đã nghi ngờ. Không để khách hàng biết kế hoạch, phương án điều tra tránh việc phản ứng tiêu cực từ phía khách hàng, gây khó khăn cho quá trình khai thác. Cán bộ phụ trách khâu bồi thường cần phối hợp chặt chẽ với giám định viên và khai thác viên để tìm biện pháp xử lý. Việc giải quyết bồi thường chính xác, sát với thiệt hại thực tế cùng với việc phát hiện kịp thời các vụ gian lận, một mặt sẽ để lại ấn tượng tốt đối với các chủ xe mặt khác đối với các hồ sơ gian lận, khai thác viên sẽ rút ra được những kinh nghiệm quý báu để có thể đánh giá mức độ rủi ro một cách toàn diện hơn. Trên đây em đã trình bày một số ý kiến của mình nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. Hy vọng rằng với sự cố gắng, nỗ lực và quyết tâm của tập thể cán bộ phòng, sự sáng tạo trong công việc và nhũng kinh nghiệm quý báu về nghiệp vụ chuyên môn sẽ là nhân tố chủ đạo đem lại thành công mới cho văn phòng Cầu Giấy không chỉ ở nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới mà còn ở các loại hình nghiệp vụ khác. KẾT LUẬN Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về hoạt động khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới giúp em ngày càng thấy được vai trò của việc phát triển nghiệp vụ bảo hiểm này trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới không những góp phần ổn định tài chính cho các chủ xe - người được bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra mà còn góp phần đảm bảo sự an toàn trong xã hội. Không những vậy bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới còn là nghiệp vụ có thể mang lại doanh thu và lợi nhuận lớn cho các công ty bảo hiểm. Đây là nghiệp vụ bảo hiểm mới được khai thác và phát triển nên bước đầu còn gặp khó khăn. Nền kinh tế đất nước sẽ lớn mạnh hơn trong một thời gian không xa, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện. Vì vậy bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ hứa hẹn một tiềm năng rất lớn đối với các công ty bảo hiểm. Nếu được sự quan tâm, đầu tư đúng mức, chú trọng hơn nữa chắc chắn các công ty bảo hiểm sẽ có nhiều thành công hơn đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong tương lai. Nhờ sự giúp đỡ của các cô giáo Th.s Tô Thiên Hương, cũng như các anh chị tại văn phòng bảo hiểm Cầu Giấy, em đã có được những kiến thức sâu rộng, có cái nhìn thực tế hơn về bảo hiểm nói chung cũng như bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng, cuối cùng em cũng hoàn thành được chuyên đề thực tập của mình. Mặc dù hết sức cố gắng, song đề tài cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình Quản Trị Kinh Doanh Bảo Hiểm, NXB Thống Kê. Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình Kinh Tế Bảo Hiểm, NXB Thống Kê. Tạp Chí Giao Thông Vận Tải 2006 – 2007. Báo cáo hàng năm của Bảo Việt Hà Nội Báo cáo tổng kết năm 2003 – 2007 của phòng bảo hiểm Cầu Giấy Các khoản định mức chi của phòng bảo hiểm Cầu Giấy từ 2003 – 2007 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. TLBH Trục lợi bảo hiểm 2. ATGT An toàn giao thông 3. TNDS Trách nhiệm dân sự Mục Lục LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương 1. Khái quát chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 3 I. Sự cần thiết khách quan phải có bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 3 1.Lịch sử hình thành bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 3 1.1. Vai trò của ngành giao thông vận tải trong nền kinh tế. 3 1.2. Nguyên nhân và hậu quả của tai nạn xe cơ giới. 4 2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 8 2.1. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 8 2.2.Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 11 II. Nội dung của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 13 1.Đối tượng tham gia bảo hiểm. 13 2. Phạm vi bảo hiểm. 16 2.1. Rủi ro được bảo hiểm. 16 2.2. Rủi ro loại trừ. 17 3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. 19 3.1. Giá trị bảo hiểm (GTBH) và số tiền bảo hiểm (STBH). 19 3.2. Phí bảo hiểm. 21 4. Hoạt động giám định và bồi thường tổn thất. 26 4.1. Quy trình xử lý tai nạn, giám định và xét bồi thường bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. 26 4.2.Bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm. 33 5. Hợp đồng bảo hiểm. 37 6. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh. 38 6.1. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh đứng trên góc độ kinh tế. 39 6.2 Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh đứng trên góc độ xã hội. 39 6.3. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo khâu công việc. 40 Chương 2 . Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại phòng bảo hiểm cầu giấy, công ty bảo hiểm Hà Nội (giai đoạn 1994-2007). 42 I. Giới thiệu về công ty bảo hiểm Hà Nội và phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 42 1. Sự hình thành và phát triển của công ty Bảo Việt Hà Nội. 42 2. Vài nét về phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 43 II. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 47 1. Công tác khai thác. 47 2. Công tác giám định và bồi thường tổn thất. 59 3. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. 64 4. Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ. 65 Chương 3.Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 70 I. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 70 1. Thuận lợi. 70 2. Khó khăn 72 II. Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 77 1. Đối với công tác khai thác. 77 2. Đối với công tác giám định. 80 3. Đối với công tác bồi thường. 82 KẾT LUẬN 84

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11324.doc